CUỘC TRANH ÐẤU CHỐNG
ÐÀN ÁP PHẬT GIÁO NĂM 1963
(Trích Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập 3)
Nguyễn Lang
BẢO VỆ LÁ CỜ NĂM SẮC
Thiền sư Trí Quang làm việc được hơn một năm thì cuộc tàn
sát tín đồ Phật giáo bằng xe tăng và súng đạn xảy ra trước đài phát thanh
Huế. Nguyên do của cuộc tàn sát là lệnh cấm treo cờ Phật giáo của chính
quyền trước ngày Phật Ðản năm ấy.
Cờ Phật giáo là một lá cờ ngũ sắc tượng trưng cho năm sức
mạnh gọi là ngũ lực: Tín (lòng tin), tấn (sự cần mẫn), niệm (phép quán
niệm), định (sự tập trung tâm ý) và tuệ (ánh sáng giác ngộ). Lá cờ này do
một Phật tử cư sĩ tên là Henry Steel Olcott đề nghị tại Tích Lan vào cuối
thế kỷ thứ mười chín và đã được các nước Phật giáo chấp nhận
.
Ðó là một lá cờ nhiều màu sắc rực rỡ, tươi vui, thường được Phật tử Việt
Nam in ra hàng triệu lá trên giấy hoặc trên vải để tô điểm cho những ngày
lễ, những ngày hội và những đám rước Phật giáo?. Lệnh loại bỏ ngày Phật
Ðản năm 1957 là một trong những động lực thúc đẩy Phật tử cương quyết củng
cố và kiện toàn tổ chức của họ. Sự biểu diễn lực lượng của Phật tử vào
những dịp lễ lớn trước mắt các quan sát viên quốc tế đã làm ngứa mắt chế
độ, vì hồi đó chính quyền đang vận động với tòa thánh La Mã để đức giám
mục Ngô Ðình Thục được cất nhắc lên địa vị Hồng Y. Ðể đạt tới mục tiêu này
chính quyền phải chứng tỏ cho tòa thánh thấy Việt Nam đang đi rất mau trên
đường Cơ Ðốc hóa. Ký giả tờ Informations Catholiques Internationales
kể rằng đức tổng giám mục Ngô Ðình Thục đã nói cho ông rằng ở Việt Nam có
nhiều làng đòi làm lễ rửa tội tập thể một lần tất cả dân chúng trong làng,
và Giáo Hội không đủ sức cung cấp số người dạy đạo cho họ….
Lá cờ ngũ sắc của Phật giáo, như vậy, là một trở lực hiển nhiên cho đức
tổng giám mục.
Trong khi đó, lá cờ này đối với Phật tử tượng trưng cho
con đường Phật giáo đứng trung lập giữa hai thế lực hận thù đang tranh
chấp trên thế giới. Lá cờ này tượng trưng cho tôn giáo của họ, cho niềm
tin nơi đức từ bi, sự khoan dung và ước vọng hòa bình. Lá cờ cũng tượng
trưng cho tôn giáo của họ, cho niềm tin nơi đức từ bi, sự khoan dung và
ước vọng hòa bình. Lá cờ cũng tượng trưng cho khối các nước Phật giáo
không liên kết.
Năm 1963, tại Vĩnh Hội, Sài Gòn có hỏa hoạn lớn, và hàng
ngàn gia đình lâm vào cảnh màn trời chiếu đất. Thiền sư Tịnh Khiết, hội
chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, kêu gọi Phật tử toàn quốc "tổ chức lễ
Phật Ðản một cách tôn nghiêm như mọi năm, nhưng cố gắng thế nào để ít tốn
kém nhất, nên dành dụm số tiền thu góp được mà cứu trợ nạn nhân hỏa hoạn".
Tại cố đô Huế, lễ Phật Ðản được trần thiết rực rỡ bằng
những phương tiện sẵn có; khắp mọi nhà, ở mọi nẻo đường, đều có treo cờ,
treo đèn; ở các công trường thì có hương án bái vọng và cổng chào kết bằng
hoa lá. Vào chiều ngày 07.05.1963, tức là ngày 14 tháng 04 âm lịch
mọi công tác trần thiết và trang hoàng vừa thực hiện xong xuôi thì đúng
vào lúc 5 giờ chiều lực lượng cảnh sát thành phố Huế, theo lệnh khẩn từ
Sài Gòn đánh ra, đã đi khắp thành phố và buộc dân chúng tháo bỏ tất cả
những lá cờ Phật giáo xuống.
Một số đồng bào nghe theo, nhưng đa số đã cương quyết bất
phục tùng. Thấy vậy, hai vị đại lão thiền sư Tịnh Khiết và Giác Nhiên bèn
lãnh đạo một *phái đoàn Phật giáo tới ngay tư dinh của tỉnh Thừa Thiên
kiêm thị trưởng thành phố Huế, để chất vấn về lệnh triệt hạ cờ Phật giáo.
Ðồng thời quần chúng, vào khoảng 5 ngàn người, tụ tập tại trước tỉnh
đường, trương biểu ngữ phản đối chính quyền. Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Ðẳng
thấy cớ sự như vậy liền tuyên bố tạm là "cảnh sát Huế làm sai thượng
lệnh", và cho phép đồng bào treo Phật kỳ trở lại. Ðêm đó, theo lời yêu cầu
của thiền sư Tịnh Khiết, ông cho loa phóng thanh đi khắp thành phố để loan
báo lệnh này.
Vào lúc 6 giờ 30 sáng ngày Phật Ðản, đoàn rước Phật trên
con đường từ chùa Diệu Ðế lên chùa Từ Ðàm đã phải dừng lại vào khoảng nửa
giờ, bởi vì trong quần chúng một số biểu ngữ chống đối chính quyền được
giương lên. Thiền sư Mật Hiển, trưởng ban tổ chức, ra lệnh thu hồi tất cả
những biểu ngữ này và chỉ để lại một biểu ngữ: "Cờ Phật giáo Quốc Tế không
thể bị triệt hạ". Ðoàn người tiếp tục lên đường, nhưng sau đó không lâu,
những biểu ngữ khác lại tiếp tục xuất hiện:
Kính mừng Phật Ðản.
Phật giáo đồ nhất trí bảo vệ chánh pháp dù phải hy sinh.
Yêu cầu chính phủ thi hành chính sách tôn giáo bình đẳng.
Chúng tôi không từ chối một hy sinh nào.
Phản đối chính sách bất công gian ác.
Ðã đến lúc chúng tôi bắt buộc tranh đấu cho chủ trương tôn
giáo bình đẳng.
Quần chúng tụ tập trước chùa Từ Ðàm để đón đoàn rước Phật
trông thấy những biểu ngữ này thì vỗ tay vang dậy. Tuy nhiên, đại lễ Phật
Ðản được cử hành rất trang nghiêm và thành kính dưới sự hướng dẫn của
thiền sư Ðôn Hậu. Các bậc tôn túc trưởng lão đều có mặt. Trước khi hành
lễ, thiền sư Trí Quang đến trước máy vi âm để phát biểu về vấn đề triệt hạ
cờ Phật giáo. Thiền sư Trí Quang tuyên bố rằng nguyện vọng của Phật giáo
đồ phát biểu rất chính đáng và có tính cách xây dựng, có lợi ích cho Phật
giáo mà cũng có lợi ích cho chính quyền và các tôn giáo khác.
VỤ TÀN SÁT TRƯỚC ÐÀI PHÁT THANH HUẾ
Như thường lệ mỗi năm, buổi lễ đã được thu thanh để rồi sẽ
lại được phát thanh vào tám giờ tối hôm ấy trên đài phát thanh Huế. Nhưng
tối đó, đài đã không phát thanh chương trình Phật giáo. Quần chúng tụ tập
quanh đài phát thanh thấy vậy có ý bất mãn. Quần chúng tại nhà không nghe
phát thanh buổi lễ, lấy làm lạ; nhiều người tìm tới đài phát thanh để tìm
hiểu nguyên do. Phút chốc quanh đài phát thanh đã có 10.000 người tụ tập.
Chính quyền cho xe cứu hỏa tới để xịt nước giải tán. Quân vụ thị trấn ra
lệnh quân đội cắm trại một trăm phần trăm. Thiếu tá Ðặng Sĩ, phó tỉnh
trưởng nội an và tiểu khu trưởng Thừa Thiên, huy động lực lượng thiết giáp
bảo an, đại bác quân cảnh, hiến binh và cảnh sát thành phố tới vây quanh
quần chúng mà họ gọi là "đám biểu tình".
Thiền sư Trí Quang đến được đài phát thanh, len giữa quần
chúng và đi thẳng vào đài mà chất vấn. Ban đầu, nhân viên đài đổ lỗi cho
máy móc phát thanh bị hư, cuối cùng thú thực rằng chính quyền ra lệnh cấm
truyền đi buổi phát thanh phật giáo.
Ông tỉnh trưởng đến, cùng thiền sư Trí Quang đi vào đài
phát thanh. Trong khi đó, quần chúng yêu cầu xe cứu hỏa ngừng xịt nước để
họ thong thả giải tán. Thiếu tá Ðặng Sĩ ra lệnh bắn đạn mã tử khiến đám
đông náo động. Lựu đạn cay, lựu đạn nổ được tung vào. Ðồng thời súng
trường và xe thiết giáp được sử dụng vào việc đàn áp. Lúc đó là đúng 9 giờ
rưỡi tối. Tiếng la hét của quần chúng át cả tiếng súng và tiếng lựu đạn.
Một số người ra về nửa chừng nghe tiếng la hét tiếng súng
nổ, đã quay trở lại đài phát thanh để tìm hiểu. Họ bị các xe thiết giáp
chặn lại. Khi thiền sư Trí Quang và ông tỉnh trưởng từ trong đài phát
thanh ra tới thì máu đã đổ: tám người đã thiệt mạng vì lựu đạn và bốn
người bị thương. Xe thiết giáp cán vỡ đầu một thiếu nhi, sọ em nát vụn.
Một thiếu nhi khác bị cán mất nữa đầu và một em khác nữa mất hẳn đầu. Xe
hồng thập tự được gởi tới để mang những người bị thương về bệnh viện.
Quần chúng phẫn uất đứng cả lại, không chịu ra về. Thiền
sư Trí Quang đứng ra yêu cầu họ giải tán. Sau nhiều lần khuyên nhủ, quần
chúng mới chịu ra về, và đến hai giờ sáng đám đông mới giải tán hết.
Sáng hôm sau, chính quyền loan tin Việt Cộng đã trà trộn
vào đám đông trước đài phát thanh và đã ném lựu đạn khiến tám người chết
và bốn người bị thương. Thiếu tá Ðặng Sĩ họp hội nghị quân sự tại Quân Vụ
Thị Trấn. Sau đó lính nhảy dù, biệt động quân, bảo an binh cùng xe thiết
giáp, xe lội nước, tập trung đông đảo trước căn cứ Tiểu Khu, và nhiều toán
quân nhân súng gắn lưỡi lê đi tuần hành trong thành phố. Cảnh sát võ trang
bằng tiểu liên và lựu đạn cay túc trực ở các ngả đường.
HOẠCH ÐỊNH ÐƯỜNG HƯỚNG VÀ PHƯƠNG PHÁP VẬN ÐỘNG
Ngày 10.05/1963, các vị lãnh đạo Phật giáo họp tại chùa Từ
Ðàm, hoạch định đường lối và đòi hỏi công bình xã hội. Một bản tuyên
ngôn được soạn thảo, nêu ra năm nguyện vọng của Phật giáo đồ. Bản
Tuyên ngôn này được gởi tới tổng thống Ngô Ðình Diệm qua trung gian
ông đại biểu chính phủ Trung Nguyên Trung Phần. Năm nguyện vọng là:
1.Yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thu hồi vĩnh viễn
công điện triệt hạ giáo kỳ Phật giáo.
2.Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một chế độ đặc biệt
như các hội truyền giáo Thiên Chúa giáo đã được ghi trong Ðạo dụ số 10.
3.Yêu cầu chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ và khủng bố
tín đồ Phật giáo.
4.Yêu cầu cho tăng ni Phật tử được tự do truyền đạo và
hành đạo.
5.Yêu cầu chính phủ đền bồi một cách xứng đáng cho những
kẻ chết oan vô tội, và kẻ chủ mưu giết hại phải đền tội xứng đáng.
Bản tuyên ngôn nói trên mang chữ ký của thiền sư
Tịnh Khiết, hội chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, thiền sư Mật Nguyện, đại
diện Giáo Hội Tăng Già Trung Phần, thiền sư Trí Quang, đại diện hội Phật
Giáo Việt Nam Trung Phần, thiền sư Mật Hiển, đại diện Phật giáo Thừa Thiên
và thiền sư Thiện Siêu, đại diện Tỉnh Hội Phật Giáo Thừa Thiên.
Ngày 15.05.1963, tại chùa Từ Ðàm, một Bản Phụ Ðính
của Tuyên ngôn 10.05.1963 được công bố, giải thích rõ ràng năm
nguyện vọng nói trên. Văn kiện này rất quan trọng, vì trong ấy, lập trường
và bản chất của cuộc tranh đấu được nêu ra rõ rệt. Ðường lối bất bạo động
và mục tiêu cuộc tranh đấu được giải bày rất cặn kẽ. Theo Bản Phụ Ðính
này:
1- Phật giáo Việt Nam không chủ trương lật đổ chính phủ để
đưa người của mình lên thay thế mà chỉ nhằm đến sự "thay đổi chính sách"
của chính phủ.
2- Phật giáo Việt Nam không có kẻ thù, không xem ai là kẻ
thù cả. Ðối tượng của cuộc tranh đấu tuyệt đối không phải là Thiên Chúa
giáo mà là chính sách bất công tôn giáo. "Chúng tôi tranh đấu cho lý tưởng
Công Bình, chứ không phải tranh đấu với tư cách một tôn giáo chống một tôn
giáo".
3- Cuộc tranh đấu của Phật giáo đồ cho bình đẳnh tôn giáo
được đặt "trong khuôn khổ của lý tưởng công bằng xã hội".
4- Cuộc tranh đấu của Phật giáo đồ được thực hiện đường
lối bất bạo động "chúng tôi phải thể hiện tư tưởng Phật giáo ngay
trong công cuộc tranh đấu của chúng tôi. Vì lý do đó, chúng tôi chấp nhận
một sự hy sinh đến tột độ và lấy sự hy sinh ấy làm sức mạnh để rung chuyển
tận lòng người chứ không phải rung chuyển chính sách mà thôi. Ngay từ bây
giờ, chúng tôi có thể tuyên bố minh bạch rằng nhũng người tăng sĩ của Phật
giáo là những người sẵn sàng noi theo gương Gandhi - vị thánh của sức mạnh
bất bạo động, chúng tôi lại xác định thêm: với phương pháp bất bạo động,
chúng tôi sẽ tranh đấu trong phạm vi hợp pháp được ngần nào tốt ngần đó."
5- Phật giáo Việt Nam không chấp nhận sự lợi dụng của bất
cứ ai vào cuộc tranh đấu cho bình đẳng tôn giáo và công bình xã hội. Phật
tử từ chối sự lợi dụng của "những người cộng sản và của những kẻ mưu toan
chức vị chính quyền".
Về Ðạo dụ số 10, Bản Phụ Ðính đề nghị chính quyền
rút tất cả các tôn giáo ra khỏi phạm vi ràng buộc của Ðạo dụ này,
và ban hành một chế độ đặc biệt cho tất cả các tôn giáo, trong đó có Phật
giáo và Gia Tô giáo.
Bản Phụ Ðính kết luận rằng: nếu
các nguyện vọng nói trên của Phật giáo đồ được thực hiện trên lý thuyết,
văn kiện và thực thi thì quần chúng Phật giáo sẽ "công khai hoan nghênh
tổng thống và chính phủ như đã công khai tranh đấu cho nguyện vọng của họ".
Mười hôm sau, vào ngày 25.05.1963, một Phụ Trương
của Bản Phụ Ðính được công bố. Mục đích của văn kiện này là nhắc
lại cho quốc dân nhớ vai trò lập quốc và xây dựng nền văn hóa quốc gia
trong quá trình lịch sử dân tộc của Phật giáo và nói rõ lập trường tranh
đấu của Phật giáo cho công bình xã hội.
Tại Sài Gòn, ngày 15.05.1963, một phái đoàn Tổng Hội Phật
Giáo Việt Nam phối hợp với đại diện của các tổ chức Phật giáo khác đã đến
dinh Gia Long để yết kiến tổng thống Ngô Ðình Diệm và trao cho ông bản
Tuyên Ngôn ngày 10.05.1963, đồng thời giải thích cho ông rõ về năm
nguyện vọng của Phật giáo đồ. Ba giờ đồng hồ thảo luận chỉ đưa đến một vài
hứa hẹn mơ hồ của vị nguyên thủ quốc gia. Tổng thống còn đổ trách nhiệm vụ
tàn sát ở Huế cho những người Cộng Sản.
Ngày hôm sau, phái đoàn Phật giáo mở cuộc họp báo tại chùa
Xá lợi, công bố bản Tuyên Ngôn 10.05.1963 và các Bản Phụ Ðính và
Phụ Trương, đồng thời tố cáo trước dư luận những vụ đàn áp, giam cầm và
giết chóc mà Phật tử đã phải chịu đựng trong nhiều năm qua.
Một tài liệu 45 trang được gửi tới chính quyền ngày
20.05.1963, một lễ cầu siêu cho các nạn nhân vụ thảm sát tại Huế được tổ
chức khắp nơi trên toàn quốc, theo lệnh của đại lão Thiền sư Tịnh Khiết,
hội chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Trước đó , bộ trưởng Công Dân Vụ là
Ngô Trọng Hiếu đã tìm mọi cách để ngăn cản việc tổ chức lễ cầu siêu và yêu
cầu Phật tử đợi đến ngày rằm tháng Bảy (ngót ba tháng sau) rồi hãy tổ
chức. Nhưng toàn quốc đã cử hành lễ này một cách long trọng đúng ngày
thiền sư Tịnh Khiết chỉ định. Riêng tại Sài Gòn, số lượng tăng ni tập
trung tại chùa Ấn Quang để hành lễ đã lên tới một ngàn vị; tín đồ cư sĩ
đứng chật trong ngoài. Một cuộc diễn hành của tăng ni để rước linh vị các
nạn nhân về chùa Xá Lợi đã được tổ chức sau đó, và một ngàn vị tăng ni mặc
áo ca sa vàng đã nghiêm trang diễu hành trên nhiều đường phố giữa những
hàng rào cảnh sát có cả thiết giáp túc trục và dưới mắt quần chúng thủ đô
đông đặc hai bên vệ đường. Trong khi đoàn này đang diễn hành, một đoàn
tăng ni khác gồm 350 vị xuất phát từ chùa Xá Lợi, bắt đầu một cuộc diễn
hành khác, trang nghiêm và lặng lẽ, hướng về trụ sở Quốc Hội.
Tại chùa Từ Ðàm Huế, ngay sau lễ Cầu Siêu, toàn thể tăng
ni có mặt bắt đầu một cuộc tuyệt thực. Hơn hai ngàn người trong số đó có
nhiều giáo sư và sinh viên Viện Ðại Học Huế, tham dự vào cuộc tuyệt thực
này.
ỦY BAN LIÊN PHÁI BẢO VỆ PHẬT GIÁO
Ngày 25.05.1963, thiền sư Tịnh Khiết triệu tập một cuộc
gặp gỡ giữa các tập đoàn thuộc Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam và đại diện các
tổ chức và môn phái Phật giáo khác như Giáo Hội Nguyên Thủy, Thiền Tịnh
Ðạo Tràng, Giáo Hội Théravada v.v…để thảo luận về kế hoạch tranh đấu. Một
Ủy ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo được thành lập để chỉ đạo cho
cuộc vận động Phật giáo đồ do thiền sư Tâm Châu đứng đầu làm chủ tịch dưới
quyền lãnh đạo tối cao của đại lão thiền sư Tịnh Khiết.
Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo được thành lập, tiếng
nói của Phật giáo Việt Nam từ đây là tiếng nói thống nhất của Phật giáo đồ
toàn quốc. Sự thống nhất ý chí và lực lượng của Phật tử Việt nam mà lâu
nay tất cả mọi người mong mỏi, đã được thực hiện trong vòng hai tiếng đồng
hồ, trong một hoàn cảnh cực kỳ nguy biến cho số mạng Phật giáo.
Sau khi thành lập Ủy Ban Liên Phái, đại diện các giáo phái
có mặt tại chùa Xá Lợi ngày 25.05.1963 công bố một bản Tuyên Ngôn
ngắn và gọn tỏ bày quyết tâm đoàn kết tranh đấu bất bạo động cho sự thực
hiện năm nguyện vọng. Bản Tuyên Ngôn mang chữ ký của các thiền sư
Thiện Hoa, trị sự trưởng Giáo Hội Tăng Già Nam Việt; thiền sư Minh Trực,
pháp chủ Giáo Hội Thiền Tịnh Ðạo Tràng; thiền sư Thiện Hòa, trị sự trưởng
Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc; thiền sư Thanh Thái, trị sự trưởng Giáo Hội
Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam; thiền sư Bửu Chơn tăng thống Giáo Hội Phật
Giáo Nguyên Thủy Việt Nam, thiền sư Lâm Em, tăng thống Giáo Hội Théravada;
thiền sư Tâm Châu, phó hội chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam; cư sĩ Nguyễn
Văn Hiếu, hội trưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam; cư sĩ Vũ Bảo Vinh,
hội trưởng Hội Việt Nam Phật Giáo (Bắc Việt, tại miền Nam), cư sĩ Sơn Thái
Nguyên, đại diện Phật tử Théravada (người Việt gốc Miên) và cư sĩ Mai Thọ
Truyền, hội trưởng Hội Phật Học Nam Việt.
PHÁT KHỞI CUỘC VẬN ÐỘNG
Sáng ngày hôm sau, 1963, một phái đoàn Phật giáo đến Phủ
Tổng thống để trình Bản Phụ Ðính của Tuyên Ngôn 10.05.1963
và cho chính quyền biết rằng theo lệnh của đại lão thiền sư Tịnh Khiết,
các cấp tăng ni trong toàn quốc sẽ tuyệt thực trong 48 tiếng đồng hồ kể từ
14 giờ ngày 30.05.1963 để đòi hỏi chính quyền làm thỏa mãn Năm Nguyện
Vọng.
Vào khoảng 10 giờ sáng ngày 30.05.1963, để chuẩn bị cho
cuộc tuyệt thực, 352 vị tăng ni đã tổ chức biểu tình, xuất phát từ chùa Ấn
Quang, diễn hành tới trụ sở Quốc hội và yêu cầu được gặp các đại biểu Quốc
hội. Ðồng thời một lá thư của thiền sư Tâm Châu, chủ tịch ủy ban Liên
Phái, được gửi tới chủ tịch Quốc hội là Trưong Vĩnh Lễ, yêu cầu Quốc hội
xác định lập trường đối với những yêu sách của Phật tử. Tại Huế, trước giờ
tuyệt thực, Ðoàn Sinh Viên Phật tử tung ra một bức thư kêu gọi sinh viên
học sinh toàn quốc siết chặc hàng ngũ sau lưng giới lãnh đạo Phật giáo để
tranh thủ cho lý tưởng Tự Do và Bình Ðẳng.
Ngày 31.05.1963 sinh viên của tất cả các phân khoa Viện Ðại Học Huế họp
hội nghị tại chùa Từ Ðàm, lập một bản kiến nghị yêu cầu tổng thống và
chính phủ "giải quyết năm nguyện vọng chính đáng và tối thiểu" của Phật
tử, đòi chính phủ thực thi "một chính sách tự do, dân chủ và bình đẳng
thật sự" và chấm dứt những "mánh lới trẻ con và thiếu tri thức của cán bộ
đối với tín đồ Phật giáo". Ký tên vào bản kiến nghị này có đại diện các
trường Y khoa, Sư phạm, Văn khoa, Luật khoa, khoa học, Cán sự Y tế và Ðiều
dưỡng, Cao đẳng Mỹ thuật, Quốc gia âm nhạc và Viện Hán học.
Ðoàn sinh viên Phật tử Huế mà chủ tịch là Phan Ðình Bính
đã đóng một vai trò quan trọng trong bước đầu của cuộc đấu tranh. Tại Sài
Gòn, Ðoàn sinh viên Phật tử lập tức hưởng ứng lời kêu gọi của họ và dấn
thân ngay vào cuộc vận động.
Tại Huế, trưa ngày 01.06.1963, một cuộc biểu tình lớn được
tổ chức trong đó sinh viên và học sinh tới dự rất đông đảo. Tất cả những
người biểu tình đều tình nguyện gia nhập cuộc tuyệt thực lúc ấy sắp chấm
dứt, và do đó, mọi người quyết định kéo dài cuộc tuyệt thực thêm 24 giờ
đồng hồ.
Tại Sài Gòn và các tỉnh thị, cuộc tuyệt thực đã được rất
đông tăng ni và quần chúng tham dự; Chùa Ấn Quang và chùa Xá Lợi là hai
trung tâm tuyệt thực quan trọng nhất ở thủ đô; riêng số tăng ni tuyệt thực
tại hai chùa đã lên tới gần 800 vị. Tại các tỉnh, phong trào quần chúng
dâng lên ào ạt: những cuộc biểu tình và diễn hành được tổ chức khắp nơi.
Trước khí thế đấu tranh đó, chính quyền tăng cường các lực
lượng phòng thủ và tấn công. Tại Sài Gòn, chiều ngày 30.05.1963 các lực
lượng cảnh sát, công an, mật vụ được dàn ra bố trí trên các nẻo đường bao
quanh chùa Xá Lợi. Tại Huế, cảnh sát chiến đấu và mật vụ bao vây các chùa
Từ Ðàm, Báo Quốc và Linh Quang. Ngày 03.06.1963, cảnh sát chiến đấu, lính
nhảy dù và biệt kích, sóng người từ thành phố kéo lên. Cảnh sát chiến đấu
mang mặt nạ, súng cắm lưỡi lê, đứng cản đường quần chúng. Không tiến thêm
được nữa, sinh viên học sinh và đồng bào ngồi ngay xuống mặt đường, chắp
tay về hướng chùa Từ Ðàm tụng niệm cầu nguyện. Lực lượng cảnh sát tung lựu
đạn cay và lựu đạn khói vào giữa quần chúng trong khi một đàn chó
berger được thả ra để hành hung cắn xé. Ðồng bào la hét vang trời.
Thiền sư Trí Thủ nghe tin vội vàng tới tận nơi can thiệp để quần chúng
được thong thả ra về. Ðoàn người về tới Bến Ngự thì lại bị một lực lượng
cảnh sát khác tấn công bằng lựu đạn cay và lựu đạn khói. Hàng trăm người
bị khói và hơi cay làm ngất xỉu.
Ngày 14.06.1963 quần chúng lại kéo lên chùa. Lần này cảnh
sát chiến đấu dùng dây thép gai rào quanh các chùa Từ Ðàm, Báo Quốc và
Linh Quang. Thiết giáp được huy động đến trấn giữ quanh chùa. Các lực
lượng nhảy dù và biệt kích vây kín các chùa, không cho phép một ai ra vào.
Quần chúng áp dụng sách lược hôm qua, ngồi xuống đường tụng niệm. Lựu đạn
cay, lựu đạn khói và chó berger lại được tung ra để đàn áp. Lần này
số đồng bào bị thương lên tới 142 người, trong đó có 49 người bị thương
nặng. Tất cả đều được chở về điều trị tại bịnh viện Trung ương.
Tại các tỉnh, các chùa trụ sở của hội Phật Giáo Việt Nam
và Giáo Hội Tăng Già đều bị phong tỏa một cách tương tự.
Từ ngày 31.05.1963, cư sĩ Mai Thọ Truyền, hội trưởng hội
Phật Học Nam Việt đã gửi văn thư cho toàn thể Phật tử trong Phật Học Nam
Việt kêu gọi mọi người tham dự cuộc tranh đấu. Các đơn vị tỉnh hội bắt đầu
cộng tác với Giáo Hội Tăng Già Nam Việt địa phương để tổ chức cuộc tranh
tại tỉnh miền Nam.
CHIẾN THUẬT CỦA CHÍNH QUYỀN
Căn cứ chính của cuộc tranh đấu như các chùa Xá Lợi, Ấn
Quang, Giác Minh, Từ Quang, Báo Quốc, Từ Ðàm và Linh Quang lúc đó đã hoàn
toàn bị cô lập. Chính quyền còn cho cắt nước và điện của các chùa. Tại các
tỉnh Biên Hòa, Gia Ðịnh, Ba Xuyên, những đoàn thể Phật giáo bị bắt ép ký
những kiến nghị ủng hộ chính quyền. Cảnh sát chận bắt và và đuổi về nguyên
quán tất cả nhũng tăng ni từ tỉnh lên Sài Gòn. Những tăng ni từ Sài Gòn về
các tỉnh cũng bị chặn bắt; hành lý của họ bị soát giữ và những tài liệu in
ronéo của tranh đấu bị tịch thu. Ở các ngã đường Sài Gòn, cảnh sát có quân
đội trợ lực chận bắt và lục soát những người mang tài liệu của cuộc tranh
đấu. Các quán ăn và các tiệm cà phê ở thủ đô đều có mật vụ Việt Nam nhà
nước thường trực.
Các toán cảnh sát chiến đấu, công an xung phong, thanh
niên cộng hòa, an ninh quân đội và quân cảnh trang bị máy truyền tin và võ
trang đầy đủ đi bủa khắp thủ đô, canh gác, chận xét các tăng ni và những
người qua đường. Quân đội và cảnh sát được lệnh cắm trại. Mật vụ và công
an theo dõi để khủng bố hoặc bắt giam và tra tấn những người nghi là đang
lãnh đạo cuộc tranh đấu, ngấm ngầm bỏ tài liệu Mặt Trận Giả Phóng Miền Nam
vào các chùa rồi lục soát để vu cáo các thiền sư và Phật tử theo Cộng sản.
Những biện pháp trên của chính quyền không những không dập
tắt được ngọn lửa đấu tranh của quần chúng mà còn làm cho ngọn lửa này
cháy bùng lên thêm mạnh. Khắp nơi trên thế giới, báo chí đã nói tới cuộc
tranh đấu, và phóng viên cùng quan sát viên quốc tế đổ tới Sài Gòn càng
lúc càng nhiều. Ủy Ban Liên Phái cho ấn hành những bản tin truyền đi từ
các đài B.B.C, V.O.A, v.v…và những bài báo ngoại quốc nói về cuộc tranh
đấu. Các nước khối Phật giáo không liên kết lên tiếng ủng hộ cuộc tranh
đấu của Phật tử Việt Nam. Ý thức được tầm quan trọng của dư luận quốc tế,
Phật giáo cương quyết đẩy mạnh cuộc tranh đấu.
ỦY BAN LIÊN BỘ
Trong khi đó chính quyền một mặt tăng cường những biện
pháp kiểm soát, một mặt cố sức xoa dịu tình trạng bằng cách thành lập một
Ủy Ban Liên Bộ có mục đích hợp tác cùng Ủy Ban Liên Phái để đi đến sự giải
quyết những nguyện vọng của Phật tử. Tuy ý thức được cơ mưu hoãn binh của
chính quyền, Ủy Ban Liên Phái cũng phải chấp nhận sự cộng tác với Ủy Ban
Liên Bộ, theo đúng đường lối bất bạo động. Một phái đoàn hỗn hợp của hai
bên được gửi ra Huế để giải tỏa các chùa Từ Ðàm, Linh Quang, Bảo Quốc và
Diệu Ðế, đồng thời kêu gọi Phật tử trở về sinh hoạt bình thường, kiên nhẫn
chờ những biện pháp của chính quyền.
Sự lắng dịu, tuy vậy, chỉ kéo dài được chưa tới một tuần
lễ. Thấy tình trạng không thay đổi và đối thoại với Ủy Ban Liên Bộ không
đưa đến kết quả nào cụ thể trong khi chính quyền vẫn âm thầm siết chặt
những biện pháp kiểm soát. Ủy Ban Liên Phái ra lệnh tiếp tục cuộc đấu
tranh. Ngày 11.06.1963, tại ngã tư đường Lê Văn Duyệt, Phan Ðình Phùng,
đúng 10 giờ sáng, một vị thiền sư ngồi xuống trong tư thế kiết già, lấy
dầu xăng đổ lên áo ca sa mình đang mặc và châm lửa tự thiêu, tự biến mình
thành một bó đuốc.
NGỌN LỬA QUẢNG ÐỨC
Vị thiền sư ngồi tự thiêu ở ngã tư Phan Ðình Phùng-Lê Văn
Duyệt tên là Thích Quảng Ðức, sáu mươi bảy tuổi, trú trì chùa Quan Âm ở
Gia Ðịnh. Trong tư thế kiết già, tay bắt ấn Cam Lộ, ông ngồi vững như một
pho tưọng đồng trong khi ngọn lửa cháy lên cao gần bốn thước, phủ trọn cả
thân hình ông. Ðó là vào khoảng giờ Ngọ ngày 11 tháng 6 năm 1963.
Lửa cháy trước con mắt kinh ngạc của những ký giả và nhiếp
ảnh gia quốc tế. Lửa cháy trước niềm xót thương và lòng kính cẩn của quần
chúng có mặt tại đó. Xe cộ dừng lại cả, và mọi người đến vây quanh cảnh
tượng hào hùng chưa từng thấy xảy ra ở thủ đô Sài Gòn. Mười lăm phút sau,
nhục thân của thiền sư ngã xuống; tiếng kêu khóc của quần chúng vang lên,
nức nở. Vài giờ đồng hồ sau, hình ảnh và tin tức thiền sư Quảng Ðức tự
thiêu đã tràn ngập trên hệ thống truyền hình và báo chương quốc tế. Nhật
báo nào cũng đăng hình thiền sư tự thiêu ở trang đầu với tiêu đề lớn. Thế
giới chấn động, dồn hết sự chú ý về phía trời Ðông Nam Á. Không một ai
trên trái đất còn giữ thái độ hờ hững về cuộc tranh đấu của Phật tử Việt
Nam.
Thiền sư Quảng Ðức tên là Lâm Văn Tức, sinh năm 1897 tại
làng Vạn Khánh, quận Vạn Ninh, thuộc tỉnh Khánh Hòa. Lên bảy tuổi, ông
được người cậu ruột đem về nuôi và đổi tên là Nguyễn Văn Khiết. Ông xuất
gia với thiền sư Hoằng Thâm, thọ đại giới năm hai mươi tuổi và bắt đầu tu
khổ hạnh ở núi Ninh Hòa. Trong năm năm, ông tu thiền và đi du hóa, theo
hạnh đầu đà, chỉ giữ bên mình một y và một bát. Sau đó ông về định cư tu
tập tại chùa Thiên Ân ở Ninh Hòa, gần thị trấn Nha Trang. Năm 1932, ông
được chi hội Ninh Hòa của An Nam Phật Học mời làm chứng minh đạo sư. Ðược
ít lâu sau đó, ông lại lên đường hành hóa ở các tỉnh miền Nam Trung Việt,
đóng góp vào công việc kiến tạo và trùng tu của mười bốn ngôi chùa rải rác
trong vùng. Năm 1943, ông vào hành hóa tại các tỉnh miền Nam: Sài Gòn, Gia
Ðịnh, Bà Rịa, Long Khánh, Ðịnh Tường và Hà Tiên. Rồi ông lên Kim Biên (Nam
Vang) và dựng tích trượng ở đây trong ba năm, vừa hành đạo vừa học hỏi
thêm các kinh điển Pâli. Trong thời gian hành hóa tại miền Nam và ở Nam
Vang, ông đã có công tạo lập hoặc trùng tu cả thảy là 17 ngôi chùa. Ngôi
chùa ông thường trú lâu nhất là chùa Long Vĩnh, vì vậy giới Phật tử miền
Nam thường gọi ông là hòa thượng Long Vĩnh. Chùa này tọa lạc tại Phú Nhuận
tỉnh Gia Ðịnh. Tuy ngôi chùa cuối cùng mà ông trú trì là chùa Quan Thế Âm
ở 68 đường Nguyễn Huệ thị xã Gia Ðịnh, ông cũng còn chính thức là tọa chủ
chùa Long Phước ở tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1953, Giáo hội Tăng Già Nam Việt thỉnh ông làm Trưởng
Ban Nghi Lễ, và hội Phật Học Nam Việt mời ông làm trú trì chùa Phước Hòa,
trụ sở của hội.
Ông đã có ý tự hiến mình cho cuộc vận động từ ngày
27.05.1963 khi ông viết một lá thư cho giáo hội Tăng Già Toàn Quốc phát
nguyện tự thiêu để đóng góp vào công trình tranh đấu.
Lời thỉnh nguyện này bị Giáo Hội bác bỏ. Tuy vậy ông vẫn quyết tâm thực
hiện ý nguyện. Sáng ngày 11 tháng 06 năm 1963, trước khi tự thiêu, ông đã
viết lại một bức thư gọi là Lời Nguyện Tâm Huyết, nói rõ chủ đích
và nguyện vọng của ông. Ðiều đáng ghi nhớ là toàn văn bức thư này đã không
chứa một mảy may hận thù và tuyệt vọng nào mà trái lại còn thấm nhuần tình
thương và hy vọng. Nguyện văn bức thư như sau:
"Tôi pháp danh Thích Quảng Ðức, trú trì chùa Quan Âm, Phú
Nhuận, Gia Ðịnh.
Nhận thấy phật giáo nước nhà đang lúc nghiêng ngữa, tôi là
một tu sĩ mệnh danh là truởng tử Như lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa
thị để cho Phật giáo tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện thiêu thân
giả tạm này cúng dường chư Phật để hối hướng công đức bảo tồn Phật giáo.
Mong ơn mười phương chư Phật, chư Ðại Ðức Tăng Ni chứng
minh cho tôi đạt thành ý nguyện sau đây:
1- Mong ơn Phật tổ gia hộ cho tổng thống Ngô Ðình Diệm
sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt Nam ghi
trong bản Tuyên ngôn.
2- Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được
trường tồn bất diệt.
3- Mong nhờ hồng ân đức Phật gia hộ cho chư Ðại Ðức,Tăng
Ni, Phật tử Việt Nam tránh khỏi nạn khủng bố bắt bớ giam cầm của kẻ ác
gian.
4- Cầu nguyện cho đất nước thanh bình quốc dân an lạc.
Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi
lời cho tổng thống Ngô Ðình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với Quốc
dân và thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn
thuở.
Tôi thiết tha kêu gọi chư Ðại Ðức, Tăng Ni, Phật tử nên
đoàn kết nhất trí để bảo toàn Phật pháp."
Ngoài ra ông còn để lại thơ và kệ, cả thảy 5 bài, dặn dò
bản đạo và đệ tử.
Thiền sư đã lay chuyển được lòng người tại hải ngoại cũng
như ở quốc nội. Người Việt tại hải ngoại hợp tác với các bạn ngoại quốc,
liên kết thành những đoàn thể tranh đấu yểm trợ cho cuộc vận động. Ðồng
bào quốc nội, Phật tử hay không Phật tử, trong niềm cảm thương , đều cảm
thấy không còn sợ sệt một điều gì nữa, cương quyết đẩy mạnh cuộc tranh
đấu. Văn nghệ sĩ sáng tác rất nhiều trên nguồn cảm hứng mới. Thi sĩ Vũ
Hoàng Chương đã viết bài Lửa Từ Bi để ca ngợi tình huynh đệ thắp
lên bằng ngọn lửa Quảng Ðức.
Ngọn lửa Quảng Ðức làm chấn động dư luận quốc tế và rung
chuyển cả chế độ Ngô Ðình Diệm. Hoảng kinh, ngay chiều hôm 11.06.1963,
chính quyền ra lệnh phong tỏa các chùa, nhất chùa Xá Lợi ở Sài Gòn, nơi di
thể thiền sư Quảng Ðức được an trí. Cảnh sát dàn khắp mọi nẻo đường dẫn
đến chùa Xá Lợi để ngăn chặn những làn sóng người đổ xô về chùa này. Bất
chấp những lực lượng cảnh sát này, đồng bào ùa đến chùa Xá Lợi như thác đổ
để nghiêng mình trước di thể thiền sư Quảng Ðức. Ban đầu cảnh sát đàn áp
và bắt giữ những người tới chùa nhưng sau đó cảnh sát bị làn sóng người
tràn ngập ; Bốn giờ chiều hôm đó đã có khoảng 15 ngàn người có mặt tại
chùa Xá Lợi. Làn sóng người càng lúc càng dồn dập khiến cho chính quyền
phải ra lệnh giải tỏa chùa Xá Lợi.
Trong nhiều ngày liên tiếp, quần chúng tới đầy nghẹt chùa
Xá Lợi, trong sân cũng như ngoài đường. Lễ rước di thể của thiền sư Quảng
Ðức được định vào sáng ngày 16.06.1963. Giới lãnh đạo cuộc tranh đấu đã dự
tính tổ chức vào dịp này một cuộc biểu dương đoàn kết lớn.
THÔNG CÁO CHUNG
Rất lo ngại về cuộc bùng nổ lớn vào ngày 16.06.1963, chính
quyền đề nghị cấp tốc mở cuộc thương thuyết giữa Ủy Ban Liên Phái và Ủy
Ban Liên Bộ để giải quyết những nguyện vọng của Phật giáo. Giới lãnh đạo
Phật giáo sẵn lòng chấp nhận sự cộng tác để không đi ngược với tinh thần
bất bạo động. Ðược lệnh của tổng thống Ngô Ðình Diệm, Ủy Ban Liên Bộ do
phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ lãnh đạo yêu cầu hai bên họp liên tiếp cả
ngày lẫn đêm tại hội trường Diên Hồng để mau chóng đi đến một giải pháp.
Phái đoàn của Ủy Ban Liên Bộ, ngoài trưởng đoàn là ông Nguyễn Ngọc Thơ còn
có ông Nguyễn Ðình Thuần, bộ trưởng Phủ tổng thống, ông Bùi văn Lượng, bộ
trưởng Nội vụ ; Về phía phái đòan Ủy ban Liên Phái có thiền sư Thiện Minh
làm trưởng phái đoàn, các thiền sư Thiện Hoa và Tâm Châu làm đoàn viên,
thiền sư Huyền Quang làm thư ký và thiền sư Ðức nghiệp làm phụ tá thư ký.
Buổi họp đầu tiên bắt đầu từ ngày 14.06.1963. Ủy Ban Liên Bộ được lệnh
phải ký kết một bản thông cáo chung trước ngày 16.06.1963 cho nên đã cật
lực làm việc : Sau năm buổi họp, cộng tất cả là 30 giờ làm việc, một bản
Thông Cáo Chung được ký kết vào lúc hai giờ sáng ngày 16 tháng 06
năm 1963.
Bản Thông Cáo Chung : 1) Quy định thể thức treo cờ
Quốc gia và cờ Phật giáo ; 2) Tách các hiệp hội có tính cách tôn giáo ra
khỏi dụ số 10 ; 3) Cam kết không trả thù những người tham gia cuộc vận
động thực hiện 5 nguyện vọng và điều tra các cuộc khiếu nại của Phật
giáo ; 4) Bảo đảm quyền tự do truyền giáo và hành đạo của Phật tử ; và 5)
Trừng phạt những người có trách nhiệm trong vụ thảm sát tại đài phát thanh
Huế cùng bồi thường cho gia đình các nạn nhân.
Cuối Bản Thông Cáo Chung có chữ ký khán duyệt của
thiền sư Tịnh Khiết, hội chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, và của tổng
thống Ngô Ðình Diệm.
Ðứng về phương diện thương thuyết, Bản Thông Cáo Chung
là một thắng lợi lớn của bên Phật giáo. Nếu chính quyền thực tâm thi hành
những điều đã thỏa hiệp với thông cáo này thì Phật giáo đồ sẽ không còn có
lý do tiếp tục cuộc đấu tranh. Giới lãnh đạo Phật giáo không tin tưởng
ngây thơ rằng chính quyền sẽ quyết tâm thực hiện bản Thông Cáo Chung,
nhưng nguyên tắc tranh đấu bất bạo động bắt buộc họ phải tôn trọng phía
địch thủ không giữ lời hứa mình mới có thể buộc họ là không thành thực ;
Trong cuộc hội họp của Ủy Ban Liên Phái vào bốn giờ sáng ngày 16 tháng 06
năm 1963 tại chùa Xá lợi, nhiều vị lãnh đạo đã tỏ ý lo ngại về sự thành
thật của của phía chính quyền. Thiền sư Thiện Minh trưởng phái đòan của Ủy
Ban Liên Phái, sau khi giải thích về thái độ quân tử cần có trong tinh
thần tranh đấu bất bạo động, đã nói với các vị trong buổi họp : « Nếu
chúng tôi có những sai lầm trong việc ký kết bản Thông Cáo Chung
thì chúng tôi nguyên dùng thân này để đền đáp lòng kỳ vọng của Phật Giáo
đồ ».
Thông Cáo Chung được ký kết sáu
giờ đồng hồ trước khi tang lễ thiền sư Quảng Ðức được cử hành. Chính quyền
ra lệnh loan truyền ngay trong đêm đó bằng xe phóng thanh của bộ Thông
Tin. Ðiện tín báo về bản Thông Cáo Chung được chính phủ đánh đi các
tỉnh tới tấp, và đài phát thanh Sài Gòn loan tin này từ khi trời còn lờ mờ
sáng.
Lúc này đại lão thiền sư Tịnh Khiết đã từ Huế về tới Sài
Gòn. Thuận theo lời khẩn khoản của chính quyền, thiền sư ra lệnh hoãn tang
lễ thiền sư Quảng Ðức lại để tránh những điều có thể tổn thuơng đến tinh
thần Thông Cáo Chung. Nhưng quần chúng không tin đài phát thanh và
loa phát thanh. Vào lúc tám giờ sáng, số người tại thủ đô kéo nhau ra
đưòng Phan Thanh Giản để chờ đợi tham dự tang lễ đã lên tới bảy trăm ngàn
người. Chính quyền khẩn khoản nhờ Ủy Ban Liên Phái đứng ra giải thích cho
quần chúng để xin quần chúng trở về. Thiền sư Tâm Giác được lệnh Ủy Ban
Liên Phái lên đứng trên mui một chiếc xe, dùng máy phóng thanh báo tin cho
quần chúng biết việc ký kết bản Thông Cáo Chung là có thật. Lúc ấy
đồng bào mới tin và mới bắt đầu lục tục giải tán. Ngày 17.06.1963, Thiền
sư Tịnh Khiết ra thông bạch gửi toàn thể Phật giáo đồ trong nước, báo tin
về những thắng lợi đã đạt được trong bản Thông cáo Chung và kêu gọi
Phật giáo đồ « trở lại nếp sống bình thường thành tâm cầu nguyện cho bản
Thông Cáo Chung , một văn kiện cam kết long trọng giữa chính phủ và
Phật giáo được thi hành nghiêm chỉnh ». Tuy nhiên , thiền sư không quên
đặt vấn đề thực thi Thông Cáo Chung : « Một điều quan trọng mà tất
cả tăng ni và Phật tử đều thắc mắc tự hỏi : Liệu nhũng lời cam kết được
ghi trong bản Thông Cáo Chung này có được thực thi đúng đắn khắp
nơi trong nước hay không ? Ðiều đó còn đợi thời gian trả lời. Tuy nhiên
chúng ta tin tưởng ở lời cam kết của tổng thống và Ủy Ban Liên Bộ ; nếu
những điều cam kết không được thực thi đúng đắn thì đó không phải là trách
nhiệm của chúng ta ».
THÔNG BÁO CHUNG KHÔNG ÐƯỢC THỰC
THI
Tuy nhiên ông Ngô Ðình Nhu, cố vấn tối cao của chính phủ
Ngô Ðình Diệm, quyết tâm diệt trừ phong trào Phật giáo. Ngày 16.06.1963,
văn phòng tổng thống đánh mật điện cho đại biểu chính phủ các Miền, các vị
tổng giám đốc và các vị tư lệnh các vùng chiến thuật, ra lệnh tạm thời
nhún nhường phong trào Phật giáo và chuẩn bị dư luận để đợi lệnh phản công
lại phong trào này. Bức mật điện này mang số 1342/VP/TT, do ông Ðổng lý
văn phòng Phủ tổng thống là Quách Tòng Ðức ký ngày 19.06.1963, một bản sao
của mật điện lọt ngay vào trong tay Ủy Ban Liên Phái. Nguyên văn bức điện
như sau: " Ðể tạm thời làm êm dịu tình hình và khí thế đấu tranh quá quyết
liệt của bọn tăng ni và Phật giáo phản động, tổng thống và ông cố vấn ra
lệnh tạm thời nhún nhường họ-các nơi nhận hãy theo đúng chủ trương trên và
đợi lệnh-Một kế hoạch đối phó thích nghi sẽ gửi đến sau-Ngay từ giờ hãy
chuẩn bị dư luận cho giai đoạn tấn công mới-Hãy theo dõi điều tra thanh
trừng những phần tử Phật giáo bất mãn và trình thượng cấp kể cả sĩ quan và
công chức cao cấp".
Cũng ngày 19.06.1963, chính quyền thương lượng với một vài
phần tử tăng sĩ trong giáo phái Lục Hòa Tăng để cấp tốc thành lập một Tổng
Hội Phật Giáo lấy tên là Tổng Hội Phật Giáo Cổ Sơn Môn để chống lại phong
trào Phật giáo, thảo giúp một điện văn bằng Anh ngữ để tổ chức này đánh
qua cho hội Phật giáo Tích Lan, tố cáo Tổng Hội Phật Giáo Việt nam "một
chi nhánh của hội Phật Giáo Tích lan", đang lợi dụng danh nghĩa của hội để
hoạt động chính trị và yêu cầu hội Phật giáo Tích Lan lên tiếng phản đối.
Trụ sở hội Thế Giới Phật Giáo Liên Hữu năm ấy được đặt tại
văn Ngưỡng Quang (Rangoon) Miến Ðiện và Phật Giáo Tích lan, cũng như Phật
Giáo Việt Nam, chỉ là một trong những "Trung tâm địa phưong" của hội.
Ngay khi nhận được điện tín, tổng thư ký Trung Tâm Tích
Lan là ông W.P. Daluwatte trả lời ngay. Ông nói rằng hội Phật Giáo Tích
Lan không có một chi hội nào ở Việt nam cả, rằng " Tổng Hội Phật Giáo Việt
Nam không bao giờ làm một điều gì hoặc có một thái độ nào có thể gọi là
phản Phật giáo cả", rằng Phật tử Tích Lan "phản đối mạng mẽ những hành
động kỳ thị tôn giáo và những đối xử có tính cách lăng nhục". Một bản sao
của thư này, viết ngày 18.06.1963 được gửi cho Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam.
Ngày 20.06.1963, nhục thân của thiền sư Quảng Ðức được
rước về An Dưỡng Ðịa ở Phú Lâm để làm hỏa thiêu. Chính quyền đã bắt đám
rước đi theo con đường Trần Quốc Toản thay vì đi đường Phan Thanh Giản.
Chính quyền chỉ cho phép khoảng hai trăm vị tăng ni tham dự vào đám rước
này, và buộc phải đi bằng xe hơi. Tuy vậy suốt dọc đường, hương án của tư
gia đã được bày hai bên lề đường với đèn hương nghi ngút để tỏ sự thành
kính đối với vị thiền sư mà từ đây mọi người bắt đầu xưng tụng là Bồ tát
Quảng Ðức. Ngọn lửa hỏa thiêu đã không đốt cháy được trái tim thiền sư.
Trái tim này được đem thiêu lại lần thứ hai với sức nóng ngót 4.000 độ
nhưng vẫn không cháy.
Tổng thủ lãnh của Phong Trào Thanh Niên Cộng Hòa là cố vấn
Ngô Ðình Nhu dự định sử dụng lực lượng này để chống phong trào Phật Giáo.
Tại trụ sở Thanh Niên Cộng Hòa ngày 26.06.1963, ông nói: "Phong Trào Thanh
Niên Cộng Hòa là một phong trào quần chúng, không phải là một phong trào
của chính phủ để mù quáng đi làm tay sai cho bất cứ ai ". Tài liệu học tập
số 3 của Thanh Niên Cộng Hòa cho rằng:
1- Nội dung cũng như hình thức bản Thông Cáo Chung
không phù hợp với chủ trương của Thanh Niên Cộng Hòa.
2- Bản Thông Cáo Chung trái với luật lệ hiện hành,
chưa kể điều hết sức quan trọng là phủ nhận quyền của tổng thống trong vấn
đề thả ra những người bị bắt bớ ".
Trong lá thư gửi tổng thống Diệm ngày 26.06.1963, đại lão
thiền sư Tịnh Khiết tố cáo tất cả những hành động nói trên của chính
quyền. Ông lại tố cáo những trường hợp đàn áp Phật tử từ ngày Thông Cáo
Chung : nhiều nơi, dân chúng bắt buột làm kiến nghị lên án phong trào
Phật giáo; nhiều nơi, các chùa còn bị phong tỏa các cán bộ Phật tử bị lùng
bắt, công an theo dõi những người đến chùa, biển số xe và tới tận nhà để
hăm dọa. Ông còn cho biết rằng vị tổng giám đốc Nha Thanh Niên đang tổ
chức một cuộc biểu tình lớn của Thanh Niên Cộng Hòa để yêu cầu chính phủ
duyệt lại bản Thông Cáo Chung, và tố cáo hành động này là chống lại
đường lối của chính quyền.
Thiền sư Thiện Minh, trưởng phái đoàn Ủy Ban Liên Phái,
trong lá thư ngày 01.07.1963 gửi Ủy Ban Liên Bộ, lại tố cáo rằng những bản
Thông Cáo Chung trên đường gửi ra Huế đã bị tịch thu tại Quy Nhơn,
rằng chính quyền địa phương cấm đoán một số các chùa tổ chức hội họp để
học tập về bản Thông Cáo Chung, rằng chính quyền đã ra lệnh cho báo
chí không được đăng tải những bản thông bạch và những tài liệu của phía
Phật giáo, rằng khắp nơi chính quyền địa phương đang dùng những phương
tiện bán công khai để chống lại sự thực thi Thông Cáo Chung.
Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, chủ tịch Ủy Ban Liên Bộ trả lời lại bức
thư này và nói rẳng những điều mà các thiền sư lên án đã không thực sự xảy
ra. Hai bên trao đổi rất nhiều thư từ loại này. Bên Phật giáo, các thư văn
được in bằng ronéo để phân phát cho quần chúng; Bên chính quyền, các thư
văn được các báo chí thủ đô đăng tải và đài Sài Gòn phát thanh.
Ngày 07.07.1963 để đánh lệch sự chú ý quần chúng khỏi cuộc
tranh đấu của Phật tử, chính quyền ra lệnh đem những nhân sĩ đã từng tham
dự cuộc đảo chính hụt ngày 11.11.1963 ra xét xử. Ðược trát tòa án đòi, hôm
ấy nhà văn Nhất Linh ( Nguyễn tường Tam) uống thuốc độc tự tử vào lúc tám
giờ tối sau khi để lại những dòng sau đây:
"Ðời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự
bắt bớ và xử tội những phần tử quốc gia đối lập là một tội nặng, sẽ làm
cho nước mất về tay Cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như
hòa thượng Thích Quảng Ðức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi
thứ tự do. Ngày 07/07/1963, khoảng bốn mươi ngàn người đã tham dự tang lễ
của nhà văn, giữa những hàng cảnh sát chiến đấu và mật vụ.
Ngày 09.07.1963, bộ nội vụ ban hành nghị định 358-BNV/KS
ấn định thể thức treo cờ Phật giáo (theo tinh thần Thông Cáo Chung)
cho Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam; Nghị định này nhằm chia rẽ Tổng Hội với
các giáo phái Phật Giáo khác, vì quyền treo cờ này chỉ được áp dụng riêng
cho Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Ba ngày sau; đại diện tất cả các giáo
phái, trong đó có sáu tập đoàn của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam đồng ký vào
một bản kiến nghị phản đối dụng ý chia rẽ của nghị định nói trên và yêu
cầu chính phủ cho điều chỉnh nghị định.
Ngày 11.07.1963 Ủy Ban Liên Bộ lại gửi cho Ủy Ban Liên
Phái một lá thư cho biết rằng theo sự điều tra của Bộ Nội vụ thì vụ thảm
sát ở Huế ngày 07.05.1963 là do Cộng sản gây ra chứ không phải do chính
quyền: Bác sĩ Lê Khắc Quyến, giám đốc bệnh viện Trung ương Huế sau khi
giải phẩu và chứng nghiệm, đã cho ông đại biểu chính phủ tại Trung Nguyên
Trung Phần biết như vậy trong cuộc tiếp xúc ngày 02.07.1963.
Thiền sư Thiện Minh, trong một lá thư đề ngày 12.07.1963
đã trả lời về vấn đề này, buộc tội chính quyền cố tình bưng bít một sự
thật không còn có thể bưng bít.
Ðồng thời ông nói tới tất cả các hành động vi phạm công khai bản Thông
Cáo Chung của các cấp chính quyền, nêu ra từng trường hợp một.
Thời gian thử thách về việc thực thi Thông Cáo Chung
kéo dài trên ba tuần lễ. Nhận thấy chính quyền không những không thực tâm
thi hành Thông Cáo Chung mà còn tìm biện pháp làm yếu mòn tiềm lực
tranh đấu của Phật giáo, ngày 14.07.1963, đại lão thiền sư Tịnh Khiết
cương quyết phát động lại cuộc tranh đấu. Ngày hôm đó, ông gởi một lá thư
cho tổng thống Ngô Ðình Diệm báo tin rằng ông quyết định ra lệnh tiếp tục
cuộc tranh đấu bất bạo động để đòi hỏi sự thực thi nghiêm chỉnh bản
Thông Cáo Chung. Ông viết: "Tôi tuy tuổi đã tám mươi, vẫn còn đầy đủ
sáng suốt để ra quyết định này mà tôi lãnh hết trách nhiệm.
Ðồng thời ông ra thông bạch kêu gọi toàn thể tăng đồ và tín đồ đoàn kết
sau Ủy Ban Liên Phái để tranh đấu và "đòi hỏi sự thực thi nghiêm chỉnh và
nhanh chóng bản Thông Cáo Chung". Ngày hôm sau 15.07.1963, nhân
danh vị lãnh đạo tối cao của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo, ông lại ra
một Thông bạch quy định phương thức tiến hành cuộc tranh đấu.
Thông bạch ấy như sau:
"Kính Thông bạch các tập đoàn trong Ủy Ban Liên Phái Bảo
Vệ Phật Giáo.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Như bản sao ba văn kiện đính kèm bản Thông bạch này, quý
vị lãnh đạo các tập đoàn và toàn thề Tăng Già và tín đồ trực thuộc đều có
thể nhận thấy:
Nguyện vọng của Phật giáo là đòi hỏi bản Thông Cáo
Chung phải được thực thi nghiêm chỉnh và mau chóng.
Năm nguyện vọng đó các tập đoàn và các tỉnh trực thuộc hãy
thi hành các chi tiết Phật sự sau đây:
1- Khẩu hiệu đòi hỏi:
a) Có ba khẩu hiệu được nêu lên sau đây:
- Chúng tôi đòi hỏi thi hành đúng đắn bản Thông Cáo
Chung (Anh ngữ: The Joint Communique must be carried out seriousky).
- Hãy chấm dứt mọi hình thức khủng bố và áp bức Phật
giáo đồ (Anh ngữ: Stop all forms of terrorizing and suppresing
Buddhists).
- Yêu cầu chính phủ giữ sự thành tín đã hứa (Anh ngữ:
Requesst the Goverment to keep its promises faithfully).
b) Cách dùng các khẩu hiệu là viết nhiều tấm treo ngay nơi
tiền đường và những nơi quần chúng có thể nhìn thấy rõ ràng của khuôn
viết, tất cả các chùa thuộc giáo hội và hội. Những chùa xa xôi ở thôn quê
và núi non cũng viết và căng lên như vậy. Nhưng ngoài ba khẩu hiệu này
tuyệt đối không dùng khẩu hiệu nào khác.
2- Hình thức đòi hỏi:
a) Hình thức đòi hỏi thực thi bản Thông Cáo Chung
là áp dụng tất cả các phương thức bất bạo động đã áp dụng tất cả các
phương thức bất bạo động đã áp dụng trước đây.
b) Ðịa điểm tụng kinh và tuyệt thực-những điều phổ thông
trong phương thức bất bạo động-thì tại thị xã, tăng già và tín đồ (hội
viên và gia đình Phật tử của các khuôn hội phụ cập, các giới Phật tử trực
thuộc) tập trung tại trụ sở, văn phòng, hoặc chung hoặc riêng của giáo hội
và hội. Còn tại khuôn thì hội viên và Gia đình Phật tử khuôn nào tập trung
tại khuôn ấy.
Chú ý: tập trung theo thể thức luân phiên.
3-Thời gian đòi hỏi:
Kể từ khi ra Thông bạch này cho đến khi có thông
bạch mới.
4-Tinh Thần Bất Bạo Ðộng:
a)Tuyệt đối cố thủ tinh thần và phương pháp bất bạo động.
b)Nếu đi tụng kinh và tuyệt thực để cầu nguyện mà bị ngăn
chặn lại thì dầu mấy người cũng ngồi xuống niệm xong 100 tiếng niệm Phật
rồi trở về. Nếu bị bắt thì tất cả cùng xin vào tù. Nếu chùa bị bao vây thì
bình tĩnh cầu nguyện cho đến chết.
5- Mục đích đòi hỏi:
a) Hoàn toàn thuộc ý thức tôn giáo tín ngưỡng.
b) Và thu hẹp trong sự đòi hỏi thực thi bản Thông Cáo
Chung một cách nghiêm chỉnh và mau chóng.
Vì ý thức được tính cách sinh tử của Ðạo Pháp, tôi chắc
chắn toàn thể Phật tử không ai từ chối một sự hy sinh nào trong khuôn khổ
tinh thần bất bạo động.
Hòa thượng hội chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, lãnh đạo
tối cao Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo.
Thích Tịnh Khiết
(Trích từ Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập III,
Nguyễn Lang, nhà xuất bản Văn Học Hà Nội, 1994. Ý Thảo thực hiện vi tính)