"Ta có thể thắng với Diệm không ?"
Hầu như tất cả các nhân vật trách nhiệm ở Bộ Ngoại
giao và ở Hội đồng An ninh Quốc gia đều hoài nghi. Thế nhưng Mỹ không có
chính sách nào khác đối với chiến tranh và đối với ông Diệm. Đối với chiến
tranh, chính sách của Mỹ vẫn là "thắng", winning the war. Đối với
ông Diệm, Mỹ không có ngựa để thay. Trong tranh luận liên miên giữa những
người trách nhiệm, duy chỉ có độc nhất một ý kiến táo bạo, dám đưa ra một
lập luận khác : đó là ý kiến của Chester Bowles, cố vấn đặc biệt của Tổng
thống về các vấn đề Á Phi và Mỹ la tinh, trong thư ông gởi cho Kennedy
ngày 7-3-1963 Tuy là đơn độc, ý kiến của Bowles phản ánh một khuynh hướng
khác đang manh nha, trù liệu thối lui.
Bowles nhắc lại một câu tuyên bố của đô đốc Radford
ngày 22-3-1954 trước báo chí : "Người Pháp sắp thắng. Đây là cuộc chiến
sắp đến hồi kết thúc với sự giúp đỡ của chúng ta". Sáu tuần sau đó, Pháp
đầu hàng ở Điện Biên Phủ. "Chín năm qua rồi, và bây giờ chính chúng ta, để
chống lại những lực lượng chính trị và quân sự bản xứ hùng mạnh, chính
chúng ta bảo vệ sự sống còn của một chế độ Việt Nam bị dân chúng chán
ghét, không bám rễ đủ giữa lòng dân. Thế mà bây giờ, cũng như hồi 1954,
nhiều giới chức trách quân sự Mỹ có thẩm quyền tin rằng tình hình đang
chuyển biến có lợi cho ta và chiến thắng có thể thấy trước mắt trong vòng
hai, ba năm nữa" (14).
Bowles đề nghị Kennedy xét lại toàn bộ chính sách Mỹ
bằng cách đặt lại những câu hỏi căn bản : Thế nào là lợi ích dài hạn của
Mỹ ở Đông Nam Á và ở Nam Việt Nam ? Thế nào là một Nam Việt Nam có khả
năng thực hiện được lợi ích dài hạn đó ? Một căn cứ quân sự của Mỹ ? Một
quốc gia độn mà nếu cần thì có thể trung lập hóa ? Nhưng trước hết, phải
định nghĩa lại cho hợp với thực tế : thế nào là "thắng trận", là
"winning the war" ? Giết thật nhiều Việt Cộng ? Giết hết ? Chỉ có quân
sự mà thôi ? Dù thế nào chăng nữa, cũng phải "làm áp lực trên Diệm để buộc
ông ta phải mở rộng nền tảng chính trị ở thành phố, chia bớt quyền hành
chính trị và quân sự, đưa ra những biện pháp mới để đem lại thêm an cư lạc
nghiệp cho nông dân và hãm bớt chính sách gia đình trị quá lộ liễu".
Bowles đòi thay Nolting, quá gắn bó với
ông Diệm.
Trong bối cảnh mặn nồng
phôi pha đó, nổ ra ngày 8 tháng 5. Phật Đản 1963 ở Huế cũng tổ chức như
thường lệ thôi, nhưng năm ấy, dưới ảnh hưởng của Tổng giám mục Ngô Đình
Thục vừa rời Vĩnh Long về Huế, ông Diệm hạ lệnh cấm treo cờ Phật giáo
trước nhà. Trước đó, cờ Vatican treo đầy đường Huế trong dịp lễ ngân khánh
của ông Thục. Con người có thể khiếp sợ trong 99% trường hợp. Nhưng dù chỉ
còn lại 1% thôi, nhân phẩm vẫn không chịu nổi uất ức đến mức ấy. Tối hôm
đó, dân chúng tụ tập trước đài phát thanh Huế để đòi nghe lại cuốn băng
ghi âm buổi lễ diễn ra hồi sáng và lời yêu cầu thu hồi lệnh cấm treo cờ.
Xe bọc sắt của quân đội (8 chiếc !), xe cảnh sát và lính tráng ào đến bao
vây đài phát thanh. Lính bắn vào dân, tám em bé tử thương. Ông Diệm, ông
Thục, ông Nhu, ông Cẩn, bà Nhu, đinh ninh năm miệng một lời song song :
không phải đâu, lựu đạn của bọn Việt Cộng đấy.
Từ ngày 8-5 đến đêm 20-8 - đêm quân đội tấn công chùa
chiền trong khắp thành phố lớn - các vị
lãnh đạo Phật giáo cố giữ sự phản kháng trong bản chất thuần túy tôn giáo,
về nội dung cũng như về hình thức. Về nội dung, họ chỉ đòi hỏi bình đẳng
tôn giáo. Về hình thức, họ không làm gì khác ngoài biểu tình im lặng,
tuyệt thực, tự thiêu. Ở một chính thể khác, những nguyện vọng mà họ phát
biểu có gì gay cấn đâu ! Phật giáo, ở một nước có văn hóa Phật giáo truyền
thống, đòi bình đẳng tôn giáo ! Nghe lạ đời ! Nghe ngược tai ! Người Mỹ,
thấy yêu cầu chẳng có gì khó chấp nhận, khuyên ông Diệm làm một cử chỉ hòa
hoãn để tình hình lắng dịu, hòng tiếp tục làm chiến tranh. Họ bức tóc bức
tai thấy chuyện đối với họ sao dễ thế mà đối với ông Diệm sao kinh thiên
động địa thế ! Nói với ông Diệm như nước đổ đầu vịt. Đầu tháng 6, công văn
than thở : "Cách xử lý vấn đề phi lý, xuẩn ngốc, có khả năng khiến một
biến cố địa phương ở Huế lớn lên thành một khủng hoảng chính trị. Nếu ông
Diệm không đạt được một hòa hoãn nhanh chóng với Phật tử, vấn đề có thể
gây ảnh hưởng trầm trọng đến sự ổn định chính trị" (15). Giữa tháng 6, Bộ
Ngoại giao xác quyết : "Nếu Diệm không lấy biện pháp nhanh chóng và hữu
hiệu để tái lập sự tin tưởng của Phật tử nơi ông, chúng ta sẽ phải xét lại
toàn diện quan hệ với chế độ của ông ta" (16).
Ấy là ý kiến của ông Rusk, bộ trưởng ngoại giao. Nói dễ
mà làm khó ! Bởi vì Bộ Quốc phòng không đồng ý với Bộ Ngoại giao, tướng tá
không đồng ý với dân sự, Phái bộ quân sự không đồng ý với Đại sứ quán,
trong Đại sứ quán nhân vật số 1 Nolting không đồng ý với nhân vật số 2
Trueheart, và sau đó tân đại sứ Cabot Lodge cũng ngất ngư giữa phe ủng hộ
và phe phản biện ông ngay ở Sài Gòn cũng như ở Hoa Thịnh Đốn. Cũng vẫn câu
hỏi đó thôi : "ta có thể thắng chiến tranh ? ", quân sự nói có, dân
sự nói không (17). Hoặc là : có, nếu ... Ôi, khổ sở thay là cái chữ nếu
này. Bởi vì, trái với quân sự, dân sự cho rằng chiến tranh này không phải
chỉ thuần túy quân sự mà còn là chính trị, hai lĩnh vực phải đi đôi với
nhau. "Giết Việt Cộng không phải là đường lối để thắng chiến tranh ở Nam
Việt Nam ; cách duy nhất để thắng là nắm được ủng hộ của quần chúng" (18).
Cho nên phúc trình của Taylor-Harkins thì toàn màu hồng, sắp thắng đến nơi
rồi, phúc trình của sứ quán thì nhiều mây hơn nắng. Trong cả ngàn trang
công điện, công văn, phúc trình ngược ngạo nhau như thế, xin chọn phúc
trình này làm tiêu biểu, vừa phản ánh đúng sự đánh giá bên trắng bên đen
giữa giới chức Mỹ với nhau, vừa thú vị quá. Trong buổi họp tối cao với sự
có mặt của Kennedy ngày 10-9, tướng Krulak của Bộ Quốc phòng kết luận
chuyến thám sát tình hình ở miền Nam rằng : "Chiến tranh chống Việt Cộng
sẽ thắng nếu chương trình quân sự và xã hội hiện tại của Hoa Kỳ được tiếp
tục, mặc dù có những khuyết điểm trầm trọng trong chế độ cầm quyền hiện
nay". Mendelhall của Bộ Ngoại giao tiếp lời, trình bày phúc trình của
mình cũng sau chuyến thám sát đó. Ông nói : chiến tranh chống Việt Cộng đã
thành ra thứ yếu so với "chiến tranh chống chế độ ; suốt các tỉnh miền
Trung, Việt Cộng lớn dần, dân chúng ghét chế độ ngã theo Việt Cộng, sinh
viên ở Huế và Sài Gòn thà chọn Việt Cộng hơn là chính phủ". Ông Nhu lãnh
trách nhiệm về chuyện đánh chùa và đàn áp, nhưng ông Diệm càng ngày càng
lãnh chung trách nhiệm với ông Nhu. Ông kết luận : "chiến tranh chống Việt
Cộng không thể thắng nếu ông Nhu còn ở Việt Nam". Kennedy lắng nghe hai
phúc trình, xong hỏi : "có thật hai ông cùng viếng một nước đấy chứ ?"
(19). Tổng thống hỏi câu tếu quá !
Dù sao, về ông Nhu, dân sự lẫn quân sự đều đồng ý : ông
Nhu còn đó thì chiến tranh không thắng được. Tại sao ? Tại vì ông Nhu có ý
trung lập ? Tại vì ông Nhu có thể yêu cầu Mỹ rút quân ? Ý định về trung
lập của ông Nhu, người Mỹ gọi là "bí mật ống loa"
- "open secret" (20) - một bí mật mà ai cũng nghe nói, nhất là nói
thế nào để vừa có vẻ bí mật, vừa lọt đến tai người Mỹ. Sợ người Mỹ điếc
tai, ông Nhu còn đem chuyện bí mật ra nói toang hoang với các ông tướng
(tướng Khiêm, tướng Big Minh, tướng Nghiêm ... ) chiều 16-9, kể vanh vách
vai trò liên lạc của đại sứ Ba Lan Maneli và vai trò trợ tá của đại sứ
Pháp Lalouette giữa ông với Hà Nội (21). Đó là thời gian mà các ông tướng
đang ngầm tổ chức đảo chánh, chưa ai tin ai hẳn, nhưng ai cũng chống ông
Nhu vì nhiều chuyện trong đó có chuyện quả bóng trung lập được tung lên
trời Sài Gòn. Đưa tin cho người Mỹ biết nội dung buổi thổ lộ tâm tình của
ông Nhu, tướng Khiêm kết luận dứt khoát : "tướng lãnh chúng tôi không ai
đi với ông Nhu bất kỳ dưới hoàn cảnh nào nếu ông ta tiếp xúc với Bắc Việt,
dù là để thống nhất theo lối Lào" (22).
Tại sao phải dùng đến súng cà-nông để bắn tin mật ?
Chuyện đại sự của dân tộc Việt Nam hay chuyện săng-ta với Mỹ ở bước đường
cùng ? Bởi vì biết ông Nhu đang là"người bị dồn
đến chân tường" (23), đang "hốt hoảng đến mức tuyệt vọng" (24),
người Mỹ không đánh giá thấp khả năng làm liều của ông Nhu. Công văn ngày
26-9 phân tích ba lý do trong bụng ông Nhu. Một, là tìm biện pháp trả đũa
để chống lại đe dọa cắt viện trợ và áp lực của Mỹ. Hai, là tìm đường lối
khác để thoát thân trong trường hợp khủng hoảng, chẳng hạn khi mất ủng hộ
quân sự của Mỹ khiến ông thảm bại trong chiến tranh. Ba, là dựa hơi Pháp
để dọa Mỹ. Nhưng người Mỹ không tin rằng Hà Nội ở trong cái thế bắt buộc
phải thương thuyết theo những điều kiện không phải là điều kiện do chính
Hà Nội đưa ra. Mà điều kiện trước sau như một của Hà Nội để đi đến thống
nhất là : Mỹ chấm dứt ủng hộ và rút lui toàn bộ quân đội ở miền Nam ;
thành lập chính phủ liên hiệp với sự tham dự của các thành phần chính trị
ở miền Nam trong đó có Mặt Trận Giải Phóng ; chính phủ liên hiệp đó sẽ
thương thuyết với Hà Nội để thống nhất. Chính thể Nhu-Diệm nuốt nổi những
điều kiện đó chăng ? Vậy thì, theo người Mỹ, điều đáng quan tâm là ông Nhu
đưa ra một đề nghị gì đấy ở mức thấp, chẳng hạn đình chiến, và Hà Nội nhân
đấy đòi Mỹ rút lui. Nhưng ngay cả giả thuyết đó, người Mỹ không thấy ông
Nhu có thể thực hiện. Nền tảng xã hội của chế độ ông, và nhất là nền tảng
quân đội trên đó ông làm chiến tranh không cho phép ông làm gì hơn là
ma-nớp – maneuver, trong nguyên văn (25). Nhưng ấy là giả sử ông
Nhu tính toán như một người có lý trí. Người Mỹ sợ nhất là ông Nhu ở bước
đường cùng hành động bất hợp lý. Trong công văn qua lại, xuất hiện chi
tiếùt ông Nhu hút thuốc phiện (26).
Nhưng cứ giả sử ông Nhu chơi ngon, công khai lớn tiếng
đòi Mỹ rút quân thì sao ? Câu hỏi động đến tận căn bản của chiến tranh.
Trong suốt hồ sơ của Bộ Ngoại giao năm 1963, ngoài ý kiến của Chester
Bowles đã nói ở trên, chỉ một mình Mansfield đặt lại vấn đề từ gốc. Trong
thư riêng gởi Kennedy ngày 19-8, ông hỏi : "Nam Việt Nam có thật sự quan
trọng cho chúng ta như cho chính người Việt Nam không ?" Ông trả lời :
không. Lợi ích của Mỹ ở Việt Nam, theo ông, không phải là thiết yếu cho sự
phòng vệ của Mỹ, mà chỉ là ngoại vi. Đã là ngoại vi thì sự can thiệp phải
có giới hạn, về nhân mạng cũng như về tiền bạc, đáng giúp thì giúp, không
đáng giúp thì thôi. Bởi vậy, để trả lời ông Nhu than phiền có nhiều quân
đội Mỹ quá ở miền Nam, Mansfield đề nghị cứ rút quân, lúc nào cũng được,
10% chẳng hạn, để cảnh cáo chế độ rằng người Mỹ làm ăn sòng phẳng,
business is business (27).
Thế nhưng chính phủ Mỹ thì không nghĩ như vậy. Kennedy
có tiên liệu chuyện rút 1000 quân cuối 1963, nhưng căn bản lý thuyết và
sách lược chiến tranh thì không đổi. Miền Nam vẫn là "lợi ích sinh tử" của
Mỹ ; Mỹ "sẵn sàng rút lui, nhưng trước khi rút lui Mỹ phải để lại một miền
Nam độc lập, tự do, không cộng sản" (28). Vào thời điểm 1963, Mỹ vạch ra
hai thái cực phải tránh : một là rút lui và trao miền Nam cho cộng sản,
hai là xô quân vào ào ạt và trực tiếp cai trị miền Nam (29). Nói một cách
khác, mục tiêu của Mỹ vẫn là "thắng chiến tranh". Cái gì cản trở mục tiêu
đó thì đừng có hòng làm nên trò trống (30).
Huống hồ ông Nhu đã mất hẳn tay chân để làm ma-nớp ;
tất cả căm giận đều đổ trên đầu ông và vợ ông, kể cả căm giận của thân phụ
thân mẫu bà Nhu, của những người thân tín nhất của ông Diệm, từ bộ trưởng
Phủ Tổng thống Nguyễn Đình Thuần đến chánh văn phòng
đặc biệt Phủ Tổng thống Võ Văn Hải (31).
Những người trung thành nhất với ông Diệm lại là những người van nài Mỹ
tha thiết nhất hãy gạt ông Nhu để cứu ông Diệm. Ở bước đường cùng, ông Nhu
định chơi một ván bài cuối táo bạo : làm một cú đảo chánh để tự mình nắm
quyền. Cuối tháng 8, người Mỹ đứng trước một cơn sốt lạm phát âm mưu đảo
chánh, toàn là lăm le : này cú của tướng Đôn, kia cú của tá Phạm Ngọc
Thảo, nọ cú của mật vụ Trần Kim Tuyến, rồi bây giờ cú của chính ông Nhu.
Chưa biết ai đảo chánh ai, nhưng chắc chắn là tướng tá phải hạ thủ ông Nhu
trước để khỏi bị ông Nhu hạ thủ. Trong con mắt của Cabot Lodge, khi nói
chuyện với ông Nhu vào cuối tháng 10, có chút gì ái ngại : ông biết người
ngồi trước mặt ông sẽ chẳng còn ngồi đó nữa để dọa dẫm trung lập. Ông chỉ
không biết một điều thôi là Nam Tào đã sắp sửa rút tên ông Nhu ra khỏi hộ
khẩu.
Sau đêm đánh chùa 20-8,
ông Diệm tưởng đã dập tắt được phản kháng. Thì còn gì nữa! Chùa chiền đã
nằm sau hàng rào kẽm gai, lãnh đạo đã vào tù. Quen nịnh hót và dối trá,
ông không thấy sự thật rằng dân chúng đang muốn quật ông đổ và một phần
lớn sĩ quan cấp tá, cấp úy chỉ chờ đảo chánh. Cho đến 20-8, sự phản kháng
có tính cách tôn giáo. Sau đó, quần chúng và sinh viên tiếp nối phong
trào, thổi bùng ngọn lửa đã nhen với phẫn uất chính trị. Người Mỹ rất lúng
túng. Họ lúng túng từ đầu đến cuối, và cho đến phút cuối, họ vẫn còn muốn
bám ông Diệm, kể cả Rusk, đưa đến sự mất nhất trí ở đầu não Hoa Thịnh Đốn.
Phe Harriman-Hilsman-Forrestal-Sullivan (32) nói : "cách hữu hiệu duy nhất
để chống lại đe dọa cộng sản là đem lại cho dân chúng một sự lựa chọn khác
xứng đáng để tranh đấu". Phe McNamara-Taylor trả lời : "nếu kẻ thù được
nhận diện và giết theo phương pháp mà ta đã áp dụng thành công cho đến
nay, thì cứ tiếp tục như vậy rồi sau này sẽ đến lúc dồn sức lực vào lĩnh
vực xã hội và chính trị ..." Phe này chê phe kia là không tưởng (33). Bởi
vậy, để kéo trọng tài Kennedy về phe mình, giới quân sự báo tin lành :
những xáo trộn chính trị ở thành phố không có ảnh hưởng gì trên chiến
trường. Phe dân sự (Mecklin, Trueheart, Philip) báo tin dữ : dân chúng ngã
theo Việt cộng. Chính sách đề ra từ đầu não và chỉ thị cho Lodge áp dụng ở
Sài Gòn phản ánh tranh chấp đó. Đó là chính sách nửa vời, nửa dơi nửa
chuột, cố làm vừa lòng cả hai phe : hòa hoãn với Diệm và đồng thời làm áp
lực trên Diệm để thay đổi chế độ. Thay đổi chế độ ? Bảo ông Diệm gạt ông
Nhu ? Rời bà Nhu ? Phải chi ông Diệm có vợ ! Sớm ngõ trưa sân, thím Nhu
đứng ngồi quanh quẩn bên mình ông như một bà Đệ Nhất Phu Nhân, khiến nhiều
nhân chứng xầm xì về một quan hệ thiếu minh bạch, thậm chí bệnh lý (34).
Trong những lần gặp ông Diệm để thông báo yêu cầu của Hoa Thịnh Đốn đòi
ông "thay đổi chế độ", Lodge chỉ nghe ông Diệm độc thoại về "mẫu mực dân
chủ" của miền Nam Việt Nam mà ông Diệm tin là sẽ trở thành mô hình dân chủ
lý tưởng của cả Á châu (35). Ông Lodge thuộc lòng bài ca đó vì đã bao
nhiêu lần nghe ông Nhu độc thoại về mẫu mực dân chủ của Ấp Chiến Lược.
Đến giữa tháng 9 thì người Mỹ sốt ruột lắm rồi. Về
chiến sự, Ấp Chiến Lược mà ông Nhu giương cao thành tích như thành công vĩ
đại của chế độ và của chính ông bị báo chí Mỹ khám phá ra những sơ hở trầm
trọng (36). Về chính trị, thiết quân luật không dẹp nổi sự chống đối của
dân chúng, thành phố hỗn loạn đến mức nhân viên công sở chỉ còn ngồi đọc
báo. Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần nói nhỏ với Mỹ là muốn chuồn ra ngoại
quốc (37). Kennedy gởi chính những người ủng hộ ông Diệm qua điều tra tình
hình lần chót cuối tháng 9 với sự đồng ý của Lodge. Tường trình lần này
của phái đoàn McNamara-Taylor hết hồ hởi, gần với thực tế bi đát (38). Thú
vị nhất là lần nói chuyện với Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ ngày 30-9.
Ông Phó Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa thổ lộ : tình hình đã quá trầm trọng,
dân chúng đã quá bất mãn, ở thành phố cũng như ở thôn quê. Hỏi ông về
chính sách tát ao bắt cá của Ấp Chiến Lược, ông nói : ban đêm dân chúng
vào ngủ trong Ấp, ban ngày, ngủ hoài sao được, phải ra đồng làm việc chứ,
và ra đồng thì gặp ai, Việt Cộng chứ ai ! Hỏi ông về chiến sự, ông cười :
hai năm trước đây, người Mỹ các ông ước tính quân đội Việt Cộng có từ 20
đến 30.000 đầu. Ông Diệm được báo cáo rằng mỗi tháng ta giết 1000 tên. Ấy
thế mà bây giờ chúng đông hơn trước ! Hỏi ông có người Việt Nam nào giỏi
để tham khảo ý kiến không, ông lắc đầu : người giỏi trốn ra nước ngoài hết
rồi. Hỏi ông thêm nữa về chính trị, ông xua tay : tôi không có tự do để
nói thêm gì nữa với quý ông (39). Ấy, ông Phó Tổng thống tếu quá !
Phái đoàn McNamara-Taylor mang theo một thư của Kennedy
gởi ông Diệm. Thư bắt đầu : "Thưa Tổng Thống thân mến, Tôi gởi đến ông
thư này bởi vì tình hình bang giao giữa hai nước chúng ta đã trở nên vô
cùng trầm trọng ..." (40). Dưới ảnh hưởng của Lodge, người thấy rõ
nhất tính chất độc tài không thay đổi được của gia đình ông Diệm, đầu não
ở Hoa Thịnh Đốn dần dần ngã theo ý kiến "không thể thắng được với Diệm".
Hilsman, từ Bộ Ngoại giao, gởi thư riêng cho Lodge, viết : " Chúng tôi
đã cảm thấy rằng càng ngày quan điểm của chúng ta càng có nhiều người ủng
hộ. Nếu anh ở Sài Gòn và chúng tôi ở đây giữ vững tay súng, mọi người sẽ
theo chúng ta. Như Forrestal sẽ nói với anh, một nhóm người quyết tâm ở
đây sẽ ủng hộ anh đi trọn con đường. Tôi nghĩ rằng chắc là anh có lý khi
phán đoán rằng không có áp lực nào - kể cả cúp viện trợ - có thể làm Diệm
và Nhu thay đổi chế độ như ta muốn, và vì vậy điều chúng ta phải làm là
thay đổi chính phủ" (41). Ông Diệm đánh chùa, thiết quân luật, cử Tôn
Thất Đính làm tướng tổng trấn Sài Gòn, tưởng khuất phục được dân với uy
lực. Đính là bộ hạ của ông Nhu, vậy là ông Nhu làm chủ tình thế. Với Mỹ và
với dân, cả hai ông đều lếu, lếu quá, vì bỗng chốc quân đội, nghĩa là
tướng tá, hôm qua còn phủ phục, hôm nay nhảy lên địa vị trọng tài. Đảo
chánh trở thành chuyện có thể. Hơn thế nữa, chuyện chờ đợi, mong mỏi, nôn
nóng, hợp lòng người, được lòng dân.
Nhưng không phải dễ gì Lodge thuyết phục được tất cả
mọi người. Harkins luôn luôn thọc gậy vào bánh xe của ông : một ngày trước
khi đảo chánh, ông tướng này còn viết một công văn rất dài, cực lực bênh
vực ông Diệm, kịch liệt phản đối việc "thay ngựa giữa đường" (42). Công
điện của Bạch Ốc đánh đi ngày 17-9 căn dặn Lodge đừng "hành động để thay
đổi chính phủ hiện tại trong những ngày trước mắt" (43). Ngày 2-10, công
văn của McNamara-Taylor vẫn nói :"triễn vọng một đảo chánh tự phát không
nhiều. Hai lực lượng chính là tướng tá và sinh viên đã bị thúc thủ vì
thiếu khả năng và vì chế độ đã phản công kiểm soát một cách hiệu quả". Mà
đảo chánh thì cũng chưa chắc làm tình hình sáng sủa hơn, cũng chỉ 50 phần
trăm, 50 phần trăm (44). Ngày 29-10, hai ngày trước đảo chánh, bộ trưởng
ngoại giao Rusk còn luẩn quẩn tóm tắt tình hình như thế này :"Nếu ta ủng
hộ Diệm, ta sẽ làm hỏng cố gắng chiến tranh bởi vì ta chống lại các tướng
lãnh đang chiến đấu chống Việt Cộng. Nếu ta ủng hộ các tướng lãnh đảo
chánh thì ta phải bảo đảm rằng họ thành công trong việc lật đổ Diệm" (45).
Nhưng khả năng thành công là bao nhiêu ? Nghe báo cáo từ mọi phía, Kennedy
phán : như vậy thì lực lượng hai bên ngang ngửa nhau. "Trong tình trạng
như vậy, làm đảo chánh là ngu xuẩn. Nếu Lodge đồng ý với nhận định đó,
phải ra chỉ thị bảo Lodge chận đảo chánh" (46). Ông nói thêm : "những
người làm đảo chánh phải chứng minh được rằng họ có thể lật đổ Diệm chứ
không phải tạo ra một tình thế bất phân thắng bại" (47).
Khốn thay, trong một chế độ mà mọi người nghi mọi
người, không ai làm đảo chánh mà tự hô hoán lên lạy ông tôi ở bụi này.
Cũng không ai làm đảo chánh ở Sài Gòn mà không muốn được Mỹ hứa chắc là sẽ
không chống. Nghĩa là cái vòng luẩn quẩn : Mỹ bảo phải có khả năng thành
công thì mới ủng hộ ; những người định đảo chánh thì cần Mỹ ủng hộ mới
thành công. Mỹ hỏi tướng Đôn : ông định làm đảo chánh đấy à, ông làm với
ai, chương trình vạch ra thế nào, đưa tôi xem thử có thành công không. Cho
kẹo tướng Đôn cũng chẳng dám vạch bụng cho người xem lỗ rốn. Hoặc là ông
nói thế này với Harkins, nói thế kia với CIA. Mỹ dơi chuột với ông thì ông
cũng dơi chuột với Mỹ. Rốt cục : 50 phần trăm từ miệng Bạch Ốc.
Một ngày trước đảo chánh, Bundy ở Bạch Ốc còn chỉ thị
cho Lodge thế này : "Ta không thể chấp nhận như một căn bản của chính sách
Hoa Kỳ rằng ta không có quyền lực để làm trì hoãn hoặc ngăn chận một đảo
chánh ... [Bởi vậy] ông phải hành động để thuyết phục những người đảo
chánh hãy chấm dứt hoặc hoãn lại mọi chiến dịch mà ông nhận xét tường tận
là rõ ràng không có triễn vọng thành công cao ... Các cơ quan của Hoa Kỳ
sẽ từ khước mọi lời kêu gọi can thiệp trực tiếp từ phe này hay phe kia ...
Hoa Kỳ không có lợi gì làm khí cụ cho chính phủ hiện tại hoặc cho đảo
chánh ... " Như vậy là cánh Harkins thỏa mãn. 50 phần trăm đấy, nhưng có
phần nghiêng về nửa vơi, không phải thiên vị nửa đầy. Nhưng Bundy chỉ thị
thêm : "Nhưng khi một cú đảo chánh có chỉ đạo tốt đã bắt đầu, và trong
những hạn chế vừa nói, Hoa Kỳ có lợi ích thấy nó thành công" (48).
Cùng một chỉ thị, nhưng Harkins diễn dịch khác Lodge.
Ông nhấn mạnh ở điểm ngăn chận. Cho nên ông đã ngăn chận tướng Đôn. Ông
Đôn chẳng hiểu Mỹ muốn gì, bởi vì tín hiệu của Conein, sếp CIA, khác hẳn
với cảnh cáo của Harkins, khác hẳn với thái độ của Lodge. Về đảo chánh,
Lodge nói rõ với Bộ Ngoại giao : "Ta phải nhớ rằng đó là cách duy nhất để
dân chúng Việt Nam có thể thay đổi chế độ" (49). Ông nói thêm : vả chăng,
tình trạng đưa đến đảo chánh đang diễn tiến như hòn đá đang lăn (50), chận
cũng không được. Nhưng chỉ thị không cho phép Lodge chính thức bật đèn
xanh. Chỉ dặn : phải thuyết phục và làm áp lực trên Diệm.
Aùp lực là thế nào ? Cắt viện trợ ? Viện trợ gì ? Cắt
viện trợ gì mà không gây ảnh hưởng trên cố gắng chiến tranh ? Buộc ông
Diệm phải gánh trên vai của chính ông gánh nặng của ngân khoản dành cho Ấp
Chiến Lược ? Cắt viện trợ nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng ? Chừng nào thì vừa
đủ để gây áp lực ? Vừa đủ để đừng có hại cho chiến tranh ? Vừa đủ để chứng
tỏ với những Fullbright, những Mansfield, với Liên Hợp Quốc, với dư luận
Mỹ đang chấn động vì ngọn lửa Quảng Đức, vì lựu đạn cay, vì dùi cui đốp
đốp trên đầu sinh viên, rằng chính quyền Kennedy không dung túng độc tài ?
Cúp viện trợ trên cơ sở gì ? Chỉ thị của Kennedy đáng được trí thức chiêm
nghiệm : "Tổng thống muốn rằng cơ sở để xây dựng chính sách của ta là chỉ
trích hành động chính trị của Diệm có hại cho cố gắng thắng Việt Cộng chứ
không phải chỉ trích Diệm vì ta chống chế độ của ông ấy trên mặt đạo đức"
(51).
Trên cơ sở đó, các tướng đảo chánh củng cố tính chính
đáng của họ trước mắt các giới chức Mỹ dù là - hoặc nhất là - quân sự :
không thể thắng chiến tranh được với chế độ này. Lý lẽ của họ vừa có tính
chính đáng vừa có tính thuyết phục, vì họ là quân nhân, không phải chính
trị gia. Họ chỉ chờ chiêu dụ cho được ông tổng trấn Đính hám danh đang nắm
thực quyền trên Sài Gòn. Đính ngã rồi, thời cơ về tay phe đảo chánh. Đánh
giá đúng thời cơ, Lodge thuyết phục được Hoa Thịnh Đốn cắt viện trợ cho
Lực Lượng Đặc Biệt đã đánh chùa - lực lượng của Lê Quang Tung - lấy lý do
rằng lực lượng đó chỉ biết đánh sư sãi và sinh viên chứ chưa đánh Việt
Cộng ngày nào. Biện pháp đó hoàn toàn trung thành với chỉ thị của Kennedy,
nhưng tác dụng trên quần chúng miền Nam quả là to lớn : trong đêm tối của
khủng bố, họ tưởng đã thấy tín hiệu đèn xanh của Mỹ.
Đảo chánh nổ ra chiều 1-11. Hầu hết tướng tá và binh
chủng đều tham gia đảo chánh. Nhanh chóng, cả Sài Gòn ngã vào tay phe nổi
dậy. Nhanh chóng, Dinh ông Diệm bị bao vây. Harkins tường trình : "Cho đến
phút cuối, ông Diệm vẫn cứng đầu ; khi Đính, với tư cách chỉ huy chiến
thuật, gọi điện thoại cho ông Diệm lúc 00600 giờ, ông Diệm ra lệnh cho phe
đảo chánh phải đầu hàng tức khắc" (52). Ông Diệm đã ra những lệnh như vậy
suốt chín năm cầm quyền.
Ngày 1-11-1963 là một
ngày hồ hởi của dân chúng, một ngày giải phóng (53). Đối với lịch sử, lịch
sử Việt Nam và lịch sử thế giới, 1963 là năm bùng lên ngọn lửa, một sự
kiện phi thường làm chấn động lương tri. Đối với Phật giáo, 1963 là trái
tim, trái tim còn nguyên, không cháy, khi nhục thân Quảng Đức thành tro.
Trái tim đó không nói hận thù. Không nói winning the war. Nên nhắc
lại điều đó để hiểu 1964, 1965 và về sau, để hiểu sự chống đối của các lực
lượng chiến tranh đối với một phong trào không nói : winning the war.
Chú
thích :
(1)
Leszek Kolakowski, Totalitarism and the Lie, Commentary, tháng 5
1983, in lại trong Irving Howe (ed) 1984 Revisited Totalitarism in our
Century, Harper & Row, New York, 1983.
(2) Ghi
chú (memorandum) của Mecklin, cố vấn Đại sứ quán gởi Manell, cố vấn Vụ
Viễn Đông, Bộ Ngoại giao, 15-3-1963, Hồ Sơ Bộ Ngoại giao, Tập III.
(3)
Công điện của Bộ Ngoại Giao (BNG) gởi Đại sứ quán (Nolting) 25-2-1963, Tập
III.
(4) Xem
chú thích (2).
(5)
Nolting gởi BNG 5-4-1963, Tập III.
(6) Ví
dụ : Ghi chú của phái đoàn Taylor-McNamara gởi Kennedy 2-10-1963, mụcVIII,
điểm B, chú thích 4 ; ghi chú của Sullivan, Vụ trưởng phụ trách Vụ chính
trị BNG gởi Hilsman, thứ trưởng ngoại giao phụ trách Vụ Viễn Đông
3-10-1963 ; hai công điện của Cabot Lodge gởi BNG 28-10-1963, 6 giờ chiều
và 9 giờ chiều, Tập IV.
(7) Ghi
chú của Forrestal, Hội đồng An ninh Quốc gia, gởi Harriman, thứ trưởng
ngoại giao, phụ trách Vu Viễn Đông, 8-3-1963, Tập III.
(8)
Nolting gởi BNG 7-9-1963, Tập III.
(9) Ghi
chú gởi Nolting và Harkins 3-5-1963, Tập III.
(10)
Công điện Nolting gởi BNG 7-4-1963, Tập III.
(11)
Phúc trình CIA Washington 22-4-1963, Tập III.
(12)
BNG gởi Nolting 29-3-1963, Tập III.
(13)
Ghi chú của Forrestal gởi Harriman 8-2-1963, Tập III.
(14)
Ghi chú của Bowles gởi Kennedy 7-3-1963, Tập III.
(15)
Ghi chú của CIA Washington 3-6-1963, Tập III.
(16)
BNG gởi Trueheart (tạm giữ trách nhiệm ĐSQ thay Nolting về nghỉ phép từ
24-5 đến 11-7) 11-6-1963, Tập III.
(17)
Phúc trình của tướng Krulak 10-9-1963 ; ghi chú của Mecklin 10-9-1963, Tập
IV.
(18)
Ghi chú của Forrestal gởi Kennedy 10-5-1963, Tập III.
(19)
Ghi chú buổi nói chuyện, Washington, 10 giờ 30 sáng, Tập IV. Kể từ đây là
Tập IV.
(20)
Công điện CIA Sài Gòn 2-9-1963.
(21) và
(22) Công điện CIA Sài Gòn 17-9-1963.
(23) và
(24) Phúc trình của McNamara từ Sài Gòn 26-9-1963.
(25)
Ghi chú soạn thảo cho Giám đốc CIA McCone, Washington, 26-9-1963.
(26) Ví
dụ: Lodge gởi BNG 10-10-1963.
(27)
Ghi chú của Mansfield gởi Kennedy 19-8-1963.
(28)
Ghi chú buổi nói chuyện, Washington, 11-9-1963, 6 giờ chiều.
(29)
BNG gởi Lodge (đại sứ mới, thay Nolting) 12-9-1963.
(30)
BNG gởi Lodge 18-9-1963 ; BNG gởi Phái đoàn Mỹ tại LHQ 1-10-1963.
(31)
Lodge gởi BNG 24-8-1963.
(32)
Harriman, Hilsman, Sullivan ở BộNgoại giao, Forrestal ở HĐANQG Tòa Bạch
Ốc, Bundy là Phụ tá đặc biệt của Tổng thống.
(33)
Ghi chú của Forrestal gởi Bundy 16-9-1963.
(34)
Xem chứng từ của tướng Đôn trong công điện CIA Sài Gòn 24-8-1963, Tập III.
(35)
Ghi chú buổi nói chuyện 29-9-1963.
(36)
Bài báo của Halberstam trong New York Times 16-9-1963 đến tay Kennedy.
Kennedy hỏi: đúng hay sai?
(37)
Lodge gởi BNG 19-9-1963.
(38)
Phúc trình McNamara, Sài Gòn, không đề ngày, tiếp theo sau công điện của
Lodge 27-9-1963.
(39)
Lodge gởi BNG 30-9-1963.
(40)
BNG gởi Lodge 24-9-1963.
(41)
Hilsman gởi Lodge 23-9-1963.
(42)
Harkins gởi Taylor 30-10-1963.
(43)
Xem công điện 17-9.
(44)
Ghi chú Taylor-McNamara gởi Tổng thống, Washington 2-10-1963.
(45)
Ghi chú buổi họp với Kennedy 29-10-1963 lúc 4 giờ20 chiều.
(46)
như trên
(47)
Ghi chú buổi họp với Kennedy 29-10-1963 lúc 6 giờ chiều.
(48)
Bundy gởi Lodge 30-10-1963.
(49)
Lodge gởi Bundy 25-10-1963.
(50)
Ghi chú buổi họp với Kennedy 29-10-1963 lúc 6 giờ chiều.
(51)
Tóm tắt ghi âm buổi họp thứ 519 của HĐANQG 2-10-1963.
(52)
Harkins gởi Taylor 2-11-1963 lúc 10 giờ 42 sáng.
(53) Theo công điện số 2324 đánh đi từ Paris ngày 13-11-1963 thì Tổng Đại
Diện Pháp tại Hà Nội De Buzon vừa gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng ; Thủ tướng
nói : "đảo chánh ở Sài Gòn, dù là do Hoa Kỳ gợi ý, vẫn là một bước tiến
trên hướng tốt". Xem Ghi chú của Forrestal gởi Bundy : Chuyện trò với đại
sứ Alphand 14-11-1963.