- Diễn tiến đầu đời
Trúc Lâm Đại sĩ là vua thứ tư nhà Trần, con
của Thánh Tông, lên ngôi ngày 12 tháng 2 năm Mậu dần (1278).
Trước khi Đại sĩ ra đời, Nguyên Thánh Hoàng Thái
hậu nằm mộng thấy thần nhân đưa cho hai lưỡi kiếm bảo : "Có
lệnh của Thượng giới, cho phép ngươi được chọn lấy". Bỗng
nhiên được kiếm, Thái hậu bất giác rất vui, nhân đó có thai.
Những tháng dưỡng thai, nhà bếp dâng thức gì Thái hậu cứ dùng
như thường, chẳng cần kiêng cử mà thai cũng chẳng sao.
Đến khi Đại sĩ sinh ra (1258), màu da như vàng ròng,
Thánh Tông đặt tên là Kim Phật. Vai bên phải của Đại sĩ có nốt
ruồi đen lớn như hạt đậu, có người biết xem tướng nói :
"Đứa bé này ngày sau có thể gánh vác nỗi việc lớn".
Năm 16 tuổi (1274) được lập làm Hoàng Thái tử,
mặc dù Đại sĩ từ chối đến ba phen, xin để em mình thay thế mà
đều không được chấp nhận. Cũng trong năm này, Đại sĩ kết duyên
với Khâm Từ Thái hậu (Trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc mẫu).
Tình cầm sắt đôi bên tuy hợp mà niềm ân ái thì lạnh nhạt nhà
vàng.
Vào giờ Tý một đêm kia, Đại sĩ vượt thành ra đi,
định vào thẳng núi Yên Tử, nhưng khi đến chùa Tháp núi Đông
Cứu thì trời vừa sáng, lại quá mệt, nên phải nghỉ tạm tại
chùa ấy. Vị sư Trụ trì thấy Đại sĩ tướng mạo khác thường,
liền đem thức ăn lên dâng. Ngay hôm ấy, Thái hậu thuật lại với
Thánh Tông việc Đại sĩ vượt thành xuất gia. Thánh Tông liền sai
quần thần tỏa đi tìm kiếm khắp nơi, bất đắc dĩ, Đại sĩ phải
trở về.
Sau khi lên ngôi (ngày 22 tháng 10 năm 1278) tuy ở chốn
cửu trùng cực kỳ phú quý mà vua vẫn sống một cuộc đời thanh
tịnh. Một hôm ngủ trưa tại chùa Tư Phúc trong đại nội, vua mộng
thấy trên rún nở ra một hoa sen vàng lớn như bánh xe, trên hoa có
một đức Phật vàng. Bên cạnh có người chỉ vua hỏi : "Biết
đức Phật này không ? Đó là đức Biến Chiếu Tôn đấy".
Giật mình thức dậy, vua đem giấc mộng thuật lại cho Thánh Tông nghe.
Thánh Tông càng lấy làm lạ. Từ đó, vua thường dùng chay lạt,
kiêng ăn thức mặn nên long nhan gầy mòn. Thánh Tông thấy thế ngạc
nhiên hỏi thì vua cứ tình thực bày tỏ. Thánh Tông khóc, nói :
"Ta nay đã già, trông cậy vào con, nếu con như vậy thì làm sao
nối được thịnh nghiệp của Tổ tông ?". Vua cũng rơi nước mắt.
Điều Ngự Thánh tánh sáng suốt, đa tài, hiếu học,
đọc khắp kinh sách, thông hiểu cả nội lẫn ngoại điển. Lúc rảnh
việc, Điều Ngự thường mời các Thiền khách đến giảng cứu tâm
tông, lại thâm vấn Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhờ vậy mà đạt được
cốt tủy của Thiền. Cũng vì thế, Điều Ngự tôn thờ Tuệ Trung
Thượng Sĩ làm Thầy.
Sau khi nhường ngôi cho Anh Tông (ngày 9 tháng 3 năm
1298) chừng hơn một năm, Điều Ngự quyết định xuất gia. Tháng 10
năm Kỷ hợi, niên hiệu Hưng Long thứ 7 (1299), Điều Ngự vào thẳng
núi Yên Tử tinh cần tu 12 hạnh đầu đà, và tự xưng hiệu Hương
Vân Đại Đầu Đà.
Để xiển dương Thiền học, Điều Ngự lập ra tịnh xá
Chi Đề giảng pháp độ Tăng. Những người hâm mộ tu học quy tụ
về đây rất đông. Sau đó, Điều Ngự mời các bậc danh Tăng về
chùa Phổ Minh phủ Thiên Trường, mở ra khóa giảng. Trải qua mấy
năm, Điều Ngự vân du đây đó, rồi đến trại Bố Chính, lập ra am
Tri Kiến.
Năm Giáp Thìn, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (1304), Điều
Ngự đi khắp chôn quê, khuyên dân chúng phá bỏ các dâm từ
(những nơi thờ tự các tượng thần lõa thể và sinh lực khí),
và thực hành giáo lý Thập thiện. Cũng trong chuyến đi này, khi
đến thôn Nam Sách, Điều Ngự gặp một người trai trẻ tên là
Đồng Kiên Cương đến xin xuất gia. Trông thấy tướng mạo người
ấy khác thường, Điều Ngự thầm nhủ : "Người thanh niên này
có đạo nhân, sau này chắc sẽ trở thành pháp khí". Vui vì sự
gặp gỡ bất ngờ, nên Điều Ngự đặt tên là Thiện Lai, về sau
đổi đạo hiệu là Pháp Loa, làm Tổ thứ hai của Thiền phái Trúc
Lâm.
Mùa Đông năm nầy, vua Anh Tông dâng biểu cung thỉnh
Điều Ngự vào đại nội truyền giới tại gia Bồ-tát. Ngày vào
thỉnh, vương công bá quan chuẩn bị xa giá đón rước Điều Ngự rất
long trọng, rồi cùng vua thụ giới.
Sau đó, Điều Ngự trác tích tại chùa Sùng Nghiêm,
núi Chí Linh, xiển dương Thiền chỉ.
- Tư tưởng Thiền học
Trước một buổi lễ khai đường, Điều Ngự niệm
hương bạch Phật; lễ Phật xong, bước lên pháp tòa, bạch chùy,
nói; "Đức Điều Ngự Thích-ca-văn Phật vì một đại sự nhân
duyên mà xuất hiện trong đời, 49 năm chưa từng nói một lời. Ta
nay vì các ông lên ngồi tòa này, sẽ nói những gì đây ?".
Rồi ngồi sang giường Thiền một bên, đánh một tiếng chùy nói :
"Thân như hơi thở luồng qua mũi,
Kiếp tợ mây lồng đỉnh núi xa.
Chim quyên kêu rã bao ngày tháng,
Đâu phải ngày xuân để luống qua".
Lại đánh một tiếng chùy nữa tiếp : "Chẳng có
ai cả sao ? Hãy ra đây ! Hãy ra đây !"
Một vị Tăng bước ra đảnh lễ, nói : "Thế nào
là Phật ?".
Điều Ngự đáp : Chấp y lối cũ là sai lạc.
Lại hỏi : Thế nào là Pháp ?
Đáp : Chấp y lối cũ là sai lạc.
Hỏi : Rốt cuộc là thế nào ?
Đáp : Tám chữ tháo tung giao phó hết,
Còn chi đâu nữa nói cùng ông ?
Hỏi : Thế nào là việc hướng thượng ?
Đáp : Gánh nhật nguyệt trên đầu gậy.
Hỏi : Dùng công án cũ mà làm gì ?
Đáp : Mỗi lần dùng đến lại thành mới tinh.
Một vị Tăng khác hỏi : "Đại đức cần khổ tu
hành trải nhiều năm tháng, thế thì đối với lục thông của Phật,
nay được mấy thông rồi ?"
Đáp : Cũng được lục thông.
Hỏi : Ngũ thông tạm gác lại, còn tha tâm thông như
thế nào ?
Đáp : Quốc độ của ngươi có mấy thứ tâm,
Như Lai thấy hết, Như Lai biết hết.
Vị Tăng đưa nắm tay lên hỏi : Nếu đã thấy hết,
biết hết, thì có biết được trong đây có vật gì không ?
Đáp : Dường như có, dường như không,
Chẳng phải không, chẳng phải sắc.
Hỏi : Gia phong của Phật quá khứ thế nào ?
Đáp : Hoa viên vắng bóng người chăm sóc
Lý trắng đào hồng tự nở hoa.
Hỏi : Gia phong của Phật hiện tại thế nào ?
Đáp : Én sớm lạc trên hồ nước bạc,
Gió xuân say giữa khóm đào hồng.
Hỏi : Gia phong của Phật vị lai thế nào ?
Đáp : Bãi biển đợi triều, trời hé nguyệt,
Thôn chài nghe sáo khách trông nhà.
Hỏi : Còn gia phong của Hòa thượng thì sao ?
Đáp : Áo rách đùm mây đun cháo sớm,
Bình xưa rót nguyệt nấu trà khuya.
Hỏi : Những bậc đại tu hành còn rơi vào vòng nhân
quả nữa không ?
Đáp : Miệng tợ huyết hồng phun Phật, Tổ,
Răng như gươm bén đốn Thiền lâm.
Mai kia thác xuống A-tỳ ngục
Vội niệm Nam-mô Quan Thế Âm.
Một vị Tăng khác hỏi : Đàm huyền, thuyết diệu, bàn
cổ, luận kim, đều là lời nói suông, thế thì một câu nói không
mắc kẹt làm sao nói được ?
Đáp : Gió Đông hây hẩy nghìn hoa nở,
Lách cách xe đưa tiếng rộn ràng.
Vị Tăng toan mở miệng, Điều Ngự lại tiếp :
Chim hót máu rơi vô dụng cả,
Non chiều mây phủ vẫn như xưa.
Hỏi : Nghìn dặm mây tan thì sao ?
Đáp : Mưa lâm râm.
Hỏi : Nghìn dặm mây phủ thì sao ?
Đáp : Trăng vằng vặc.
Hỏi : Rốt cuộc như thế nào ?
Đáp : Chớ bám vào đó, bám vào đó sẽ ăn ba
mươi gậy.
Một vị Tăng khác hỏi : Thế nào là ba mươi hai
tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp?
Đáp : Nếu lấy sắc thấy ta,
Lấy âm thanh cầu ta.
Người ấy làm việc tà,
Không thể thấy Như Lai.
Hỏi : Tổ sư từ Ấn Độ sang với dụng ý gì ?
Đáp : Cùng một hầm đất không khác.
Hỏi : Thuở xưa có vị Tăng hỏi Triệu Châu :
"Con chó có Phật tánh không ?
Triệu Châu đáp : Không",
Ý chỉ ấy thế nào ?
Đáp : Trong nước hòa muối mặn,
Nơi mày rặt sơn xanh.
Hỏi : Câu có câu không như dây leo cây là gì ?
Đáp :
Câu có câu không,
Từ xưa tới nay,
Quên nguyệt nhìn tay,
Đất bằng chết đuối.
Câu có câu không,
Rầu rầu rĩ rĩ,
Cắt đứt sắn bìm,
Đó đây hoan hỷ.
Giảng xong, Điều Ngự xuống tòa. Những lời trên
đây chép đầy đủ trong Ngữ Lục.
Tư tưởng Thiền học của Trúc Lâm còn được trình
bày ở nhiều chỗ khác. Trong bài Cư trần lạc đạo phú ông viết :
"Vô minh hết Bồ-đề thêm sáng,
Phiền não rồi, đạo đức càng say".
Qua đó, ông đã khẳng định trạng thái thức tỉnh
của mình. Do thức tỉnh mà cõi lòng trở nên sáng tỏ. Khi đã sáng
tỏ thì dễ dàng loại bỏ tất cả mọi cố chấp lệch lạc và những
vọng tưởng điên đảo của quá khứ, giống như một nhát gươm
bén, vung ra liền cắt đứt cuộn tơ rối trong chớp nhoáng :
"Buông lửa giác ngộ đốt hoại thảy rừng tà
ngày trước,
Cầm kiếm trí tuệ quét cho xong tánh thức thuở
nay".
Ở ngôi vị một bậc Đế vương phú quý tột cùng,
từng trải cả cuộc đời vì dân vì nước, ngọt bùi cay đắng nếm
đủ, vì vậy ông có đủ dữ kiện và thẩm quyền để xác định
cái giá trị chân thật của cuộc đời là gì :
"Chuộng công danh, lòng nhân ngã, thực ấy phàm
phu,
Say đạo đức, đời thân tâm, định nên Thánh
trí".
Lối hành Thiền của ông hết sức sinh động, không
câu nệ vào hình thức, có thể thực hiện trong bất cứ tình huống
nào, dù đó là lúc ngắm hoa, hay khi tiếp khách :
"Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế,
Cùng tựa lan can ngắm núi mây".
Nếu xem những việc thị phi như cánh hoa rụng ban mai, và
xem lợi danh như đêm đông sương lạnh, thì còn có gì trói buộc
được mình :
"Phải trái rụng theo hoa buổi sớm,
Lợi danh lạnh với trận mưa đêm".
Danh lợi chẳng tham cầu, thị phi không cần biết, tất
nhiên tâm hồn sẽ tự tại an vui, đó là chân giải thoát rồi, còn
phải tìm giải thoát làm gì. Thế nên, dù sống ngay trong lòng cuộc
đời, hòa nhập với cộng đồng xã hội, bằng một đời sống dung
dị, bình thường mà vẫn mang tính chất phi thường, với tư cách của
một bậc thần tiên siêu thoát :
"Ai trói buộc mà tìm giải thoát,
Chẳng phàm tình chi đoái thần tiên".
- Những ngày cuối cùng
Ngày mồng một tháng giêng năm Mậu thân (1308),
Điều Ngự sai Pháp Loa giữ chức Trụ trì chùa Báo Ân tại Siêu
Loại. Tháng tư, Điều Ngự đến kiết hạ tại chùa Vĩnh Nghiêm ở
Lạng Giang, giảng Truyền Đăng Lục cho các đệ tử, bảo Đạo Nhất
giảng kinh Pháp Hoa cho đại chúng. Sau khi giải hạ, Điều Ngự vào
thẳng núi Yên Tử cho phép các tịnh nhân và những kẻ theo hầu
trở về, chỉ giữ lại 10 đệ tử thân cận. Điều Ngự lên ở am
Tử Tiêu, giảng Truyền Đăng Lục cho Pháp Loa, thị giả dần dần
xuống núi gần hết, chỉ còn một đệ tử thượng túc là Bảo Sát
ở lại bên mình. Từ đó Điều Ngự đi lại khắp núi non. Bảo Sát
bạch : "Tôn đức xuân thu đã cao mà xông pha sương tuyết như
vậy, thì mạng mạch Phật pháp rồi sẽ ra sao ?". Điều Ngự dạy :
"Thời tiết đã đến, ta tính đi luôn rồi đó".
Ngày mồng năm tháng mười, gia đồng của Thiên Thụy
công chúa lên núi thưa : "Thiên Thụy bệnh nặng, mong gặp Tôn
đức rồi mất". Điều Ngự bùi ngùi bảo : "Thời tiết đó
thôi !", liền cầm gậy xuống núi, chỉ có một thị giả đi theo.
Mồng mười đến kinh thành, dặn dò xong các việc, ngày 15, Điều
Ngự lại trở về núi. Trên đường về, Điều Ngự nghỉ đêm tại
chùa Siêu Loại, sáng sớm hôm sau lại tiếp tục lên đường. Đến
một ngôi chùa làng tại Cổ Châu, Điều Ngự viết trên vách chùa
ấy bài kệ :
"Số đời thật ảm đạm,
Tình người đôi mắt trong.
Cung ma lộn xộn lắm,
Cõi Phật xuân khôn cùng".
Ngày 17, Điều Ngự đang ở chùa Sùng Nghiêm núi Linh
Sơn thì Tuyên Từ Hoàng Thái hậu mời về am Bình Dương cúng dường
trai tăng. Điều Ngự vui vẻ nói : "Đây là lần cúng dường
cuối cùng".
Ngày 18, Điều Ngự lại đi bộ đến chùa Tú Lâm núi
Kỳ Đặc ở Yên Sinh, cảm thấy đau đầu, bèn nói với hai Tỳ-kheo
Tử Doanh và Hoàn Trung : "Ta muốn lên Ngọa Vân mà sức chân
không thể đi được nữa, biết làm sao đây ?". Hai Tỳ-kheo thưa :
"Hai chúng con có thể giúp Thầy tới đó". Khi lên tới Ngọa
Vân, Điều Ngự cảm ơn hai Tỳ-kheo và dạy : "Xuống núi gắng lo
tu hành, đừng xem sinh tử là việc nhàn hạ".
Ngày 19, Điều Ngự sai thị giả Pháp Không lên am Tử
Tiêu gọi Bảo Sát về gấp. Ngày 20, Bảo Sát vội vàng xuống núi,
khi tới Doanh Tuyền thấy một đám mây đen từ Ngọa Vân kéo đến
Lôi Sơn. Nước suối Doanh Tuyền dâng cao đến mấy trượng, giây lát
mực nước trở lại bình thường. Bảo Sát thấy hai đầu rồng lớn
như đầu ngựa, ngẩng cao hơn một trượng, hai mắt như sao, trong phút
chốc lại biến mất. Đêm ấy Bảo Sát ngủ trọ trong sơn điếm, thấy
một điềm mộng bất tường.
Ngày 21, Bảo Sát đến Ngọa Vân, Điều Ngự thấy ông
về hoan hỷ bảo : "Ta sắp đi rồi, sao ông về muộn vậy ? Trong
Phật pháp có điều gì chưa rõ nên hỏi gấp đi". Bảo Sát thưa :
"Khi Mã đại sư bất an, viện chủ hỏi : "Gần đây Tôn đức
thế nào?", Mã Tổ đáp : "Ngày chầu Phật, tháng chầu
Phật", ý chỉ ấy thế nào ?".
Điều Ngự lớn tiếng nói : "Tam Hoàng Ngũ Đế
là cái gì ?"
Bảo Sát lại hỏi :
"Hoa sum sê chừ, gấm sum sê,
Tre đất Nam chừ, cây đất Bắc".
là muốn nói gì ?
Điều Ngự nói : "Mắt ông mù rồi".
Bảo Sát thôi không hỏi nữa.
Từ hôm đó trở đi, bốn ngày liền trời đất u
ám, gió trốt thổi mạnh, mưa tuyết phủ đầy cây cỏ, vượn khỉ
vây am gào khóc, chim rừng kêu thương bi thảm. Đến nửa đêm 1
tháng 11, sao trời tỏ rạng, Điều Ngự hỏi : "Bây giờ là giờ
gì ?". Bảo Sát đáp : "Giờ Tý". Điều Ngự đưa tay mở
cửa sổ, trông ra bầu trời, nói : "Đây là lúc ta đi". Bảo
Sát hỏi : "Tôn đức đi đâu ?".
Điều Ngự đáp :
"Tất cả pháp không sinh,
Tất cả pháp không diệt,
Nếu hiểu được như vậy,
Chư Phật thường hiện tiền,
Có gì đâu đi lại".
Hỏi :
"Nếu như không sinh không diệt thì sao ?"
Điều Ngự đưa tay bụm miệng Bảo Sát, nói :
"Chớ nói mê". Nói xong, liền nằm theo thế sư tử, an nhiên
viên tịch. Đến đêm thứ hai, Bảo Sát phụng di chúc, dùng am ấy
hỏa thiêu Điều Ngự. Trong lúc hỏa thiêu, hương lạ bay xa, nhạc
trời vang lừng, mây năm sắc phủ lên giàn hỏa.
Bốn hôm sau, Tôn giả Phổ Huệ (Pháp Loa) từ Yên Tử
vội vả trở về, dùng nước thơm rưới lên hỏa đàn. Khi lễ xong,
Phổ Huệ thu lượm ngọc cốt, được Xá-lợi năm màu, cỡ lớn
hơn 500 viên, cỡ nhỏ như hạt cải, hạt mè, nhiều vô số.
Được tin Điều Ngự viên tịch, Anh Tông, Quốc phụ
Thượng tể cùng triều đình đi thuyền đến chân núi Ngọa Vân,
đảnh lễ, than khóc rồi nghinh đón ngọc cốt và Xá-lợi xuống
thuyền, rước về kinh thành. Hôm ấy, triều đình và thôn dã,
người người đều thương tiếc, khóc than vang động đất trời.
Khi xong tang lễ, Anh Tông dâng tôn hiệu là "Đại
Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tịnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự
Tổ Phật". Rồi đem ngọc cốt tôn trí tại lăng Quy Đức, phủ
Hưng Long, chia Xá-lợi làm hai phần, đựng vào bình thất bảo. Một
phần đặt vào bảo tháp tại làng Quy Đức, một phần tôn trí tại
Huệ Quang kim tháp chùa Vân Yên, núi Yên Tử. Vua lại đúc hai
tượng Điều Ngự bằng vàng, một thờ ở chùa Báo Ân tại Siêu
Loại, và một thờ ở chùa Vân Yên núi Yên Tử.
- Tác phẩm của Điều Ngự gồm có :
- Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục.
- Hậu Lục.
- Đại Hương Hải Ấn Thi Tập.
- Tăng-già Toái Sự.
- Thạch Thất Mị Ngữ.
Bốn tác phẩm đầu được ấn hành rộng rãi, còn tác phẩm thứ
năm thì Anh Tông cho chép vào Đại Tạng.
Những tác phẩm trên đây mất mát gần hết, ngày nay
chúng ta chỉ còn tìm lại được 28 bài thơ chữ Hán, và một bài
ký về cuộc đời của Tuệ Trung Thượng Sĩ, và hai bài văn Nôm là
Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú Lâm Tuyền thành đạo ca.
- Các đệ tử nối dòng pháp của Điều Ngự :
Pháp Loa, Pháp Không, Pháp Cổ, Pháp Đăng, Bảo Sát,
Tông Cảnh và Huệ Nghiêm. Đó là những danh Tăng có tiếng tăm
đương thời. Ngoài ra những người được Điều Ngự dẫn dắt, âm
thầm khế hợp với tôn chỉ thì không kể đến.
Trúc Lâm ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc
biệt, vua cùng Thượng hoàng Thánh Tông đã cố kết được lòng
dân, lãnh đạo tài tình hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm
lược đạt đến thắng lợi vô cùng oanh liệt, viết nên trang sử
huy hoàng cho dân tộc ta. Vua vốn do anh hoa của sông núi kết tinh, lại
kế thừa truyền thống yêu nước và một nền văn hóa nhân bản
Việt Nam. Đại sĩ đã thâu hóa được căn bản đạo đức của Nho
giáo, vốn có tác dụng thiết lập một xã hội ổn định, lại thâm
nhập được tinh thần vô ngã vị tha, quên mình phụng sự chúng sinh
của Phật giáo. Vì vậy Đại sĩ đã thực hiện hoàn hảo cả hai sứ
mệnh; phụng sự cuộc đời và xiển dương Chánh pháp. Đại sĩ
không những là một vị vua anh minh, nhân hậu, mà còn là một Thiền
sư năng động, có tinh thần sáng tạo độc đáo. Tuy vậy, có một
số nhà Nho viết sử, vì mang sẵn định kiến trọng Nho khinh Phật, đã
đánh giá chưa đúng, thậm chí có đôi chỗ còn nhận định lệch
lạc. Thế nhưng, Tổ quốc và nhân dân Việt Nam sẽ rất công minh, cho
nên sự nghiệp và nhân cách của Đại sĩ vẫn là một bài học
ngàn vàng, mà bất cứ người Việt Nam nào có lương tri mỗi khi
nhắc đến cũng đều phải nghiêng mình cảm phục và thành kính
ngưỡng mộ.