QUỐC SƯ
PHƯỚC HUỆ
Đào Nguyên
Chùa Thập
Tháp là một trong số các ngôi tổ đình nổi tiếng của
đất Bình Định Nếu như ở thời kỳ khởi đầu, ngôi
tổ đình ấy được chú ý nhiều vì vị khai sơn là Thiền
sư Nguyên Thiều - người có công lớn trong sứ mạng
truyền bá Phật giáo ở Đàng Trong thời Nam Bắc phân
tranh, hậu bán thế kỷ 17 ; thì vào thời hiện đại, tổ
đình Thập Tháp được cả nước biết đến vì sự có
mặt của Quốc sư Phước Huệ (1869-1945).
Sách Việt Nam Phật giáo
sử luận T3 của Giáo sư Nguyễn Lang đã đánh giá tổng
quát về Thiền sư Phước Huệ như sau : "Thiền
sư Phước Huệ trụ trì chùa Thập Tháp - Bình Định là một
vị Thiền sư nổi tiếng bác thông kinh luận. Chùa Thập Tháp
thời đó là một đạo tràng nổi tiếng và Tăng sinh
nhiều tỉnh đã tìm tới tham học".
(Sđd, NXB Lá Bối, Paris, 1885, tr. 119).
Thiền sư tên đời là Nguyễn Tấn Giao, quán
xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, xuất gia năm
13 tuổi tại chùa Thập Tháp, theo học với các Thiền sư
Châu Long chùa Tịnh Lâm (Phù Cát) và Thiền sư Luật Truyền
chùa Từ Quang (Phú Yên). Bước đường hoằng pháp của
Thiền sư bắt đầu từ năm 1894 khi nhận làm trụ trì chùa
Phổ Quang (Tuy Phước, Bình Định). Năm 1901, Thiền sư
được triều đình Huế - lúc này là vua Thành Thái - ban
giới đao độ điệp làm Tăng Cang chùa Thập Tháp.
Năm 1908, Thiền sư Phước Huệ được mời
ra kinh đô Huế làm chủ lễ cho một khóa giảng kinh tại
chùa Trúc Lâm, lại được thỉnh vào Hoàng Cung giảng pháp
cho vua, quan cùng hoàng gia. Các vua Thành Thái, Duy Tân, Khải
Định đều từng được nghe Thiền sư giảng kinh và danh
hiệu Quốc sư đã được tôn xưng trong hoàn cảnh này.
Năm 1920, trong ý hướng nhằm đào tạo Tăng
tài cho sứ mạng hoằng dương chánh pháp, Thiền sư Phước
Huệ đã đứng ra tổ chức các lớp Phật học tại chùa
Thập Tháp và chùa Long Khánh (Quy Nhơn). Và chính trong thời
gian này, hai vị danh Tăng của đất Huế là Thiền sư Mật
Khế (1904-1935) và Thiền sư Đôn Hậu (1904-1993) đã vào tận
chùa Thập Tháp để cầu học.
Từ năm 1930 - 1937, Quốc sư Phước Huệ thường
xuyên ra kinh đô Huế để giảng dạy Phật pháp cho các lớp
cao đẳng, trung đẳng ở các chùa Trúc Lâm, Tường Vân,
Tây Thiên. Trong số các Tăng sĩ từng theo học với Quốc
sư, đáng chú ý nhất là Thiền sư Mật Thể (1912-1961) tác
giả sách "Việt Nam Phật giáo sử lược" (NXB
Tân Việt, H, 1943), cuốn sử Phật giáo Việt Nam đầu tiên
bằng chữ Quốc ngữ được biên soạn tương đối có hệ
thống và công phu. Sách này được Quốc sư đề tựa,
bài tựa được viết bằng Hán văn và đây có lẽ là
những dòng viết duy nhất của vị cao tăng này. Xin giới
thiệu đoạn đầu :
"Giữa
mùa xuân năm Quý Mùi, Pháp sư Mật Thể vào Nam thăm,
lấy trong tay áo bản thảo cuốn Việt Nam Phật giáo sử
viết bằng Quốc văn đưa cho tôi mà nói: "Đây là
công trình sưu tầm biên khảo nhiều năm của con, xin Hòa
thượng đọc và chứng minh cho". Tôi tiếp nhận bản
thảo mà đọc. Mỗi khi đêm vắng dưới ngọn đèn khói
cao, cầm bản thảo nơi tay tôi tự nói một mình là Pháp
sư tuy đã theo học với tôi trong nhiều năm nhưng tôi
chưa biết được hết chí hướng và nguyện vọng của ông...
" (Nguyễn Lang dịch, Sđd, tr 186).
Từ năm 1938, với cương vị là Đốc giáo
của Phật học đường cấp Trung đẳng do Hội Phật học Bình
Định tổ chức tại chùa Long Khánh (Quy Nhơn), Quốc sư Phước
Huệ đã đóng góp nhiều cho công tác đào tạo Tăng tài.
Các Thiền sư Thiện Hòa (1907-1978), Thiện Hoa (1918-1973) cũng
từng theo học tại đây.
Nơi "Lời Nói Đầu"
của sách Phật học phổ thông khóa 9, Thiền sư Thiện
Hoa có nhắc lại kỷ niệm giữa Quốc sư Phước Huệ với
Thiền sư Khánh Hòa (1877-1947) qua đó giúp chúng ta thấy
được phần nào tính chất "bác thông kinh luận"
của Quốc sư. Đây là lời thuật lại của Thiền sư Khánh
Hòa : ".... Tôi đã ba năm nghiên
cứu bộ Thành Duy Thức Luận mà như người đi vào rừng
rậm không tìm được lối ra, Đến năm Đinh Mão, nhờ
Ban tổ chức trường hương chùa Long Khánh (Quy Nhơn) mời
tôi làm Pháp sư, tôi được may mắn gặp Hòa thượng
Thập Tháp. Tôi thuật lại sự khó khăn trong việc nghiên
cứu Thành Duy Thức Luận của mình. Hòa thượng Thập Tháp
nghe xong liền đem biếu tôi quyển 'Đại thừa bá pháp
minh môn luận chuế ngôn' và nói : 'Tôi xin biếu Ngài một
cái chìa khóa để mở kho Duy Thức. Người nghiên cứu
Duy Thức mà trước không đọc luận này thì cũng như người
gỡ nùi tơ rối mà không tìm được mối. Vậy Ngài nên
đọc quyển luận này cho kỹ rồi nghiên cứu Thành Duy Thức,
Ngài sẽ thấy dễ dàng...' "
(Sđd, bản in 1992, tr 5-6). Sư bà Thích Nữ Diệu Không, trong
bản dịch Lăng Già Tâm Ấn của mình, cũng nhắc lại kỷ
niệm từng theo học với Quốc sư Phước Huệ.
"Bộ Lăng Già Tâm Ấn, tôi học cách
đây hơn ba mươi năm với Hòa thượng Thập Tháp khai dạy
ở chùa Trúc Lâm tỉnh Thừa Thiên vào năm 1932. Lớp Đại
học ấy gồm có các vị Hòa thượng, Thượng tọa và cư
sĩ Tâm Minh. Được dự thính kinh này, tôi như người mê
sực tỉnh, nhờ vậy mà tôi bỏ được cái tập quán
phú quý ô trược, tiến thân vào con đường đạo..."
(Kinh Lăng Già Tâm Ấn, Diệu Không dịch, Hoa Sen xb, S, 1974,
tr 7).
Nói chung, đóng góp lớn lao của Quốc sư Phước Huệ
là ở lãnh vực giảng dạy, đào tạo lớp hậu học, đúng
như nhận xét của tác giả sách Việt Nam Phật giáo sử
luận T3 : "Khả năng giáo hóa của Thiền sư Phước
Huệ rất vĩ đại, vì vậy người đương thời đã tặng
cho ông mỹ hiệu "Phật pháp thiên lý câu"
nghĩa là 'Con ngựa ngàn dặm của Phật pháp' " (Sđd,
tr 20).
-- o0o --
Source : Danh Tăng
Việt Nam, Tập I, Thích Đồng Bổn chủ Biên Thành Hội Phật Giáo,
Thành Phố Hồ Chí Minh Xuất Bản 1997.
-- o0o --
| Mục lục tác giaû| |
Đánh máy : Chúc Hoa
- Quách Tường
Trình bày : Mỹ Hạnh
Cập nhật ngày: 01-12-2001