Hòa Thượng Thích
Thiện Thanh, thế danh Nguyễn Văn Sắc, nguyên quán làng
Phú-Nhuận-Nha-Mân, tỉnh Sa-Ðét miền Nam nước Việt, sinh Năm Ất Hợi (1935).
Song thân Ngài là Cụ Nguyễn Văn Xướng và Cụ Bà Huỳnh Thị Thâu.
Ngài là
bậc đồng chơn học đạo. Lúc tám tuổi Ngài được Ðại Lão Hòa Thượng thượng
Bửu hạ
Chung tiếp độ tại chùa Phước Long
Cổ Tự tỉnh Sa Ðéc và bổn sư của Ngài là Hòa Thượng Huệ Hòa thuộc dòng Lâm
Tế gia phổ. Năm lên 15 tuổi Ngài thọ Sa Di giới với Ðại Lão Hòa Thượng
thượng Chánh hạ
Quả, tại tổ đình Kim Huê tỉnh Sa
Ðéc với pháp hiệu là Không Sắc, húy Nhất Thanh.
Năm 20
tuổi Ngài thọ đại giới cùng đậu cấp bằng Hán ngữ học tại Trung Tâm Ấn
Quang và Ngài giảng pháp lần đầu tiên tại Long Quang Tự đường Nguyễn Huỳnh
Ðức, quận Phú Nhuận (1961).
Năm 1964
Ngài được bổ nhiệm làm việc với Tổng Vụ Tăng Sự, phụ trách ngành Tăng Tịch
và kiêm nhiệm Trưởng Ban Tăng Tịch cho chùa Ấn Quang. Ngài đậu tú tài toàn
phần năm 1965, dạy Pháp văn tại trường Bồ Ðề Chợ Lớn và du học Thái Lan do
chính phủ Thái đài thọ.
Năm 1967
Ngài từ Thái Lan sanh Ấn Ðộ nghiên cứu các đề tài thuộc Phật Giáo Nguyên
Thủy tại Viện Nalanda Pali Research Institute, Bihar.
Năm 1968
Ngài đậu bằng Cao Học Cổ Ngữ (Palyacharya) tại Ðại Học Sankrit University
Darbhanga.
Năm 1971
Ngài đậu thêm cử nhân và cao học Anh văn.
Năm 1976
Ngài đậu tiến sĩ tại Ðại Học Magadha Gaya với luận án “A Comparative
Study of the Pali Digha Nikaya and China Agama” so sánh Trường
Bộ Kinh với Kinh Trường A Hàm.
Ngài còn
là tác giả nhiều tác phẩm nghiên cứu có giá trị như:
1- Phật Giáo Ấn Ðộ Ngày Nay.
2- Phật Giáo trong Việt Nam, Ấn Ðộ hay Trung Hoa.
3- Hoàng Ðế Asoka.
4- Bốn Ðức Tánh Cao Quý của Giác Ngộ.
v.v.
Ngài
được chính phủ Ấn Ðộ mời dạy ngữ học và lịch sử tại Ðại Học Sri
VekaTesvana, Tirapati. Trước đó Ngài cũng đã được chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa mời về làm Viện Trưởng Ðại Học Cần Thơ.
Năm 1978
Ngài từ việc ở Ðại Học Sri VekaTesvana, Tirapati, sang Mỹ dưới sự bảo trợ
của chùa Việt Nam (Los Angeles), nhận chức Phó Chủ Tịch Tổng Hội Phật Giáo
Việt Nam tại Hoa Kỳ (12/78) kiêm giảng sư của Ðại Học University of
Oriental Studies tại Los Angeles.
Năm 1979
Ngài nhận chức Giám đốc Trung Tâm Tỵ Nạn Ðông Dương.
Kể từ
đầu thập niên 80 cho đến nay Ngài về Long Beach, thành lập hội Phật Giáo
Long Beach và xây dựng Tự Viện Phật Tổ. Với ý chí phục vụ đạo pháp và
hướng dẫn Phật tử sống xa thành phố Los Angeles, Ngài không quản khó khăn,
tận tụy hoằng hóa độ sanh cho đến hơi thở cuối cùng. Quả thật vậy, tuy
thân xác Ngài thập tử nhất sinh ở bệnh viện nhưng tâm niệm Ngài vẫn không
ngớt âu lo cho lể Phật Ðản tại chùa.
Nhưng
niềm lo lớn nhất của Ngài là công việc nghiên cứu và dịch thuật đang dang
dở; Ngài đã thực hiện được;
1- Tập “Nghi
Thức Tụnh Niệm Hằng Ngày” ngắn ngọn và dễ hiểu phù hợp với nhu cầu
thiết yếu của giới Phật tử hải ngoại.
2- Hai
tập đầu của “Kinh Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm” in khổ lớn, trình bày
hết sức mỹ thuật, tổng cộng gần nghìn trang. Ðây là một công trình lớn lao
đòi hỏi một sự cộng tác của nhiều học giả nghiên cứu phân tích tài liệu,
Ngài viết “Khi dịch, dịch giả đã cân
nhắc cẩn thận sợ rằng: “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, Ly kinh
nhất tự tức đồng ma thuyết”. Vì vậy, mất quá nhiều thì giờ, dịch
giả phải so sánh bản chữ Hán này với bản Sanskrit…”. Với sự hiểu biết
nguyên thâm về Phật pháp của một tu sĩ công phu thiền tập với Lục Diệu
Pháp Môn, với một căn bản cổ ngữ và ngoại ngữ phong phú của một học
giả nghiêm túc, Ngài biết trước công việc mình cần phải làm nên thường
nói: Tôi cần phải phiên dịch bộ Hoa Nghiêm
vì không còn sống bao năm.
Ngài là
một bậc cao Tăng đầy đủ mọi đức tính Từ bi hỷ xả, luôn luôn tận tình vì
đạo, sống đơn giản, đạm bạc, tuy nghiêm với mình và khoan dung với người
nhưng không chấp nhận xa hoa hay cẩu thả, tuy khiêm nhường từ tốn nhưng
vẫn hài hước trào phúng mà không mất lòng ai.
Tự Viện
Phật Tổ là một ngôi chùa tôn, chật hẹp, tối tăm, oi bức mùa hè, ẩm thấp
mùa đông, nằm giữa một khuôn viên “Chung cư bàn Cờ”. Bao nhiêu thù
lao dạy học gom với tịnh tài thí chủ, thay vì xây chùa cao cổng rộng Ngài
chuyển sang mục phiên dịch và ấn tống kinh sách nên luôn luôn túng
thiếu. Mãi cho đến giờ lâm chung, đệ tử mới biết Ngài mặc áo quần vá tại
xứ Hoa Kỳ.
Vào lúc
10:40 ngày 18 tháng 7 năm 1995 Ngài viên tịch tại bệnh viện sau một thời
gian điều trị ngắn vì chứng viêm gan đối với một cơ thể từ lâu suy nhược
vì quá chăm lo Phật sự.
Mười lăm năm
cuối cùng ngắn ngủi sống với kinh Hoa Nghiêm tại Tự Viện Phật Tổ chính lại
là giai đoạn quan trọng nhất của cuộc đời tại thế độ sanh của một bậc đồng
chơn nhập đạo.