Tưởng niệm Hòa Thượng Thiện Trì
****
Hòa
Thượng Thích Thiện Trì thế danh Nguyễn Văn Hiến, Pháp danh Như Phụng, Pháp
tự Thiện Trì, Pháp hiệu Ấn Ðạo thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ bốn
mươi hai, Ngài sanh ngày 19 tháng 02 năm 1934 tại xã Nhơn Khánh, quận An
Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Ngài xuất thân từ một gia đình thuần túy Phật Giáo,
thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Hàn, Pháp danh Như Ðà. Thân mẫu của
Ngài là cụ bà Bùi Thị Thiệp, Pháp danh Như Cảnh. Ngài có tất cả 10 anh em,
5 trai và năm gái. Trong đó có 3 người con trai đã xuất gia đầu Phật, là
bản thân Ngài, Thượng Tọa Thích Thiện Hữu, và Ðại Ðức Thích Viên Mãn.
Nhờ túc
duyên thù thắng nên khi vừa tròn 17 tuổi, ý thức được lẽ vô thường sinh
diệt và thực trạng khổ đau của cuộc đời, Ngài đã phát tâm thế phát xuất
gia để noi theo hạnh xuất trần thượng sĩ. Khởi đầu, Ngài xuất gia với Cố
Hòa Thượng thượng Huệ hạ Chiếu trụ trì Tổ Ðình Thập Tháp, Bình Ðịnh. Sau
thời gia tu học tại Tổ Ðình Thập Tháp, nhận thấy Ngài là bậc thông minh
dĩnh duệ, nên Hòa thượng bổn sư đã gởi Ngài đến tu học tại Tổ Ðình Sơn
Long, Tuy Phước. Sau khi Hòa thượng Bổn sư viên tịch năm 1965, Ngài cầu
pháp y chỉ với Hòa Thượng thượng Kế hạ Châu là sư thúc của Ngài và được
ban cho Pháp hiệu Thích Ấn Ðạo. Hòa Thượng thọ Ðại Giới năm 1968 tại Phật
Học Viện Trung Phần Hải Ðức, Nha Trang. Sau khi tốt nghiệp ưu hạng chương
trình Phật Học Chuyên Khoa Liễu Quán tại Tổ Ðình Linh Quang, Huế, năm
1971, Ngài được Giáo Hội bổ nhiệm làm Giảng Sư và Giáo Thọ cho nhiều Phật
Học Viện tại các tỉnh miền Trung và miền Nam như Giám Thị và Giáo Thọ Phật
Học Viện Trung Phần Hải Ðức, Nha Trang; Giáo Thọ Phật Học Ni Trường Diệu
Quang, Nha Trang; Giám Học Phật Học Viện Nguyên Hương tại Phan Thiết;
Giảng Sư tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam Sài Gòn v.v… Do đạo hạnh khả
kính, Ngài được cung thỉnh làm trụ trì chùa Kim Quang tại Phan Thiết. Dù
Phật sự đa đoan, Hòa Thượng vẫn cố gắng đầu tư thì giờ và tâm lực để phiên
dịch và trước tác.
Những kinh điển mà Ngài đã dịch gồm có:
- Kinh Kim Quang Minh
- Kinh Dược Sư
- Kinh A-Di-Ðà
- Kinh Di Lặc
- Kinh Bát Ðại Nhân Giác
- Phật Thuyết Phân Biệt Kinh
- Bát Nhã Tâm Kinh
Ngoài những dịch phần trên, Hòa Thượng còn biên soạn
nhiều bài nghiên cứu lịch sử Phật Giáo hết sức giá trị. Ðã từng là Chủ
Nhiệm Tạp Chí Nguyồn Sống và còn là một nhà thơ với những bài thơ thiền
vị.
Sau thời gian gặp khó khăn dưới chế độ Cộng Sản và vì
chí nguyện hoằng pháp lợi sanh, Hòa Thượng đã vượt biển tìm tự do năm 1980
để tiếp tục lý tưởng phụng sự chánh pháp và dân tộc. Suốt thời
gian tạm cư tại trại tỵ nạn Galang, Nam Dương,
Ngài đã thành lập chùa Kim Quang, chùa Quan Âm và tận lực hướng dẫn đồ
chúng tu học và đã trở thành một biểu tượng ngời sáng làm nơi quy hướng
của những người con Phật đang bơ vơ lạc lõng tại xứ người. Sau khi định cư
tại Hoa Kỳ năm 1981 Hòa Thượng càng nổ lực hơn nữa trong vai trò của một
Trưởng Tử Như Lai, tác Như Lai sứ, thừa Như Lai sự. Những chức vụ mà Ngài
đã đảm nhiệm theo thời gian là:
- Hội Trưởng Hội Phật Giáo Việt
Nam tại Sacramento và Trụ Trì Chùa Kim Quang
- Phó Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo
Việt Nam Tại Hoa Kỳ
- Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự
của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ
- Thành Viên Hội Ðồng Ðại Diện
của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ-Văn Phòng
II Viện Hóa Ðạo
-
Chủ Tịch Hội Ðồng Giám Luật Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải
Ngoại Tại Hoa Kỳ-Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo
- Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự
của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ-Văn Phòng
II Viện Hóa Ðạo đồng thời lãnh đạo tinh thần các Hội và Chùa:
Chùa Vạn Hạnh, Rochester, NY.
Chùa Từ Hiếu, Buffalo, NY.
Chùa Quan Âm, Binghamton, NY.
Chùa Phổ Quang, Salt Lake City,
UT.
Ngoài việc xiển dương
Chánh Pháp cứu độ quần sanh, Ngài còn sát cánh với Giáo Hội tích cực vận
động cho sự tự do, bình đẳng, dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam. Ngài là
bậc Thầy đặc biệt thương yêu, hết lòng quan tâm nâng đỡ, giáo dưỡng và xây
dựng tổ chức Màu Lam Của Gia Ðình Phật Tử Việt Nam.
Cuộc đời của Ngài là một
tấm gương sáng ngời, một bài học sống vô giá qua nhiều khía cạnh nhất là
thời gian Hòa Thượng bị bệnh để độ chúng. Dù trải qua thời gian dài với
bệnh duyên đầy thức thách nhưng Hòa Thượng vẫn giữ được đạo phong tự tại,
uy nguy, thanh thoát của mình và chứng tỏ được đạo hạnh khả kính của một
bậc Tôn túc giáo phẩm thạc đức. Ðây là thời gian mà đại chúng học ở Hòa
Thượng những bài Pháp không lời đầy đủ khế cơ, khế lý.
Thuận thế vô thường Hòa
Thượng đã an tường xả bỏ báo thân lúc 8 giờ 20 tối ngày 31 tháng 7 năm
2003, nhằm ngày mồng 3 tháng 7 năm Quý Mùi tại thủ phủ Sacramento,
California, Hoa Kỳ. Thế thọ 69, Ðạo lạp 52, Hạ lạp 36. Dù xác thân tứ đại
huyễn hóa của Hòa Thượng không còn nữa nhưng những lời dạy cao quý nhất là
những hành hoạt đầy vị tha vô ngã của Ngài đối với Dân Tộc và hình ảnh vấn
thân tận tụy hy hiến cho Ðạo của Hòa Thượng vẫn còn mãi trong trái tim của
hàng triệu người con Phật
Vô thường thị thường, tịch diệt phi diệt, nhất tâm cầu
nguyện giác linh Hòa Thượng thượng phẩm thượng sanh, bất vi bổn thệ, hồi
nhập ta bà để hoàn thành hạnh nguyện độ sanh cao cả.
Nam Mô Tự
Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhị Thế húy thượng Như hạ Phụng, tự Thiện Trì,
hiệu Ấn Ðạo giác linh Hòa Thượng thùy từ chứng giám.
---o0o---
Những lời dạy của
Hòa Thượng Thích Thích Thiện Trì
trong thời gian Ngài Lâm bệnh.
“Ðức
Phật A-Di-Ðà, Ngài Văn Thù Sư Lợi và Bồ Tát Quan Thế Âm luôn luôn ở trong
Thầy, chúng ta hãy cố gắng giữ ba nghiệp thật thanh tịnh mà nhất tâm niệm
Phật vì mạng sống này vô thường ngắn ngủi lắm”.
“Quý vị hãy tinh tấn tu học vì nếu không tu thì mình
mãi mãi lẩn quẩn trong vòng sanh tử luân hồi khổ lắm. Hãy chuyên cần tu
tập.”
“… Thầy đâu có ngừng thuyết pháp. Mấy năm qua Thầy đã
thuyết một pháp rất dài. Ðó là bài Pháp
KHÔNG LỜI, tùy theo trình độ, cơ cảm cao thấp mà hiểu, ai hiểu
sao thì hiểu…”
“Các con sinh hoạt cho đàng hoàng, đi đâu cũng đàng
hoàng, làm gì cũng đàng hoàng vì mình là người con Phật.”
“Từ cái mạnh đến cái mạnh thì rất dễ, từ cái yếu đến
cái mạnh mới là cái mạnh thật sự.”
“Ðến đi, còn mất là lẽ
thường tình vì các pháp hữu vi luôn diệt sinh sinh diệt, nhưng với người
biết tu thì đến đi còn mất chẳng phải là việc bận lòng.”
****
NHỚ
MỘT BẬC THẦY
(bài tưởng niệm cố Hòa Thượng Thiện Trì)

Thích
Viên Lý
Như một cõi riêng tư vô phiền nhiễm, Thầy
ngồi đó với tất cả sự Trầm tỉnh. An lạc. Thanh thoát. Tự tại và Tươi mát.
Thầy đã huân tập đạo phong khả kính này qua suốt cuộc đời tu tập của Thầy.
Thầy đã dự kiến được cái ngày mà thế nào trong cuộc sống phù hư này, chắc
chắn Thầy sẽ phải đối mặt! Thầy ngồi đó không nói năng gì mà thực sự Thầy
đã nói lên tất cả. Không thiết tha với sự ăn uống. Không quan tâm đến cảnh
mất còn. Có gì quan trọng trong đời sống tạm bợ này khi mà ở cuối cùng
của lằn sống tất cả đều trở thành vô nghĩa ngoại trừ sự yên tỉnh tuyệt đối
của tâm hồn!
Quả thật thời gian lao đi quá nhanh, nhanh hơn cả một đường tên bắn. Gần
bảy mươi năm mà cứ tưởng mới như hôm nào.
Những hình ảnh thân thương ngày nào của Thầy nơi Tổ Đình Thập Tháp,
Bình Định, rồi Huế, Nha Trang, Phan Thiết, Sài gòn và, Galang, Hoa Kỳ, Úc,
Nhật, Âu và còn nhiều, nhiều địa danh khác nữa, thoáng chốc bị chìm dần
vào quên lãng. Tất cả còn lại chỉ là cái quá vãng mà khi đối cảnh tâm thức
thoạt hiện như một gợi nhớ mong manh về một mảnh đời không tên gọi. Cùng
lắm thì cũng chỉ là kỷ niệm, một kỷ niệm tự nó không nói lên điều gì trừ
những giả danh như những trò đùa trên sân khấu đời thường.
Cái giá của sự sống đắc quá. Sự giới hạn của sức người làm sao có
thừa khả năng để vượt thoát. Càng không vượt thoát nổi khi những chất tố
của tứ đại không được điều hòa. Ai cũng thừa biết, sự bất điều hòa của tứ
đại nhiều lúc làm cơ thể Thầy đau lắm, nhưng vốn được trang bị sẳn những
nhận thức thấu triệt về thật tướng của mọi hiện tượng, Thầy bình thản nhìn
thẳng vào thực trạng khổ đau của cuộc đời, Thầy cười. Một nụ cười bao
dung, hỷ xã. Nụ cười nở trên hiện thực khổ đau chẳng khác gì đóa sen tươi
thắm, ngạt ngào nở trên vũng bùn lầy hôi tanh mà tự thân vẫn cứ là tịch
nhiên vô nhiểm. Bằng tất cả sự An nhẩn. Tự tại. Rộng lượng. Khinh an, Thầy
thấy rõ bản chất huyển hư của một kiếp người. Thầy Ung dung. Tự tại, vượt
lên trên sự hành hạ của cái đau thể xác. Thầy thanh thản, an nhiên đối
diện với những thách đố của cuộc đời. Lấy hỷ xả đáp lại hơn thua, đem bao
dung đối trả hiềm khích. Phong thái cao vời đó của Thầy tự nó nói lên cái
phẩm giá cao trọng của một bậc chân tu thạc đức, còn ngôn từ nào đẹp hơn
để biểu đạt trọn vẹn phẩm hạnh cao quý vô giá ấy của Thầy.
Mỗi lần đến thăm Thầy, tôi cứ tưởng là mình đang đứng trước Ca Lợi
Sắc Tra. Có thể nói Thầy là hiện thân của nhẩn nhục, bản thân của tuệ giác,
trụ cột của chuyển hóa và chất liệu của thương yêu.
Những câu nói đầy ẩn dụ của Thầy là những câu nói có sức chuyển hóa người
nghe rất lớn: “ Phật đang có mặt trong Thầy, Bồ Tát Quán Âm cũng đang có
mặt trong Thầy”, “ Phật cho Thầy ăn, Chư vị Bồ Tát cho Thầy ăn. Đầy đủ,
rất đầy đủ”, ấy vậy mà Thầy ít khi thấy đói dù có lúc Thầy nhịn ăn suốt cả
tháng ròng. Nhịn ăn một thời gian dài mà có thể sống còn thì hiểu được,
nhưng nhịn uống suốt cả tháng trường quả thật đã là một thắc mắc lớn và
ngạc nhiên vô cùng đối với những người đang có thẩm quyền về y học.
Khi còn sinh tiền, có những câu Thầy nói mà tự nó biểu tỏ được sự
thể chứng thể tính bất nhị của sắc không: “ Pháp hỷ thực, Thiền duyệt thực
mới đích thật là món ăn quan yếu của sự sống, tôi đã và đang sống bằng và
với những dưỡng tố quan yếu đó. Ăn mà không ăn, không ăn nhưng ăn, thế mới
ngộ chứ”. Đã mấy ai hiểu được thực sự Thầy muốn nói gì! Thương Thầy, ai
cũng thĩnh mời Thầy ăn uống. Nhưng không, rất nhiều lần Thầy nhẹ nhàng từ
khước, vì hơn ai hết, Thầy tự biết Thầy đang cần gì.
Ở vào những tháng năm mà bối cảnh xả hội tác động mảnh liệt đến tình
tự nhận thức của con người, viễn tượng dung hợp thật sự hãy còn chưa lộ
dạng, Thầy ngồi đó như một gạch nối cần thiết. Thầy liễu triệt trọn vẹn
rằng, đồng thuận thật sự và lâu dài phải là một đồng thuận dựa trên căn
bản Lục hòa, không ai là người thua, kẻ thắng. Ý thức rõ điều đó, Thầy cố
gắng giữ vững vai trò Trung đạo dẫu rằng đó là việc của Chùa hay Phật sự
chung của Giáo Hội trong, ngoài …
Kỷ lưỡng, nghiêm túc, chừng mực, tận tụy là những đặc tánh nỗi bậc
của Thầy ngoài những tâm hạnh căn bản như Tri túc, Thiểu dục, một lòng hy
hiến cho đời, cho đạo với tinh thần vị tha, vô ngã triệt để.
Trước ngày Thầy vĩnh viễn từ giả cuộc đời, một cách âm thầm, chúng
tôi vào thăm Thầy khi Thầy đang điều trị tại bịnh viện. Một mình. Tươi
tỉnh. Thầy vẫn nhìn tôi và cười một cách an nhiên, đôn hậu, dù lúc ấy Thầy
không còn nói được. Cơn đau nghiệt ngã đã cướp đi giọng nói ngọt ngào, từ
ái đầy vị tha của Thầy, nhưng, có sá gì những chướng duyên bé nhỏ ấy, Thầy
vẫn tiếp tục nói bằng ánh mắt thương yêu trìu mến, bằng những nụ cười
thanh thoát, vô ưu. Thầy vẫn thản nhiên như chẳng việc gì xảy ra trên cõi
trần đầy lao lung, tục lụy. Ôi đáng kính, đáng phục biết dường nào!
Thế rồi, ngày Thầy viên tịch, nơi ngôi Chùa mà Thầy đã khổ công xây
dựng trong bao năm trời, lặng nhìn lên bàn thờ đầy hương trầm quyện tỏa,
vẫn nụ cười bao dung hoan hỷ đó, Thầy như đang nhắn nhủ với đời: “ Hãy vui
lên mà hành đạo, hãy buông bỏ, đừng thủ trước, vì thủ trước là vướn mắc.
Có chi trường cửu trên thế gian tạm bợ này mà phải khổ sầu, vương vấn. Tất
cả đều huyển hư, mọi hiện tượng đều sinh diệt, biến dị. Hãy sống với một
cái tâm thật sự thanh tịnh, thật sự an lạc, vì chết đâu có nghĩa là chấm
dứt mọi sự, ta sẽ trở về như một bắt đầu cho một hành trình mới, sẽ làm
nhiều hơn, làm đến chổ rốt ráo không còn gì để làm và đi đến tận cùng nơi
không còn chốn nơi để đến. Hãy vui lên và quên đi tất cả. Chỉ có tuệ giác
siêu việt mới là cái vốn vô giá. Chúng ta đang và sẽ gặp nhau trong tuệ
giác siêu việt này”. Cảm nhận được sự nhắn nhủ sâu sắc của Thầy qua nụ
cười, ánh mắt, tôi cố gắng vui, nhưng những giòng cảm xúc thì cứ lại dâng
trào, nhất là trong giờ phút Trà tỳ nhục thân Thầy giữa tiếng kinh cầu đầy
thanh thoát! Chính những giây phút ấy, hơn lúc nào, tôi chợt nhìn ra được
một thật tế đặc hữu: Thân người huyễn hóa, nhưng tình đạo thì thâm viễn
mênh mông! Tự biết mình vượt nhưng vẫn chưa tự vượt, tôi sụp lạy trước
giác linh Thầy, Thầy Thích Thiện Trì, bậc minh sư cao cả như một trọng
kính vô biên.
Nhân ngày Lễ Tiểu Tường của Thầy, trong tâm tình của một người sư
đệ, xin chân thành dâng lên Thầy mấy vần thơ quê kệch để thay thế cho nén
tâm hương:
Từ cõi vô cùng vào nhân giới
Cửa Không hôm sớm trải lòng ra
Tử sinh một mái chèo lênh láng
Biển Pháp mênh mông trăng hiện đầy
Đùa vui đầu ngọn sóng sanh tử
Tự tại cuối giờ kiếp huyễn sinh
Đi đến cợt cười như gió thoảng
Chòm cây lùm trúc rộn niềm vui
Nguyện mãn quay về quê chốn củ
Tên gọi còn không há lũy cương
Không tánh chân thường siêu giới ngoại
Dạo chơi thơi thảnh cõi vô cùng.
Thích Viên Lý
(viết nhân lễ Tiểu Tường, 15-8-2004)
|
Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ
Vietnamses American Unified Buddhist Congress In The United States
Of American
Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo
Hội Ðồng Ðiều Hành
311 E. Mission Rd, San Gabriel, CA 91776. U.S.A.
Tel: (626) 614-0566/ (626) 288-8437
E-mail:
vptt@ghpgvntnvp2vhd.org
Ðiếu
Văn Tiễn Biệt Cố Hòa Thượng Thích Thiện Trì của
GHPTVNTNHN-HK/VPIIVHÐ
Kính lễ Giác Linh Cố Hòa Thượng,
Lẽ sinh diệt còn-mất, hang trưởng tử Như Lai ai
lại chẳng thẩm thấu. Chính vì thế-gian vô thường sinh diệt mà khởi
phát hạnh nguyện xuất trần; một đời, nhiều đời hành Bồ-Tát đạo để
cứu độ chúng sanh. Vậy mà, khi Người thị-hiện huyễn tướng sinh-diệt
để rời bỏ trần gian này, lòng chúng tôi lại ngậm ngùi, xao xuyến.
Thâm tình huynh đệ, thầy
trò, thường ngày không bày tỏ, không nói năng, mỗi người mỗi nơi tận
tụy hành đạo, đến khi mất nhau, cảm giác như rơi rụng cả tay chân,
buồn không nói được.
Giờ này gặp nhau, đốt tâm hương, khêu đèn tuệ,
nói với nhau bằng ngôn ngữ của nhà Thiền, hiểu với nhau bằng tâm-ấn
Tào-Khê, tưởng chừng tâm-tâm rọi chiếu vào nhau mà không cần khai
ngôn phát ngữ. Nhưng nhìn ở giới hạn một đời qua nhân duyên pháp lữ
tương phùng ngắn ngủi, chúng ta chỉ một lần đến, một lần đi; vậy,
nếu người đã mượn lẽ mộng ảo phù-hư để thị hiện sự đến-đi, còn-mất,
thì chúng tôi cũng xin mượn ngôn ngữ huyễn-hóa phi-chân để biểu lộ
thâm tình pháp lữ trong giờ phút tiễn-biệt phân-ly.
Ôi, làm sao quên được, một đời người, một hành
trình, năm mươi hai năm học đạo, hành đạo không biết mõi mệt, hạnh
nguyện hộ đạo cứu đời gánh nặng hai vai, bước chân đến đâu đạo tràng
nở hoa đến đó.
Người đã dịch kinh Kim Quang Minh, giáo lý
Viên-đốn để lại cho đời không ai không nhớ. Công đức này, chẳng phải
đã được cảm ứng với thân vàng Thế Tôn rọi chiếu để khai mở ngôi chùa
Kim Quang! Từ Kim Quang Phan Thiết đến Kim Quang Hoa Kỳ, từ Vạn
Hạnh, Từ Hiếu đến Quan Âm, Phổ Quang…? Ánh kim quang như soi sáng
con đường Ngài đi.
Ðâu chỉ Kinh Kim Quang Minh, Người còn để tâm
phiên dịch những Kinh Ðại Thừa khác để dẫn đạo quần chúng, góp phần
hoằng dương Chánh Pháp. Nào Kinh Di Ðà, Dược Sư, Di Lặc, cho đến Bát
Nhã Tâm Kinh, Bát Ðại Nhân Giác và Phật Thuyết Phân Biệt Kinh…
Một đời giáo dục, không chỉ dạy học, dịch kinh,
mà còn đem thân giáo tiếp cận với mọi người, cảm hóa bao nhiêu môn
đồ với thân tướng trang nghiêm, ngời sáng; nụ cười hiền hòa, bao
dung, độ lượng. Ðó chẳng phải là biểu hiệu của Trí tuệ và Từ bi đã
từng được un đúc và phổ nhuận hay sao?
Ðược như vậy cũng nhờ đồng chơn xuất gia: tuổi
trẻ đã sớm dấn thân vào cửa Thiền, rau dưa đạm bạc mỗi ngày, câu
kinh tiếng kệ, nuôi lớn chí nguyện xuất trần của bậc đại trượng phu.
Từ nền tảng này mà bước lên hàng cao tăng giới đức về sau.
Với chí nguyện kiên cường, lại thêm mẫn tuệ,
siêng năng, người đã ghi lại những dấu tích cao đẹp trong công cuộc
hoằng pháp lợi sanh qua những chức vụ và trách nhiệm mà Giáo Hội
trong nước, ngoài nước giao phó:
- Ðạo học thâm viễn: Người đã từng được Giáo Hội
tín nhiệm giao cho những trọng trách liên quan đến việc giáo dục và
đào tạo Tăng tài. Nào là Giám-thị Phật học viện Hải Ðức Nha Trang,
nào là Giám Học Phật Học Viện Nguyên Hương Phan Thiết… nơi đâu cũng
chu toàn trách vụ.
- Giới luật Nghiêm minh: Người đã từng là Phó Hội
Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ, và là Thành Viên Hội
Ðồng Ðại Diện, Chủ Tịch Hội Ðồng Giám Luật, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ
Tăng Sự của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa
Kỳ… chức vụ nào cũng tích cực đảm nhận và hết lòng xây dựng.
Từ việc lớn đến việc nhỏ, đối với Tăng Ni cũng
như đối với hàng cư sĩ, không phận-sự nào Người chối từ. Cho đến
việc nâng đỡ và giáo dục cho tổ chức thanh thiếu niên Gia Ðình Phật
Tử, Người cũng dành cả tìm thương bao la như của một từ phụ.
Công đức to lớn như thế, Giáo Hội trong-ngoài ghi
công mà Tăng Ni và Phật tử hậu học còn chưa có dịp đền đáp, thì
Người đã hiện thân lão bệnh, buông xả mọi Phật sự để tĩnh tu trong
hoàn cảnh khó khăn, nghịch chướng.
Ði, đứng, nằm, ngồi, bốn oai nghi thong dong tự
tại trở thành sự khổ nhọc vô vàn trong thân bệnh vô thường. Vậy mà
vẫn an nhẫn hành đạo, giữ đạo trong niềm an lạc vững chãi; kiên trì
niệm Phật thiền quán để nêu gương sáng cho đồ chúng khắp nơi.
Ôi thương làm sao, một thân khổ bệnh mà nụ cười
lúc nào cũng nở trên môi! Bài học nhẫn nhục, chẳng phải Người đã
kinh qua đến chỗ kỳ cùng!
Suy niệm cuộc đời của người với hàng trạng tu tập
và hoằng đạo như thế, bao công đức không ghi hết được, bao tiếc nhớ
cũng không thay được niềm tri ân.
Thì thôi, nương nơi vần thơ cũ của người, xin ghi
lại mấy câu tiễn biệt:
Biển rộng sáng ngời tâm sứ giả
Non cao vượt thoát chí trượng phu
Tĩnh tọa trong dòng đời khổ bệnh
Mây trắng bay giữa cõi hư phù.
Huyễn hóa vẽ vời cơn đại mộng
Một tâm bày hết thế gian âm
Ngồi yên, nghe rền cơn sóng vỗ
Sóng-nước: chẳng qua là một thôi.
Có đến, có đi, là việc huyễn
Chẳng ai tĩnh tọa trong dòng đời
Cũng không mây trắng trên trời biếc
Tịch lặng không bờ: tâm vô tâm.
Kính thưa Giác Linh cố Hòa Thượng,
Nói theo lý tánh tuyệt đối thì như thế. Nhưng dù
sao thì giữa trần gian mộng mị, nơi lưng trời vẫn có vầng mây trắng
bay; và, xin tiễn biệt vầng mây trắng ấy, bay qua vòm trời vô tận.
Tiễn biệt một bậc Chúng Trung Tôn trở về nơi vô sanh, bất diệt…
Nam Mô
Tự Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhị Thế húy thượng Như hạ Phụng, tự
Thiện Trì, hiệu Ấn Ðạo giác linh Hòa Thượng thùy từ chứng giám.
|
---o0o---
|
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Viện Tăng Thống
Phật
lịch 2547
Số: 06 /VTT/XLTV
Khẩn
Ðiện Phân Ưu
Phòng Thông tin Phật Giáo
Quốc tế vừa khấp báo cho tôi biết tin buồn Hòa Thượng
THÍCH THIỆN TRÌ,
Chủ Tịch Hội Ðồng Giám Luật, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ, Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo, thuộc dòng Lâm Tế
Chánh Tông đời thứ 42, sau một thời gian lâm trọng bệnh đã xả báo an
tường, thâu thần thị tịch tại thủ phủ Sacramento, bang California,
Hoa Kỳ, vào lúc 20 giờ 20 ngày 31 tháng 7 dương lịch 2003, trụ thế
69 năm, lạp thọ 36 năm.
Tôi vô cùng thương tiếc một
vị Trưởng tử của Như Lai đã ra đi trong khi Phật Pháp đang cần kẻ
xiển dương đắc lực, và ngỏ lời tán thán công đức Hòa Thượng một lòng
chia xẻ mọi chướng duyên với Thầy Tổ nơi quê nhà, dốc lòng vấn thân
trong công cuộc giải trừ Pháp nạn, gây duyên hòa hợp trong Tăng
chúng để cùng tiến bước. Nên tôi có lời kính điếu:
Trời mây nhẹ bước về
quê Phật
Ðất nước nặng tình nhớ
bóng Thầy
Sự ra đi của Hòa Thượng là
một mất mát lớn cho Cộng Ðồng Phật Giáo, nhưng đồng thời dựng lên
tấm gương sáng cho Pháp hữu và đàn hậu học noi theo.
Nhân danh Hội Ðồng Lưỡng Viện, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất, tôi chân thành gởi lời phân ưu đến Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo,
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ cùng môn
đồ Pháp quyến, và nguyện cầu cho Giác Linh Hòa Thượng cao đăng Phật
quốc.
Tu Viện Nguyên Thiều, ngày
2.8.2003
Thay mặt Hội Ðồng Lưỡng Viện
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống
Tỳ Kheo Thích Huyền Quang
|
---o0o---
|
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất Hải Ngoại tại Uùc Ðại Lợi – Tân Tây Lan
The Unified Vietnamese Buddhist Congregation of Australia – New
Zealand
Hội Ðồng Ðiều Hành
Văn Phòng Hội Chủ – Chùa Pháp Hoa
20 Butler Avenue, Pennington, SA 5013 – AUSTRALIA.
Tel: (08) 8447
8477. Fax: (08) 8240 1758
Văn Phòng Tổng Thư Ký – Chùa Pháp Bảo.
154 Edensor Road, St. Johns Park, NSW 2176 – AUSTRALIA.
Tel: (02)
9610 5452. Fax: (02) 9823 8748
---o0o---
Thành kính cung tiễn
Hội Ðồng Ðiều
Hành Giáo Hội PGVN Thống Nhất Hải Ngoại tại Uùc Ðại Lợi - Tân Tây
Lan thành kính cung tiễn cố Giác Linh:
Hòa Thượng
THÍCH THIỆN TRÌ
Chủ Tịch Hội Ðồng Giám
Luật
Giáo Hội Phật Giáo Việt nam Thống Nhất hải Ngoại tại Hoa Kỳ
Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo
- Giáo thọ
sư của các Phật Học Viện tại miền Trung và miền Nam Việt Nam
- Tổng vụ
trưởng Tổng Vụ Tăng sự GHPGVNTN/HN tại Hoa Kỳ, Văn phòng II Viện Hóa
Ðạo
- Thành viên
Hội Ðồng Ðại Diện GHPGVNTN/HN tại Hoa Kỳ, Văn phòng II Viện Hóa Ðạo
- Nhà dịch
thuật kinh tạng Hán văn sang Việt văn
đã thuận thế
vô thường viên tịch lúc 8 giờ 20 tối ngày 31 tháng 7 năm 2003 (nhằm
ngày 3 tháng 7 năm Quí Mùi ) tại Sacramento, Tiểu bang California -
Hoa Kỳ. Thọ thế 69 tuổi, hạ lạp 36.
- Lễ nhập kim
quan lúc 5 giờ chiều ngày 2 tháng 8 năm 2003.
- Lễ trà tỳ
lúc 12 giờ trưa thứ tư ngày 6 tháng 8 năm 2003 tại nghĩa trang East
Lawn Memorial Park, Sacramento - Hoa Kỳ.
Thành tâm cầu nguyện giác linh Hòa Thượng cao đăng Phật Quốc.
Thành thật
phân ưu cùng Văn phòng II Viện Hóa Ðạo; môn đồ pháp quyến chùa Kim
Quang – Sacramento – Hoa Kỳ.
Hội Ðồng Ðiều Hành, toàn thể Tăng Ni và
Phật tử GHPGVNTNHN/ UÐL-TTL.
Úc châu ngày 3 tháng
8 năm 2003
|
---o0o---
Ai Văn Tiễn Biệt Ân Sư
của Môn Ðồ Pháp Quyến
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật
Kính lễ Giác Linh Thầy,
Bao năm nương Thầy tu học,
chúng con từng nghe Thầy huấn thị rằng thế gian là vô thường mộng
ảo, không gì tồn tại mãi mãi. Thầy nhắc nhở chúng con nên thường
quán sát lý lẽ ấy. Nhờ vậy mà qua bao khó khăn, chướng ngại trên
đường tu tập và tiếp xúc với cuộc đời, chúng con có thể vững chãi
vượt qua. Bài học vỡ lòng cho đường tu học của chúng con, tưởng đã
đủ lắm rồi, nào ngờ Thầy lâm trọng bệnh, bước vào gian đoạn thể hiện
Chánh Pháp trong nghịch cảnh, gian truân… Kể từ lúc ấy, chúng con
được chứng nghiệm một bài học sống động và đa dạng hơn: Chính đời
sống của Thầy trực tiếp hướng dẫn chúng con về lòng từ bi, về sự
nhẫn nhục, về năng lực của nhiếp tâm trong những hoàn cảnh khổ nhọc
nhất. Nhưng để học được những bài học thân giáo này, quả thật chúng
con đã phải vô cùng đau xót khi mỗi ngày nhìn thấy hoặc tưởng nghĩ
đến Thầy trong cơn lão-bệnh nhọc nhằn… đến nỗi chúng con cũng tự
thẹn không biết mình có xứng đáng để được chính Thầy thân hành thị
hiện sự chịu đựng gian khó lâu dài như thế!
Bây giờ Thầy nằm xuống,
chúng con bơ vơ lạc lõng như mất cả mặt trời. Nhớ nụ cười, giọng nói
hiền hòa bao dung của Thầy, không sao ngăn được lệ trào. Cả những
khi Thầy nghiêm khắc dạy răn, chúng con vẫn cảm nhận được lòng
thương yêu của Thầy, của một bậc cha lành đối với đàn con thơ dại.
Từng cử chỉ, từng bước chân, từng lời nói, Thầy luôn luôn từ tốn,
khiêm cung, và lúc nào cũng chăm chút tỉ mỉ hướng dẫn chúng con học
hành chánh đạo. Vậy mà chúng con cứ làm trái ý Thầy, chưa nỗ lực tu
tập đúng mức hoặc mãi vô minh chạy theo dòng đời, không thực hiện
được những lời dạy vàng ngọc của Thầy… Giờ này có thức tỉnh thì Thầy
cũng đã lên đường về nơi tịch diệt. Trước linh đài, chúng con xin
thành tâm sám hối và kính xin Thầy từ bi tha thứ như Thầy đã từng
ban cho chúng con trong quá khứ mỗi khi chúng con lầm lỗi. Ân nặng
của Thầy, chúng con muôn kiếp cũng không báo đền nỗi. Chỉ xin nguyện
từ nay sẽ nỗ lực y theo giáo huấn của Thầy mà tu tập và góp phần
hoằng dương Chánh Pháp.
Kính bạch Giác Linh Thầy,
Cũng theo lời dạy của Thầy,
chúng con biết rằng ngay cả sự sinh diệt cũng là huyễn hóa không
thật. Dù sao thì với tâm trí phàm phu cạn cợt, chúng con không sao
đè nén được cảm xúc thường tình để khóc
thương và tiếc nhớ Thầy. Ở nơi tịch diệt
vô sinh, xin Thầy chứng giám cho hàng môn đồ hiếu quyến của chúng
con, xin cho chúng con được một lần cuối, tiễn biệt Thầy bằng cung
cách của những đứa con thơ dại. Ba lạy này, xin tiễn đưa Thầy về cõi
chân thường bất diệt.
Nam Mô Tự Lâm Tế Chánh
Tông Tứ Thập Nhị Thế húy thượng Như hạ Phụng, tự Thiện Trì, hiệu Ấn
Ðạo giác linh Hòa Thượng Ân Sư thùy từ chứng giám.
|
--- o0o ---
****
Xem tiểu sử
cố Hòa Thượng Thiện Trì
Cập nhật:
15-08-2004
Vi tính: Diệu Mỹ