Thành Kính Tưởng Niệm
Cố Hòa Thượng Thích Đổng Minh
SÓNG LƯỢN LƯNG ĐỒI
Tưởng niệm Giác linh HT. Thích Đỗng Minh, Phó Viện Trưởng Viện nghiên
cứu
Phật học Việt Nam, Trưởng ban phiên dịch Pháp Tạng Phật Gíao Việt Nam
TỊNH MINH
Non nửa thế kỷ qua
(1957 – 2005), phần lớn Tăng, Ni sinh tu học tại các Phật học viện miền
Trung và miền Nam đều thọ hưởng ân đức dưỡng dục của Hòa thượng Thích
Đỗng Minh, đặc biệt là những anh chị em tu học ở Phật học viện Hải Đức
và Diệu Quang, Nha Trang. Những giờ lên lớp của Hòa thượng quả thật đã
để lại trong lòng học trò những ấn tượng vô cùng thú vị và hiệu quả.
Những môn Thầy -
xin được gọi như vậy để bày tỏ chút tình nồng ấm mà tôi đã được Thầy
thương yêu dưỡng dục trong tám năm trời - thường giảng dạy là: bộ
Luật trường hàng, Nhân minh luận, Duy thức tam thập tụng, Duy thức
phương tiện đàm, Kinh di giáo, Khuyến phát bồ đề tâm văn v.v…, nhưng
hình như Thầy thích dạy bộ Luật tỳ ni nhựt dụng thiết yếu, Nhân minh
luận, và Duy thức học nhất. Những ai đã học với Thầy thì khó có thể
không thuộc lòng bộ luật: Tỳ ni, Sa di, Oai nghi, Cảnh sách bằng
chữ Hán, và danh hiệu 100 pháp trong Bách pháp minh môn. Cách dạy
của Thầy cực kỳ sống động và đạt chất lượng. Thầy không dạy nhiều, chỉ
năm mười câu mỗi khi lên lớp, nhưng định nghĩa, giải thích, minh họa,
triển khai sự kiện và ngữ nghĩa rất mực phong phú, khiến học viên nào
cũng nắm vững vấn đề, thuộc ngay tại lớp, và thấy lâng lâng trong lòng
khi ra về. Đó là mục tiêu giảng dạy của Thầy. Thuộc lòng và thuộc lòng.
Thầy muốn trang bị hành lý tương đối đầy đủ cho Tăng Ni sinh lên đường,
tiếp nối tôn chỉ “Duy Tuệ Thị Nghiệp” của Đức Thế Tôn. Thầy đã
gieo vào đầu óc, tâm tư, tình cảm học trò của Thầy những nét giáo điển
cơ bản, vững chắc, thú vị mà suốt đời họ không sao quên được.
Nghệ thuật giảng
dạy đương đại là ứng dụng phương pháp phát vấn (communicative approach),
tức là nêu vấn đề cho cả lớp thảo luận. Mục đích là phát huy ý thức tập
thể, kích thích năng lực sáng tạo, và thể hiện bản lĩnh tự tin trước
cộng đồng sinh hoạt. Nếu học tập trong môi trường như vậy, học viên sẽ
dần dần nâng cao khả năng lý luận, biến hóa, linh hoạt, sôi nổi trong
từng chủ đề hay tình huống. Học kinh văn giáo điển, nhất là luật tạng,
có phần nghiêm trang mẫu mực hơn, nhưng Thầy mỗi khi lên lớp là mang
theo tiếng cười sảng khoái cho học trò, bất cứ dạy môn nào. Trong giờ
học, Thầy hay hỏi bất tử, gây ngạc nhiên, lúng túng cho những ai tỏ ra
chủ quan, giải đãi. Có lần đang giảng nhân minh luận, bỗng nhiên Thầy
hỏi:
- Chú L.,“Tiền
lộ mang mang vị tri hà vãng” là gì?
L. đang thì thầm
nói chuyện với anh bạn bên cạnh, giật mình đứng phắt dậy, đáp giọng
Quảng Ngãi:
- Bạch Thầy, “Tiền
lộ moang moang vị tri hà voãng” là “Đường đời mịt mờ vạn nẻo về mô!”
(1)
Cả lớp cười ầm lên.
Có anh thấm ý, cười nghiêng qua ngả về, và Thầy cũng đứng cười hề… hề…
hề…, rung cả hai vai.
Một lần khác,
trong giờ dạy luật, Thầy đang hưng phấn đi đi lại lại trước bảng, giảng
đoạn : “Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục,
thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam
hữu…”
(2)
với cách minh họa
(illustration) quyết liệt nhưng rất có duyên: mỗi bước đi, Thầy nhấc
chân lên cao một chút rồi từ từ thả xuống, cho thấy đã là người xuất gia
tu hành, làm đệ tử Phật, thì mỗi bước chân đi phải vươn tới phương trời
siêu việt. Bỗng dưng Thầy dừng lại, quay nhìn xuống lớp, chỉ tay hỏi:
- Chú H., “Tam đồ
bát nạn cu ly khổ” là gì?
(3)
H. đứng lên cười
bẽn lẽn, nhìn qua nhìn lại ra dạng cầu cứu, rồi đưa tay gãi gãi mang
tai, ấp úng đáp:
- Bạch Thầy… “Tam
đồ bát nạn cu ly khổ” là… “Đã là cu ly thì ở đâu cũng khổ”.
- Hừ!… Biết vậy mà
vẫn muốn làm cu ly!
Cả lớp được dịp
phát cười sảng khoái. Có anh cười quá trớn, vừa sặc vừa ho, nước mắt
nước mũi chảy ra tèm lem, làm cho nhiều anh khác rung chân, vỗ đùi, cười
to hơn nữa! Ngồi mơ màng, tán tâm tạp thoại là bị Thầy “chiếu tướng” như
vậy đó!
Trong tác phẩm
The Art of Teaching (Nghệ thuật giảng dạy), Gilbert Highet lý luận
rằng giáo viên dạy giỏi phải hội đủ bốn yếu tố: 1. Quán triệt bộ môn
giảng dạy. 2. Đam mê nghề nghiệp. 3. Nhiệt tình công tác. 4. Yêu thương
học trò. Quán triệt bộ môn thì tự tin trên bục giảng. Đam mê nghề nghiệp
thì luôn cải tiến kỹ năng và đổi mới phương pháp. Nhiệt tình công tác
thì được tập thể quý mến. Yêu thương học trò thì được học trò và xã hội
kính trọng. Ngoài ra, một trong những phẩm chất quan trọng nhất của
người giáo viên dạy giỏi là tinh thần khôi hài. Và mục đích chính của sự
khôi hài là tạo mối quan hệ mật thiết giữa thầy và trò (The real
purpose of humor is to create a close relationship between teacher and
students).
Trong năm yếu tố
nêu trên, Ôn Đỗng Minh không những có đủ mà còn vượt trội. Ôn mê dạy
học. Ôn đã suốt đời cống hiến trí tuệ và nghị lực cho sự nghiệp đào tạo
Tăng Ni theo hạnh nguyện “tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức”. Có lần Ôn
tâm sự rằng trong chín năm kháng chiến chống Pháp, Ôn đã tham gia phong
trào xóa nạn mù chữ bằng cách mở lớp học miễn phí tại chùa, dạy cho
những con em nghèo khổ trong làng. Sau ngày giải phóng 1975, có những
quan chức chính quyền đến thăm Thầy, ngồi bệt dưới đất, vò hai đầu gối
Thầy mà thốt ra những lời thắm thiết: “Nhờ Thầy mà con có được ba chữ
trong bụng. Hồi đó con biết đọc, biết viết, biết cộng trừ nhân chia là
nhờ ơn Thầy”. Đấy!… Công hạnh của Ôn là vậy đấy! Thảo nào có một dạo sa
sút tinh thần, gặp Ôn tại chùa Già Lam, tôi tâm sự:
- Con chán dạy học
quá rồi Ôn ơi! Xin Ôn cho con lời khuyên!
Ôn cười chúm chím,
nụ cười đầy ấn tượng đối với những ai dù chỉ một lần gặp Ôn, nói:
- Nếu như tôi có
một điều ước, thì tôi ước làm ông cai giữ trường hơn là làm giám đốc
ngân hàng.
Ôn ơi!… Chính nhờ
lời động viên vi tế đó mà con còn được hân hạnh ngắm nhìn những tia nắng
vàng lung linh trên hoa lá trước sân trường. Xin cảm ơn và đảnh lễ Ôn!”
Nay Ôn không còn nữa. Ôn đã quảy không tâm vào tam muội thường hằng,
nhưng âm ba của Ôn, từ lưng đồi Trại Thủy Nha Trang, vẫn vang vọng, ngân
xa, lan tỏa và thấm đẫm vào lòng Tăng Ni, Phật tử khắp bốn phương trời.
Hy hữu thay!
Chú thích:
(1)
Lời của
một bài hát được giới trẻ ưa thích ở thập niên 60.
(2)
Đã là người
xuất gia thì mỗi bước chân đi phải vươn tới phương trời siêu việt, tâm
tánh và hình tướng khác với thế tục, phát huy dòng giống thánh nhân,
hàng phục ma quái, nhằm đền đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi.
(3)
Tam đồ: hỏa
đồ, huyết đồ, đao đồ, tức là ba cõi hình phạt nghiệt ngã: địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh. Bát nạn: tám chướng nạn. Người nào rơi vào một trong tám
nạn này thì khó mà tu hành thành đạt. 1. Địa ngục, 2. Ngạ quỷ, 3. Súc
sanh, 4. Bắc cu lư châu (nơi cực kỳ sung sướng), 5. Vô tưởng thiên (cõi
trời không còn tư duy), 6. Manh lung ám á (đui điếc câm ngọng), 7. Thế
trí biện thông (giỏi biện thuyết chuyện thế sự), 8. Tiền Phật hậu Phật (trước
Phật và sau Phật). Vậy “Tam đồ bát nạn cu ly khổ” là vượt thoát ba đường
ác, tám cảnh khổ.
(Đã đăng trong Nguyệt San Giác Ngộ số 112
tháng 7 năm 2005)
---o0o---
Trở về Trang Tưởng Niệm Cố Hòa
Thượng Thích Đổng Minh