TƯỞNG NIỆM CỐ HÒA THƯỢNG
Thượng MÃN Hạ GIÁC
Viên tịch ngày 22-8 năm Bính Tuất
Vầng Đông đã lặn về Tây
Trần gian mãi một khôn khuây cõi lòng.
Hôm nay chúng con được tin Hòa Thượng vừa thâu thần thị
tịch, xã báo thân để trở về nơi bổn quốc. Nơi đi về của
những bậc đại lão tiền bối khi hạnh nguyện đã mãn, trách
nhiệm độ sanh đã tròn.
Chúng con chỉ là hàng hậu học bé nhỏ sau này chỉ “Văn kỳ
thinh bất kiến kỳ hình”, không được cái duyên may diễm
phúc để diện kiến đảnh lễ dung nghi đạo hạnh của ngài.
Tuy nhiên khi còn ngồi ghế nhà trường con cũng nghe các
vị Thầy, các vị Giáo Thọ đã từng ca ngợi, tán than công
hạnh cũng như kiến thức uyên thâm của Ngài
Giờ đây, thuận thế vô thường Ngài đã quy Tây, chúng con
bàng hoàng xúc động không khỏi bùi ngùi kính tiếc.
Hỡi ơi còn đâu nữa !
“Thân tứ đại trả về cho tứ đại
Luật vô thường đâu ngại cõi nhân thiên
Thuận thế gian Ngài giáo hóa tùy duyên
Giờ giã biệt về miền Chơn Lạc Cảnh “
Kính lạy Giác Linh Ngài !
Cội tùng đà ngã bóng, Bậc Long Tượng xuất trần đã ra đi,
áng mây trôi và trôi đi mãi nào ai biết bao giờ trở lại,
cánh hạc vỗ cánh tung trời không in dấu.
Giờ này nơi Mỹ Quốc mây mù giăng phủ, biển đượm màu
tang. Bao người đều ngậm ngùi rơi lệ kính thương tiếc
nuối cho một vị Cao Tăng tài đức; một bậc anh tài xuất
chúng suốt đời tận tụy hy sinh cho đạo pháp; Một ngòi
bút lão luyện siêu phàm; Một rừng kiến thức Đông Tây;
Một biển văn chương tuyệt tác.
Bao nhiêu tác phẩm thi ca, bao nhiêu trước tác dịch
thuật, Ngài đã dâng tặng cho đời, cho nhiều thế hệ.
Hàng Tăng Ni trẻ chúng con nương nhờ ân đức, được thấy
nghe thấm nhuần những dòng pháp lạc vô biên, những vần
thi ca vô giá.
Trong đó nỗi bậc bài thơ “ Nhớ Chùa “ do Ngài sáng tác
vào năm 1949. Là một tác phẩm hiện thực, sống động đã đi
vào nền thi ca văn hóa dân tộc.
Không phải riêng con mà hầu hết Tăng Ni, sinh viên đều
ưa thích ngưỡng mộ.
Lời văn tuy đơn sơ bình dị, không cầu kỳ, không bóng bẩy
trau chuốt, chỉ miêu tả một cách tự nhiên về sự vật, về
thiên nhiên cảnh vật. Thế nhưng trong đó có những nét
thuần túy độc đáo và cũng là một ấn tượng sâu sắc khắc
vào tâm trí của chúng con mỗi khi đọc đến.
Hơn nữa, những Tăng sĩ du phương học đạo thì ai ai cũng
đều mang một tâm trạng như nhau là “ Nhớ Chùa”.
Cho nên tác giả đã đánh vào tâm lý đó qua câu:
“Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng “
Ở đây Ngài chỉ dùng có một từ “ Nhớ” thế mà nó đã hàm
chứa tất cả, nhớ da diết, nhớ nao nao tất dạ. Tiếng
chuông Chùa từ xa vọng lại khơi dậy tâm tư của người xa
quê hương, xa xứ sở một nỗi nhớ lạ lùng.
Tuy tựa đề tác giả dùng hai từ “ Nhớ Chùa” rất ngắn gọn,
rất đơn độc, nhưng tùy ở mỗi người suy diễn, có thể
không hẳn là chỉ nhớ có ngôi Chùa cổ kính nơi làng quê
yêu dấu, mà trong đó phải có Thầy Tổ, có huynh đệ có tất
cả và tất cả …
Vì phải có những vị Thầy đi trước mới nuôi nấng ta,
hướng dẫn ta, phải có những bàn tay hiền dịu mới vỗ về
ta.
Tất cả những kỹ niệm buồn vui đều gói trọn trong đó
Cho nên giờ này:
“Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung “
Ngôi Chùa là chùa chung cho tất cả. Nơi đào tạo rèn
luyện những con người xuất tục, nó được truyền thừa từ
đời này sang đời khác, từ thế hệ nọ đến thế hệ kia, chứ
Chùa không dành riêng cho một ai, là mái ấm của cả đại
gia đình .
Ngôi Chùa còn là xứ sở của giống nòi, là bóng mát thiêng
liêng của nhân loại. Nơi che chở reo rắc niềm tin, nơi
anh linh nương tựa.
Dù cho trãi qua bao giông tố, bao tang thương biến đổi,
thì ngôi Chùa vẫn uy nghiêm, vẫn còn mãi trong lòng
người.
Do đó Ngài đã kết đúc bằng hai câu cuối :
“ Mái Chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của Tổ Tông “
Thích Nữ Như Tuyết
(Victoria, Úc Châu)
|