KINH
THÀNH KAPILAVATTHU VÀ VỊ QUỐC VƯƠNG
Nếu thời niên
thiếu, hoàng tử Siddhattha nhìn ra phương bắc, chàng thường
thấy rặng núi trùng điệp nhấp nhô đến tận chân
trời. Theo chàng biết, nơi này chỉ xa khoảng tám yojana:
do-tuần (80km) nhưng rất khó đến, vì thành Kapilavatthu
bị ngăn cách rặng núi bằng một dãi lau sậy và rừng
rậm đầy hổ báo, voi, tê giác lai vãng và nhiều người
liều lĩnh băng qua rừng rậm này đều chết vì sốt rét.
Song nếu ta vượt qua chướng ngại này thì mặt đất
lại bằng phẳng lên cao dần và ta đến vùng đồi cỏ cây
thưa thớt. Phía sau các chân đồi (nay là Sivalik hay Churia)
là một thung lũng xanh tươi và tiếp đó nữa lại là
rặng núi Mahàbhàrata, từ thành Kapilavatthu ta có thể
thấy được vài đỉnh núi này. Sau rạng núi tục truyền
còn nhiều núi cao hơn nữa, đó là dãy Himavat hay Himàlayas
(Tuyết Sơn) với các đỉnh tuyết hùng vĩ cao ngất tận
trời xanh, đó là nơi tận cùng xứ Jambudìpa (Diêm-phù-đề)
hay lục địa Hồng Ðào này vậy.
Quang cảnh hướng
về đông ít trở ngại hơn. Phía ấy có thôn làng Lumbini
là nơi chính thái tử Siddhattha đã ra đời dưới một
gốc cây và xa hơn nữa là Devadaha, nơi mẫu hậu Màyà mà
chàng chưa từng biết và kế mẫu Pajàpati đã sinh trưởng,
và đó cũng là nơi ngoại tổ Anjana đã sống. Từ Devadaha
ta có thể đi vài ngày đường về hướng mặt trời
mọc, song rồi lại gặp rừng rậm và hoàn cảnh trở nên
nguy hiểm. Tại đó các thổ dân da đen lai vãng săn bắn và
nói thứ ngôn ngữ không ai hiểu được.
Cảnh về phía tây
lại hoàn toàn khác. Phía ấy có con đường cái đưa đến
các thành Setavyà và Sàvatthi và miền xa hơn nữa, tại Sàvatthi
có vị đại vương mà phụ vương Suddhodana thường nói đến,
khi yết kiến vị đại vương này, ta phải chấp hai tay
lại, cúi đầu đảnh lễ (añjali)
thật cung kính. Ðại vương ấy có quân hùng tướng
mạnh, đôi khi vài đội binh chủng của họ kéo đến thành
Kapilavatthu đều được tiếp đón trọng thể.
Ta có thể du hành
bình an đến thành Sàvatthi: quân đội nhà vua canh phòng
cẩn mật để các đoàn lữ hành bằng xe bò mang đủ
loại hàng hóa qua lại không bị bọn đạo tặc quấy phá.
Thường các đoàn xe từ Sàvatthi đi qua ít khi dừng lại
ở Kapilavatthu, mà tiếp tục đi về hướng đông nam đến
Kusinàrà và Vesàli, cuối cùng vượt qua sông Hằng đến
Pataligàma và tiếp tục đi đến Ràjagaha, nơi đó lại có
một đại vương khác ngự trị.
Thái tử từng
nghe nói nếu ai muốn, có thể lên thuyền ở Pàtaligàma và
dong buồm đi vài ngày nữa lên thượng lưu sông Hằng đến
Vàrànasi (Benares) và Payàga (Allàhabad). Khi lớn khôn, chàng
sẽ du ngoạn các nơi ấy và nhiều thành phố khác nữa để
về kể chuyện cho dân chúng nghe. Nhưng hễ khi nào chàng
phát họa các chương trình nầy với Phụ vương, vua
Suddhodana đều cười xoà và lắc đầu, bảo rằng một
vị Thích-ca không được phép phiêu bạt giang hồ như
một khất sĩ xuất gia (paribbàjaka), một kẻ chăn bò
hoặc thương nhân, mà ở vị trí một nông gia Sát-đế-lỵ,
chàng phải canh tác ruộng đất, luyện tập nghề binh khíù,
để một ngày kia được bầu lên làm vua cai trị như chính
phụ vương vậy.
Rồi Phụ vương
chàng thường chỉ ra các đồng ruộng chung quanh với các
bụi cây Sàla sừng sững, và phía kinh thành Kapilavatthu vươn
lên dưới ánh mặt trời với “hoàng cung” cùng các ngôi
nhà tranh vách đất hay các chòi tre nứa trong làn không khí
lung linh nắng nhạt.
-Khung cảnh ngày
nay tương ứng với thành Kapilavatthu ngày xưa ra sao vẫn còn
là vấn đề được các nhà khảo cổ học bàn luận. Nhà
chiêm bái Trung hoa Fa-hsien (Pháp Hiển) đến hành hương
các Phật tích Ấn Ðộ khoảng giữa năm 399 và 414 CN, đã
phát biểu những lời dường như muốn chỉ rõ các di tích
ở cạnh vùng Pipràvà ngày nay trên đất Ấn, cách phía
nam Lumbini 12 km. Vị đồng hương của ngài là Hsuan-tsang
(Huyền Trang) đi chiêm bái Phật quốc vài thế kỷ sau (629
- 645) để tìm hiểu Thánh điển, cũng cho biết các
khoảng cách và lời hướng dẫn chỉ đường đến di tích
ở Tilaurakot trong vương quốc Nepal, cách tây bắc Lumbini 24
km. Biên giới Ấn Ðộ -- Nepal nằm giữa hai địa điểm này,
chúng cách nhau 16km nhưng phong cảnh giống nhau.
Cuộc tranh luận
về quê hương đức Phật không hoàn toàn thoát khỏi
những thành kiến của mỗi dân tộc. Các học giả Nepal bênh
vực vùng Tilaurakot nhấn mạnh phạm vi của di tích này, và
sự hiện diện của một bức thành cổ với hào lũy bao
bọc Tilaurakot: đó là những đặc điểm mà chỉ kinh thành
vua chúa ngày xưa mới có được. Họ nêu lên rằng
Tilaurakot, cũng như Kapilavatthu trong Kinh Ðiển Phật giáo,
nằm trên bờ sông mà lòng sông này đã chuyển đi 400m
về phía tây bắc.
Ðể nhấn mạnh
lời tuyên bố họ làm chủ vùng Kapilavatthu lịch sử này,
năm 1961 chính phủ Nepal “đổi tên” Tilaurakot và toàn
thể vùng lân cận thành Kapilavastu (tên chữ Sanskrit
của Kapilavatthu), để cho vùng này mang tên ấy trên
các bản đồ gần đây.
Mặt khác các nhà
khảo cổ Ấn Ðộ chủ trương rằng Kapilavatthu giống
hệt vùng Pipràvà của Ấn, đã đặt lời công bố chủ
quyền dựa trên các khám phá sau đây.
-Năm 1898, trong
một ngôi tháp bằng gạch gần Pipràvà, năm cái bình được
phát hiện, một cái được miêu tả theo lời ghi bằng
thứ chữ Bràhmì trong ngôn ngữ Màgadhì là chiếc bình đựng
xá lợi đức Phật Thế Tôn của bộ tộc Sakiya. Chiếc bình
này đựng tro và một số vật cúng dường rất nhỏ.
-- Năm 1972, dưới
tháp này, lại tìm thấy một ngôi tháp còn cổ hơn nữa,
được đánh giá vào thế kỷ thứ năm trước CN, cùng
với hai chiếc bình chứa khoảng mười hay mười hai khúc
xương (của đức Phật?).
-- Năm 1973, tháng
4, trong một di tích tu viện xây khoảng thế kỷ 1 hoặc 2
CN, tại Pipràvà, lại tìm thấy nhiều tấm bia bằng gạch
nung mang nhiều lời ghi chú khác nhau nói đến “ngôi tinh
xá ở Kapilavatthu” hoặc ở “Ðại Kapilavatthu “và một
chiếc nắp bình tại đó cũng mang những lời tương tự.
-- Năm 1976, tháng
6, cuối cùng, ở cách tây nam Pipràvà khoảng một ki-lô-mét
tại một nơi tên là Ganwaria, lại khám phá ra di tích của
một quần thể kiến trúc thời xưa được suy diễn ra là
“hoàng cung” của vua bộ tộc Sakiya.
Mặc dù chiếc bình
có ghi chữ ở Pipràvà được tìm thấy năm 1898 là một
chiếc bình bằng đá láng Steatite cao 153mm với chiếc nắp
cũng được khắc chữ, quả thật ra vẻ đựng tro xá
lợi Phật, các khám phá khác ở Pipràvà và Ganwaria lại rõ
ràng không chứng minh được Pipràvà chính là quê hương
đức Phật. Có lẽ chúng ta cần phân biệt cổ thành
Kapilavatthu, bối cảnh thiếu thời của thái tử Siddhattha
và tân thành Kapilavatthu. Vì xưa kia vua Vidùdabha nước
Kosala chiến thắng bộ tộc Sakiya thời đức Phật tại
thế và tiêu diệt cổ thành Kapilavatthu (tức Tilaurakot), nên
có lẽ đám người Sakiya sống sót di tản từ cổ thành
về sau lập nghiệp tại vùng Pipràvà ngày nay và xây
dựng Tân thành Kapilavatthu (hay Ðại Kapilavatthu), nơi đây
họ đã tôn thờ xá lợi Phật sau khi ngài diệt độ.-
Ðịa điểm chính
xác về quê hương thái tử Siddhattha chỉ còn cách phải
chờ đợi từ các cuộc khai quật tương lai. Ðặc biệt là
vùng Tilaurakot cần được điều tra thấu đáo hơn nữa --
ngành khảo cổ bằng máy bay có thể sẽ cung cấp nhiều
di chỉ quan trọng, song ngành này từ trước đến nay vẫn
chưa thí nghiệm việc ấy.
Chúng ta đã
biết rõ về cơ cấu chánh trị của -cộng hòa Sakiya được
ban ra từ thành Kapilavatthu. Khi hai hoàng tử Siddhattha và
Nanda ra đời, phụ vương Suddhodana như đã nói trên, là
vị quốc trưởng được bầu lên đang cai trị lãnh thổ
này. Ngài cầm quyền bao lâu thì không được biết, nhưng
rõ ràng ngài đã giữ chức vụ ấy trong hàng chục năm.
Khi thái tử Siddhattha trở về thăm quê hương vào tuổi ba
mươi sáu, phụ vương ngài vẫn cầm quyền. Vì quốc trưởng
được bầu lên từ giới quí tộc võ tướng hay triều
thần, có thể những cuộc bầu cử ấy không diễn ra ở
các khoảng thời gian cố định, mà do nhu cầu, hoặc là vì
quốc vương già yếu không đảm trách nhiệm vụ đầy đủ,
hoặc vì Ðại vương Kosala, vị chúa tể của cộng hòa
Sakiya muốn đưa người mới lên thay.
Hiển nhiên là
vị quốc vương một khi được bầu cử rồi, chỉ có
thể cầm quyền nếu được Ðại vương Kosala chấp
thuận. Như vậy quốc vương Sakiya bao giờ cũng là người
thân tín của đại vương Kosala -- đó là một yếu tố
mở ra nhiều cửa thuận lợi cho các hoàng tử và về sau
còn giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp hoằng Pháp viên
mãn của thái tử Siddhattha.
Khác với cộng hòa
Licchavi có cả ba quốc vương cùng cai trị, vua Suddhodana
cai trị chỉ một mình, nhưng không giữ độc quyền
quyết định, vì mọi vấn đề quan trọng đều được bàn
luận ở hội đồng của nước cộng hòa. Các kỳ họp
trong phòng hội đồng vốn được mở ra mọi phía nên
mọi tầng lớp xã hội đều có thể nghe được, mặc dù
chỉ các nam nhân quý tộc được quyền phát biểu và
giữ vai trò tích cực trong việc quyết định quốc sự.
Do vậy các vị ấy được gọi là các nhà cai trị (ràjana).
Ở Ấn Ðộ cổ
đại không có việc bầu phiếu vì dân chúng chưa hề nghĩ
đến việc một nhóm đa số với quyền ưu tiên do đông
người có thể bắt buộc một nhóm thiểu số gồm nhiều
ý kiến khác nhau phải tuân theo một quyết định nào đó.
Cuộc họp chỉ kéo dài cho đến khi nào phe đối lập được
thuyết phục hoặc do quá mệt mỏi nên đã nhượng bộ và
đi đến thỏa hiệp. Ðể đạt được sự thống nhất ý
kiến như vậy, vị quốc vương chủ tọa hội đồng
phải có khả năng đàm luận và tài thuyết phục hùng
-hồn. Ðó là các đặc tính mà chắc hẳn vua -Suddhodana đã
đạt đến cao độ và thái tử Siddhattha thừa hưởng về
sau.
Ta có thể hình
dung được vùng đất do vua Suddhodana cai trị theo lời nhà
chiêm bái Trung Hoa Huyền Trang. Ngài cho ta biết vùng lãnh
thổ Sakiya có chu vi 4.000 lý (khoảng 1880 km) và gồm mười
thành phố mà nhà du hành ở thế kỷ thứ bảy này thấy
đã đổ nát hoang tàn. Ngài bảo kinh thành Kapilavatthu được
một bức thành bảo vệ, vẫn còn thấy rõ các nền bằng
gạch của nó dài khoảng 15 lý ( bảy ki-lô-mét). Rõ ràng
mười thành phố này phần lớn trùng hợp với chín thành
phố được mô tả trong Kinh Ðiển Phật giáo như các đô
thị bộ tộc Sakiya: Ngoài kinh thành Kapilavatthu, là
Devadaha, Càtumà, Sàmagàma, Khomadussa, Silàvati, Medatalumpa,
Ulumpa và Sakkàra. Có lẽ đó là các thủ phủ địa phương,
mỗi nơi là một thị trấn, trung tâm thương mại của
nhiều làng xã.
Những lời xác
nhận của ngài Huyền Trang ít ra cũng khiến ta có thể
kết luận một cách khái quát về lãnh thổ và dân chúng
của cộng hòa Sakiya. Vùng đất này có lẽ rộng khoảng
2000km2, phần lớn gồm rừng rậm và không được canh tác.
Nếu ta giả thiết đối với vùng đất phì nhiêu ở trung
ương bình nguyên Tarai và tính thấp hơn so với con số khá
cao hiện nay, mật độ trung bình 90 người trên 1km2, ta
sẽ có tổng số 180.000 dân trong đó 8000 người sống ở
thành Kapilavatthu và 4000 người sống ở một trong tám hay
chín thị trấn kia. Như vậy, khoảng 40.000 cư dân cộng hòa
Sakiya là dân thành- thị, và phần còn lại 140.000 là dân
thôn quê. Giới quý tộc- võ tướng có lẽ khoảng 10.000
người hầu hết sống ở đô thị, nhưng cũng như đa số
dân chúng, họ đều làm nghề nông.
Trong các phận
sự của quốc vương thì việc thu thuế là việc không
được dân chúng ưa thích chút nào và mức độ thâu
thuế cũng không được biết rõ. Dân quê thường trao đổi
hàng hóa lẫn nhau, hầu như không biết đến tiền, nên
phải đóng góp bằng sản phẩm, phần lớn là lúa, cho
những người thu thuế đặc biệt phải có sẵn kho chứa
và đem lên thành thị bán lại. Thuế đánh vào nông dân tùy
thuộc kết quả thu hoạch, việc ấy do người đánh thuế
qui định. Thời ấy chưa có nguyên tắc thâu thuế như ở
Ấn Ðộ sau này, theo đó mọi đất đai đều thuộc vào
nhà vua, vua thâu tiền thuê ruộng đất từ người sử
dụng chúng.
Khi hoàn cảnh cho
phép, thuế được thâu bằng tiền chứ không phải nông
sản. Vì thời ấy chưa có thứ đồng tiền đánh dấu nhà
nước nên hệ -thống tiền tệ gồm các thỏi đồng hay
bạc hình vuông trị giá theo cách chia nhỏ đồng tiền Kahàpana.
Một con bò sữa giá từ 8 đến 12 đồng Kahàpana.
Ðồng tiền Kahàpana
được chia ra 4 pàda = 20 màssakas. Các số
tiền nhỏ hơn được tính bằng vỏ ốc đánh bóng rực
rỡ. Những đồng tiền này mang dấu hiệu của một vị
chủ ngân khố tư nhân phát hành, bảo đảm đúng cân
nặng và cam kết trả lại theo giá trị thật bằng hàng hóa.
Vị này cũng làm thêm việc của người cho vay. Nên không
lạ gì các nhà tài phú tích trữ tiền bạc trở thành
những người thế lực nhất trong xã hội.
Ta không biết rõ
vua Suddhodana phải trả phần thuế bao nhiêu cho vị chúa
tể ở Sàvatthi là Ðại vương Kosala. Vì thuế lợi tức
thay đổi theo mùa gặt, nên có lẽ đó không phải là số
tiền cố định. Cũng có thể Ðại vương Kosala đã hài lòng
với những món cống vật mà thỉnh thoảng cộng hòa
Sakiya gửi tặng như một dấu hiệu phục tùng.
Các phận sự khác
của quốc vương gồm các việc công cọng như xây đường
sá, trạm xe, làm thùng đựng nước đắp đập và đào
giếng. Vì không ai xung phong làm những công tác này, nên
những người có thể lực cường tráng, nhất là các tay
thợ lành nghề đầy đủ kỹ năng bị buộc phải cống
hiến sức lao động cho vua (Ràjakariya). Những công tác
này được các kỹ sư đặt kế hoạch và điều khiển,
họ được vua trả lương lấy từ tiền thuế. Những công
việc xây dựng công viên, đắp đập, làm thùng đựng nước...
được đức Phật liệt kê- vào danh sách các công đức
thiện sự đưa đến tái sanh vào cõi lành. (SN1. 5. 7)
-Ngoài các công
việc nội bộ, vua Suddhodana còn bận rộn trong lãnh vực
ngoại giao ở hai mặt. Ðặc biệt ngài phải duy trì mối
quan hệ với Ðại vương nước Kosala ở Sàvatthi, vị chúa
tể của toàn cộng hòa Sakiya. Ngài cần phải giữ gìn
thiện ý và sự tín nhiệm của vị đại vương này đối
với một tiểu quốc cộng hòa, đồng thời phải giữ
một khoảng cách vừa đủ để bảo tồn một phần độc
lập cho nước cộng hòa an hưởng. Vua Suddhodana hẳn thường
đi công du đến Sàvatthi để dự các phiên họp giữa các
quốc vương.
Trong khi chính sách
quốc gia của nước Kosala, việc chấm dứt các liên minh và
gây chiến đều ở trong tay vị đại vương này, các
quốc vương cộng hòa và bộ tộc chỉ còn trông cậy vào
“chính sách láng giềng tốt”. Ðây là ngành hoạt động
ngoại giao thứ hai của vua Suddhodana. Mục đích là đi đến
các thỏa hiệp với các lân bang kế cận mà không phải
hy sinh các quyền lợi căn bản quốc gia. Các vấn đề thông
thường nhất là việc điều hành cánh đồng chăn nuôi và
dẫn thủy nhập điền dọc theo các biên giới. Tài nghệ
của vị quốc vương được thi thố qua khả năng đem
lại những giải pháp thỏa đáng cho cả đôi bên.
Chiến sự không
phải là phận sự của quốc vương. Ngài phải duy trì hòa
bình, nhưng nếu ngài thất bại trong việc này, và chiến
tranh bùng nổ thì việc binh đao sẽ do vị đại tướng quân
sự (senàpati) điều khiển, vị này giữ chức vụ
độc lập đối với quốc vương. Trong quốc độ Kosala,
tất cả tướng lãnh điều khiển các lực lượng trọng
tâm cũng như các tướng lãnh của các cộng hòa và bộ
tộc đều đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp
của đại vương.
Nhờ cách này, đại
vương ngăn cản các vua chư hầu phối hợp với các đại
tướng của họ để cầm quyền chính trị bằng vũ lực
trong nước mình.
Ðối với các
quốc vương, sự phân quyền chính trị và quân sự có hai
mặt. Về một mặt, họ biết rằng vị đại vương, qua cá
nhân vị đại tướng, có sẵn sàng phương tiện khống
chế họ để buộc họ tuân theo lệnh trên. Mặt khác,
họ cũng được bảo vệ khỏi bị âm mưu nổi loạn từ
phía vị đại tướng, bởi vì đại vương không bao giờ
dung thứ sự phế truất quốc vương mà ngài đã bổ
nhiệm và sự tiếm quyền chính trị của đại tướng.
Một lãnh vực
hoạt động khác của vua Suddhodana là lãnh vực công lý,
bao gồm các hành vi dân sự quan trọng và các tội phạm.
Chúng ta không biết chính xác bao nhiêu phạm nhân bị bắt
giữ và tòa án diễn ra theo hình thức gì ở bộ tộc
Sakiya, nhưng có thể rút ra kết luận từ các cộng hòa
Koliya, Malla tiếp giáp cộng hòa Sakiya ở phía đông nam. Các
xứ này có lực lượng trị an với các nhân viên canh phòng
vừa nổi bật qua cách để râu tóc đặt biệt vừa khét
tiếng tàn bạo độc tài và tham nhũng.
Tiến trình pháp
luật giữa bộ tộc Sakiya có lẽ hơi khác thủ tục của
liên bang Vajji. Tại đây, căn bản quyền phán xét là một
bộ luật (thành văn?), có lẽ bao gồm các phương châm
hoặc quyết định về các vụ tố tụng điển hình. Các
chuyên gia luật pháp tham dự mọi phiên xử và bảo đảm
việc xét xử theo đúng bộ luật này. Quyền lợi của hai
phe hoặc của bị cáo được các luật sư biện hộ hoặc
hội đồng bảo vệ chăm lo, và vụ án được một hay
nhiều phán quan quyết định. Ðơn kháng án được giao cho
quốc hội, đại tướng, phó vương (vị này hình như không
có mặt trong bộ tộc Sakiya) và quốc vương. Ta có thể
phỏng đoán là mọi việc diễn tiến trong một kỳ họp
duy nhất, và quốc vương với vị trí lãnh đạo tối cao
ở quốc nội, tuyên bố phán quyết tối hậu. Song quốc vương
không có quyền tuyên án tử hình: việc này chỉ dành riêng
cho đại vương ở thành Savatthi mà thôi.
THÁI
TỬ SIDDHATTHA, VỊ HOÀNG NAM
Chuyện các vương
tử của vua Suddhodana thừa hưởng địa vị đặc biệt
trong thành Kapilavatthu nhờ vương quyền thân phụ là điều
hiển nhiên không cần bàn đến. Trong khi đa số quần chúng
sống trong nhà tranh vách đất hay lều tre nứa lau sậy, còn
ở các vùng thấp của kinh thành, nhà dựng trên cọc tre
để tránh nạn lũ lụt theo gió mùa và chuột rắn bò
cạp xâm nhập, thì các vương tử sống trong nhà của vua
cha, mà vì nhà gồm có nhiều tầng nên gọi là “Hoàng
cung”. -Cung vua hẳn được xây bằng gạch trên một
khoảng đất hơi cao và có tường đất bao quanh chứng
tỏ đấy là vùng cấm địa được phòng vệ của riêng
quốc vương. Gần đó là ao sen đủ màu xanh đỏ trắng.
-Trong tư thất
của vua Suddhodana, sự thay đổi thời tiết theo ba mùa đông,
hạ, mưa ở Ấn Ðộ đều được đáp ứng bằng cách đổi
chỗ ngủ: mùa hạ thường ngủ trên sân thượng có mái
che. Ngay cả số cung nhân thị nữ cũng sống khá sung túc.
Thay vì ăn cơm tấm hay cháo gạo như gia nhân thông thường,
họ được dùng gạo nguyên và cả thịt nữa (A.N. 3.38)
.
Giữa đám thanh
thiếu niên thành Kapilavatthu, hoàng tử Siddhattha trông nổi
bật vì chàng được chăm sóc chu đáo hơn và ăn mặc sang
trọng chỉnh tề hơn các trẻ khác. Y phục của thái tử
toàn bằng tơ lụa Ba-la-nại và ít ra là trong thuở thơ
ấu lúc nào chàng cũng được một nhũ mẫu và đám cung
nhân vây quanh hầu hạ. Theo lời thái tử, chàng “rất
mực được nuông chìu, hết sức được nuông chìu”.
Kinh Ðiển Pàli
(D.N. 1.14)
liệt kê cả loạt trò chơi của trẻ con cổ Ấn Ðộ.
Chúng ta có thể hình dung được thái tử thiếu niên
Siddhattha cùng chơi với hoàng đệ Nanda trò đấu trên
tấm ván chia tám hay mười ô vuông (cờ tướng? cờ vua?)
hoặc cùng đám trẻ khác nhảy qua các ô vuông vẽ trên
mặt đất. Các trò chơi khác thường được ưa chuộng là:
người bù nhìn, đấu gậy, và chơi các loại cày cuốc,
xe ngựa, cung tên tí hon. Ðám trẻ lớn hơn có thể thích
thú đoán ý tưởng người khác và nhận ra các chữ viết
tay quơ cào trên không hoặc ngay trên lưng người phỏng đoán:
dĩ nhiên điều này có nghĩa là người chơi trò này phải
biết đọc.
Thái tử
Siddhattha có biết đọc hay không, điều này không được
chắc chắn. Một truyền thuyết về sau quả có kể
chuyện thái tử làm kinh ngạc thầy giáo của mình vì cách
thái tử học thông thạo các mẫu tự Ấn Ðộ rất dễ dàng,
nhưng thực ra trong Kinh Ðiển Pàli không có dấu hiệu nào
cho thấy đức Phật đã từng biết đọc biết viết cả.
Vào thời ngài, biết đọc được xem là một kỹ năng
hữu ích, nhưng đó không phải là một thành phần của
nền giáo dục sơ đẳng. Ðặc biệt điều ấy chính là
trường hợp này vì lẽ ngày xưa thiếu vật liệu để
viết và cũng không có sách được viết sẵn, các tài
liệu được viết duy nhất là các cáo thị hay bản thỏa
hiệp khắc lên gỗ, đá. Viết chữ, hay đúng hơn là
khắc hay vẽ chữ (lekhà) được xem là một nghệ thuật
hầu như bao giờ cũng phải thực hành với tính cách chuyên
nghiệp. Thái độ của thái tử Siddhattha lúc trưởng thành
biểu lộ rõ ràng qua lời tuyên bố (Ud 3.9) rằng thành
đạt các kỹ năng như viết chữ không phù hợp với một
kẻ xuất gia phải hoàn toàn chuyên tâm vào việc giải thoát.
Dựa trên căn
bản thái tử Siddhattha suốt đời quan tâm đến các vấn
đề trí tuệ tinh thần, chúng ta có thể phỏng đoán
rằng việc thu thập kiến thức cần thiết cho một thiếu
niên quý tộc đối với chàng thực dễ dàng. Việc giáo
dục của chàng được hỗ trợ phần lớn nhờ chàng thường
xuyên tham dự các buổi họp hội đồng và phiên tòa xử
án, do phụ vương chàng chủ tọa. Phòng hội đồng đã giúp
rèn luyện trí thông minh của chàng cùng dạy chàng tài năng
phát biểu chính xác.
Tuy nhiên, trí thông
minh của chàng lại phát triển kèm theo một số đặc tính
có lẽ đã làm lo ngại vị phụ vương “có óc thực
tiễn” vì ngài xem đó là các dấu hiệu biểu lộ nhược
điểm. Những đặc tính này bao gồm sự nhạy cảm và
khuynh hướng thiên về suy tưởng có lẽ là cả trầm tư
nữa.
Nhận thức rằng
cuộc đời không phải lúc nào cũng đem đến lạc thú và
đằng sau mọi hạnh phúc (Sukha) đều sẵn có khổ
đau vô thường (dukkha) rình rập không phải chỉ đập
mạnh vào trí thái tử Siddhattha lần đầu tiên ngay trước
khi ngài xuất gia như truyền thuyết vẫn thường kể
lại, mà nhận thức ấy đã đến với thái tử từ thời
thiếu niên khi chàng còn ở giữa lòng gia đình ấm cúng
xa hẳn mọi khổ đau bên ngoài:
“Này các
Tỳ-kheo, ta đã sống cuộc đời rất được nuông chìu
trong cung phụ vương. và này các Tỳ-kheo, giữa cuộc đời
đầy hạnh phúc ấy tư tưởng này thường nảy lên trong
trí ta: “ Quả thật một kẻ chỉ biết sống đời thế
tục hoàn toàn, chính kẻ ấy bị tuổi già chi phối, lại
rất chán ngán khi thấy một người già nua. Song phần ta cũng
bị tuổi già chi phối và không thể thoát được chuyện
ấy. Nghĩ như thế, này các Tỳ-kheo, mọi lạc thú về
tuổi trẻ đều rời bỏ ta”.
Quả thật,
một kẻ chỉ biết sống đời thế tục hoàn toàn, chính
kẻ ấy phải bị bệnh tật chi phối, lại rất chán ngán
khi thấy một người bệnh hoạn. Song phần ta cũng phải
bị bệnh tật chi phối và không thể thoát khỏi chuyện
ấy. Nghĩ như thế, này các Tỳ-kheo, mọi lạc thú về
thể lực đều rời bỏ ta”.
Quả thật,
một kẻ chỉ biết sống đời thế tục hoàn toàn, chính
kẻ ấy phải chịu cái chết chi phối, lại rất chán ngán
khi thấy một tử thi. Song ta cũng phải bị cái chết chi
phối và không thể thoát được chuyện ấy. Nghĩ như
thế, này các Tỳ-kheo, mọi lạc thú về đời sống đều
rời bỏ ta”. (AN 3.38)
Ngay trong ngôn
ngữ trịnh trọng của Kinh Ðiển, ta cũng nhận thấy tác
động của kinh nghiệm đầu đời ngài rất chân thật sâu
sắc. Trong một xứ cận nhiệt đới, người bạn thân ta
vừa vui vẻ chuyện trò hôm nào bỗng thình lình bị cơn
sốt rét cướp mất mạng hay bị rắn độc cắn chết,
hoặc bị hổ dữ vồ tan xác, các tư tưởng như thế
của thái tử Siddhattha không phải là xa lạ chút nào. Trên
nguyên tắc chúng bao giờ cũng hợp lý và rất phổ biến.
Một đặc tính
khác của thái tử được ghi lại trong sử sách là thiếu
quan tâm đến lãnh vực quân sự -- mọi thiếu niên Sát-đế-lỵ
đều được mong là phải tinh nhanh về tài cỡi ngựa, lái
xe, bắn cung, đấu kiếm, đấu vật và điều khiển voi,
vậy chắc chắn thái tử cũng phải được tập luyện
nhiều về các môn này. Song trước sự thất vọng của
cả gia tộc Gotama, hình như thái tử chỉ kha khá các
hoạt động ấy, đó là điều đáng hổ thẹn đối với
một vương tử. Phụ vương Suddhodana chắc hẳn phải rất
lo âu trước thái độ không màng đến đời thế tục và
việc quân sự của con ngài.
Khi thái tử được
mười sáu tuổi (547 trước CN), phụ vương quyết định ràng
buộc vị vương tử hay trầm ngâm này vào đời thế tục
bằng cách kết duyên cho chàng. Dĩ nhiên đó là một cuộc
hôn nhân được sắp đặt mà đôi bên nam nữ không được
hỏi ý kiến, song các Kinh Ðiển vẫn cho ta thấy không
phải hai vị không quyến luyến nhau.
Theo các tập quán
hôn nhân nội tộc và ngoại tộc, một thiếu nữ trong gia
tộc lớn hơn được tuyển chọn, đó là cháu gái của thân
mẫu và di mẫu chàng, con gái vua Suppabuddha (hay theo các
nguồn tài liệu về sau, vua này tên Dandapàni), cậu của
thái tử, nói cách khác, đó là cô em họ của chàng. Nàng
tên là Bhaddakaccànà, nhưng trong Kinh Ðiển Pàli, nàng còn
có tên Bimbadevì, Yasodharà, (giống như tên bà ngoại của
thái tử) và Gopà. Một số kinh chỉ gọi nàng là Ràhulamàtà
(mẫu thân Ràhula), nàng cùng tuổi với thái tử.
Nhạc phụ tương
lai của chàng đã làm khó dễ, vì không muốn con gái yêu
của mình kết duyên với một thanh niên hay suy tư lại không
ham việc quân sự như chàng. Vậy thái tử phải làm sao
chứng tỏ chàng có đầy đủ tài năng cung kiếm thao lược
trước khi chàng được ủy thác việc cấp dưỡng gia đình.
Truyền thuyết kể lại một cuộc so tài được tổ chức
để thái tử Siddhattha chứng minh tài quân sự của mình.
Chàng đã thắng cuộc và được xem là vượt xa các đối
thủ của chàng. Do đó vua Suppabuddha hay Danapàni dẹp tan
mọi nghi kỵ và chấp thuận cuộc hôn nhân này.
Ta không nên nghĩ
rằng đức tân lang trẻ tuổi này không xúc động trước
vẻ kiều diễm hấp dẫn của tân giai nhân này: thái tử
nói một cách rất thành thạo khi cho rằng trên đời không
có gì trói buộc tâm hồn người đàn ông bằng người đàn
bà! (AN 1.1)
. Song sau đó thái tử không cho phép dục lạc lôi kéo đi
quá xa khỏi nếp suy tư của chàng. Dẫu sao đi nữa, cuộc
hôn nhân ấy cũng không sinh sản con cái gì trong suốt mười
ba năm.
Theo phong tục
Ấn Ðộ, đội vợ chồng trẻ ấy -hẳn đã sống trong
“cung điện” vua cha Suddhodana. Các nguồn kinh sách không
cho ta biết thái tử dùng thời giờ như thế nào trong
thời kỳ này. Có lẽ thái tử phụ tá vua cha trong việc
trị nước và thay phiên với hoàng đệ Nanda trông nom
việc canh tác ruộng đất của hoàng gia hay có lẽ cả
ruộng đất của riêng mình và sai khiến gia nhân làm
việc. Ở Ấn Ðộ cổ đại 75% dân số sống về nghề nông
bao gồm cả giới quý tộc và đa số Bà-la-môn nữa.
MỘT
KINH THÀNH ẤN ÐỘ CỔ ÐẠI
Có lẽ thái tử
Siddhattha không ham thích công việc đồng áng vì bản
chất thiên về suy tư. Ðời thái tử có nhiều thời kỳ
ẩn cư xen lẫn những thời kỳ tiếp xúc với quần chúng.
Vị thái tử trẻ tuổi này ắt hẳn đã nhiều phen đi
quanh quẩn khắp kinh thành Kapilavatthu với đôi mắt mở to
để quan sát việc đời: hoặc trao đổi vài câu chuyện
với người thợ nhuộm, hoặc nêu vài nhận xét với người
luyện voi, hoặc chào hỏi người cho vay nào đó. Các
chuyện ngụ ngôn tỷ dụ về đủ ngành nghề mà ta thấy
trong kinh ngài thuyết giảng chứng tỏ ngài hẳn đã quan sát
mọi hoạt động khác nhau trong kinh thành một cách tinh
tế và đầy hiểu biết.
Dù ta biết rất
ít về thành Kapilavatthu, ta vẫn có thể dựng nên phần nào
hình ảnh kinh thành ấy. Các nguồn văn học, các tác
phẩm nghệ thuật, nhất là tranh tượng của tháp Bharahat
(hay Bhàrhut) đem lại cho ta một ấn tượng rõ rệt về các
cổ thành Ấn Ðộ vào thế kỷ thứ sáu trước CN.
Các thành phố
thời ấy thường nằm ven sông và nếu vùng đất ấy cho
phép, chúng được xây hình chữ nhật, còn cách thiết
kế đô thị hình tròn là điều bất thường ở cổ Ấn
Ðộ. Ðô thị được hào vây quanh thường rất sâu và
rộng do dẫn nước sông vào để đám thanh niên vui đùa bơi
lội. Bên trong hào, đất được đào lên để xây dựng
thành lũy, phía trên rào cọc nhọn hay tường đá có lối
đi bộ. Mỗi pháo đài đứng cách khoảng 50 m hay một
tầm cung bắn tên của pháo đài kế tiếp, vì vậy một
pháo đài lân cận có thể di tản khi bị xạ thủ của đám
quân thù leo thang lên bắn phá. Ở bốn góc thành được
đục thông có cổng xây kiên cố.
Ở trung tâm của
khu vực có tường bao bọc ấy, trên nguyên tắc, được
phân chia thành mạng lưới đường sá thẳng góc, là
“cung điện” của vua. Cung điện của một số quốc vương
-- mặc dù hình như không phải là cung vua Suddhodana -- thường
gồm năm ngôi nhà riêng biệt, ba ngôi đứng song song với
nhau và hai dãy nhà công cọng ở các góc phải, đóng kín
phía cuối vì thế cả khối nhà tạo thành hình chữ
nhật hở.
Về hai sân bên
trong, một sân để làm đình hội họp, một sân để vui
chơi giải trí. Sân này thường trồng nhiều cây có một
cái đu với chỗ ngồi rộng rãi treo vào bốn sợi dây xích
bằng đồng, vì đánh đu là một thú tiêu khiển được các
bà quý phái Ấn Ðộ ưa chuộng.
Ngôi nhà chính là
kiến trúc quan trọng nằm giữa hai sân. Nhà này thường có
hai ba tầng, mỗi tầng trên thường nhỏ hơn tầng dưới
để có các sân thượng lộ thiên. Mái thường có hình
ống tròn.
Ðối diện cung
vua là hội trường mở thông ra mọi phía, thực ra chỉ là
một mái đình dựa trên các cột trụ và nhà của vị
thị trưởng. Kế đó là nhà các quan chức tức giới quý
tộc phục vụ triều đình, hầu như gồm có bốn tòa hình
vuông ở sân trong. Phía trước dùng làm phòng khách và phòng
ngủ, còn các phần kia là nhà bếp, khu vực gia nhân và
chuồng trại. Mỗi nhà này trông thật giống nhà ở nông
trang được ngăn cách với nhà lân cận bằng một lối đi.
Do cách sắp đặt này các quan chức hầu hết thuộc giai
cấp võ tướng sống gần nhau, tạo nên một khu vực Sát-đế-lỵ
dĩ nhiên là có cả đám gia nhân từ các giai cấp khác
đưa vào.
Khu vực tế lễ
-- một đồng cỏ cạnh hồ nước của kinh thành với
một đàn dựng cao để làm nơi dâng lễ tế thần và ba lò
lửa -- nằm bên trong bức tường thành, cũng như nhà của
các vị Bà-la-môn sống một phần nhờ lễ tế đàn, nhưng
phần lớn nhờ nông nghiệp. Ở vùng Trung Nguyên này, họ
chưa được hưởng uy quyền thái quá nào như ở các
thời đại về sau, vì họ là giai cấp xếp hàng thứ hai
dưới các võ tướng quý tộc. Ðiều này khác với miền
Tây xa xôi, có lẽ đến tận- miền tây xứ Payàga (Allàhabàd),
nơi ấy các Bà-la-môn đạt được uy thế của giai cấp
đệ nhất.
Quanh khu vực
tạp hóa, không xa khu vực cư ngụ khá giả, là các cửa
tiệm và xưởng chế tạo của các nghiệp đoàn thương mãi
sang trọng và phồn thịnh hơn, mỗi nghiệp đoàn có một
khu phố riêng: khu vực chủ ngân khố và tiệm vàng, tiệm
khắc ngà voi, áo quần, hương liệu, nhà buôn đồng sắt,
buôn lúa gạo, gia vị và bánh kẹo. Mỗi ngành kỹ nghệ
hay thương mại họp thành một nghiệp đoàn (Seni) làm
những chức vụ điều hành bao quát. Nghiệp đoàn quyết
định vấn đề sản xuất và bán sĩ, quy định giá cả mà
ngay các quốc vương cũng đều chấp nhận; họ cũng tham
gia việc huấn luyện thợ thủ công và can thiệp vào
nhiều việc gia đình của các thành viên, nếu cần
nghiệp đoàn còn chăm sóc các quả phụ của các thành viên
quá cố nữa.
Niềm tự hào
của họ biểu lộ qua tấm huy hiệu nghiệp đoàn mang trên
mình vào các lễ hội công cọng và cũng do việc nghiệp
đoàn cấm những thành viên không xứng đáng hành nghề --
điều đó cũng tương đương với bản án làm sạt
nghiệp khánh tận. Mọi quyết định đều do hội đồng
của nghiệp đoàn thông qua, đứng đầu là vị chủ tọa
nghiệp đoàn- (Jetthaka hay pamukha). Trên nữa là
vị thống đốc nghiệp đoàn (setthi) đại điện
ngoại giao cho các quyền lợi của một ngành thương mại
riêng biệt. Vị này cung cấp hàng hóa cho triều đình và
thường lui tới cung vua.
Nghiệp đoàn
chủ ngân khố là đám người giàu nhất. Nguồn lợi chính
của họ phát xuất từ sự cho vay tiền với số lời cố
định. Một món cho vay có bảo đảm hoàn toàn như vay để
làm đám cưới hay hồi môn cho con gái, tính lời 15%, còn
một món nợ chỉ bảo đảm một phần tính lời 60% mỗi
năm. Những món cho vay thương mãi cũng hết sức cao giá do
tính cách bấp bênh liều lĩnh trong đó. Tiền lời phải
trả để làm một vụ đi buôn đường trường lên đến
120% mỗi năm, và đi buôn đường biển là 240%. Người
chủ nợ hầu hết thuộc giai cấp thương nhân (Vessa,
Vệ-xá) không có địa vị cao quý trong xã hội, nhưng
về phương diện thế lực họ là giới cầm đầu. Vị
thống đốc của họ thường đóng vai trò thủ trưởng (mahàsetthi)
các chủ nghiệp đoàn địa phương, như vậy đó là người
quan trọng nhất trong giới thương mại địa phương ấy.
Mỗi kinh thành thường
có một phụ nữ sang trọng ngụ trong một ngôi nhà rộng
lớn, người này vẫn được kinh điển nhắc đến tên
tuổi. Các cô gái đứng đường rất thường thấy ở
cổ Ấn Ðộ nên cũng được mọi người rẻ rúng buông
tha. Nhưng một kỹ nữ thượng lưu có tài năng ở kinh thành
(ganikà) lại được xem là đáng tự hào. Nàng kiều
quí phái ấy không chỉ có dung sắc mỹ miều, thanh lịch,
sang trọng mà còn là một phụ nữ thông minh với tài
ứng đối linh lợi, đa mưu túc kế để quyến rũ bọn mày
râu phần lớn nhờ kiến thức văn chương mỹ thuật của
nàng.
Thường một nàng
kiều như vậy được một tay hào hoa phong nhã bảo trợ,
đôi khi người này trở nên sa sút và hết giàu sang thì nàng
lại đón mời các vương tôn công tử khác đến dự các
hội ca vũ của nàng, nơi ấy có đủ cả một ban nhạc
chuyên tấu đàn đệm, hay các buổi tọa đàm và thi tài văn
thơ. Giới thanh niên giàu tiền thường học tập mọi
phong cách hào hoa lịch sự và lối sống sang trọng tại
ngôi nhà này. Không một phụ nữ có học vấn theo kiểu
thông thường nào thời ấy am hiểu nhiều thể loại âm
nhạc như nàng, cũng không ai có thể đàm luận bằng ngôn
ngữ lịch sự như nàng cả. Sự xuất hiện của nàng
tại các đám cưới và lễ hội thường làm cho kinh thành
mang một dáng dấp văn hóa cao. Các điệu vũ Ấn Ðộ cổ
điển danh tiếng ngày nay một phần được phát triển
từ đám kỹ nữ sang trọng ở kinh thành này.
Ta không biết rõ
thành Kapilavatthu có kỹ nữ sang trọng nào không, nhưng
rất có thể có. Danh tiếng một số kỹ nữ sang trọng các
kinh thành Bắc Ấn đều được biết đến cùng với
truyền thuyết về các cuộc phiêu lưu tình ái cũng như các
cơ sở hoạt động tôn giáo của họ. Một kỹ nữ sang
trọng bao giờ cũng có thể sống đời phú quý nhờ gặp
mối lương duyên.
Nhà cửa ở vùng
trung tâm thành phố thường xây vững chắc và được chăm
sóc chu đáo với nhiều tranh vẽ và đồ vật trang hoàng,
nhưng càng xa trung tâm cảnh tượng càng đổi khác. Ở vùng
phụ cận, giới thợ thuyền và nô lệ sống trong nhà
tranh vách đất hoặc lều tre dựng trên cọc chống kiểu
nhà sàn. Họ cũng quy tụ thành nhóm theo từng nghề. Có
những dãy phố thợ mộc, ráp cửa, đóng xe, khắc gỗ, làm
dụng cụ, đúc kim khí, thợ nề, thợ dệt, thợ nhuộm,
thợ may, thợ gốm, thuộc da, thợ vẽ, bán hoa, làm vòng
hoa, bán gia súc, đồ tể, đánh cá, đầu bếp, thợ cắt
tóc, tắm rửa, giặt giũ và gia nhân đi hầu hạ ở thành
phố.
Mỗi nghề trong
số các nghề được quý trọng hơn họp thành một tiểu
giai cấp (jàti) trong hệ thống bốn giai cấp (vanna).
Ngoài hệ thống giai cấp là bọn vô loại mà các giai
cấp trên không có liên hệ gì trong xã hội. Nhưng ý tưởng-
“không được tiếp xúc” với bọn người ấy chưa
phát sinh. Chuyện này chỉ mới được nói đến vài thế
kỷ sau trong Bộ Chuyện Tiền Thân Ðức Phật (Jàtaka) ví
dụ Tiền Thân số 377)*Ta sẽ phạm
một sai lầm về phương diện lịch sử nếu ta giải thích
hệ thống đẳng cấp vào thế kỷ thứ sáu trước CN theo
những cách khắc nghiệt của “Ấn Ðộ giáo” về sau.
Những người đồng thời với đức Phật, nhất là ở vùng
Trung Nguyên, nơi mà tiến trình Bà-la-môn hóa không nhanh
bằng miền Tây, thường xem hệ thống giai cấp như một tôn
ti trật tự trong đời sống giữa các nghề nghiệp, chức
vụ, ngành chuyên môn, và về trình độ học vấn, mà
trật tự này có thể phá bỏ được. Như việc đổi
nghề chuyên môn, bao gồm cả việc chuyển từ một tiểu
giai cấp này sang một tiểu giai cấp khác là chuyện khó
nhưng cũng có thể làm được, và ngay cả việc leo lên
một giai cấp cao hơn cũng không phải là nan giải, ví dụ
nếu quốc vương chọn một người có tài thuộc nguồn
gốc hạ đẳng vào phụng sự nhà vua hay tuyển một
chủ ngân khố đại phú lên làm đại thần lo việc tài
chánh cho triều đình.
Nếu ta rời kinh
thành bằng một cổng thường được đóng kín và canh
giữ ban đêm, ta vượt qua bên kia bờ hào đến các dãy
hang hốc che lá là nơi cư trú dành cho hạng cùng đinh có
lẽ chỉ kiếm được vài đồng xu không đến 1 masaka
mỗi ngày, là đám người kiếm củi hay làm thùng đựng
phân, hoặc đôi khi tìm được việc cắt cỏ trong các hoa
viên nhà giàu. Hoa viên loại này thường thấy ở vùng lân
cận mọi thành phố Ấn Ðộ, và một trong các thú giải
trí của người giàu là đi du ngoạn hoa viên cùng hưởng
làn khí mát buổi chiều về mùa hạ.
Ðối với thái
tử Siddhattha trẻ tuổi, các hoa viên này có sức thu hút
đặc biệt vì chính nơi đây dưới bóng mát của các cây
đa, đám du sĩ hành khất thường đến trú ngụ với dáng
điệu xốc xếch dơ bẩn và tóc bện lại từng cuộn, đám
người này là các tay phiêu bạt giang hồ thường có trí
thông minh tinh tế mạo hiểm đi tìm giá trị tinh thần,
lại khinh chê các thánh ca Vệ-đà và cách thờ cúng tế
lễ của Bà-la-môn, nên đã chấp nhận đời sống không
nhà cửa để tầm cầu ánh sáng giác ngộ. Chính vì vậy
thái tử Siddhattha thích nghe đám người này bàn luận
triết lý, đám Sa-môn, khất sĩ xuất gia (paribbàjakas),
không tin theo đạo giáo nào cả, mà lại đi tìm kiếm
kinh nghiệm tâm linh ngoài khuôn khổ truyền thống. Nhưng
gia tộc Gotama lo ngại khi thấy thái độ không màng đến
đời sống thế tục cùng sự hiếu kỳ mong tìm hiểu
vấn đề siêu thế của chàng, nên cố tìm mọi cách ngăn
cản việc này.
Truyền thuyết
kể rằng vua Suddhodana canh giữ thái tử cho khỏi tiếp xúc
với thế giới bên ngoài để chàng không thấy cảnh
khổ, song lý do chính có thể là cố giữ cho thái tử
khỏi có ý định rời bỏ thế tục.