- Chương
VI (tt)
-oOo-
ÐỨC
PHẬT GOTAMA, NHÀ DU HÀNH
Mặc dù Kinh Tạng Pàli vẫn thường nói rằng
đời sống của người tại gia đầy chướng ngại, và
trên phương diện khác, đời Sa-môn như bầu trời rộng bao
la, tuy thế, cuộc sống của một khất sĩ du hành cũng không
phải là không có vấn đề khó khăn. Những đêm đông từ
tháng Mười hai đến tháng Giêng thật lạnh lùng tàn nhẫn
đối với một Sa-môn không nhà, và mùa hè khoảng tháng Năm-Sáu
với nhiệt độ lên đến 40oC, khiến con người hoàn
toàn kiệt sức. Thậm chí khi còn sáng tinh sương, mặt trời
đã như vầng lửa, làn không khí lung linh trong ánh nắng oi
bức và đồng ruộng phơi mình xám ngắt dưới bầu trời sáng
trắng lờ đờ, con đường trước mặt người bộ hành dường
như bất tận. Ðôi mắt cứ đau nhứt nhối vì mồ hôi từ
tráng đỗ xuống thấm vào không ngớt.
Vào thời đức Phật, cư dân vẫn còn thưa thớt
trên tiểu lục địa này, các thành thị, làng xã đều ở
cách xa nhau nhiều hơn ngày nay, vì thế các chuyến hành
trình băng qua xứ sở của chư Tỳ-kheo không phải là không
nguy hiểm. Thuở ấy có rất ít công viên khả ái, khu rừng
im mát, hay đồng ruộng, ao hồ, nhưng lại rất nhiều vách
núi, vực sâu, những con sông hầu như không đi qua được,
hoặc các vùng thảo nguyên cây cỏ dày rậm và các núi cao
khó trèo, mà đức Phật nêu lên trong một ảnh dụ (AN
1.33). còn súc vật cũng thế, gồm cả loài hổ báo, không
phải lúc nào cũng thân thiện chào đón các Tỳ-kheo khoác y
vàng! Ngay tại thành thị, người bộ hành cũng không được
an toàn vì đám râu bò điên: bốn trường hợp tử vong vì
bò điên được ghi lại trong Kinh Tạng Pàli.
Một khi vị Tỳ-kheo đã đi đến đích trong
ngày ở gần môt khu định cư, vị ấy phải tìm hiểu thái
độ dân chúng đối với chuyến khất thực sáng hôm sau.
Nhiều nơi không tán thành đời sống khất sĩ. Ví dụ dân
chúng thành Thùna Cộng hòa Malla, thậm chí còn lấy rơm lắp
giếng để ngăn cản "Sa-môn Gotama và nhóm Sa-môn trọc
đầu giải thoát rồi nghỉ tại đó" (Ud 7.9) - thật là
một biện pháp gây kinh hoàng vì một phần trong qui luật xử
thế lịch thiệp của người Á Châu là không bao giờ từ
chối nước uống cho người khát. Còn thân phụ của tín nữ
Rohìni ở Vesàli lại không thể nào hiểu được nhiệt tình
của con gái ủng hộ Tăng chúng, đã tóm tắt ý kiến của
ông về các Tỳ-kheo trong vần kệ này:
Một bầy làm biếng, chẳng siêng năng,
Khất thực mọi người để kiếm ăn,
Sống bám như vầy, còn hảo ngọt,
Làm sao con thích bọn Sa-môn?
(Thìg 273)
Nhiều người thời ấy đồng quan điểm với
ông, nên họ đã để mặc các Tỳ-kheo hoài công đứng trước
cửa nhà họ chờ đợi thực phẩm bố thí. Cũng may đó chỉ
là thiểu số. Các nguồn Kinh điển của chúng ta không nói
đến trường hợp Tỳ-kheo nào chết đói cả.
Sứ mệnh hoằng pháp thành công mỹ mãn của
đức Phât diễn ra ở vùng "Trung Nguyên", vùng này
chỉ được phỏng định một cách mơ hồ căn cứ theo địa
danh một số nơi chốn mà ngày nay không phải tất cả đều
được xác nhận (Mv 5.13.12). Ta phỏng đoán trước kia chưa
bao giờ, ngay cả thời đức Phật, vùng ấy được miêu tả
chính xác về phương diện địa lý cả. Có lẽ từ ngữ
này chỉ bao hàm vùng thành thị có văn hóa được mọi người
cảm nhận là giữ vai trò lãnh đạo về phương diện trí
thức.
Sông Hằng (Gangà) ở giữa vùng Kànpur ngày nay
về phía tây và Sàhibganõj về phía đông tạo thành cái trục
chính của vùng ấy. Các "sông lớn" được Bậc Ðạo
Sư biết theo cách quan sát riêng của ngài là: dòng Yamuna,
Aciravatì (Ràpti), Sarabhù (Ghàgara) và Mahì, một phụ lưu của
sông Gandak (Cv 9.1.3). Thật lạ kỳ là sông cái Sona hùng vĩ
lại không được nói đến. Sông này phát xuất từ miền
Nam và thời ấy giao lưu với sông Hằng ở Pataligàma
(Patna), song từ đó đã đổi hướng giang khẩu xa hơn về
phía tây.
Nhìn sơ lược bản đồ hình Ấn Ðộ cho thấy
lĩnh vực hoạt động của đức Phật được giới hạn vào
các phần ghi màu lục nghĩa là vùng đồng bằng và chấm dứt
ở miền bắc và miền nam tại nơi có màu nâu dành cho núi
rừng. Các dãy núi cao nhất được ngài trèo qua thời ấy
hình như là những dãy bao quanh thành Ràjagaha.
Vì các vị lãnh đạo tôn giáo khác cũng hạn
chế hoạt động vào vùng đồng bằng, nên lý do việc này
phải được tìm kiếm trong hoàn cảnh chính trị. Một du sĩ
khất thực cần phải được tự do di chuyển, điều này
vào thời cổ chỉ được bảo đảm ở những nơi có đại
vương và các tiểu vương cai trị giữ gìn an ninh trật tự.
Quyền lực của vua chúa chấm dứt ở vùng núi rừng miền
Bắc Ấn, nới các bộ tộc địa phương sống độc lập rất
hung hãn. Một Sa-môn nào liều lĩnh đi vào rừng núi không
chỉ bị các hiểm họa tự nhiên đe dọa bản thân, mà còn
có thể bị xem là mật thám và bị đối xử tàn bạo.
Nói về các vùng biên giới được đức Phật
đi ngang, thì Kosambì bên sông Yamunà (độ 25km ở phía tây
nam của Allàhabàd) là nước cực tây, Campà (độ 40km ở phía
đông Bhàgalpur) là nước cực đông của các cuộc du hành
ấy. Từ bắc xuống nam, kiến thức của ngài về các lãnh
thổ trải dài từ quê hương ngài ở Kapilavatthu (độ 95km
ở phía tây bắc Gorakhpur) đến Uruvelà (ở phía nam Gàya)
là khung cảnh ngài đã hành trì khổ hạnh. Như vậy, thánh
địa Phật giáo chiếm một phạm vi độ 300km x 600km.
Những trung tâm hoạt động quan trọng của đức
Phật là các đô thị, đặc biệt những nơi này ngài tìm
được số người có học thức mà ngài muốn cảm hóa, vì
ngài suy xét Pháp của ngài "chỉ được người có trí
tuệ (pandita) thấu hiểu". (MN 26). Cũng vì Giáo đoàn
được sự hộ trì của cả Ðại Vương ở Kosala và
Magadha, nên không lạ gì đức Phật du hành đến hai kinh độ
Sàvatthì và Ràjagaha đặc biệt thường xuyên hơn cả.
Hầu hết những nơi nhỏ hơn mà ngài thuyết
pháp đều ở trên hoặc gần các giao lộ thương mại nối
liền với các thủ đô này. Ngài chẳng bao giờ thực hiện
những chuyến du hành xuyên thẳng từ tây sang đông là vì
thiếu các xa lộ giao thông tương ứng. Sự vận chuyển hàng
hóa giữa tây và đông đều do thuyền buồm trên sông Hằng:
xa lộ song hành với dòng sông này chỉ có ở giữa vùng
Pàyaga (Allàhabad) và Benares. Ðối với những chuyến hành
trình đông-tây dài hơn thì chỉ sông này cung cấp phương
tiện giao thông duy nhất mà thôi. Nhưng ta chẳng hề nghe nói
đến chuyện đức Phật từng thực hiện cuộc hành trình
vào bằng đường thủy bao giờ cả.
Vì bậc Ðạo Sư và các đệ tử ngài cũng dùng
các xa lộ như các đoàn lữ hành thương nhân trên xe bò cọc
cạch, nên các dấu hiệu chỉ đường sá trong Kinh Tạng
Pàli thật đáng quan tâm đối với đặc tính địa lý kinh
tế ở vùng này. Ðại lộ thương mại nối liền bắc-tây-nam
phát xuất từ phía bắc qua Takkasìla, đến vùng "Trung
Nguyên" gần Sàvatthi, tại đây xa lộ chỉa ba nhánh, rồi
tiếp tục đi vào nam đến Sàketa (Aụyojjha) và Kosambì,
thành này nằm giữa sông Hằng và sông Yamunà. Tại đó nó
đi theo hướng tây nam qua Vedisa (độ 30km ở đông bắc
Bhopàl) và Gonaddha đến Ujjenì (nay là Ujjain), một trong hai
kinh đô của vương quốc Avanti. Từ đây có đường đi đến
sông Narmada và ngang qua sông này đến cảng Bharukaccha (nay là
Broach) trên vịnh Cambai biển Á-rập.
Xa lộ từ bắc xuống đông nam tách khỏi xa lộ
tây nam ở sàvatthi, tiến về hướng đông đến Setavyà và
Kapilavatthu, nơi đó nó quay hướng đông nam xuyên qua
Kusinàrà, Pàvà, Hatthigàma và Bhandagàma về phía Vesàli. Tại
Pàtaligàma (Panta), phải vượt qua sông Hằng, rồi con đường
tiếp tục về phía Nàlandà và Ràjagaha. Dĩ nhiên có giao
thông theo hướng khác nữa. Việc xuất cảng quan trọng từ
Ràjagaha gồm các hàng đồ sắt.
Ðức Phật ít khi du hành vội vàng. Ngài đã từng
đi khoảng 600km trong 60 ngày từ Ràjagaha đến Kapilavatthu. Giả
thiết rằng ngài không dừng lại nơi nào quá một đêm, ta
đi đến con số 10km/ngày, hay là chưa được ba giờ đi bộ
thong thả.
MỘT THẬP
NIÊN NHIỀU KHỦNG HOẢNG
Trước 493 trước CN, đức Phật được bảy
mươi tuổi. Ngài đã mệt mỏi và dần dần, ngài hay bảo
các đệ tử Sàriputta, Moggallàna và Mahàkassapa thuyết giảng
các bài pháp lẽ ra được ngài giảng. Danh vọng của ngài
khiến ngài thường xuyên được thỉnh cầu đi thuyết Pháp
tại các lễ hội khai mạc - như khi bộ tộc Mallas ở Pàvà
(DN 33) và Sakiyas ở Kapilavatthu (DN 53) khánh thành các hội trường
mới, hoặc Vương Tử Bodhì, hoàng nam của Vua Udena ở Vamsà
khánh thành cung điện mới ở Sumsumàrigiri (MN 85), việc ấy
đã trở thành gánh nặng cho ngài. Rõ ràng bệnh tật và tuổi
già đã làm suy nhược cơ thể bậc Ðạo Sư, dù trí tuệ
ngài vẫn giữ tính năng động và diễn đạt tư tưởng chính
xác (MN 12)
Về già, đức Phật buồn rầu nhận xét thấy
ảnh hưởng của ngài giảm dần đối với Tăng chúng, nhất
là đám Tỳ-kheo trẻ. Ngày trước ngài đã không cần phải
ban huấn thị, ngài bảo chư Tăng ở Sàvatthi, rằng ngài đã
cần chứng tỏ thái độ xử sự của ngài trước các Tỳ-kheo
thời ấy, thế là lập tức chư vị chấp nhận tuân hành
ngay (MN 21).
Ngài cũng lưu ý đến điểm là những phép
hành trì nghiêm khắc trong buổi sơ khai Giáo hội đã dần dần
trở nên vô dụng. Trong một cuộc đàm đạo với tôn giả
Mahàkassapa, ngài nhận xét rằng ngày trước nhiều trưởng
lão Tỳ-kheo đã chấp nhận đời sống ẩn sĩ ở rừng, tự
nuôi sống hoàn toàn bằng cách khất thực (chứ không nhận
lời mời thọ trai), chư vị ấy đã mặc y phấn tảo (giẻ
rách) cùng thực hành tiết dục và độc cư, những việc này
đã gợi cho hứng thú cho các Tỳ-kheo trẻ noi gương. Nhưng
ngày nay các Tỳ-kheo trẻ chỉ kính trọng các bậc trưởng
lão theo mức độ chư vị ấy được danh vọng và số phẩm
vật cúng dường mà chư vị nhận được (SN 16.8). Rồi ngài
đồng ý với tôn giả Mahàkassapa rằng thế hệ Tỳ-kheo trẻ
thiếu niềm tịnh tín, thiếu tu tập điều thân, nhiệt
tình tinh tấn và trí tuệ, đồng thời biểu lộ các dấu
hiệu suy thoái (SN 16.7).
Cách ngài điều khiển Tăng đoàn ngày càng yếu
dần không những chỉ được ngay chính bậc Ðạo Sư nhận
thấy, mà cả Tỳ-kheo Devadatta, em họ vừa là em rễ ngài,
người đã được ngài truyền giới cùng với sáu vị
Thích-ca vào năm 527, cũng thấy vậy. Tỳ-kheo Devadatta thận
trọng quan sát tiến trình lão hóa của bậc Ðạo Sư và quyết
giành quyền điều khiển Giáo hội với cương vị người
thừa kế ngài.
Nhằm mục đích thực hiện tham vọng này cùng
bảo đảm cho mình một liên minh đầy thế lực, vị ấy đến
gặp Vương tử Ajàtasattu (A-xà-thế), hoàng nam của vua
Bimbisàra ở Mahadha, và chinh phục vương tử này bằng cách
thi triển thần thông lực (Cv 7.2.1). liên minh giữa vị Tỳ-kheo
đầy tham vọng và vương tử nóng lòng cai trị tạo nên một
sức mạnh kết hợp đầy nguy hiểm. Chính thị giả Kakudha
của tôn giả Moggallàna nhận thấy điều này trước tiên.
Tôn giả này tường trình vấn đề lên đức Phật, tuy nhiên
ngài xem nhẹ việc ấy (Vc 7. 2. 2. 4). Ngài cũng khinh thường
lối cảnh báo của các Tỳ-kheo khác rằng Vương tử Ajìtasattu
hiện thời đang chăm lo phục vụ Trưởng Lão Denadatta một
cách quá hào phóng và biểu lộ hết lòng tôn kính trọng vọng
đối với vị này, đồng thời ngài bảo rằng Tỳ-kheo
Denadatta sẽ diệt vong vì kết quả tham vọng của riêng
mình cũng giống như cây chuối phải chết vì chính chùm quả
của nó (Cv 7. 2. 5).
Tỳ-kheo Devadatta có đủ can đảm không chỉ
theo đuổi mục đích bằng dự mưu, mà còn công khai tuyên bố
mục đích ấy. Một lần, khi đức Phật đang thuyết Pháp
trước một hội chúng đông đảo có cả nhà vua tham dự, Tỳ-kheo
ấy đứng lên đảnh lễ bậc Lãnh Ðạo Tăng chúng và nói:
"Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn đã già cả, kiệt sức,
là bậc trưởng thượng, Thế Tôn đã sống đầy đủ thọ
mạng cho đến sắp mãn đời. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn
hãy vui lòng sống trên thế gian này từ nay không phải vướng
bận tâm trí già nữa. Thế Tôn hãy giao phó cho con. Con nguyện
lãnh đạo Giáo hội!".
Ðức Phật từ chối, song Tỳ-kheo Denadatta lập
lại lời thỉnh cầu lần thứ hai rồi thứ ba. Sự bướng
bỉnh này khiến cho đức Phật phải khiển trách nặng lời:
"Ta còn chưa muốn giao phó Giáo hội cho Sàriputta và
Moggallàna, huống hồ là cho ông, này Devadatta, một kẻ xu nịnh
tầm thường!".
Bị tổn thương đến tận tâm can vì lời nhục
mạ ngay trước nhiều người chứng kiến, lại còn ám chỉ
đến vai trò của vị này đối với vương tử kia. Tỳ-kheo
Devadatta liền bỏ đi. Do phản ứng gay gắt của ngài, đức
Phật đã làm ngài trở thành cừu địch với người mà
ngài sẽ phải tính toán nhiều việc về sau (Cv 7. 3. 1).
Ngài vẫn chưa hài lòng với việc nhục mạ Tỳ-kheo
Devadatta. Suy xét theo Giới Luật, ngài triệu tập hội đồng
Tăng chúng ở Ràjagaha thông qua phiếu bất tín nhiệm Tỳ-kheo
Devadatta và chỉ thị tôn giả Sàriputta cùng nhiều Tỳ-kheo
khác công bố quyết định này trong kinh thành. Nhiệm vụ
này khiến tôn giả rất bối rối, vì có lần chính tôn giả
đã công khai tán tụng Tỳ-kheo Devadatta về thần thông lực.
Tuy nhiên đức Phật nhấn mạnh, tôn giả Sàriputta chẳng
làm gì về việc này ngoại trừ công bố khắp nơi rằng Giáo
hội đã bất tín nhiệm Tỳ-kheo Devadatta, từ nay vị ấy
có làm hay nói bất cứ điều gì, cũng không hành động nhân
danh đức Phật, Pháp và Tăng, mà chỉ hoàn toàn với tư cách
cá nhân mình (Cv 7. 3. 2 - 3).
Còn đối với cả Trưởng Lão Devadatta lẫn Vương
tử Ajìtasattu, thế là đã có một người đứng cản con
đường tham vọng lãnh đạo của họ, nên tình bạn của họ
nhanh chóng mang lấy tính cách một âm mưu. Kinh Tạng Pàli
tuyên bố rằng Tỳ-kheo Devadatta xúi giục vương tử giết
vua cha, nhưng trên thực tế, ý tưởng này chưa được hoạch
định chắc chắn, dẫu sao đi nữa thì một đêm kia, Vương
tử Ajìtasattu cũng đã trang bị một con dao găm và, đầy
run sợ nhưng lại quyết tâm một cách bạo tàn, đi lẻn vào
cung thất vua Bimbisàra với mục đích đâm chết cha trong
lúc đang ngủ. Quân cận vệ nghi ngờ bắt lấy vương tử và
buộc phải cung khai, qua đó vương tử đổ lổi cho Tỳ-kheo
Devadatta là kẻ chủ mưu.
Hội nghị các đại thần hoạt động như một
phiên tòa xử án, lại quá kinh hãi nên không dám tuyên án vương
tử, mà đưa vến đề trình lên vua cha. Ông quyết định rằng
xét về việc bầu phiếu bất tín nhiệm do hội nghị Tăng
chúng thông qua đối với Tỳ-kheo Devadatta, thì không một tội
gì có thể gán cho đức Phật và Tăng chúng cả. Tuy nhiên,
nhà vua cũng từ chối trừng phạt Tỳ-kheo Devadatta và vương
tử Ajìtasattu. Quá mệt mỏi về việc cai trị và lòng đầy
những mối nghi hoặc đen tối rằng sẽ có nhiều mưu sát
có thể xảy ra trong tương lai, nên nhà vua đã có phản ứng
gây kinh ngạc bất ngờ. Ông liền tuyên bố rằng nếu vương
tử Ajìtasattu quá nôn nóng cai trị vương quốc Magadha như vậy,
thì sẽ được toại ý - rồi ông thoái vị (Cv 7.3.4 - 5). Năm
Vương tử Ajìtasattu đăng quang có lẽ là 492 trước CN.
Ngay khi Ajìtasattu trở thành Ðại Vương của
Magadha, ông liền trừ khử ngay phụ vương, là người đã
ban ơn cứu mạng lẫn ngai vàng cho mình, theo cách rất tàn bạo.
Ông truyền thả phụ vương vào ngục tối và không cho ăn gì
cả. Trong ba bà vương hậu chính thức của vua Bimbisàra, chỉ
có một bà, tức mẹ của vua Ajìtasattu, tên là Kosaladevì,
hoàng muội của Ðại Vương Panesnadi ở Kosala, có can đảm
ngầm đem thức ăn vào ngục giam chồng bà, song các cuộc viếng
thăm của bà chẳng bao lâu cũng bị đình chỉ. Ðại Vương
Bimbisàra đã chết vì đói năm 491 trước CN, và bà
Kosaladevì, vài tháng sau, cũng chết vì phiền não khiến vị
hoàng huynh của bà ở Sàvitta vô cùng thương tiếc khóc
than.
Vua Ajìtasattu đã đạt được mọi điều mong
muốn, nhưng Tỳ-kheo Desatatta thì không. Vì thế vị này thuyết
phục nhà vua trẻ tuổi lập mưu cố giết đức Phật. Mặc
dù vua Ajìsatattu không có thiện cảm với vị Ðạo Sư già
cả tuyên truyền hòa bình đã gây trở ngại cho các dự định
chinh phục ngoại bang của mình, ông cũng không muốn liều lĩnh
làm một việc như vậy. Vì thế, ông chỉ ra lệnh một đám
binh sĩ tuân theo chỉ thị của Tỳ-kheo Devadatta, để cho Tỳ-kheo
Devadatta sẽ bị phát giác là người phạm tội nếu kẻ xúi
giục mưu sát có bị truy tìm về sau.
Kế hoạch của Tỳ-kheo Devadatta nghe như chuyện
giả tưởng. Nhưng lại được truyền tụng như một sự kiện
lịch sử trong Kinh Ðiển. Vị ấy ra lệnh cho một binh sĩ
đi rình rập đức Phật, giết ngài xong trở về bằng một
con đường nào đó. Trên đường này, vị ấy đặt thêm
hai binh sĩ nữa và ra lệnh phải giết người lính sắp đi
đến. Hai kẻ sát nhân này lại bị bốn người khác giết
chết, bốn người ấy lại bị tám người khác giết, để
cho nguyên nhân toàn thể vụ tắm máu này sẽ bị quên lãng
trong cả loạt giết người dồn dập này.
AÂm mưu ấy thất bại, bởi vì khi người lính
đầu tiên đến gần đức Phật với cung kiếm trong tay lại
chết điếng vì quá kinh hoàng. "Ðến gần đây, này hiền
hữu, đừng sợ", bậc Ðạo Sư bảo kẻ ấy, ngay đó
người lính quỳ xuống chân ngài lập tức và trình bày kế
hoạch sát nhân. Ðức Phật khuyên kẻ ấy đi về bằng một
con đường khác với đường đã được ra lệnh phải đi.
Như vậy mỗi người đều cứu một sinh mạng người khác.
(Cv 7.3.6-7)
Luật Tạng(Vinaya Pitaka) còn gán hai dự mưu khác
nữa cho Tỳ-kheo Devadatta cố sát hại bậc Ðạo Sư. Chúng
ta phải là các sự kiện lịch sử hay là các vụ án đã
được dành cho phần Tỳ-kheo Devadatta, thì chưa có thể xác
định được.
Một trong hai mưu sát này diễn ra trên đường
đi lên Linh Thứu Sơn. Theo văn bản, Tỳ-kheo Devadatta đã
làm một tảng đá khổng lồ lăn xuống sườn núi, với ý
định dùng nó giết đức Phật, song trên thực tế, nó chỉ
làm chân ngài bị thương (Cv 7.3.9). Thương tích ấy có thể
là chuyện lịch sử và đã làm nảy sinh câu chuyện mưu sát
này. Ðá lăn là chuyện thường xuyên xảy ra trên đỉnh
Chatha, ngọn núi mà người ta phải trèo ở sườn phía nam
để đến tận Linh Thứu Sơn.
Vụ mưu sát đức Phật lần thứ ba - nếu quả
thực đây là một mưu sát - diễn ra trong kinh thành
Ràjagaha.
Kinh Tạng Pàli tường thuật rằng Tỳ-kheo
Decadatta dùng lời hứa hẹn mua chuộc một số người quản
tượng thả con voi Nàlàgiri ra tấn công đức Phật. Con voi
đực khổng lồ này, có lẽ đã giết một người, ào ạc
xông ra các đường phố theo đúng lộ trình đức Phật sắp
đến khất thực. Với vòi gương cao, tai vểnh rộng và đuôi
trải dài đằng sau, con vật hung hãn lao vào vị Sa-môn
khoác y vàng đang điềm nhiên phóng lòng từ (mettà) về
phía nó. Bỗng nhiên con vật khổng lồ này dừng lại, hạ
vòi xuống và để cho đức Phật vỗ về nó. Rồi nó hít bụi
dưới đất thổi lên đầu ngài và lùi dần ra sau, đôi mắt
cứ nhìn thẳng vào đức Phật và cuối cùng từ từ đi về
phía chuồng của nó (Cv 7.3.11 - 12). Ít ra thì câu chuyện con
voi vùng ra đe dọa tính mạng đức Phật cũng có vài nét lịch
sử trong đó.
Các lần tấn công thất bại ấy khiến Tỳ-kheo
Devadatta xem xét các phương tiện khác. Nếu vị ấy không
chiếm được quyền điều khiển toàn thể Giáo hội, thì vị
ấy sẽ chia rẽ nó và trở thành vị lãnh đạo một nửa
phần. Vị ấy biết rõ đức Phật bác bỏ khổ hạnh khắc
nghiệt, nhưng trong Tăng chúng lại có nhiều người khác ưa
chuộng các Giới Luật nghiêm ngặt hơn. vị ấy muốn chinh
phục đám người này ủng hộ kế họach của mình.
Mặc dù tất cả mọi biến cố đã xảy ra giữa
hai vị như thế nào, Tỳ-kheo Devadatta vẫn xuất hiện trước
bậc Ðạo Sư già cả và đề nghị ngài phải làm cho giới
điều chặt chẽ hơn ở năm điểm:
1. Trong tương lai các Tỳ-kheo sẽ phải sống
trong rừng mà thôi.
2. Chư Tăng chỉ được ăn món khất thực
(nghĩa là không nhận lời mời thọ trai).
3. Chư Tăng phải mặc y phấn tảo (giẻ rách
do mình tự thâu nhặt lấy).
4. Chư Tăng không được ngủ dưới mái nhà
(dù trong mùa mưa gió) mà phải ngủ dưới gốc cây.
5. Chư Tăng phải dùng toàn rau quả để sống.
Ðức Phật đáp rằng mỗi Tỳ-kheo được tự
do giữa ba điểm đầu tiên, song ngài thấy không có lý do
gì làm thành những điều lệ cưỡng bách cả. Về điểm 4
và 5, thì vẫn như cũ là chư Tăng có thể ngủ dưới gốc
cây chỉ trong tám tháng mỗi năm, nhưng phải an cư mùa mưa
tại một tịnh xá (vihàra); còn cá thịt thì không cấm
dùng, miễn là các thú vật ấy không bị giết dành riêng
cho chư vị (Cv 7.3.14-15). Ðây là câu trả lời mà Tỳ-kheo
Devadatta đã chờ đợi, nó khiến cho vị ấy có thể đánh
một đòn chia rẽ Giáo hội. vị ấy công khai tuyên bố rằng
đức Phật đã bác bỏ cả năm điểm, song chính vị ấy,
Devadatta, lại xem chúng rất cần thiết. Vị ấy đã tạo
được cảm tưởng ở một vài trú xứ là đức Phật ưa
chuộng nếp sống dễ dãi và không xem trọng sự rèn luyện
bản thân của Sa-môn.
Mặc dù đức Phật đã cảnh báo vị ấy rằng
ly giáo (phá hòa hợp Tăng) là tội tạo nên ác nghiệp
(kamma) và bất hạnh lâu dài, vị ấy vẫn tiếp tục các cuộc
tranh luận gay gắt (Cv 7. 3. 16). một buổi sáng, khi gặp tôn
giả Ananda trên đường khất thực, Tỳ-kheo Devadatta báo cho
biết trong tương lai sẽ tự cử hành các ngày trai giới
(Uposatha: lễ Bố Tát lúc trăng tròn) mà không cần đến đức
Phật và Tăng chúng (nghĩa là theo cách riêng của mình) và với
một hội chúng Tỳ-kheo riêng, vị ấy sẽ điều khiển các
Tăng sự theo Giới Luật (Sanghakamma: Tăng-già-yết-ma). Ðức
Phật tỏ ra bất bình khi tôn giả Ananda thuật lại tin này
với ngài (CV 7. 3.17; Ud 5. 8).
Tỳ-kheo Devadatta làm như lời đã nói. Một số
tân thọ Tỳ-kheo từ Vesàli đến, chưa ổn định tư tưởng
theo Giới Luật (Vinaya), đã theo sự hướng dẫn của vị
ấy và ủng hộ năm điểm trên mà không nhận thức được
rằng đây là sự vi phạm Giới Luật của đức Phật. Cùng
với những vị này, nay đã là chúng Tỳ-kheo "của
mình", Trưởng Lão Devadatta đi về Tượng Ðầu Sơn (Gayà
Sisa) ở Gayà, nơi vị ấy chọn làm trung tâm hoạt động của
tân Giáo hội ly khai.
Tin tưởng Trưởng lão Devadatta chia rẽ Giáo hội
đã thành công đến tai đức Phật qua hai trưởng lão
Sàriputta và Moggallàna. Lập tức ngài ra lệnh hai vị này
theo dõi lối đi của trưởng lão Devadatta và tìm cách đưa
các Tỳ-kheo trẻ trở về. Hai vị lên đường và được Tỳ-kheo
Devadatta ra chào đón vì cho rằng hai vị này muốn gia nhập
hội chúng "của mình" là lẽ tất nhiên.
Khi đêm bắt đầu và Tỳ-kheo Devadatta đã đi
ngủ, hai tôn giả Sàriputta và Moggallàna liền nói chuyện với
đám Tỳ-kheo trẻ. Với lời giáo huấn theo Chánh Pháp của
đức Phật, hai vị đã tạo niềm tin ở các Tỳ-kheo trẻ
và khi hai vị đệ từ này tuyên bố bây giờ hai vị sắp
trở về với bậc Ðạo Sư, đa số liền đi theo hai vị.
Khi Tỳ-kheo Devadatta thức dậy và nhận ra mình đã bị đa số
Tỳ-kheo "của mình" bỏ rơi, vị ấy bị kích động
mạnh đến độ "học máu nóng trong miệng" (Cv
4.1-3). Tương truyền vị ấy phát bệnh suốt chín tháng sau.
Tuy nhiên, Giáo hội của Trưởng lão Devadatta
không ngừng tồn tại do sự lạc đạo của một số tân Tỳ-kheo
trẻ. Tượng Ðầu Sơn (Gayà Sìra, nay là Brahmayoni) gần
thành Gayà, vẫn là trú xứ chính của Trưởng lão Devadatta,
và Ðại Vương Ajìtasattu đã lập một tinh xá tại đó cho
vị ấy (Jàt 150), nơi mà nhóm người ly khai không bao giờ rời
bỏ. Vì tinh xá ấy được công quỹ nhà vua cung cấp lễ vật
dồi dào, nên có lần đã xảy ra vụ một trong các Tỳ-kheo
trung thành với đức Phật đã lén vào đó để chia phần
thực phẩm - một hành động mà tất nhiên đức Phật đã
khiển trách thật nghiêm khắc (Jàt 26).
Tỳ-kheo Devadatta không sống được lâu hơn nữa:
chẳng mấy chốc vị ấy đã " bị quả đất nuốt sống"
(năm 490 trước CN?). Giáo hội của vị ấy vẫn tiếp tục
tồn tại sau đó rất lâu. Nhà chiêm bái Pháp Hiển của
Trung Hoa đến Ấn Ðộ khoảng một ngàn năm sau vào thế kỷ
thứ năm sau CN, tường thuật rằng vị ấy có gặp các Tỳ-kheo
tự xưng là đệ tử của Trưởng lão Devadatta.
Cùng với việc vua Ajìtasattu lên ngôi, một
chính sách mới phát triển ở vương quốc Magadha. Trước
kia ngay cả Ðại Vương Bimbisàra là người không theo đuổi
mục đích bành trướng đế quốc, cũng đã thiết lập một
quân đội lành nghề tuyên thệ trung thành với chính ông.
Nay vua Ajìtasattu còn tăng cường quân đội và luyện tập
binh sĩ gắt gao để làm họ trở thành công cụ chinh phục
ngoại bang. Việc này hao tốn nhiều tiền bắt buộc vị vua
trẻ tuổi này phải tìm nguồn lợi tức mới. Ông tăng thuế
và làm cho hệ thống ghi sổ sách và thu tiền thuế hữu hiệu
hơn. Bằng cách này đã xuất hiện một hệ thống hành
chánh thư lại với rất nhiều quan chức đủ loại.
Ngay năm 490 trước CN, quân đội nước Magadha
đã được đưa ra thử nghiệm. Lúc ấy chỉ vừa đúng một
năm sau ngày Ðại Vương Bimbisàra chết đói trong ngục thất
và hoàng hậu Kosaladevì, vợ góa của ông, chết vì ưu phiền.
Ðại Vương Pansenadi nước Kosala, hoàng huynh của bà, đau buồn
về sự từ trần của em gái và em rễ, nên quyết định dạy
người cháu vô luân của mình một bài học. Ông nhớ lại
rằng em gái ông, khi kết hôn với vua Bimbisàra, đã đem về
làm của hồi môn số lợi tức do thu thuế một làng gần
Benares (Kàsi) (Jàt 329). Nay vua Pansenadi đòi lại số hồi
môn ấy từ vua Ajìtasattu và đem quân chiếm ngôi làng. Lập
tức vua Ajìtasattu điều động binh mã tinh nhuệ của mình
và chiến trận diễn ra gần ngôi làng đang được tranh chấp.
Tân vương Ajìtasattu chiến thắng và Ðại Vương Pasenadi già
cả phì nôn phải chạy trở về thành lũy Sàvatthi kiên cố.
Ðức Phật nghe tin lấy làm tiếc rằng kẻ bất
chánh ác hạnh đã chiến thắng người chánh chân thiện hạnh.
Hai trận chiến nữa tiếp diễn, nhưng vua Ajìtasattu đều thắng
cả hai. Trong trận thứ tư, vua Pansenadi nghe lời quân sư tài
giỏi, bày mưu kế dụ vua Ajìtasattu vào chỗ mai phục (Jàt
282), không những chiến thắng vua này mà còn bắt sống làm
tù binh.
Một lần nữa, vua Ajìtasattu mang ơn cứu mạng
nhờ thiện ý của người khác. Vua Pansenadi thâu hết mã, tượng,
xa, pháo của vua Ajìtasattu làm chiến lợi phẩm, nhưng không
làm hại cháu trai mình (SN 3.2.4 & 5). Rồi vua Ajìtasattu phải
tuyên thệ với những lời nguyền thiêng liêng nhất để
trong tương lai không bao giờ còn gây chiến với vương quốc
Kosala, và để ký kết hiệp ước này, vua Pansenadi gả con
gái, công chúa Vajirà, cho cháu trai. Về phần hồi môn, nàng
nhận được tiền thuế của chính ngôi làng mà hai phe đã
tranh chấp gây chiến vừa qua. Mối thân hữu được thiết
lập thật nhanh chóng giữa hai vua này. Thậm chí ta còn nghe
nói đến chuyện tấm áo choàng sang trọng mà vua Ajìtasattu
đã gởi cậu, nay là nhạc phụ, làm quà tặng! (MN 88).
Lần hội kiến duy nhất của vua Ajìtasattu với
đức Phật diễn ra do một tâm trạng đầy tình cảm lãng mạn
của vua này. Một đêm rằm trăng sáng rực rỡ vào tháng
Kattika (Mười - Mười một) đã khơi dậy trong lòng ông vua
trẻ ước muốn đi nghe thuyết giảng đaọ lý cao siêu (DN
2.1). Nhiều vị Sa-môn được nhắc đến, và cuối cùng
Jìvaka, vị ngự y già cũng là đệ tử đức Phật, đề nghị
nhà vua nên đi tham kiến đức Phật hiện đang cư trú tại
tinh xá trong Vườn Xoài ở Ràjagaha do chính y sĩ này thiết
lập. Ngự lên vương tượng, nhà vua khởi hành (DN 2.8),
trong lòng không khỏi bị nỗi kinh hãi xâm chiếm trên đường
đi vì nghĩ rằng y sĩ Jìvaka có thể đã đưa ông vào bẫy
để giao ông vào tay đám thù địch .(DN 2.10)
Nhà vua đảnh lễ đức Phật rồi ngồi xuống
một bên đối diện chư Tỳ-kheo, trong lúc đức Phật đang
ngồi dựa thẳng vào cột chính giữa giảng đường trong
tinh xá để khỏi đau lưng. Sau đó nhà vua hỏi đức Phật:
"có thể đạt quả thiết thực của hạnh Sa-môn khất
sĩ ngay đời hiện tại này chăng?". Ðức phật xác nhận
là có và giảng giải những lợi ích của đời Phạm hạnh
cho vua nghe với nhiều ảnh dụ khác nhau (DN2). Pháp thoại chấm
dứt với nỗi ăn năn hối cải của vua Ajìtasattu vì đã giết
phụ vương mình.
Năm 484 trước CN, vua Ajìtasattu dự định gây
chiến với tám nước cộng hòa và các bộ tộc hợp thành
liên bang Vajji - trong số đó, hai nước quan trọng nhất là
cộng hòa Licchavi, với thủ đô ở Vesalì và cộng hòa
Videha với thủ đô ở Mithilà. Ông bảo rằng họ càng ngày
càng hùng cường (DN 16); chắc hẳn là ông chỉ muốn sáp nhập
lãnh thổ của họ vào vương quốc của ông. Ða số đế
vương xem chuyện hiển nhiên là làm cho nước mình phú cường
bằng sự thiệt hại của nước lân bang! (MN 82).
Biết rằng đức Phật quen thuộc lãnh thổ
Vajjì và thân thiết với cư dân ở đấy, nhà vua sai đại
thần, Bà-la-môn Vassakara, đến hỏi ý kiến ngài. Ðức Phật
giảng giải cho vị đại thần biết có bảy điều kiện để
một nước cộng hòa ổn định: đó là thường xuyên họp
hội đồng và tham dự đông đủ, thông qua quyết định bằng
cách tán đồng ý kiến, giữ vững các truyền thống luật
lệ chăm sóc người già cả, bảo vệ phụ nữ, duy trì các
đền đài thánh tích và cung cấp đúng pháp cho các vị
A-la-hán từ các nơi đến cư trú tại đó. Bao lâu các điều
kiện trên còn tồn tại đối với Vajjì - như chúng đã thực
sự tồn tại - thì nước họ không thể suy thoái được.
Ðại thần Vassakàra tán thán các lời dạy của
đức Phật và nói rằng nếu dân Vajjì không thể bị đánh
bại bằng chiến trận công khai thì cần phải chiến thắng
họ bằng cách tuyên truyền khôn khéo và gieo mầm chia rẽ
giữa dân chúng (DN 16). Và quả thực về sau vua Ajìtasattu
sai thám tử và những kẻ gây rối chính trị đến các nước
cộng hòa kia.
Cũng trong thời gian này, vua Ajìtasattu nhận thấy
nên dời kinh đô từ Ràjagaha lên phía bắc tận sông Hằng.
Khả năng phòng thủ thuận lợi mà thành Ràjagaha đem lại
cho các rặng núi bao quanh và bức tường thành khổng lồ
hình như đối với ông không cần thiết nữa, vì nay ông
được quân đội hùng cường bảo vệ chu đáo hơn. Cổ thành
này không chỉ có vị trí bất lợi về phương diện giao thông
và thương mại, mà nó còn có khí hậu không lành mạnh vì
sức cản gió (của núi đồi); hơn nữa, các điều kiện vệ
sinh thật khủng khiếp: mùi hôi thối của kinh thành
Ràjagaha đã nỗi tiếng qua ca dao tục ngữ. Vì thế, vua
Ajìtasattu ra lệnh cho làng Pataligàma, nằm trong gốc giữa
sông Sona và sông Hằng phải được phát triển thành tân thủ
đô Pàtaliputta (nay là Patna) và phải xây hào lũy chống dân
Vajjì. Ông giao việc thiết kế và giám sát công trình ấy
cho các đại thần Vassakàra và Sunìdha (DN 16).
Vào khoảng 481 trước CN, khi kinh thành mới đã
được phồn thịnh sung túc và lực lượng của liên bang
Vajjì đã vị các đám người tạo phản của vua Ajàtasattu
phá hoại ngấm ngầm đến mức độ vừa đủ, nhà vua liền
đem quân đội vượt sông Hằng để chinh phục vùng ấy.
Vào thời này đức Phật đã diệt độ. Chắc hẳn ngài đã
tự trách mình giá như ngài còn trụ thế để thấy hậu quả
của các lời ngài nói trước kia với đại thần Vassakàra,
những lời mà ngài đã ngụ ý hoàn toàn khác hẳn, đồng
thời để thấy sự sụp đổ của các cộng hòa cùng bộ tộc
Vajjì và việc họ bị sáp nhập vào vương quốc Magadha.
Như trên đã nói nhiều biến cố ở vương quốc
Magadha. Trong lúc ấy, thời gian cũng không lắng động ở
vương quốc Kosala. Ba năm sau khi vua Pasenadi đánh bại vua
Ajàtasattu và nhiếp phục cháu trai, chính ông cũng bị con
trai mình, Vương tử Vidudabha, lật đổ khỏi ngai vàng. Mấu
chốt quan trọng trong vụ đảo chánh này do đại tướng Dìgha
Kàràyana (Trường Nhân Kàràyana) điều động .
Mối thù ghét của tướng này đối với vua
Pasenadi có nhiều nguyên nhân sâu xa. Cậu của tướng Kàràyana
là Bandhula vốn là bạn học với vua Paseanadi ở Ðại Học
Takkasìla và khi lên ngôi , vua Pasenadi đã cử ông ra chỉ huy
quân đội.
Một thời, khi tướng Bandhula cùng các con trai
viễn chinh để dẹp loạn ở biên thùy, các đại thần của
vua Pasenadi gợi ý cho nhà vua biết rằng tướng Bandhula cùng
các con trai ông mà không cần xét xử , nhưng chẳng bao lâu
sau đó nhà vua đã nhận ra rằng những lời tố cáo vị đại
tướng này là vô căn cứ. Ông hối hận về hành động trên
, và tỏ dấu hiệu ăn năn bằng cách chỉ định cháu trai của
tướng Bandhula là Kàràyana làm tân đại tướng. Tuy thế,
tướng Kàràyana không bỏ qua việc giết cậu mình (Jàt
465).
Cơ hội báo thù đã đến năm 487 trước CN ,
khi vua Pasenadi du hành qua cộng hòa Sakiya, là nước chư hầu
của ông. Ở Nangaraka, nhà vua nghe tin đức Phật đang trú tại
Medalumpa, ông muốn tái ngộ vị thân hữu ngày xưa, liền khởi
hành đến nơi ấy cùng với đám cận vệ dưới quyền chỉ
huy của tướng Kàràyana. Khi vừa đến tinh xá mà đức Phật
đến an trú, vua Pasenadi tháo gỡ các dấu hiệu vương quyền,
đó là bảo kiếm và vương miện, trao cho tướng Kàràyana
giữ hộ. Rồi đức Phật ra mở cửa, nhà vua bước vào và
sau những lời chào hỏi thân thiết, hai vị lão nhân tôn
quý cùng nhau đàm đạo thật lâu.(MN 89)
Khi tướng Kàràyana đợi bên ngoài tinh xá, thấy
mình đang nắm giữ hai vật quan trọng nhất trong số năm dấu
hiệu vương quyền, liền thừa cơ hội trả thù vua Pasenadi.
Chỉ để lại một con ngựa và một nữ tỳ, vị tướng cỡi
ngựa đi ngay cùng đám vệ sĩ đến gặp thái tử Vidùdabha
và gắn các dấu hiệu vương quyền lên người thái tử .
Nhờ có đám quân tinh nhuệ xuất sắc đào ngũ về phe mình
và nắm được các dấu hiệu vương quyền, thái tử
Vidùdabha vào thành Sàvatthi với tư thế của một tân vương
Ngay khi vua Pasenadi kết thúc cuộc đàm đạo với
đức Phật , ông khám phá ra rằng ông đã bị bỏ rơi và
khi cô nữ tỳ xác nhận sự phản bội của tướng Kàràyana,
ông vua già cả phục phịch ấy lên ngựa đi về thành
Ràjagaha với mục đích thuyết phục cháu trai Ajàtasattu đi
chinh phạt Vidùdabha. Khi ông vừa đến thành Ràjagaha thì trời
tối, các cổng thành đều đóng cả. Mệt lã người sau một
cuộc hành trình dài trên lưng ngựa, lại chịu dãi dầu nắng
gió suốt ngày, vị vua bảy mươi sáu tuổi ấy đành nằm
nghỉ trong túp lều ngoài lũy thành. Ðêm ấy vua băng hà vì
kiệt sức. Vua Ajàtasattu bèn cử hành tang lễ thật linh đình
(Jàt 465).
Việc chiếm được vương quyền nước Kosala cùng
quân đội bằng cách quá dễ dàng như vậy tạo cho vua Vidùdabha
phương tiện thực kế hoạch trả thù đã ôm ấp từ lâu.
Ðây là việc chống lại cộng hòa Sakiya, nước này đã có
lần lập mưu kế lừa phỉnh vua cha Pansenadi.
Nhiều năm trước kia, vua Pansenadi báo cho bộ tộc
Sakiya ở Kapilavatthu biết ông muốn chọn một thiếu nữ
dòng họ này về làm vương hậu, để thiết lập liên hệ
huyết thống giữa hai bên. Ðáng lẽ họ phải gởi sang cho
ông một thiếu nữ chính thống Sát-đế-lỵ, họ lại gửi
nàng Vàsabha-khattiyà, một thiếu nữ lai huyết thống của
hai giai cấp, đó là công nương diễm kiều của vương tử
Mahànàma, một vị hoàng thân của đức Phật, đã lấy một
nữ tỳ. Hoàn toàn không biết gì về việc này, vua Pansenadi
đã làm lễ cưới nàng rất linh đình và phong ngôi chánh hậu.
Trong vòng một năm, nàng sinh hạ hoàng tử Vidùdabha.
Khi Vidùdabha lên bảy thì nhận thấy các trẻ
con khác nhận quà tặng của bà ngoại chúng, còn cậu thì
không. Vào năm mười sáu tuổi, hoàng tử thiếu niên này du
hành tận Kapilavatthu để tìm hiểu lý do. Bộ tộc Sakiya tiếp
đón cậu lạnh nhạt và nói những câu bình phẩm chê bai
sau lưng cậu. Cuối cùng, do tình cờ, hoàng tử biết được
sự thật về mẫu hậu, liền thề khi có cơ hội sẽ lấy
máu rửa hận với dòng họ Sakiya vì đã lừa gạt phụ vương
mình một cách tàn nhẫn như vậy (Jàt 465).
Thời cơ nay đã đến. Vua Vidùdabha cầm đầu
quân đội khởi hành tiến về hướng đông, nhưng đình
hoãn tấn công Kapilavatthu khi đức Phật xin vua này dung tha mạng
dân chúng. Người ta phỏng đoán bậc Ðạo Sư lão thành cố
ngăn chặn vua Vidùdabha lần thứ hai, lần thứ ba, nhưng rồi
nhà vua không bị kiềm chế mãi được nữa. Nhà vua chiếm
lấy Kapilavatthu, và ra lệnh xử tử hình mọi công dân đến
tuổi quân dịch. Cuối cùng ông phóng hỏa kinh thành, nơi đức
Phật từng sống thời hoa niên (nay là Tilaurakot ở Nepal). Việc
tiêu diệt thành Kapilavatthu có lẽ xảy ra năm 485 hoặc 4845
trước CN, không lâu trước khi đức Phật diệt độ.
Dĩ nhiên nhiều người dòng họ Sakiya chạy trốn
trước khi quân của vua Vidùdabha tiến đến và họ tìm nơi
ẩn náu với các bộ tộc láng giềng thuộc dòng Moriya và
Malla. Khi họ nghe tin vua Vidùdabha đã chấm dứt chiến dịch
tàn phá và xem việc trả thù đã trọn vẹn, họ trở về từ
nơi lưu vong.
Vì nay không còn gì sót lại cổ thành
Kapilavatthu (Tilaurakot hiện nay ở Nepal tức là Kapilavatthu I),
họ bèn định cư lập nghiệp ở một nơi khác (Pipràvà hiện
nay ở Ấn Ðộ là Kapilavatthu II). Họ gọi nơi này là Mahà-
Kapilavatthu (Ðại-ca-tỳ-la-vệ) và chính nơi đây, sau lễ
trà-tỳ (hỏa táng) đức Phật, họ đặt phần xá-lợi của
ngài mà họ được hưởng vào một bảo tháp.