Chúng tôi học Kinh (2)
Tâm Minh
Thân kính tặng ACE Áo Lam
Hôm nay chúng tôi học phẩm thứ 2 của kinh Pháp
Hoa, đó là phẩm Phương Tiện.
Chữ phương tiện thì ai cũng hiểu rồi nhưng trong phẩm
này có nghĩa đặc biệt và khi giảng kinh này quý Thầy hay dùng chữ
Quyền Biến để thay thế 2 chữ phương tiện. Phương tiện là cửa
ngỏ để đi vào cứu cánh, phương tiện có tính cách giai đoạn.
Mở đầu phẩm Phương Tiện, Đức Phật tâm sự với
đại chúng rằng Ngài rất băn khoăn sau khi thành đạo, không biết
có nên đem Phật pháp ra giảng cho chúng sanh cõi Ta Bà này không, vì
căn tánh chúng sanh rất can cường, thân tâm mê chấp, trí tuệ thấp
kém, tính tình kiêu mạn, không chịu tìm hiểu để tin..v...v... mà Phật
pháp thí quá vi diệu, cao sâu, Ngài nghĩ: hay mình hãy nhập Niết Bàn
cho rồi. Nhưng sau đó, Ngài nhớ lại và quán chiếu việc chư Phật
trong nhiều đời đã giảng nói Phật pháp cho chúng sanh, quý Ngài
dùng rất nhiều phương tiện thiện xảo để cho chúng sanh tin hiểu và
áp dụng, vậy nên đức Phật Thích Ca ngày nay cũng nên y theo phương
pháp của chư Phật trong 10 phương mà bày ra phương tiện để giảng
Pháp cho chúng sanh. Trước hết Ngài đã phương tiện nói là có 3
Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát). Với Thanh Văn Ngài giảng
Tứ Diệu Đế, với Duyên Giác Ngài giảng Duyên Khởi, với Bồ
Tát Ngài giảng Lục Độ Ba La Mật.. v.. v.. nhưng thật ra chỉ có một
Thừa (Nhất Thừa) đó là Phật Thừa. Vì thế bây giờ Ngài chỉ
nói về Phật Thừa. Ngài nói rằng tất cả chúng sanh, Ai Rồi Cũng
Sẽ Thành Phật, từ người tu hành tinh tấn, cho đến biếng nhác,
phóng túng ... nhưng có khởi tâm muốn muốn làm Phật, từ em bé
nhóm cát xây thành tháp Phật cho đến người chỉ đưa một tay ra,
chắp tay lạy Phật ..v..v... đều sẽ thành Phật trong tương lai vì hạt
giống Bồ Đề không bao giờ mất. Có khác nhau chăng là vấn đề
thời gian mà thôi. Lời tuyên bố này quả là khó tin, chỉ có
những ai chịu khó tu tập, tìm hiểu sâu sắc về Phật pháp mới hiểu
được và chấp nhận lời Ngài.
Trước đây Ngài đã phương tiện nói Tam Pháp Ấn:
Vô Thường, Vô Ngã, Khổ
Chư hành vô thường (các hành vô thường)
Chư pháp vô ngã (các pháp vô ngã)
Chư thọ thị khổ (các thọ là khổ - dù là lạc thọ
cũng là khổ theo sau)
Bây giờ chỉ là một: Nhất ấn hay thật tướng ấn;
từ ba pháp ấn chỉ còn lại một pháp ấn, đó là khuôn mặt đích
thật của thực tại.
Đối tượng của kinh này là hàng Thanh Văn- đại
diện là ngài Xá Lợi Phất - ngài là một trong 10 đại đệ tử
Phật, hạnh bậc nhất của ngài là Trí Tuệ, ngài cũng là thầy của
La Hầu La (Đức Phật giao cho ngài dạy La Hầu La). Điều đó nói lên
rằng phải là hàng có trí tuệ mới có thể nghe hiểu, chấp nhận
và tin những điều Như Lai nói ra, do vậy mà trong hội chúng đã có
năm ngàn người từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật rồi lui về.
Đây là những người nghiệp chướng sâu dầy và tăng thượng
mạn, chưa chứng đắc nhưng tự cho mình đã chứng đắc. Đức Thế
Tôn cho rằng đây là hạng người đại diện cho những chồi khô
mộng lép, với ngôn ngữ bây giờ thì ta nói rằng: những
người này chỉ cần thay đổi cách nhìn, cách suy nghĩ thì họ cũng
thành Bồ Tát, có khả năng thành Phật hết.
Đức Phật nói rằng mục đích tối hậu của sự ra
đời của chư Phật là làm cho chúng sanh biết được rằng chúng sanh
cũng có tri kiến Phật (Khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật).
Nhưng tại sao lại đánh mất đi, tại sao 6 căn không còn thanh tịnh? -
Đó tại vì Tham Sân Si Mạn Nghi ...v..v... đã che lấp, nói cách khác,
vô minh đã làm cho chúng sanh trong cõi Ta Bà này bị mê lầm. Trong
bài giảng của thầy Từ Thông, thầy có nói rằng khi mới sanh ra, 6
căn của chúng sanh cũng thanh tịnh như của chư Phật: hãy quan sát một
em bé chưa biết đi, 6 căn của em thật thanh tịnh: mắt nhìn những vật
quý giá của thế gian nhưng không hề ham muốn, tai nghe đủ loại tiếng
nhưng không đắm, ..v..v.. Ta thử đưa cho em một hột xoàn: em có thể
cầm chơi một chút rồi quăng đi không hề luyến tiếc, ai cho thì ăn,
uống thì uống, không ưa cũng không ghét đối với mọi người mọi
vật. Tâm em bé hồn nhiên trong sáng, 6 căn thanh tịnh, không hề bị
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (là 6 trần) làm nhiễm ô. Em bé
không biết có ta có người, không phân biệt mảy may (tức là
không có Ngã và Ngã Sở). Đức Phật gọi cái hạnh này là anh
nhi hạnh, chúng sanh khi thành người lớn đã đánh mất cái hạnh
này rồi tâm bị nhiễm ô bởi tham sân si mạn nghi phiền
não..v..v..Nghe thầy giảng ngang đây tôi liền nhớ đến Tâm Bất Sinh
của thiền sư Bankei (Nhật). Theo ông thì người lớn cũng có cái
tâm bất sinh nghĩa là cái tâm không phân biệt, cái tâm ban sơ chưa
suy nghĩ, so đo, tính toán.
Chính cái tâm này sẽ tự nó an bài mọi sự một
cách êm xuôi không cần mình phải bon chen, tranh đua hơn kém..v..v...
Nếu ai an trú trong tâm bất sinh đó thì đấy là Phật. Thiền sư Bankei
sống cách đây vài trăm năm mà ở thời đó ông còn bị chống
đối huống gì thời Đức Phật cách đây hơn hai ngàn năm trăm
năm, làm sao những chúng sanh không có tuệ giác có thể tin nỗi!.
Thật là khó khăn cho Đức Phật khi muốn truyền bá Đạo nhiệm mầu
cho chúng sanh cõi Ta Bà này. Tuy nhiên anh chị em chúng tôi đã
được may mắn biết một trong những người lớn mà có tâm hồn
trẻ thơ, sống thanh thản, an nhiên tự tại giữa cuộc đời ồn ào
phức tạp này: đó là Thiền Lão thiền sư. Sư không màng biết bao
nhiên năm tháng đã trôi qua, mình là ai, mặc dù Thiền phong của Sư
vang dội khắp nơi và học trò của Sư lên đến hơn ngàn người.
Một hôm vua Lý Thái Tông đến viếng chùa của Sư và hỏi:
- Hòa Thượng trụ trì ở đây được bao lâu rồi
ạ?
Sư đáp: Chỉ biết ngày tháng này (Đản tri kim nhật
nguyệt)
Ai rành Xuân Thu trước (Thùy thức cựu Xuân Thu)
Vua hỏi lại rằng : Hằng ngày Hòa Thượng làm gì?
Sư đáp: Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác (Thúy
trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh)
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân (Bạch vân minh
nguyệt lộ toàn chân)
Vua rất kính phục và muốn thỉnh Sư về triều đình để
làm cố vấn nhưng khi sứ giả của vua đến thì Sư đã viên tịch. Sư
quả thật đã tu đến độ lục căn thanh tịnh, đã đạt được anh nhi
hạnh của một tâm hồn trẻ thơ, nghĩa là tâm Phật bất sinh vậy.
Chữ phương tiện làm anh chị em chúng tôi có thật
nhiều điều muốn nói, chúng tôi đã dành nhau nói về những bài
học của mình đã học được và đem áp dụng vào cuộc sống cũng
như trong việc giảng dạy cho các em. Xin ghi ra đây những bài học của
nhóm chúng tôi:
* Tất cả các môn học trong Gia Đình Phật Tử như
Hoạt Động Thanh Niên, Trò Chơi, Văn Nghệ, Báo Chí Trại, Trại Mạc
..v..v.. đều nhằm mục đích giới thiệu Phật pháp với các em,
truyền bá giáo lý đến các em; vì vậy nếu sa đà theo phương tiện
mà quên mục đích thì đó là khuyết điểm của người Huynh
Trưởng. Cũng vậy, báo chí nếu không đem lại sự hòa ái tin yêu
giữa những người Phật tử, giữa người với người, không đem
niềm vui đến cho độc giả mà chỉ đem phiền não, thị phi..v..v.. thì
tờ báo đó mất tác dụng truyền bá Phật pháp rồi.
Về bản thân, nếu chúng ta k hông phân biệt rõ
phương tiện và cứu cánh trong các hành động của thân, miện ý
trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thể bị sa vào lầm lỗi. Ví
dụ có anh chị bảo rằng uống rượu mà không say sưa là được,
uống rượu, khiêu vũ ..v...v... là để xã giao. Trong xã hội ngày nay
không tránh được việc xã giao, thù tiếp trong công việc làm ăn
..v..v.. được. Điều này có thể đúng nhưng chúng ta phải luôn tỉnh
thức để biết lúc nào là cần thiết xử dụng nó như một phương
tiện và lúc nào ta đã sa đà vào sự phóng dật đam mê không
thể rút chân ra được. Điều này chỉ có ta biết mà thôi. Xin hết
sức cẩn trọng !.
Trong phẩm này có nhiều câu kinh, kệ thật là hay,
không thể không nhớ hoài được và nhờ vậy chúng ta dễ thuộc,
dễ áp dụng, ví dụ như:
Chư pháp tùng bổn lai (Các pháp xưa nay)
Thường tự tịch diệt tướng (Thường tự vắng
lặng)
Câu này nói lên cái ý nghĩa thật độc đáo: đó
là mỗi lá cây ngọn cỏ đều dạy cho ta về vô thường vô ngã và
tánh không của vạn pháp. Chúng ta không chỉ đến chùa mới nghe
được Phật pháp vi diệu mà từng chiếc lá cành hoa...v...v... đều
giảng nói Phật pháp nếu chúng ta biết ngắm nhìn và biết lắng nghe.
Thật vậy, nhìn một cành hoa ta thấy rõ trùng trùng duyên, khởi.
Cái hoa là tổng hợp của nước, ánh sáng, đất, gió, không khí,
mặt trời..v...v... đó là chưa kể công người trồng, tưới, mưa
gió thuận hòa. Thầy Nhất Hạnh thường khen bài thơ của Quách Thoại
vịnh bông hoa thục dược như sau:
Đứng yên ngoài hàng giậu,
Em mĩm nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Và thoảng nghe em hát
Lời ca em thiên thu
Ta sụp lạy cúi đầu.
Thầy nói người thi sĩ trẻ này đã nắm bắt được
thực tại nhiệm mầu. Thật vậy, chính bây giờ và ở đây chúng ta
có hạnh phúc, chúng ta có an lạc, chúng ta có cái đẹp tuyệt đối
chứ không cần tìm ở đâu xa. Nếu chúng ta biết nhìn, chúng ta sẽ
thấy, biết lắng tai thì sẽ nghe những âm thanh vi diệu từ thiên
nhiên quanh ta trong một buổi bình minh, một buổi hoàng hôn hay ngay cả
trong cái tĩnh mạch của một buổi trưa Hè. Do đó, trong khi đi dạo ta
có thể thực hành Thiền, giữ tâm yên, lời yên, chúng ta học
tập được rất nhiều điều từ thiên nhiên mặc dù thiên nhiên
không bao giờ nói gì cả. Điều này còn có thể chữa lành hay bồi
dưỡng cái tâm quá mệt mỏi của chúng ta nữa.Hai câu này không
chỉ chúng ta thấy hay mà người xưa cũng thấy hay nữa, chẳng thế
mà một vị thiền sư đã dùng để mở đầu cho một bài thơ của
mình:
Chư pháp tùng bổn lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai (Xuân đến trăm hoa nở)
Hoàng Oanh đề liễu thượng (Oanh vàng ca liễu thắm)
Vị thiền sư này cũng thưởng thức thiên nhiên với
tâm thanh tịnh thực tại rất đơn giản ở trước mặt như hoa xuân
đua nở và chim chóc ca hót. Tâm của thiền gia an lạc, thanh tịnh,
không vướng mảy may phiền não.
Ngoài ra trong khi học phẩm này chúng tôi được nhắc
nhở về 3 thứ ngoại đạo.
1/ Ngoại đạo thật
2/Ngoại đạo mạo danh đạo Phật: tu theo ngoại đạo
nhưng dán nhãn hiệu đạo Phật.
3/ Học Phật pháp thành ngoại đạo: hiểu lầm Phật pháp, ý của mình
mà nói là ý của Phật, Tổ ..v...v... như vậy tưởng là truyền bá
đạo Phật , kỳ thực là truyền bá ý của mình. Họ chấp lời nói
của Phật, của Tổ, cho là thật, không biết đó chỉ là phương tiện.
Đức Phật gọi hạng thứ ba này là sư tử trùng, vì chính họ sẽ
tiêu diệt Phật pháp.
Một bài học khác nữa là gần gũi và cúng
dường vô số chư Phật. Thế nào gọi là được gần gũi và
cúng dường vô số chư Phật ? Đây cũng là ngôn ngữ biểu tượng
của Pháp Hoa. Vì thọ lượng của chư Phật là vô cùng vô tận,
chúng ta làm sao gần gũi và cúng dường vô số chư Phật trong một
kiếp phù du ở cõi Ta Bà này được ? Nhưng nếu ta an trú trong tâm
Phật bất sinh, xa lìa ngã chấp, ngã sở (chấp có TA và CỦA TA),
luôn tỉnh thức tránh tất cả các điều ác, làm tất cả điều
lành, giữ tâm ý trong sạch, không truy tìm quá khứ, không mơ ước
tương lai, luôn an trú trong hiện tại, hằng ngày luôn luôn nhớ nghĩ
điều thiện, giữ gìn chánh niệm, không khởi tà niệm..v...v... thì
đó là ta đã gần gũi và cúng dường vô số chư Phật vậy. Nói
tóm lại, gần gũi và cúng dường chư Phật có nghĩa là gần gũi
với Phật tánh thanh tịnh của chính mình.
Một bài học quý nữa là về thật tướng của
các pháp. Chúng ta thường gặp phiền não khổ đau vì chúng ta méo
mó trong cách nhìn, cách nghe ..v...v... chúng ta không thấy được
thật tướng của các pháp. Nếu chúng ta nhìn một vật, một người
với tâm Phật bất sinh của mình, nhìn mà không phân biệt lớn nhỏ,
cao thấp, xấu đẹp thi không bao giờ chúng ta gặp phiền não, đau
khổ. Nếu chúng ta biết nghe với tâm bình đẳng, không để cho cái
ngả của ta vướng vào, sao cho cái nghe cứ vẫn là cái nghe thuần
túy, cái thấy chỉ là cái thấy thuần túy.... thì ta sẽ thấy vạn
pháp vốn bình đẳng, ta hiểu được ý nghĩa của không dơ, không
sạch, không thêm không bớt, không thường không đoạn, không sanh
không diệt.... là như thế nào. Đức Phật nói đó là nhìn sự
vật theo cái nhìn của chư Phật. Theo Thập Như Thị: tướng, tánh, thể,
lực, tác, nhân, duyên, quả ...báo.... Còn chúng ta , chúng ta luôn
phân biệt, đặt tên, phê phán. Ví dụ núi thì cao, đồi thì thấp,
sông thì sâu, hồ thì cạn..v...v.... Nhìn người thì phân biệt người
nước này, nước nọ, châu này, châu kia, màu da vàng, trắng, đỏ
đen....., người này dễ thuơng, người kia dễ ghét, người này đẹp
người kia xấu..v..v... từ đó phiền não khổ đau tranh chấp sẽ kéo
theo sau. Thật vậy, nhìn mọi vật với cái thấy của tâm phân biệt
nhỏ hẹp của mình thì thật là hạn chế; nếu chúng ta biết quay về
với tự tâm thanh tịnh, nhìn mọi vật theo tướng của nó, tánh của
nó, bản thể của nó, lực dụng của nó..v...v... thì ta thấy được
tính bình đẳng không hai của mọi sự mọi vật trên đời, không bị
hạn chế bởi tâm địa hẹp hòi, so sánh đo lường, tính toán, phân
biệt... của chính chúng ta nữa, mà trái lại thấy được tính cách
phong phú, đa dạng và vi diệu của vạn pháp vậy.
Để kết thúc Phẩm Phương Tiện, chúng tôi nhờ Th.
ngâm một bài kệ cũng bát đầu bằng câu Chư Pháp tùng bổn lai
thường tư tịch diệt tướng, mà chúng tôi đã được thuộc từ
lâu mặc dù không ai biết của tác giả nào:
Các pháp xưa nay thường vắng lặng
Tâm sanh Niệm khởi cảnh liền sanh
Nghe chuông tỉnh thức lìa cơn mộng
Thể nhập chơn tâm diệu đức hằng.
--- o0o ---
| Mục lục Tâm Minh |
Mục lục Tác giả |
Cập nhật ngày: 01-07-2001