Thưa đại chúng, hôm nay là ngày Chủ Nhật 16 tháng 11
năm 1997. Đây là buổi nói pháp thứ nhì tại Tu Viện Rừng Phong.
Hôm nay chúng ta học về thương yêu.
Chúng ta ai cũng đã có thương, nhưng có lẽ ít
người có cơ hội tính sổ lại tình thương của mình, xem thử ta đã
khổ đau như thế nào trong khi thương, đã hạnh phúc như thế nào trong
khi thương, và đã học được gì trong quá trình thương yêu, khổ
đau, và hạnh phúc đó. Thật ra phần lớn trong chúng ta bận rộn rất
nhiều và chưa có cơ hội để ngồi lại và làm việc tính sổ ấy.
Khi tính sổ như vậy, chúng ta có thể học được rất nhiều từ
những kinh nghiệm thương yêu, khổ đau, và hạnh phúc của chúng ta.
Chúng ta thương cha, thương mẹ, thương con, thương cháu, thương trời,
thương đất. Chúng ta thương nhiều thứ lắm. Mỗi người trong chúng
ta nên để ra chừng bẩy ngày để suy nghĩ, take a vacation, không làm
gì hết, suốt ngày chỉ tính sổ thương yêu mà thôi. Và ta phải nhìn
cho sâu, phải thành thật, để có thể bắt đầu thấy được bản
chất của tình thương cũng như của những khổ đau, khó khăn, và
hạnh phúc mà tình thương ấy đã đem tới. Từ đó chúng ta sẽ
rút ra những kinh nghiệm và sẽ chuyển hóa được tình thương để
tình thương ấy bớt gây đau khổ cho mình và cho người, và cũng
để bắt đầu tạo thêm hạnh phúc cho mình và cho người mình thương.
Chúng ta thương, nhưng thực sự ít ai biết được bản
chất của tình thương. Nếu chúng ta biết thực tập chánh niệm và
quán chiếu thì chúng ta sẽ có cơ hội nhiều hơn để hiểu biết và
chuyển hóa bản chất của tình thương trong ta.
Nhà văn Pháp Antoine de St. Exupéry, tác giả quyển
"Hoàng Tử Bé" (Le Petit Prince), có nói: "Thương nhau không
phải là nhìn nhau, mà là cùng nhìn về một hướng" ("Aimer, ce
n'est pas se regarder l'un l'autre, c'est regarder ensemble dans la même
direction.").
Chúng ta thử xét xem lời tuyên bố của ông có
đúng không?
Tôi nghĩ là thương nhau mình có thể ngồi nhìn nhau
được chứ, miễn là đừng ngồi suốt ngày mà thôi! Lâu lâu
phải nhìn nhau, phải nhận diện rằng người thương của mình có mặt.
Nhìn nhau ở đây có nghĩa là công nhận sự có mặt của người
kia. Nếu thương mà không công nhận sự có mặt của người kia thì
người kia sẽ tủi chết, và sẽ nghĩ là mình không thực sự
được thương. Người kia sẽ nói: "Anh ấy không bao giờ để ý
đến tôi, ảnh không bao giờ nhìn mặt tôi, ảnh không bao giờ ý
thức là tôi đang có mặt!" Như vậy không được. Cho nên chúng
ta đừng nghe cái ông nhà văn đó xúi dại. Chúng ta phải biết nhìn
nhau và phải tập nhìn có chánh niệm. Nhìn như thế nào và nói như
thế nào để người kia biết mình thực sự có mặt cho người đó
và người đó thấy sự có mặt của mình đang được công nhận
và trân quý. Nếu người mình thương làm như mình không có mặt
trên cõi đời này, thì mình sẽ có cảm tưởng là mình không
thực sự được thương, là mình đang bị bỏ quên (ignored) bởi
người ấy. Nhìn nhau, vì vậy rất quan trọng. Nhưng mà vấn đề là khi
nhìn nhau mình sẽ thấy gì?
Khi thấy có cái gì dễ thương thì mình thương. Bắt
đầu là như vậy. Mình phải thấy người kia đẹp, mình phải thấy
người kia thiệt, mình phải thấy người kia hiền. Ai cũng muốn
thương, ai cũng cần đến cái Chân, cái Thiện, và cái Mỹ. Thiện
là sự hiền từ. Ai lại thương một bà chằng bao giờ! Mỹ là
đẹp. Quỷ Dạ Xoa xấu quá, khó thương lắm! Ngoài ra, đối tượng
của sự thương yêu còn phải thật (Chân.) Nếu đối tượng đó chỉ
là một cái bóng dáng, một cái mặt nạ, hoặc một sự giả trang
thì
làm sao mình thương được. Nếu đối tượng đó
chẳng qua chỉ là phấn sáp, chẳng qua chỉ là cái hào nhoáng bên
ngoài thì nó không thật. Không ai lại đi thương cái giả dối.
Vì thế đối tượng của sự thương yêu phải là sự
thật. Trừ khi mình dại dột, bị đánh lừa, thì mình mới kẹt vào
cái giả ngụy mà thôi. Cho nên trong khi thương ta phải sáng suốt
lắm. Nếu không ta sẽ mua lầm hàng giả, mà bây giờ thiên hạ bán
hàng giả rất nhiều. Thiên hạ chuyên đi mua cosmetic về để sơn phết.
Họ dùng những phương tiện kỹ thuật làm ra đủ thứ giả: lỗ mũi
cũng giả, ngực cũng giả, mông cũng giả, rồi đạo đức cũng
giả. Giả dối nhiều lắm. Nước hoa có nhiều thứ. Nước hoa có
công dụng lấp đi những cái không đẹp, không thơm. Cái giả dối
rất nhiều, nếu không tỉnh táo mình sẽ bị kẹt. Đối tượng của
sự thương yêu như vậy không "chân". Đó là đứng về
phương diện hình hài. Còn đứng về phương diện đạo đức cũng
vậy. Có đạo đức giả. Nghĩa là mình không thánh thiện, không
hiền lành, không có lòng tốt, nhưng mình làm ra cái kiểu là mình
có thánh thiện, có sự hiền lành, có sự tốt bụng.
Nhiều người bị lừa về chuyện giả trang đạo đức
lắm. Do đó khi thương, ta phải tỉnh táo. Nhưng thường thường,
thương thì không có tỉnh táo. Thương còn được gọi là cơn mê.
Trong tâm trạng thương, vì mình không được tỉnh táo nên mình mới
bị kẹt vào những cái không có thật. Đứng về phương diện bóng
sắc cũng như đứng về phương diện đạo đức, sự tình đều như
vậy. Người đó không hiền mà mình tưởng là hiền. Thấy bề
ngoài hiền khô như vậy, nhưng mà hãy coi chừng!
Nếu biết nhìn bằng con mắt của chánh niệm, ta sẽ
thấy cả ba cái chân, thiện, và mỹ dính liền với nhau. Đó là tính
tương tức của ba cái. Trong chân phải có thiện và mỹ. Trong thiện
phải có chân và mỹ. Trong mỹ phải có chân và thiện. Một cái
phải có hai cái kia thì mới thực sự là nó được. Nếu chưa có
thiện và mỹ thì đó chưa phải là chân. Mình phải thấy ba cái đó
tương tức. Thương là một quá trình quán sát, nhưng người thương
ít khi chịu quán sát. Mình để mình bị vướng vào đó thôi. Bước
đi mình bị té, mình bị sập bẫy. "Fall in love" tức là té. Đi
làm sao mà bị té? Không có chánh niệm, không biết cái gì xảy ra,
thế là mình bị té, bị kẹt. Có khi mình mơ hồ biết là có hầm hố,
có hiểm nguy nhưng mình vẫn đi, mình vẫn muốn bị "té". -
đời biết bao nhiêu người trẻ bị kẹt trong tình huống như vậy, làm
tan tành cuộc đời của mình. Đó là tại vì họ không cẩn thận,
cứ để cho những cái bề ngoài đánh lừa. Mình có quyền thương
cái chân, cái thiện, và cái mỹ, với điều kiện đó là chân
thật, thiện thật, và mỹ thật. Và đối tượng của sự thương yêu
không thể là vọng tưởng, không thể là một tri giác sai lầm.
Không chân mà tưởng là chân, không thiện mà tưởng là thiện,
không mỹ mà tưởng là mỹ, đó gọi là tri giác sai lầm (vọng
tưởng). Vì thế tình thương thường thường là một cơn mê, một
passion, một cái dream. Và khi tỉnh dậy được rồi thì trong thân và
trong tâm đã có biết bao nhiêu thương tích. Đức Thế Tôn dạy là
mình phải thương, nhưng cái thương của mình phải dựa trên cái thấy
chân thật chứ không nên dựa trên vọng tưởng. Khi đối tượng
tình thương của mình là một vọng tưởng mà không phải là sự
thật thì mình sẽ đau khổ rất nhiều. Có những cái đẹp thầm kín.
Có những cái đẹp mình phải nhìn kỹ lắm mới thấy được.
Và thường thường những cái đẹp chân thật đều
như vậy, mình phải nhìn kỹ mới thấy. Khi cái đẹp là cái đẹp
chân thật thì cái đẹp đó có khả năng nuôi dưỡng mình, có khả
năng làm đẹp cuộc đời mình. Vì thế thương cái đẹp rất quan
trọng, với điều kiện cái đẹp đó phải là cái đẹp đích thực.
Cái thiện cũng là cái đẹp. Ví dụ như lòng từ bi. Lòng từ bi
là một cái gì rất đẹp. Khi thương Đức Thế Tôn, mình thấy một
phần quan trọng của tình thương mình là do ở chỗ Đức Thế Tôn có
lòng từ bi. Mình thương tình thương của Đức Thế Tôn. Đó là một
thứ tình thương rất cần thiết cho cuộc đời.
Đức Thế Tôn có khả năng thấy được những đau
khổ ở xung quanh Ngài. Và Đức Thế Tôn không quên những đau khổ
đó. Đức Thế Tôn tìm những biện pháp để làm vơi đi những khổ
đau đó và cả cuộc đời của Thế Tôn là để làm chuyện đó:
chuyện nhắm tới làm vơi đi những khổ đau của mọi người. Khi mình
thương ai thì mình thương từ trong ra ngoài và cả ngoài lẫn trong.
Bên trong Đức Thế Tôn có một tình thương rất lớn, cho nên mình
thương cái tình thương ấy của Đức Thế Tôn. Từ tình thương đó,
mình muốn hòa nhập làm một với Đức Thế Tôn và mình muốn tham
dự vào tình thương đẹp đẽ này, mình muốn học thương được như
Đức Thế Tôn. Và từ từ mình khám phá ra rằng ở trong mình cũng
có cái đó. Nơi Đức Thế Tôn, tình thương này phát hiện rất rõ.
Nhưng như vậy không có nghĩa là mình không có tình thương ấy trong
bản thân mình.
Chính Đức Thế Tôn đã nói với mình là: "Con
cũng có cái đó, con cũng có hạt giống từ bi và tuệ giác
đó". Ban đầu mình thấy nó ở nơi người khác, và từ từ
mình thấy nó ở ngay chính mình. Và mình trở thành đối tượng
thương yêu của chính mình. Mình thương tình thương đó nơi chính mình.
Thường thường, mình cứ nghĩ là thương tức là thương những
thứ ở ngoài mình, nhưng thực sự ở trong bản thân mình cũng có
những thứ rất dễ thương. Ttrong mình có Chân, có Thiện, và có
Mỹ mà mình chưa nhận diện được. Và đôi khi mình chỉ tiếp xúc
được với những thứ không phải là Chân, không phải là Thiện,
không phải là Mỹ ở nơi mình, và vì thế mình cứ tự đánh gía
trị rất thấp về mình. Mình có mặc cảm là mình giả dối, không có
lòng từ bi, không đẹp, và vì vậy mình có khuynh hướng giả trang.
Mình giả dối với mình, mình giả dối với người khác, mình khoác
vào cho mình những bóng dáng của Chân, của Thiện, của Mỹ để mình
có thể 'impress' được người khác. Và sở dĩ mình giả dối như
vậy là vì mình chưa có khả năng thấy được cái đẹp, cái thực,
và cái lành ở nơi mình. Chứ nếu mà mình có khả năng tiếp xúc
được với cái chân, Thiện, và Mỹ ở tự thân thì mình không
cần giả dối nữa. Mình có đức tin là: "I am something". Và
lúc đó mình bắt đầu sống thật với mình. Nếu mình không sống
thật với mình được thì mình không sống thật được với người
khác.
Chúng ta có mặc cảm là chúng ta không có cái đẹp,
cái thật, và cái hiền. Chúng ta phải nhổ gốc cho được cái mặc
cảm đó. Đức Thế Tôn đã xác nhận điều đó: "Con có cái
Chân, Thiện, Mỹ nơi con". Chúng ta đôi khi gọi Chân Thiện Mỹ
này là Phật tánh. Và: "Con phải tiếp xúc được với những
cái đó để con đừng có mặc cảm và từ lúc đó con sẽ không
giả dối nữa, và con sẽ không đi kiếm, đi tìm ở bên ngoài nữa,
vì trong con đã có đầy đủ những cái này". Nhìn Đức Thế
Tôn, mình thấy Chân Thiện Mỹ rõ ràng, và khi mình soi gương vào
Đức Thế Tôn để thực tập, mình cũng thấy trong mình có Chân
Thiện Mỹ. Vì vậy thương Đức Thế Tôn là mình tạo một cơ hội
để trở về thương lấy chính mình. Trong giáo lý đạo Phật, trước
khi mình có thể thương ai mình phải thương được mình trước. Điều
này rất quan trọng. Self-love is the foundation for the love of others. Điều
này quan trọng nhưng ít người nói tới, là vì ai cũng nghĩ là 'cái
đó' không có trong mình cho nên mình mới đi tìm ở ngoài. Và khi
mình đi tìm như vậy, ít khi mình tìm ra được đối tượng chân thật
mà lại bị vướng mắc vào những hình tướng ngụy trang bên ngoài.
Vì thế đã khổ rồi mình lại khổ thêm nhiều tầng nữa.
Mình thương Đức Thế Tôn vì Đức Thế Tôn có sự
vững chãi, thảnh thơi, và hạnh phúc, không có gì lay chuyển nổi.
Còn mình thì thiếu cái vững chãi đó. Mình có cảm tưởng là mình
rất dễ bị tan vỡ, rất dễ bị lung lay. Cho nên mình mới đi kiếm sự
vững chãi ở một chỗ khác, đi kiếm ở Đức Thế Tôn. Thương là
vì thiếu cho nên đi tìm. Cái 'vững chãi' ấy trong Kinh gọi là bất
động. 'Diệu trạm tổng trì bất động tôn'. Lúc đầu mình nghĩ là
mình không có, nhưng sau khi mình tin vào Đức Thế Tôn và nhận Đức
Thế Tôn làm Thầy thì mình được nghe Ngài nói: "Con cũng có
cái đó. Con phải về tìm cho được cái đó'. Đức Thế Tôn có
sự giải thoát, có sự tự do, có sự thảnh thơi.
Mình cũng cần có cái đó. Mình thấy là mình hệ
lụy, mình thấy là mình vướng mắc, mình không có tự do gì cả.
Đối với các phiền não, mình trở thành con mồi. Mình không có
tự do đối với các phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, và kiến,
thành thử mình đi tìm tự do ở chỗ khác, và cố nhiên là mình đi
tìm ở các bậc đạo sư. May mắn mình gặp một người như Đức Thế
Tôn, một người có chất liệu đích thực của sự vững chãi và
thảnh thơi. Và như thế mình có cơ hội trở về với chính mình và
tìm ra các chất liệu đó trong mình. Mình không có hạnh phúc. Những
cái mà mình gọi là hạnh phúc chưa phải là hạnh phúc chân thật.
Đó chỉ là những vui nhộn nhất thời, những ồn ào, những bóng
dáng giả tạo bên ngoài, để che lấp những niềm đau, nỗi khổ bên
trong. Mình vui nhộn như vậy nhưng đến giây phút ngồi yên lại, mình
thấy những cái vui đó rất giả tạo. Và niềm đau nỗi khổ của
mình ở dưới tiềm thức quá lớn, bắt đầu trồi lên. Rồi mình
lại phải đi ra, đi nhảy disco, đi nghe nhạc, mở Ti-vi ... để che lấp
nó. Những cái mình gọi là hạnh phúc đó không thật sự là hạnh
phúc. Khi mình thấy một người có hạnh phúc chân thật, mình rất
ham. Mình thất Đức Thế Tôn ngồi rất vững chãi, rất thảnh thơi,
rất an lạc. Tại sao ở đời hạnh phúc lại có thể có được như
thế? Mình không tin là hạnh phúc có thật. Khi gặp được một
người có hạnh phúc thật sự mình mừng quá. Và lúc đó mình
bắt đầu nghĩ là hạnh phúc có thể có được. Đức Thế Tôn
dạy: "Hạnh phúc đó có ở trong con.
Con phải trở về tìm cho được ra nó". Cuộc gặp
gỡ giữa mình và Đức Thế Tôn bắt đầu từ sự đi tìm những
cái mình tưởng mình không có. Đến khi thật sự được gặp Đức
Thế Tôn, mình có cơ hội để trở về với mình và nhận diện ra
cái mà ngày xưa mình tưởng là không có. Thường thường chúng ta
có cái cảm giác thiếu vắng, không có self-sufficient. Mình nghĩ mình
là một cái nồi chưa có vung. Và mình đi khắp tam thiên đại thiên
thế giới để tìm một cái vung đậy lên cái nồi của mình.
Cái vung đó có thể là một người con trai hoặc một
người con gái nào đó mà mình hy vọng sẽ gặp được. Gặp được
người yêu lý tưởng là tìm được cái vung đậy lên cái nồi.
Và người nào cũng có cảm tưởng mình là một cái nồi không có
vung. Cái nồi không có vung đó nghĩa là gì? Nhìn cho kỹ thì đó là
sự trống vắng. Vì những cái mình cho là mình không có, tức là
Chân Thiện Mỹ, nên mình đi lý tưởng hóa người yêu, biến
người yêu đó thành Chân Thiện Mỹ. Nhưng ác hại thay, sau vài
tháng hay là một năm, mình khám pha rằng người yêu của mình cũng
không phải là Chân, Thiện, Mỹ.
Người yêu mình cũng như mình thôi, cũng là 'một
cái nồi không có vung'. Hầu hết chúng ta đều đi tìm trong thế giới
cái nửa mà chúng ta thiếu (the other hald of yourself). Và biết bao nhiêu
người trong chúng ta đã thất vọng bởi vì 'cái nửa kia' mới tìm
ra đó, mình tưởng là cái đích thực mà mình cần. Chỉ sau một
thời gian, mình lại khám phá ra rằng nó không phải là cái đích
thực mà chúng ta cần. 'Cái nửa kia', cũng như mình, đang đi tìm một
cái nửa của nó!
Khi Đức Thế Tôn thành đạo dưới cây Bồ Đề,
Ngài đã thốt lên một câu để tỏ lộ sự ngạc nhiên: "Lạ
thay, tất cả mọi chúng sanh đều có cái đó mà không hề biết là
mình có cái đó!" Cái đó là khả năng vững chãi, thảnh thơi,
và bản chất của giác ngộ. Chúng ta cứ trôi lăn từ đời này
sang đời khác trong đại dương của khổ não. Trôi lăn đi thế là
để đi tìm cái nửa kia. Mà đi tìm cái nửa kia là vì mình không
biết cái nửa kia đã nằm trong cái nửa này rồi.
Bây giờ nói thì người ta báng bổ, nhưng mà kỳ thực: to love is to
love yourself, to recognize that what you lack is within yourself. Và khi mình bắt
đầu khám phá và tiếp xúc được với hạt giống của Chân, của
Thiện, của Mỹ trong mình, thì mình bắt đầu có sự tự tin và hạnh
phúcchân thật chỉ có được khi lòng tự tin đó nứt mầm.
Ngày xưa có một thầy tên là Vakhali. Thầy Vakhali
thương Bụt vì Bụt đẹp quá về phương diện hình thức. Thấy vị
đạo sư đẹp quá, tướng hảo quang minh quá, thành ra thương vậy
thôi. Thầy kẹt vào bóng dáng của Bụt. Thầy ngồi đó, tuy nghe pháp
thoại, nhưng không nghe nhiều và chỉ để ngắm Bụt. 'Yêu nhau tức là
nhìn nhau' đó! Nhìn, nhưng Thầy không nhìn sâu, chỉ nhìn bóng dáng
bên ngoài thôi. Sau vài tháng, Đức Thế Tôn biết là Thầy bị kẹt,
và đi đâu Bụt cũng không cho Thầy đi theo. Ngày xưa cũng không
khác ngày nay. Có nhiều người không tu tập, không thật sự quán
chiếu, chỉ muốn hưởng sự có mặt của một người khác, và kẹt
vào đó mà thôi. Bữa đó, Thầy Vakhali 'thất tình'. Thất tình vì bị
Bụt 'hất hủi', không cho đi theo. Bụt muốn giúp Thầy trị bịnh của
Thầy.
Thầy đã có lần muốn nhảy từ triền núi xuống để
tự tử. Đức Thế Tôn biết trước cái gì sẽ xảy ra. Ngài tìm
cách có mặt lúc đó để dạy cho Thầy Vakhali. Sau này Thầy Vakhali
thoát khỏi tình trạng vướng mắc và thực tập đàng hoàng. Thầy
Vakhali cũng đã đi tìm một cái gì mà Thầy thấy thiếu, tìm cái
đẹp. Nhưng sự đi tìm không sâu sắc lắm. Và Bụt đã giúp Thầy
tìm đến một cái gì sâu sắc hơn. Thầy Vakhali sau này bị một chứng
bệnh nan y và cuối cùng Thầy đã phải tự tử bằng dao. Nhưng
Bụt đã làm lơ để Thầy làm như vậy. Thầy chết
trong nhà một người thợ gốm. Bụt có tới thăm Thầy hai hôm
trước khi Thầy tịch. Quý vị muốn biết chuyện Thầy Vakhali nên đọc
trong 'Đường Xưa Mây Trắng'.
Thời của Bụt cũng có một cô gái thuộc giai cấp
hạ tiện, tên là Matanga. Cô này xinh lắm và cô yêu Thầy A Nan.
Chuyện bắt đầu xảy ra khi Thầy A Nan đi khất thực, khát nước, và
ghé vào một cái giếng để tìm nước uống. Thầy thấy cô gái kia
đang múc nước. Thầy nói: "Cô cho tôi uống một ngụm". Cô
trả lời: "Con là con gái giai cấp hạ tiện. Con đâu có quyền
đưa nước cho Thầy uống". Thầy A Nan thấy tội nói: "Theo giáo
lý của Đức Thế Tôn dạy, tôi không phân biệt giai cấp. Cô cứ
đưa cho tôi uống". Cô mừng quá, đưa nước cho Thầy uống, và
từ đó cô tương tư Thầy. Cô ngủ không được. Cô bị bệnh. Rồi
cuối cùng cô bàn với bà mẹ mời Thầy tới để cô có dịp tỏ
tình. Và hai mẹ con đã dùng bùa chú, dùng một thứ lá cây nào
đó làm ước trà mà khi uống vào Thầy A Nan mất cả sự tỉnh táo.
Thất Thầy A Nan quá giờ mà chưa về, Bụt sai các thầy khác đi tìm
và may mắn kiếm được Thầy A Nan trước khi Thầy làm một cái gì
sai với uy nghi và hại tới giới phẩm. Thầy A Nan uống xong thứ
nước trà kia, biết là bị trúng độc, liền ngồi im vận dụng phép
thở khí công. Thầy thở theo chánh niệm và đợi các thầy khác
tới giải cứu. Các thầy cũng đem luôn cả cô Matanga về. Tội
nghiệp cho cô, cô cũng cảm thấy thiếu một nửa và đi kiếm vậy
thôi.
Lần này cái nửa cô đi tìm là một ông thầy tu
trẻ. Bụt gọi cô vào hỏi: "Con thương Thầy A Nan lắm hả?"
Cô trả lời: "Dạ , con thương Thầy A Nan lắm". "Con thương
cái gì nơi Thầy A Nan?" Bụt hỏi. Cô trả lời: "Cái gì của
Thầy con cũng thương. Con mắt của Thầy con cũng thương, cái mũi của
Thầy con cũng thương. Cái gì của Thầy con cũng thương hết." Bụt
nói: "Nhưng mà thương như vậy con chỉ mới thương một chút xíu
của Thầy A Nan thôi. Con chưa biết gì nhiều về Thầy A Nan. Ví dụ như
chú nguyện của Thầy A Nan, con đã thấy gì đâu. Một người trẻ như
vậy mà đi
xuất gia là vì chí nguyện rất lớn, chí nguyện độ
đời, giúp cho bao nhiêu người thoát khổ. Con đâu đã thấy cái
đó. Nếu thấy cái đó mà con cũng thương được thì con đã không
cho Thầy A Nan uống thứ nước trà kia. Thầy A Nan có một tình thương
rất đẹp. Tình thương của Thầy A Nan là Bồ Đề Tâm, là chí hướng
muốn làm hạnh phúc cho nhiều người khác. Nếu con thấy được tình
thương đó thì con cũng sẽ thương. Và nếu con thương được thì
không bao giờ con muốn chiếm Thầy A Nan cho riêng một mình con."
Bụt dạy từ từ như vậy để cho cô thấy được cái đẹp trong
chiều sâu của nó. Bụt nói tiếp: "Con cũng vậy.
Con cũng có cái tình thương ấy trong con. Thương được Bồ Đề Tâm
của Thầy A Nan thì con cũng có thể thương được Bồ Đề Tâm trong
con."
Ngạc nhiên, cô Matanga hỏi: "Đức Thế Tôn muốn
nói là con cũng xuất gia được? Con cũng sống được một đời có
lý tưởng như Thầy A Nan sao?" Bụt cười: "Tại sao không?"
Và rốt cuộc cô Matanga cũng được Bụt cho phép xuất gia, làm Tỳ
kheo ni.
Cho nên cuộc tương phùng giữa ta với Đức Thế Tôn
là một cơ hội để ta tìm ra được là ta cũng có tiềm tàng trong ta
khả năng vững chãi và thảnh thơi. Và khi mình tiếp xúc được
với cái vững chãi, thảnh thơi, và hạnh phúc đó trong mình, mình
bắt đầu có đức tin nơi mình và hạnh phúc mới thật sự có
được. Còn không thì mình vẫn đầy mặc cảm, mình nghĩ mình không
có giá trị gì, và mình vẫn tiếp tục đi tìm cầu nơi một kẻ khác.
Ban đầu mình tìm cầu một cái vung để đậy lên cái nồi của mình.
Nhưng sau thấy đậy vung rồi mà nồi vẫn còn lạnh, vẫn còn trống
trải, mình mới đi tìm tới một vị đạo sư. Và có người đã may
mắn gặp được vị đạo sư đích thực - bởi vì đạo sư giả cũng
rất nhiều. Vị đạo sư đích thực là vị đạo sư có khả năng chỉ
cho mình thấy được cái mà mình đi tìm đang nằm trong bản thân của
mình. Cho nên tôi luôn luôn nhắc là: một ông thầy giỏi là một
ông thầy giúp cho mình thấy được ông thầy trong bản thân mình. The
best teacher is one who can help you find the teacher within yourself. Quý vị nên
nhớ lời căn dặn này. Mình không thể làm như Thầy Vakhali, ngày
nào cũng tới ngồi kè kè bên Bụt và không bao giờ có thể tự
chủ được. Ngồi bên Thầy, ngồi bên vị đạo sư có sự vững
chãi thảnh thơi, và tiếp tục tin rằng không bao giờ mình có được
chất liệu của sự vững chãi, thảnh thơi trong mình hết. Người
thương của mình có thể là Đức Thế Tôn, có thể là Thầy A Nan,
cũng có thể là bất cứ ai mà bản thân biểu hiện được cái
Chân, cái Thiện, và cái Mỹ chân thật. Khi thương một người mà ta
nhận diện được chất liệu vững chãi, bình yên, thảnh thơi, và
từ bi nơi người ấy là ta đã có một cơ hội rồi. Ta có quyền
thừa
hưởng những yếu tố ấy, nhưng ta phải học nhận
diện những yếu tố ấy, khen ngợi những yếu tố ấy, học nuôi
dưỡng những yếu tố ấy nơi người đó, rồi trở về bản thân
mà tìm cách làm phát hiện những yếu tố ấy trong ta, vì ta cũng có
những hạt giống tốt tiềm tàng trong tâm thức. Đây là tính Bụt,
đây là kho tàng Như Lai, đây là kho tàng bảo sở tự tâm. Thương
cũng là giúp người ta thương trở về tìm lại kho tàng ấy, phát
hiện kho tàng ấy.
Bây giờ ta hãy tìm tới một khía cạnh khác của tình
thương. Mình thường nói tới thương yêu như một vấn đề cá nhân,
nhưng không biết thương yêu cũng là một sản phẩm tập thể. Mình
có thể thương chung. Love is a collective practice. Khi thương Đức Thế
Tôn, mình có cơ hội tìm ra được Phật tánh trong chính mình. Và mình
nói: Đức Thế Tôn, xin Ngài cho phép con thương chung với Ngài. Mình
muốn tham dự vào sự nghiệp thương yêu của Đức Thế Tôn. Mình
muốn làm đệ tử của Đức Thế Tôn, làm con Đức Thế Tôn, tiếp
tục công trình của Ngài. Đó gọi là nhìn về một hướng. Ban đầu
thì mình nhìn nhau trước. Nhìn nhau để thấy có tôi ở trong anh và
có anh ở trong tôi. Sau đó chúng ta cùng thương chung. Khi mình đã
có lý tưởng, mình phải giúp cho người thương mình có lý tưởng
đó. Đức Thế Tôn thương mình cho nên Ngài chỉ cho mình thấy cái
Bồ Đề Tâm trong mình. Thành ra mình không thương đơn độc, cả hai
đứa mình đều có cái đó hết, và vì vậy mình có thể thương
chung. Khi hai người cùng thương chung thì hai người có hạnh phúc như
nhau. Tại sao anh đi một đường mà tôi lại đi một đường khác?
Tại sao tôi có lý tưởng của tôi, còn anh có lý tưởng của anh?
Mình với Đức Thế Tôn là như vậy đó, là 'associates' của nhau,
'associated lovers'! Người anh, người chị, người mẹ, người cha,
người hôn phối của mình cũng có thể cùng đi trên con đường
mình đi. Và nếu người kia chưa đi chung với mình thì mình phải làm
cho người kia có thể thương được như mình. Và như vậy là không
có sự trách móc.
Trách móc là: anh cứ đi con đường lý tưởng của
anh nhiều quá, anh không dành cho tôi thì giờ, anh không 'nhìn tôi',
anh cứ nhìn về hướng của anh thôi. 'You don't look at me, you only look at
the direction of your love. I am not included.' Cái nhìn đó vẫn là cái nhìn
lưỡng nguyên (dualistic view). Khi mình thương và biết cách thương thì
người kia cũng thương được như mình và 'chúng ta' luôn luôn có
nhau trên bước đường lý tưởng, trên bước đường thương. Tại
sao cứ phải trách móc là anh cứ lo cái lý tưởng của anh nhiều
quá và anh không để ý tới tôi. Chuyện nhìn nhau và chuyện nhìn
về một hướng phải là một.
Chúng ta bắt đầu bằng câu của Antoine de St. Exupéry:
"Thương nhau không phải là nhìn nhau, mà là cùng nhìn về một
hướng". Đến đây ta có thể trả lời rằng: "Ông nhà văn
ơi, ông nói lại đi: thương nhau cũng là nhìn nhau để nhận diện
rằng chúng ta có trong nhau, để chúng ta cũng có thể cùng nhìn chung
về một hướng." Phần chót là để quý vị quán chiếu và phát
hiện ...