Người tại
gia tu Phật
Hòa thượng Thích Thiện
Siêu
Tu có nghĩa là sửa. Tu rất khó, khó nhất là tu tại
gia, cho nên có câu: Thứ nhất tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu
chùa. Ở chùa có nhiều thiện duyên nên tương đối dễ tu. ở chợ
lại khó tu hơn một chút vì phải giữ lòng ngay thẳng, không gian manh
lường cân tráo đấu; ở nhà lại khó hơn nữa vì bạn ác rủ rê
làm ta dễ bị sa đọa.
Quy y Tam Bảo
Muốn tu tại gia trước tiên ta phải quy y "Tam
Bảo", và khi ta quy y Tam Bảo thì vấn đề lễ bái đối với ta
rất quan trọng. điều thứ nhất trong hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ
tát là: "Nhất giả lễ kính chư Phật".
Có một lần ở thành Vương xá, đức Thế Tôn thấy
con gia chủ là Thi-Ca-la-việt (Thiện Sanh) sáng nào cũng hướng 6
phương để đảnh lễ trong lúc đầu tóc áo quần đang còn ướt
sũng. đức Thế Tôn hỏi Thi-Ca-la-việt lễ lạy như thế để làm gì?
Thì y thưa rằng lễ lạy như vậy là chỉ để làm theo lời cha dặn
trước lúc lâm chung.
Chúng ta đôi khi cũng lễ lạy như vậy, lễ lạy theo
thói quen khi bước chân vào chùa, lễ lạy khi nghe tiếng chuông, nhưng
chúng ta cũng không ý thức lễ lạy để làm gì, và vì sao phải
phải lễ lạy? Hoặc giả chúng ta lễ lạy để cầu xin mua may bán
đắt, cầu xin cho con cái thi đậu, cầu xin sức khỏe khi có người
thân lâm bệnh. Chúng ta thường chỉ biết lễ lạy với tâm nguyện
cầu như thế. Chúng ta đã quên mục đích cao cả khi chúng ta đã
"quy y Tam Bảo"là chúng ta phải học đạo của đức Phật,
hành đạo như đức Phật, mục đích là xoay đời sống hung ác của
ta thành đời sống từ bi, xoay xấu xa trở thành tốt đẹp. Chúng ta
thường hay bạ đâu tính đó, ham kinh doanh, ham làm tiền, ham danh vọng,
nên đời sống của chúng ta do đó không an lạc, chúng ta không
được giải thoát. Khi một đệ tử đến cầu xin đức Phật giải
thoát cho y khỏi bao đau khổ, phiền não, thì đức Phật hỏi y: Ai ràng
buộc ngươi? Ai không cho ngươi được giải thoát?
Quy y Tam Bảo là nương theo Tam Bảo để làm như đức
Phật, để tu như đức Phật cho đến khi được chánh đẳng chánh
giác. Cho nên, khi chúng ta đã quy y Tam Bảo thì chúng ta không lạy
gốc cây, không lạy bờ sông, không cúng ông Táo. Nếu chúng ta
vẫn làm như vậy tức là chúng ta đã quên rằng chúng ta đã quy y
Tam Bảo. Như vậy, chẳng khác nào anh làm ruộng gieo giống ngoài đồng
rồi bỏ đó, không chăm sóc, không tưới bón, không vun quén, nếu
chúng ta quy y Tam Bảo mà chúng ta không tu, không học đạo, không làm
theo đạo Phật. Nếu chúng ta nhận định sai thì một ngày kia chúng ta
phải thối tâm và sa đọa.
đức Phật dạy một bài học cho chúng ta là: của cải
không đem lại chân hạnh phúc. đức Phật một hôm ngồi trên một
đám cỏ ướt mà không lạnh, không thấy khổ, vì nguyên nhân gây
khổ đức Phật đã dứt từ lâu, nên đức Phật vẫn an nhiên tự
tại, đức Phật bảo rằng: nằm trong nệm ấm chăn êm mà lòng tham,
sân, si không dứt, luôn luôn lo sợ mất của thì vẫn đau khổ như
thường.
Chúng ta đôi khi quên mục đích quy y và lễ bái Tam
Bảo của chúng ta, và nếu chúng ta chỉ lễ bái với mục đích thỏa
mãn lòng ham muốn tầm thường bất chính, thì chúng ta không bao giờ
đạt được mục đích cao cả kia. Ngày xưa có một anh thờ vị Thần
Lã tổ và trú dạ lục thời anh ấy đều hương hoa lễ bái kính
cẩn, chí thành. Ông Thần thấy anh kia tâm thành như vậy, rất cảm
động, bèn hỏi anh ấy muốn cầu xin điều gì, thì y đáp là muốn xin
Thần cho một chén vàng vì nhà y nghèo quá. ông Thần liền đưa ngón
tay hóa phép và một chén vàng hiện ra cho y. Anh ta mừng quá! Vài
hôm sau anh ta lại tiếp tục hương hoa lễ bái thành khẩn như trước.
ông Thần lại hiện lên và lại hỏi anh ta muốn cầu điều gì? Anh ta
liền thưa chén vàng nhỏ quá, không đủ để chi dùng, xin thần cho y
một bình vàng. ông Thần lại đưa ngón tay ra chỉ và một bình vàng
đầy ắp hiện ra. Anh ta mừng quýnh. Nhưng chẳng bao lâu anh ta nghĩ
rằng mình muốn nhiều thứ hơn nữa, mà mỗi lần cầu xin thì chỉ
được một thứ mất công lễ bái. Lần nầy anh ta sắm nhiều hương
hoa, lễ bái nhiều hơn trước và thành khẩn hơn trước. ông Thần
thắc mắc quá, chẳng biết anh ta còn muốn gì? ông hỏi, con còn muốn
cầu xin điều gì nữa? Có phải con muốn đạo không? Hỏi năm ba lần
anh ta mới thưa rằng "Chỉ muốn xin ngón tay làm phép của Thần
thôi", ông Thần nổi giận đưa ngón tay chỉ một cái, tức thì
nhà cửa, xe cộ, của cải gì của anh ta cũng sụp đổ tan tành. Thế
mới hay nếu chúng ta lễ bái với mục đích cầu lợi lạc thì không
bao giờ được thỏa nguyện, bởi lòng tham của chúng ta vô bờ.
Lễ bái đúng đắn
Nếu chúng ta không rõ ý nghĩa của lễ bái thì việc
lễ bái trở thành vô ích. Vì sợ sệt mà lễ, vì lợi lộc mà lễ
thì lễ Phật cũng như lễ gốc cây, bụi bờ không khác. đằng này
chúng ta lễ Phật vì kính trọng đức hạnh cao cả, vì phục sát đất
tâm lượng đại từ đại bi của đức Phật, trí huệ rộng lớn bao
la của đức Phật. Chúng ta đã quy y theo Phật thì tâm lượng ta cũng
phải rộng rãi bao la, chúng ta cũng phải có trí tuệ sáng suốt, như
đức Phật, chúng ta cố gắng bỏ tánh tham lam bỏn xẻn nhỏ mọn hẹp
hòi. Biết rằng đồng tiền không đem lại hạnh phúc tuyệt đối, nó
là "một đầy tớ trung thành và đồng thời cũng là một
người chủ khắc nghiệt"(ngạn ngữ Tây phương). Nếu chúng ta
không để cho đồng tiền làm chủ thì đồng tiền mới đem lại hạnh
phúc cho ta. (Xem câu chuyện anh chàng nghèo khổ nhưng đã phát tâm
cúng dường tấm áo choàng duy nhất, rồi vừa la vừa chạy
"được rồi, được rồi"; gặp lúc vua ngự ngang qua, cho đòi
lại hỏi cớ sự. Sau khi biết chuyện, vua khen ngợi tấm lòng quảng
đại của anh ấy và thưởng cho nhiều của cải).
Chúng ta lễ Phật là để cảm ân đức Phật đã
giáo hóa chúng ta, đã bày chế ra bao nhiêu pháp môn phương tiện
hầu dẫn dắt chúng ta đến Niết bàn, đến giải thoát. Phá trừ
ngã chấp là giáo lý cao quý nhất mà đức Phật dạy cho chúng ta.
Có người tu lâu năm, đạt được thần thông, bèn lên Thiên
đường gõ cửa Thượng đế. Thượng đế hỏi "Ai đó?".
Người kia đáp: "Tôi đây". Thượng đế hỏi: Tôi là ai?
Người kia đáp: Tôi là tôi. Thượng đế bảo: Nếu tôi là tôi
và ông là ông thì ở đây không có chỗ cho hai người cùng ở,
hãy về đi. Người kia trở về tu nữa. Lần sau, khi gõ cửa Thiên
đường và Thượng đế hỏi: Ai đó?- Tôi. Tôi là ai? thì người
kia đáp: Tôi là Ngài. Thượng đế mới bảo: "hãy vào". Cho
nên khi chúng ta không phân biệt tôi, anh, khi chúng ta không chấp cái
"ta"thì bao nhiêu người cũng như một, đều sống chung với
nhau, hòa thuận vui vẻ.
Đứa bé mới ra đời chưa biết gì. đến một tuổi
cha mẹ mới đặt cho một cái tên, có khi một cái tên rất xấu xa,
và dần dần nó chấp chặc cái tên đó là mình, một khi có ai gọi
cái tên ấy mà tán thán, khen ngợi thì nó lại thấy sung sướng,
phấn khởi. Sau này khi lớn lên, khi nghe người khác xưng hô với
mình thiếu lịch sự thì lại phiền muộn. Vì một cái tên bông lông,
không đâu mà mình cứ đau khổ, sống chết luân hồi triền miên
với nó? Nếu tin hiểu được lời Phật dạy: "Vạn pháp đều
như hóa như huyễn"thì ta không bao giờ đau khổ nữa, không phiền
muộn nữa. Cái danh xưng là giả tạm, cái thân là giả hợp, nếu
chúng ta hiểu được như vậy, tất chúng ta an lạc, giải thoát (danh
xưng như huyễn vô ngã).
Khi lễ Phật, chúng ta nguyện gì? Nguyện tiêu tam
chướng, trừ phiền não, nguyện trí huệ viên mãn, nghiệp chướng
tiêu trừ, nguyện thường hành Bồ tát đạo. đó là đem lại an
lạc cho mình, cho nhân loại, cho chúng sanh. Cái an lạc này là an lạc
từ trong tâm mà ra, từ trong lòng mình phát ra. đức Phật dạy chỉ
cái an lạc phát ra từ trong lòng mình mới là cái an lạc chân
thật, còn cái an lạc từ ngoài mà có thì cái an lạc ấy là giả
tạo.
Ta lễ bái 10 phương để làm gì? và ta lễ ai? Tức là
ta lễ tất cả biến pháp giới: Nhất nhất biến lễ sát trần Phật.
Tức ta cầu tất cả các đức Phật hộ trì để ta: a) diệt trừ
được bốn nghiệp phiền não (sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói
dối), b) diệt trừ bốn lý do làm ác (tham lam, sân hận, ngã mạn, ngu
si), c) trừ bỏ sáu nguyên nhân phung phí tài sản (cờ bạc, rượu
chè, giao du đường phố phi thời, la cà đình đám hí viện, giao du
ác hữu, quen thói lười biếng). Như vậy vấn đề lễ bái mới
chính đáng.
Kinh đức Phật dạy cho người tại gia. Nếu ai học
được đúng đắn sẽ trở thành người tốt nhất. Ngài dạy rằng
người tu tại gia cần biết tích lũy tài sản như con ong, như đụn
mối. Tiền của chia thành 4 phần: một để tiêu pha, hai phần làm vốn,
một phần để dành khi gặp tai biến, khó khăn, làm việc từ thiện
cúng dường. Chúng ta đã có nhiều công phu học Phật pháp nhưng ít
khi nghe được một pháp vừa như ly sữa ngon ngọt cho trẻ thơ, như
bữa ăn ngon cho người lớn, như bữa ăn bổ dưỡng cho người già
cả. Ngài dạy dỗ chúng sinh không phân biệt, lời dạy chung, không
bỏ ai, không chọn lựa ai; ai cố gắng nghe, thì hành trì được giải
thoát trọn vẹn. Mọi căn cơ đều có pháp môn thích hợp.
Sáu nguyên nhân phung phí tài sản
Nhân một buổi sáng đức Phật đi khất thực, thấy
chàng Thiện Sanh, con gia chủ, hướng sáu phương lễ bái, đức Phật
liền dạy muốn cho việc lễ bái có ý nghĩa, trước tiên không làm
4 hạnh ác là tham, sân, si, mê; sau đó tránh xa 6 nguyên nhân phung
phí tài sản mà ở đời ít ai tránh khỏi. đó là:
1. đam mê rượu: có sáu điều bất lợi là tài sản
bị hao tổn, ưa đấu tranh, tật bệnh dễ xâm nhập, thương tổn danh
dự, để lộ thân tàng, trí huệ thương tổn, tâm trí không bình tỉnh
(Câu chuyện một vị ưu bà tắc vô tình uống lầm rượu mà phạm
mọi giới: ăn cắp gà, sát sanh, tà dâm, nói dối);
2. du hành đường phố phi thời: không ai che chở cho
mình, không ai hộ trì gia đình, tài sản không ai trông nom, bị tình nghi
tác giả các ác sự, nạn nhân các tin đồn thất thiệt, tự rước
vào thân nhiều khổ não;
3. la cà đình đám hí viện: tâm mơ tưởng vui chơi,
bỏ bê vợ con,xao lãng công ăn việc làm, hao tổn tiền bạc;
4. đam mê cờ bạc: nếu thắng thì gây thù oán, nếu
thua thì tâm sanh phiền muộn, tài sản bị hao thất, gây ra tranh chấp
đánh lộn, tại hội trường lời nói không ai tin, bạn hữu khinh khi,
vấn đề cưới gả không được tín nhiệm;
5. thân cận ác hữu: đó là những bạn cờ bạc,
bạn loạn hành, người nghiện rượu, kẻ bạo động, người lừa
gạt;
6. quen thói lười biếng: luôn luôn kiếm cớ để từ
chối làm việc (quá nóng, quá lạnh, quá trễ, quá đói, quá no).
Chọn bạn lành mà chơi
Đức Phật dạy phải chọn bạn như thế nào? Chọn
thiện hữu tri thức mà giao du, nghĩa là người bạn lành. Có nhiều
loại bạn: bạn rượu, bạn cờ bạc, bạn cơ hội, bạn mồm. Bạn
giúp mình lúc hữu sự mới đúng là bạn tốt. Ác hữu là bạn
cờ bạc đam mê héo mòn như trăng khuyết, nợ nần như chìm trong
bồn nước. Làm bạn thế nào cho xứng đáng mới đúng là tự
giác giác tha.
Có bốn hạng người không phải là bạn: đụng vật
gì cũng lấy, chỉ biết nói giỏi, khéo nịnh hót, tiêu pha xa xỉ, sợ
thế lực, cho ít xin nhiều. Bạn vì mưu lợi, tỏ lộ thân tình trong
việc đã qua, hoặc việc chưa đến, mua chuộc cảm tình bằng sáo ngữ;
khi có công việc tự tỏ bất lực; đồng ý các việc ác, không
đồng ý các việc thiện; trước mặt thì tán thán, sau lưng lại chỉ
trích. Tiêu pha xa xỉ, cờ bạc rượu chè, vui chơi bê tha, đình đám,
du hành đường phố phi thời: người trí sẽ tránh.
Bạn nên có: người bạn giúp đỡ mình khi hữu sự,
khuyên điều lợi ích, người bạn chung thủy, có lòng thương tưởng
tới mình. Mình muốn làm bạn với ai mình cũng cần 4 điều tốt ấy:
khuyên nhủ bạn khi bạn vô ý phóng dật, che chở cho bạn, làm chỗ
nương tựa cho bạn khi bạn có điều sợ hãi, giúp thành hai lần khi
bạn thiếu thốn (câu chuyện Lưu Bình Dương Lễ). Người bạn trong nạn
khổ cũng như lúc vui, thổ lộ tâm tình, giữ gìn những điều bí
mật của bạn hoặc tốt hoặc xấu, không bỏ ban khi bạn gặp khó
khăn, dám hy sinh thân mạng vì bạn. Có câu"Bần cư náo thị vô
nhân vấn, Phú tại thâm sơn hữu viễn thân": có nghĩa là khi
nghèo nếu ở ngoài chợ cũng không ai hỏi, lúc giàu nếu có ở
núi sâu cũng lắm kẻ tìm đến. đó cũng không phải là bạn.
Đức Phật là người bạn không mời: Ngài không
chấp chứa tiền của, Ngài đã diệt trừ lòng kiêu mạn, đi làm
bạn với tất cả mọi người. Trong sự không nói, Ngài nói rất
nhiều. Ngài đã diệt trừ lòng tham, chỉ ăn một bữa ngọ; khất
thực buổi sáng (Ngài không khất thực buổi chiều), bình đẳng
không lựa chọn. Có người chỉ trích Ngài chỉ đi khất thực, không
làm lấy mà sống, Ngài đáp lại rằng Ngài cũng đang gieo trồng
đây: Trong việc khất thực Ngài gieo hột giống từ bi; Ngài cũng
cày bừa: cái cày là tinh tấn, cái bừa là nhẫn nhục, con trâu
là thiền định; Ngài cho bạn nghe những điều chưa được nghe, chỉ cho
bạn biết con đường lên cõi chư Thiên.
Bạn tốt là người không hoan hỉ khi bạn mình gặp
nạn, hoan hỉ khi bạn mình gặp may mắn, cản ngăn khi nghe người khác
nói xấu bạn mình. Bạn như hoa, bạn như cân: không phải là bạn.
Bạn như hoa là bạn vì danh vọng, vì giàu có, vì lợi lộc. Bạn như
cân là bạn luôn luôn đòi hỏi sự cân xứng cả hai bên, cân qua
cân lại, giúp qua giúp lại, mới làm bạn. Bạn như đất, mới
đúng là bạn tốt: tâm thành thiết tha, giúp cho bạn mình được
lợi ích, không ganh tị, mà hoan hỉ (như đám đất). Ngược lại, khi
bạn sa cơ, nghèo khổ, mình vẫn như như, không bỏ bạn, đó là bạn
chắc thật. Không nên gần gũi những người mà mình không coi như
bạn thiết, để khỏi bị dẫn dắt vào đường hư hỏng, biếng nhác.
Mình làm bạn với ai cũng vậy, thiệt tâm giúp đỡ bạn. Khi bạn bị
thất sủng, mình không bỏ. đó là bắt đầu cơ bản để đi đến
việc lễ bái sáu phương có ý nghĩa như sau đây.
Sáu phương lễ bái
Đó là: Phương Đông chỉ cha mẹ, phương Nam chỉ sư
trưởng, phương Tây chỉ vợ chồng, phương Trên chỉ tôn sư (Sa môn,
Bà la môn), phương Bắc chỉ bạn bè và phương Dưới chỉ người
giúp việc.
Chúng ta phải liên quan với sáu mặt mới sống
được, sáu phương đó tương quan mật thiết với chúng ta. Nếu cắt
đứt với sáu tương quan này thì chúng ta không thể sống được.
Mình sống đây là sống tương quan với sáu hạng người, vậy ta cư
xử thế nào cho đúng, theo lẽ phải, theo luật pháp?
1. Phương Đông: Làm con phải phụng dưỡng cha mẹ, có
bổn phận hầu hạ sớm tối, bảo vệ tài sản của cha mẹ, lo lễ tang
khi cha mẹ qua đời. Cha mẹ nuôi con với tình thương, con cũng phải
phụng dưỡng cha mẹ với tình thương, sớm tối viếng thăm, cung kính
giữ gìn truyền thống gia đình. Ngược lại, cha mẹ cũng có 5 bổn
phận đối với con cái: cưới vợ gả chồng, lo nghề nghiệp cho con,
ngăn ngừa không cho con giao du với bạn xấu, con hư là cha mẹ có
một phần trách nhiệm, trao của cải sự nghiệp cho con khi đúng thời.
Lòng thương không sáng suốt làm cho con hư hỏng. Chọn nơi xứng
đáng làm vợ làm chồng cho con. Ngày xưa các bậc cha mẹ chọn nơi
môn đăng hộ đối, để lại lời than trách của các con, xui con vào
đường tì thiếp. Không nên vì tham lam mà đưa đẩy con vào đường
xấu xa. Ân và oán là do trong gia đình mà ra, khéo tu là hạnh phúc,
không tu là dây oan. Như vậy là phương đông được che chở, không
có chi sợ hãi.
2. Phương Nam: Ta phải phụng sự Sư trưởng như phụng
sự cha mẹ "Tiên học lễ, hậu học văn", chào hỏi thăm
viếng ân cần, hầu hạ Sư trưởng, hăng hái học tập. Ngược lại
Sư trưởng có bổn phận huấn luyện đệ tử như mình đã được
huấn luyện, thương đệ tử, khen đệ tử khi đệ tử học giỏi,
đảm bảo nghề nghiệp cho đệ tử. Như vậy, phương Nam được che
chở, không có chi sợ hãi.
3. Phương Tây: đối với vợ, người chồng phải kính
trọng, không bất kính, thủy chung, giao quyền hành cho vợ, sắm đồ
nữ trang cho vợ, khuyên răn giáo dục vợ khi vợ hổn hào, như
chuyện sau đây: Có một chàng kia gặp chị vợ hỗn hào quá, luôn
luôn chửi mắng chồng, nguyền rủa chồng khi có điều gì không vừa
ý. Chàng ta mới đi mua về một cái hòm để trong nhà. Chị vợ hỏi:
Mua hòm để làm gì? Chàng ta đáp là mua về để chôn anh khi anh
chết, vì có thể anh chết thình lình chưa biết khi nào. Và mỗi lần
chị vợ chửi rủa chồng thì anh đánh thình thịch trên quan tài và
khóc rống lên: Chàng ơi, sao chàng chết đi, chàng nỡ bỏ thiếp bơ
vơ một mình, không ai giúp đỡ, không ai trông nom, bảo vệ thiếp?
Và chàng cứ khóc hoài thảm thiết cho đến khi chị vợ ngưng mắng
mỏ, chàng mới thôi khóc. Và vài ba lần như vậy, chị vợ suy nghĩ
lại, thấy mình hỗn hào với chồng thật là không nên, và từ
đó, không bao giờ chị ta mắng mỏ chồng nữa. đó là một cách
giáo dục vợ, đem lại kết quả tốt đẹp. NgườI vợ đối với
chồng cũng phải làm hết bổn phận: khéo đón tiếp bà con chồng,
trung thành với chồng, giữ gìn của cải, khéo léo làm mọi việc
trong gia đình. Như vậy, phương Tây được an ổn, che chở, không chi
sợ hãi.
4. Phương Bắc: Không lường gạt thì được bạn bè
thương tưởng; che chở bạn, bảo vệ tài sản cho bạn, trở thành
chỗ nương tựa cho bạn; không tránh xa khi bạn gặp khó khăn; kính
trọng gia đình bạn. Như vậy, phương Bắc được che chở lẫn nhau,
không ai sợ ai.
5. Phương Dưới: đối với người giúp việc, lo lắng
ăn uống và tiền lương đầy đủ. Bắt làm việc nhiều mà trả
lương ít coi như mắc nợ người ta vậy; điều trị người giúp việc
khi có bệnh hoạn, ốm đau; có miếng ăn ngon chia xẻ cho người giúp
việc; thỉnh thoảng cho nghỉ phép. Như thế người giúp việc sẽ trờ
thành bạn với mình;nếu không đối xử đúng đắn, người giúp
việc sẽ trở thành người thù đối với mình. Ngược lại, đối
với chủ, người giúp việc phải thức khuya dậy sớm, thức trước
khi chủ thức dậy và đi ngủ sau chủ, tự bằng lòng với các vật
chủ cho, khéo đảm đang công việc, không phải làm cho lấy có; đem
danh tiếng tốt về cho chủ. Như vậy, chủ xứng đáng mà tớ cũng
xứng đáng, và phương Dưới được che chở, không có chi phải
sợ hãi.
6. Phương Trên: đối với Sa môn, Bà la môn, chúng ta
phải có lòng từ, hành động tốt về thân, khẩu và ý; mở rộng
cửa để đón Sa môn và Bà la môn, cúng dường các vật dụng cần
thiết. Sa môn và Bà la môn đối với chúng ta thì có lòng thương
tưởng chúng ta, ngăn không cho làm điều ác, cảnh giác khuyên răn,
khuyến khích làm điều thiện, làm cho thanh tịnh những điều đã nghe;
thương xót chúng sanh với tâm từ bi; là thiện tri thức của chúng
ta, dạy chúng ta những điều chưa nghe, chưa biết, làm cho rõ ràng
để thực hiện cho được, đó là pháp thanh tịnh, làm cho chúng ta
hoàn thành đạo Nhân thừa. Như vậy, phương Trên che chở, hai bên
trở thành nơi nương tựa cho nhau, che chở cho nhau.
Trên đây là pháp Lễ bái đầy đủ sáu phương theo
kinh Thiện Sanh và để kết luận, đức Phật nói bài kệ:
Cha mẹ là phương đông
Sư trưởng là phương Nam
Vợ chồng là phương Tây
Bạn bè là phương Bắc
Nô bộc là phương Dưới
Sa môn, Bà la môn
Có nghĩa là phương Trên
Cư sĩ và gia đình
đảnh lễ phương hướng ấy
Kẻ trí giữ giới luật
Từ tốn và biện tài
Khiêm nhường và nhu thuận
Nhờ vậy được danh xưng.
Dậy sớm không biếng nhác
Bất động giữa hiểm nguy
Người hiền không phạm giới
Nhờ vậy được danh xưng.
Nhiếp chúng tạo nên bạn
Từ ái tâm bao dung
Dẫn đạo khuyến hóa đạo
Nhờ vậy được danh xưng.
Bố thí và ái ngữ
Lợi hành bất cứ ai
Đồng sự trong mọi việc
Theo trường hợp xử sự
Chính những nhiếp sự này
Khiến thế gian xây quanh
Như bánh xe quay lăn
Vòng theo trục xe chính Nhiếp
sự này vắng mặt
Không có mẹ hưởng thọ
Hay không cha hưởng thọ
Sự hiếu kính của con
Do vậy bậc có trí
Đối với nhiếp pháp này
Như quan sát chấp trì
Nhờ vậy thành vĩ đại
Được tán thán danh xưng.
Tròn bổn phận đối với sáu phương hướng tức là
lễ bái sáu phương, hợp với giáo lý đức Phật là từ tốn và
biện tài.
Đức tính từ tốn là không tranh thắng với ai, không
vội vã. Biện tài là muốn lợi ích cho mình và cho người khác thì
tìm lời nói năng khéo léo, dùng tài hùng biện để thuyết phục
người, lời nói đủ ý nghĩa, trúng căn cơ để chuyển tâm
người.
Căn bổn tâm chúng sanh là: tham, sân, si, mạn, nghi, ác
kiến. Mạn có bảy thứ:
1.Mạn: cứ đem tâm so sánh hơn thua trong ý nghĩ mình
hơn người;
2. Ngã mạn: vì ỷ mình mà lấn lướt người;
3. Quá mạn: mình bằng người mà cho là hơn, người
hơn mình mà cho là bằng;
4. Mạn quá mạn: người hơn mình nhiều, mà cho mình là
hơn người;
5. Tăng thượng mạn: chưa chứng Thánh quả mà cho mình
đã chứng;
6. Ty liệt mạn: mình thua người nhiều mà nói rằng thua
ít;
7. Tà mạn: người tu về tà đạo được chút ít
thần thông, hoặc hiểu biết đôi chút việc quá khứ vị lai, rồi
khinh lướt người.
Do đó, muốn chuyển tâm phàm của chúng sanh thành Tâm
thánh thì người ta phải tu học đức tính từ tốn và biện tài
của đức Phật. Ta còn phải học tính "bất động trước hiểm
nguy" của đức Phật nữa. Nếu ta phá được ngã chấp và ngã
sở thì ta mới bất động trước hiểm nguy, và nếu còn chấp ngã
và ngã sở thì cái khổ càng dày vì cứ sợ thiệt hại, mất mát.
Vì sao nhà ta cháy ta đau đớn khổ sở, còn nhà người khác cháy
ta vẫn an nhiên như không xãy ra việc gì?
Khi ta chấp một cái danh hư huyễn làm cái ta, thì ta
cứ đau khổ liên miên khi cái danh xưng ấy bị gièm xiểm. Xưa có
một vị Thiền sư đang tụng kinh thì có tên trộm lẻn vào gí dao vào
lưng, hỏi: - Tiền để đâu? Thiền sư: đừng có lấy hết, hãy để
lại một ít để đóng thuế. Tên trộm được tiền ra về. Thiền sư
gọi giật lại, hỏi sao không cám ơn khi người ta cho mình tiền của?
Tên trộm liền cảm ơn...Vài hôm sau tên trộm bị bắt giải lên
huyện; ông Huyện cho mời Thiền sư đến và hỏi Thiền sư bị mất
trộm bao nhiêu? Thiền sư bảo không bị mất trộm. ông Huyện bảo
Thiền sư: Sao đã tu hành mà còn nói dối, vì tên trộm cung khai là
đã lấy tiền của Thiền sư. Thiền sư đáp: Tên trộm đã được
tôi cho tiền và y đã cảm ơn, chớ không lấy trộm... Do đó, tên
trộm đã được tha về. Cho hay đối với của cải mà mình đã xả
rồi thì mình không còn sợ hiểm nguy. Mình dùng cái ngã của mình
để tu hành, nên gặp nguy hiểm mình không sợ; còn coi nặng cái ngã
và ngã sở thì còn mang nhiều đau khổ. Việc này rất cao siêu và
khó học tập, nhưng nếu ta cố gắng tinh tấn học tập thì thế nào
cũng đạt được kết quả mong muốn.
Người giúp việc vấp té, lỡ tay làm bể bát cổ.
Bà chủ hỏi: Con té có đau không? Như vậy là bà có đức độ bao
dung, biết thương người mà không tiết của. Xưa có một vị Lang y
giỏi nổi tiếng, có một người kia có mẹ già bệnh nặng, cứ chầu
chực mấy ngày liền mà không rước được thầy lang. Y bèn quỳ
giữa đường và đón xe thầy ngang qua. Thầy lang buộc lòng phải
đến chữa bệnh cho mẹ y. Thầy cho hai thang thuốc và bảo y ngày hôm
sau cho thầy biết kết quả. Hôm sau y đến thưa rằng mẹ y đã bớt
bệnh nhiều, nhưng chắc chết. Thầy ngạc nhiên hỏi: Sao bớt bệnh mà
lại chắc chết, thuốc thầy chưa bao giờ làm cho ai chết cả. Y thưa:
Mẹ y không phải chết vì bệnh mà chết vì mất của, tiếc của.
Nguyên mẹ y đã để dưới gối một lượng vàng, mà nay không còn
nữa. Nếu tìm lượng vàng không ra thì mẹ y chắc chết. Thầy lang
liền mở tủ, lấy một lượng vàng, bảo y cầm về đưa cho mẹ. Hôm
sau mẹ y lành bệnh rũ chiếu giường, thì tìm thấy lượng vàng,
biết mẹ con y đã nghi oan cho thầy lang, liền đem vàng đến trả và
lạy tạ, xin sám hối tội lỗi. Như thế, thầy lang đã có đức đại
lượng bao dung, chịu mang danh ăn cắp, chịu mất một lượng vàng, chỉ
muốn cứu sống một mạng người. Cho nên muốn dẫn đạo, để khuyến
hóa đạo, ta phải có lòng đại độ bao dung và muốn nhiếp phục
chúng sanh quay về với Phật pháp, ta cần thực hành theo Tứ nhiếp
pháp.
Tứ nhiếp pháp
Tứ nhiếp pháp là những gì? ấy là: bố thí, ái
ngữ, lợi hành và đồng sự.
1. Bố thí nhiếp: Có ba cách bố thí: tài thí, pháp
thí, vô úy thí.
a) Tài thí:có nội tài (bố thí chính ngay thân mạng
mình- cho máu để tiếp người bệnh nhân) và ngoại tài (cho tiền
bạc của cải). Tài thí có nhiều cách: định kỳ thí, cấp thời bố
thí (một miếng khi đói bằng một gói khi no), hợp lực bố thí (kêu
gọi hợp lực cùng nhau làm, vì một mình không đủ phương tiện),
kính cẩn bố thí (kính cẩn đối với người mình bố thí).
Bố thí thì cần xét đến: tâm bố thí, của đem bố
thí và người mình bố thí. Tâm phải là tâm thanh tịnh nghĩa là trong
sạch, không phải cầu danh, hoan hỉ khi đang bố thí và mừng rỡ sau khi
bố thí. Của bố thí phải là của thanh tịnh, nếu là của không trong
sạch (ví dụ của ăn cướp) thì không phước đức. Xứng cảnh trí
tức là người mình nên bố thí, cúng dường giống như ba thứ
ruộng phước: kinh điền (người đáng tôn trọng), ân điền (người
có ân với mình như cha mẹ, sư trưởng) và bi điền (người đáng
thương xót).
Khó có người giàu có như ông Cấp cô độc đem
vàng trải ở Kỳ viên, nhưng người nghèo cũng có thể bố thí
được. Như anh kia thấy người ta cúng dường trai tăng, anh chỉ kiếm
ra được một ít đậu, bèn đứng vào một xó. Lúc người ta đang
tác bạch, thì thấy đậu trãi đầy bàn ăn, mọi người đang tìm
hiểu, thì đức Phật trông thấy y đang đứng trong góc phòng, đức
Phật gọi anh ta là "đại thí chủ". Mọi người liền mời y ra
cùng dự chung. Anh ta chỉ bố thí với tâm thành khẩn, không kể mình
thấp kém.
Có chị ở giúp việc cho người ta, rất muốn cúng
dường đức Phật. Chị nghèo quá, chỉ kiếm được một miếng bột,
bèn gói trong lá, đem nướng đi, và ước ao cúng dường đức
Phật, chỉ sợ đức Phật không nhận. Không ngờ đức Phật nhận
và bóc bánh ra, ăn liền trước mặt chị. Chị ta sung sướng hết
sức.
b) Pháp thí: Trong khi tài thí giúp đỡ sắc thân thì
pháp thí có công năng giúp đỡ cho pháp thân, huệ mạng. Nếu
không có pháp nuôi dưỡng thì pháp thân heo mòn, trái lại thì
pháp thân tăng trưởng. Việc pháp thí rất khó vì nếu ta không
biết pháp, không học pháp thì lấy đâu để pháp thí? Cho nên đức
Phật thường bảo đệ tử đem giáo lý của đức Phật phổ biến
cùng khắp.
đối với người đau khổ về tinh thần thì cần pháp
thí. Có một chị đi lấy chồng, lâu lắm mới có một đứa con. Khi
con mới lên ba thì chồng qua đời, và sau đó ít lâu, đứa con bỗng
chốc bị trúng gió, chết mất. Chị ta đau đớn vô cùng và không tin
là con mình đã chết. Chị bồng con đi xin thuốc chữa. Với tâm sầu
khổ, chị đến gặp đức Phật và xin đức Phật cứu sống con chị.
đức Phật bảo chị đi xin hột cải tại nhà nào chưa có người
thân chết đem về để đức Phật cứu cho. Chị đến từng nhà xin
hột cải, nhưng khi chị hỏi trong nhà đã có ai chết chưa, thì người
nào cũng đáp là nhà đã có người chết. Và cuối cùng chị đến
một nhà vừa có con nhỏ chết. Chị ta liền giác ngộ, bèn đem con về
chôn cất. Hôm sau chị đến bạch Phật rằng việc Ngài dạy con đã
làm xong, và xin đức Phật chứng minh cho.
Như vậy Ngài đã dạy pháp để chị ta tự tu, tự
chứng; nếu lúc bấy giờ giảng lý thì không hợp, trong lúc chị ta
đang đau khổ. Trong khi đi xin hột cải thì chị ta đã trực tiếp chứng
được lý vô thường của vạn vật. Chúng ta học đạo là để
chất chứa Phật pháp ngõ hầu khi gặp lại tai biến mà tiêu dùng,
như chất chứa tiền của vậy.
c) Vô úy thí: Là đem cái không sợ ra thí cho chúng
sanh. Ta không giết hại vật thì vật gần mình không sợ hãi, ta không
trộm cắp thì người khác không sợ mình lấy cắp của người. Vả
lại còn biết hy sinh giúp người cứu vật trong lúc hoạn nạn tai
biến.
2. Ái ngữ nhiếp: Tùy theo căn tánh chúng sanh mà
khôn khéo nói năng, an ủi khuyên lơn nhân thế khiến cho họ sanh
lòng thân mến, rồi từ đó họ mới theo ta mà học đạo; lời nói
khéo léo, ôn tồn, nhẹ nhàng đem lại an lạc cho tâm ta và mọi
người.
Có anh kia đi cày, ngủ trưa, quên cột trâu. Một con
hổ từ trên xuống núi đi xuống. Trâu đến đánh thức chủ dậy
để báo động. Mất ngủ, anh kia bèn đánh đuổi trâu. Trâu kia sợ
hổ ăn thịt chủ, bèn chồm lên mình chủ để đỡ cho chủ. Anh đi
cày giận quá, cho là trâu trở chứng, liền bỏ buổi cày, dẫn
trâu về. Dọc đường gặp đức Phật, trâu khóc. đức Phật vỗ
về trâu, lấy lời dịu ngọt dỗ dành khiến trâu hết đau khổ và
làm cho anh cày giác ngộ. ái ngữ, trong ái ngữ nhiếp không phải
là lấy lời dịu ngọt để nịnh hót cốt làm lợi cho mình. ái ngữ
ở đây cốt lợi cho người khác.
3. Lợi hành nhiếp: Làm những việc có lợi cho
người khác. Bất cứ việc nhỏ hay lớn, nếu biết làm thì mới có
giá trị lớn. Kinh Lăng nghiêm có đoạn kể Ngài Trì địa Bồ tát
chuyên đi sửa đường, sửa cầu, gánh đồ giùm cho mọi người.
Có một vị hòa thượng kể câu chuyện đã có lần cùng với quý
thầy đi ngang qua một cánh đồng. Nắng gắt và khác nước, mọi
người dừng lại nghỉ chân ăn uống. Nhân ăn xoài, quý thầy ương
những hột xoài tại chỗ. Mấy năm sau có việc, hòa thượng cùng
quý thầy lại đi qua chỗ cũ, thấy mấy cây xoài đã bắt đầu có
quả ăn. đó cũng là một việc lợi hành mà ít ai để ý làm.
4. Đồng sự nhiếp: Cùng làm một việc với người
khác. Tùy theo mỗi người làm một việc nhưng cùng nhắm một mục
đích (ví dụ: xây dựng gia đình, cùng nhau đẩy một chiếc xe lên
dốc, nếu không cùng đẩy là không cùng sự). Có đồng sự thì
nói gì người ta cũng nghe mình.
Có bốn sự nhiếp này thì thế giới hòa bình, gia
đình an lạc. Bốn sự nhiếp này vắng mặt thì con cái không hiếu
kính cha mẹ, anh em không sống hòa hiệp với nhau. Làm được bốn
nhiếp sự này thì được danh xưng, mọi người tán thán./.
-- o0o --
| Hòa Thượng Thích Thiện
Siêu| | Mục lục tác giaû|
Chân thành cảm ơn Đạo
hữu Bình Anson đã gởi tặng tài liệu này.
Cập nhật ngày: 05-10-2001