Trong
một bài hát quen thuộc với mọi người chúng ta, có câu: "Ai
bảo chăn trâu là khổ? Chăn trâu sướng lắm chứ!". Đó là
lời mở đầu của một ca khúc nói về sinh hoạt của các mục đồng
chăn trâu ở thôn quê. Trong Phật giáo, đặc biệt là thiền tông,
chư vị Tổ Sư chỉ dạy một phương pháp tu hành gọi là "Pháp Môn
Chăn Trâu".
Pháp
môn này áp dụng triệt để lời dạy của Đức Phật, trong cuộc
sống hằng ngày của người Phật Tử, tại gia hay xuất gia. Khi hiểu
được và hành được pháp môn này, người Phật Tử sẽ thấy
được con đường vào đạo, tâm sẽ được nhập lưu, tức là
nhập vào dòng thánh, khác với dòng đời, tuy thân vẫn sống ở
đời, như bao nhiêu người khác, mà tâm không hề khổ đau lụy
phiền. Dòng thánh gồm có bốn quả vị, gọi là Tứ Thánh Quả, bắt
đầu gồm có Tu Đà Hoàn, đến Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán. Khi
hiểu được và hành được pháp môn này, trí tuệ sáng ra, cuộc
đời thay đổi kể từ ngày này, người Phật Tử đối với Chánh
Pháp, sẽ không còn thoái chuyển, phát tâm tu dưỡng, phát nguyện
chăn trâu, việc ác ngưng làm, quyết làm việc thiện, không còn mặc
cảm, tự tôn tự ti, chân trời an lạc và hạnh phúc bắt đầu ló
dạng. Khi hiểu được và hành được pháp môn này, người Phật
Tử không còn đi vòng vòng bên ngoài, vừa vui chơi thích thú,
cười nói hả hê, cũng vừa kêu khổ, kêu khổ chưa xong, cầu
nguyện van xin, khấn vái khẩn cầu, vừa mê tín dị đoan, vừa tiền
mất tật mang, chẳng lợi ích gì, hết cầu an cầu siêu, đến cầu
đoàn tụ, cầu buôn may bán đắt, cầu trúng số độc đắc, thực
sự có được gì đâu? Khi hiểu được và hành được pháp môn
này, người Phật Tử tại gia không còn thấy chuyện tu tâm dưỡng
tánh là chuyện của những người xuất gia vào ở trong chùa, mà tu
tâm dưỡng tánh chính là chuyện của mọi người, chuyện của chính
mình, chuyện của bất cứ ai muốn giảm bớt khổ đau, muốn xuất
phiền não gia, muốn ra khỏi căn nhà lửa, muốn được an lạc và
hạnh phúc ngay hiện tại, trên thế gian này, trong mọi hoàn cảnh, trong
cuộc sống hằng ngày.
Trên
thế gian này, hầu như mọi người, thảy đều nghĩ rằng, ai cũng cho
rằng, mình là người thiện, không ai chịu nhận, mình là người ác.
Nếu không phải là người lương thiện nhứt trên đời, thời "mình
cũng là người không làm gì nên tội", chắc là sau khi từ
giã cõi đời này, sẽ được lên thiên đàng hay cực lạc, không
việc gì phải lo cả. Muốn chắc ăn hơn, nhớ dặn thân nhơn, sau khi
mình chết, thỉnh thiệt nhiều sư, rước thiệt nhiều cha, mời nhiều
ông bà, về nhà cầu nguyện, đăng báo phân ưu, tụng kinh cầu siêu,
cầu chúc tiêu diêu, nơi miền cực lạc, hoặc thăng nơi cõi, thiên
đàng vĩnh viễn! Nếu có ai đó khuyên mình tu tâm dưỡng tánh, thì
liền nghĩ rằng: người đó chắc khùng. Không khùng sao được, bởi
chuyện tu hành là chuyện của quý sư trong chùa, chuyện của quý cha
trong tu viện, không phải là chuyện của người đời đang sống ngoài
thế gian, bận rộn với đủ thứ chuyện trần thế, còn thì giờ
đâu mà nói chuyện tu với hành? Có người nghĩ rằng: tu học làm
chi, biết nhiều thêm khổ, không biết khỏi tội, khỏi lội qua sông,
tốn công học hỏi, như vậy khỏe re!
Thực
ra, chuyện đời cũng như chuyện đạo, đâu ai có thể lý luận một
cách quá đơn giản như vậy! Con người vì vô minh che lấp chơn tánh,
từ nhiều đời nhiều kiếp, cho nên lăn lộn trong sanh tử luân hồi,
sống trong cơn mê, sống trong mộng tưởng, sống trong điên đảo, mà
không hề hay biết. Tại sao vậy? Bởi vì sống trong cơn mê, cho nên con
người, vô tình hoặc cố ý, gây tạo quá nhiều tội nghiệp, từ
trước đến nay. Chẳng hạn như khi lái xe phạm luật, rồi cho là
không biết luật giao thông, thì được miễn tội chăng? Chẳng hạn
như mình khai gian trong giấy tờ, rồi cho là không biết ngoại ngữ,
thì xong chuyện chăng? Chẳng hạn như mình gây tù tội, tạo phiền
não, đem khổ đau, đến cho người khác, và gia đình của họ, dù cho
là họ đáng tội, đáng bị trừng phạt, thì mình yên tâm được
chăng, tâm như vậy là tâm gì? Bởi vì sống trong mộng tưởng, cho
nên con người luôn luôn mơ ước cảnh giới thiên đàng cực lạc,
mà không biết mình đang sống trong hiện tại, không biết mình đang
sống một cuộc đời hết sức vô nghĩa, chẳng làm gì ích lợi cho
ai, chỉ biết ăn ngủ hưởng thụ, đấu tranh giành giựt, hơn thua phải
quấy, rồi chờ ngày chết! Bởi vì sống trong điên đảo, cho nên con
người nhận lầm cái giả tưởng là thực, cái khổ lại cho là vui.
Chẳng hạn như ai cũng biết chuyện cờ bạc thua lỗ là khổ, vẫn có
nhiều người tham gia. Mình thắng người khổ, mình thua mình lỗ, tự
mình chuốc khổ, chớ có than van! Chẳng hạn như nhiều người cứ
tưởng cái xác thân này là "mình" và sẽ mang cái xác đó
lên thiên đàng hưởng phước, hoặc đem cái xác đó lên cực
lạc cho sướng tấm thân! Đâu chẳng biết rằng, sau khi hết thở,
chính cái xác này, gọi là thây ma, ai dám đến gần? Cát bụi sẽ
trở về cát bụi! Chỉ có nghiệp báo thiện ác theo "mình",
như hình với bóng, không bao giờ rời, qua bao nhiêu kiếp sau nữa.
Còn
"mình" thực ra là ai, thì lại chẳng biết! "Con Người
Chân Thật" đã bị vô minh che lấp tự lâu lắm rồi, mà chúng ta
vẫn không chịu tỉnh thức để nhận ra! Con người thức tỉnh biết
"dừng nghiệp và chuyển nghiệp" thì trí tuệ bừng sáng.
Khi
đó, con người sẽ tự tại bước ra khỏi màn vô minh, thoát ra
khỏi sanh tử luân hồi, không còn phiền não và khổ đau, sống trong
an lạc và hạnh phúc. Ví như khi nào mây đen tan hết, bầu trời lại
trong sáng, mọi cảnh vật hiện rõ ràng trước mắt, nhìn thấy muôn
sự mọi việc "đúng như thực", không còn mơ hồ, không còn
điên đảo, mình sẽ nhận biết rõ ràng "mình là ai", không
còn nghi ngờ gì nữa cả. Nhưng làm sao để thức tỉnh, làm sao để
trí tuệ bừng sáng? Đó chính là mục đích, cũng là kết quả của
"Pháp Môn Chăn Trâu".
*
Từ
lúc còn nhỏ, con người đã tạo nghiệp lành, đồng thời, tạo
nghiệp chẳng lành. Có người từ nhỏ đã biết làm việc tốt,
giúp đỡ những người chung quanh, từ trong gia đình, ra đến học
đường, và ngoài xã hội. Đồng thời, cũng có những đứa trẻ
nghịch nghịch ngợm ngợm, nghinh nghinh ngang ngang, phá phách xóm làng,
văng tục chửi thề, hỗn hào xấc xược, gạt gẫm người già,
trộm gà bắt vịt, nghịch phá nhà người, chặt cây trộm trái, hái
hoa bứt lá, chọc chó đá mèo, leo trèo khắp chốn. Lúc còn trẻ
tạo tội nghiệp như vậy, nhưng nếu biết dừng nghiệp và chuyển
nghiệp kịp thời, thì có thể trở nên người tốt, có ích lợi
bản thân, cho gia đình và cho xã hội. Đời nay, ở các xứ tây
phương, văn minh tiên tiến, vật chất dư thừa, có những đứa trẻ
biết kêu cảnh sát đến bắt giam cha mẹ, chỉ vì răn dạy chúng bằng
roi vọt, còn có những đứa trẻ dùng dao đâm chết người, mang
súng vào trường, giết người hàng loạt! Thực là khủng khiếp!
Đến
khi lớn lên, bước chân ra đời, cuộc sống khó khăn, con người
bon chen, tranh đấu sống còn, cho nên bất chấp, mọi thứ thủ đoạn,
miễn sao có lợi, cho mình thì thôi, người khác ra sao, đau khổ thế
nào, sống chết mặc kệ! Con người sẵn sàng, thượng đội hạ
đạp, để được tiến thân, để giành quyền lợi, để đợi thời
cơ, để mơ địa vị. Con người sẵn sàng, đá giò lái bạn, đâm
lưng chiến sĩ, thưa gửi kiện tụng, đụng độ đồng nghiệp, hạ nhục
đồng môn, đem chôn đồng bào, cào nhà đồng đội, dội nước
đồng hương, chẳng thương đồng đạo, giả tạo đồng minh, tất cả
cũng vì, đồng tiền mà thôi! Con người sẵn sàng, phao truyền tin
đồn, mặc kệ đúng sai, phổ biến thư rơi, bôi lọ kẻ thù, nói xấu
sau lưng, đặt điều thêm bớt, vu oan giá họa, chỉ vì ganh tị, đố kỵ
mà thôi. Người khác thua mình, khinh khi biếm nhẽ, nhìn nửa con mắt.
Người khác hơn mình, tức giận gièm pha, phá cho tan nhà, nát cửa
chửa thôi.
Tất
cả những việc làm, những lời nói trên đây, đều được chỉ huy
bởi tư tưởng, ý nghĩ của con người. Nói một cách khác: "Tư
tưởng làm chủ, chỉ huy, phát xuất ra hành động và lời nói".
Con người có tư tưởng hay tâm ý thiện, thì hành động và lời
nói thiện. Con người có tư tưởng hay tâm ý ác, thì hành động
và lời nói ác. Như vậy tâm ý của con người, có lúc thiện, có
lúc ác, cho nên hành động và lời nói, lẫn lộn thiện và ác.
Tâm ý của con người luôn luôn lăng xăng lộn xộn hằng ngày như
vậy. Trong kinh sách, tâm ý của con người thường được ví như con
vượn chuyền cây, như con ngựa chạy rong, nên gọi là "tâm viên
ý mã". Con ngựa chạy rong, tung tăng khắp chốn, khó mà điều
khiển, thuần phục dễ dàng. Con vượn chuyền từ nhánh cây này sang
nhánh khác, cũng như tâm ý của con người nghĩ ngợi lung tung linh
tinh lang tang, hết chuyện đông đến chuyện tây, hết chuyện ta đến
chuyện tàu, hết chuyện người này đến chuyện người khác, hết
chuyện gia đình đến chuyện làng xóm, hết chuyện năm châu thế
giới đến chuyện hang cùng ngõ hẻm, hết chuyện khoa học kỹ thuật
đến chuyện chính trị tôn giáo, hết chuyện quốc gia đại sự đến
chuyện phụ nữ nhi đồng.
Trong
thiền tông, tâm ý của con người thường được ví như con trâu.
Con trâu không được chăn giữ thường hay xâm phạm, giẫm đạp
lúa mạ của người khác, gây nhiều tổn thất hoa màu, mùa màng
của những người láng giềng lân cận chung quanh. Con trâu được
chăn dắt cẩn thận, chăm nom kỹ lưỡng, canh chừng thường xuyên,
đem lại ích lợi lớn lao cho nông gia và cho xã hội.
? Điều quan trọng là: "Con người
hãy chăn dắt con trâu, chớ để con trâu dẫn dắt con người!".
Nếu để con trâu dẫn dắt, không biết con người sẽ đi về đâu? Cho
nên mới có pháp tu gọi là "Pháp Môn Chăn Trâu", chính là
nghĩa đó vậy.
Bây
giờ chúng ta thử bắt đầu tìm hiểu pháp môn này. Pháp môn chăn
trâu trình bày phương pháp tu tâm dưỡng tánh qua mười giai đoạn
như sau:
1)
Thoạt đầu không ai biết con trâu của mình đang ở đâu, đang làm
gì? Tức là con người thường không nhận ra tâm ý của mình đang
ở ngõ ngách nào? Chẳng hạn như mình đang nghĩ gì, muốn gì, âm mưu
gì, tính toán gì, thiện hay ác, tốt hay xấu, lành hay dữ, hiền lương
hay bất lương? Con người sống theo dòng đời, thường bị cuốn trôi
theo ngũ dục, thường bị "con trâu tâm ý" của mình dẫn dắt,
thường làm những chuyện bất nhân thất đức, thường nói những
lời độc ác, lợi mình hại người. Hành động và lời nói
thường bị tâm tham lôi cuốn, tâm sân thúc đẩy, tâm si điều
khiển, con người tạo không biết bao nhiêu tội nghiệp, mà không hề
hay biết đó thôi, hoặc biết mà vẫn cố phạm! Thí dụ như là, tâm
tham lôi cuốn, thấy lợi thì ham, chẳng muốn đi làm, chỉ muốn hưởng
nhàn, lại có tiền xài, tức ham phát tài, theo cách bất lương, nên
không ngần ngại, kiếm chuyện vu oan, giá họa người khác, nộp đơn
kiện tụng, bày chuyện thiệt hơn, đòi phải bồi thường, ba bốn
triệu bạc! Thí dụ có người, đã từng giúp mình, được rất
nhiều chuyện, nhưng khi chỉ có, một chuyện không được, hài lòng
vừa ý, tâm sân thúc đẩy, mình liền cảm thấy, tức giận khó
nguôi. Ơn nghĩa trước đây, sâu dầy thế mấy, cũng đều phủi
sạch, không thèm nhớ tới, nhắc tới làm chi. Thậm chí người
đó, là cha mẹ ruột, sanh thành nuôi dưỡng, từ nhỏ đến nay, bây
giờ khôn lớn, có vợ có chồng, nếu như cha mẹ, lôi thôi khó
chịu, do tâm si khiến, mình liền từ ngay! Bạn bè thân thiết, trải qua
tháng năm, quen biết rất nhiều, hy sinh giúp đỡ, thế nào chăng
nữa, thì cũng mặc kệ, vì tham danh lợi, nhứt là vì tiền, mình vẫn
trở mặt, bán đứng như thường! Con trâu lúc này thực là đen,
mà lại lẫn trong bóng đêm mờ tối của chuyện thị phi thế gian, cho
nên con người không nhận ra nó đang ở đâu và đang làm gì.
Người
phát tâm muốn tu tập, nhờ học hỏi và thâm nhập giáo lý, mới
tin nơi mình có tâm thể chân thật, bất sanh bất diệt, ngoài cái
xác thân tứ đại giả tạm này ra, nhưng chưa hề sống được với
chân tâm đó, bởi vì chưa biết cách chăn trâu. Học hỏi kinh sách,
như Kinh Hoa Nghiêm, chúng ta được biết, Đức Phật dạy rằng:
"Nhứt thiết chúng sanh
giai hữu Phật Tánh"
tức là: "Tất
cả mọi người đều có Tánh Giác".
Cho
nên chúng ta muốn tìm, muốn hiểu muốn biết, nhưng không biết tìm
kiếm "Tánh Giác" ở đâu? Người phát tâm cầu học Chánh
Pháp, tìm đến các chùa, các đạo tràng, các pháp hội, để học
hỏi, để tìm tòi. Càng đi tìm, càng cầu học, càng phí sức nhọc
công, càng xa lìa tánh giác. Chẳng gặp Chánh Pháp, lại gặp quá
nhiều những hình thức mê tín dị đoan lẫn lộn trong Phật giáo,
những hình thức cúng kiến nghi lễ bày vẽ quá rườm rà, không
có ghi trong kinh sách nào cả. Hoặc khi gặp phải những người không
chân tu thực học, trốn tránh trần thế, mượn áo tu sĩ, nói quàng
nói xiên, đem đời vào đạo, cơm gạo qua ngày, bày thi văn học,
văn nghệ văn gừng, tưng bừng ca hát, náo động thiền môn, đại
ngôn thi sĩ, văn sĩ kiêm luôn, thầy bà địa lý, thầy tụng đám
tang, thầy bùa thầy bói, coi ngày tốt xấu, cưới gả ma chay, thật
thảm thương thay, những người như vậy! Nhìn lại chỉ thấy, sinh hoạt
thường nhựt, của ngày tháng qua, chẳng gì mới lạ! Tại sao vậy?
Bởi
vì trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta quen chạy theo trần cảnh bên
ngoài, khởi vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm liên
miên, khiến cho tánh giác bị che khuất. Tánh giác chính ở ngay nơi
mình. Khởi công tìm kiếm, là khởi vọng niệm, xa lìa tánh giác.
Cũng như nhiều mây đen che khuất ánh sáng mặt trời, hay mặt trăng.
Chẳng hạn như khi, mắt thấy hình sắc, xinh tươi tốt đẹp, hạp nhãn
vừa lòng, khởi tâm ham muốn, mua sắm về nhà, chiếm đoạt sở
hữu. Chẳng hạn như khi, tai nghe âm thanh, ca tụng tán dương, vừa tai
hạp ý, say mê thích thú, khởi tâm đắm nhiểm, muốn được nghe
tiếp. Chẳng hạn như khi, tiếp xúc với ai, ngọt ngào tử tế, có
lợi cho mình, liền khởi tâm thương, cho là người tốt, không vừa
ý ai, thì khởi tâm bực, cho là người xấu.
Đây
là giai đoạn, của một người tu, tại gia xuất gia, chưa biết chăn
trâu, tức là chưa biết, giữ gìn kềm chế, tâm niệm của mình, để
tâm buông lung, nghĩ ngợi lung tung, linh tinh lang tang, chạy theo cảnh
đời, tạo tội tạo nghiệp, rồi bị nghiệp dắt, vào trong lục đạo,
sanh tử luân hồi, xa lìa tánh giác.
Thương ghét, phải quấy,
đẹp xấu, đúng sai, hơn thua, chính là vọng tâm, vọng tưởng, vọng
thức, vọng niệm. Đó chính thực là con trâu, mà người tu theo
Phật phải chăn phải dắt, phải kềm phải chế, phải điều phải
khiển, phải thuần phải phục, thúc liễm luôn luôn. Chăn trâu thành
công thì tánh giác hiển lộ.
*
2)
Đến khi nghe bạn đạo bàn chuyện "chăn trâu", mình mới bắt
đầu thấy dấu chân con trâu của mình, nhưng vẫn chưa thấy được
nguyên hình con trâu. Tức là con người thỉnh thoảng có cảm giác
mình làm việc thiện, thỉnh thoảng có cảm giác mình làm việc bất
thiện, nhưng vẫn chưa phân biệt được việc nào thiện, việc nào
bất thiện, vì chưa hiểu biết Chánh Pháp. Trong giai đoạn này, mình
nhận biết được tâm ý của mình thay đổi liên miên, lăng xăng
lộn xộn, lúc thích thế này, lúc thích thế kia. Lúc muốn giúp đỡ,
người này người kia, khi muốn hãm hại, người này người khác.
Lúc phát từ tâm, làm việc phước thiện, bố thí cúng dường,
muốn làm người tốt, tạo được phước báu. Khi muốn sang đoạt,
của cải tiền bạc, vốn liếng phần hùn, tác quyền tác phẩm, trở
thành kẻ xấu, tạo tội tạo nghiệp! Lúc muốn hùn phước, ấn tống
kinh sách, đi chùa lạy Phật, góp quỹ từ thiện, cứu trợ nạn
nhân, thiên tai bão lụt, muốn làm người tốt, tạo được phước
báu. Khi tính mưu kế, vu khống kiện người, đòi hỏi bồi thường,
hơn ba bốn triệu, trở thành kẻ xấu, tạo tội tạo nghiệp! Lắm lúc
nhiều khi, làm ăn bất chánh, gặp thời trúng mánh, giựt hụi quịt
nợ, lường gạt sang đoạt, giả tạo thương tích, tròng tréo giấy
tờ, khai gian hoàn cảnh, cờ gian bạc lận, dụ dỗ kẻ khờ, làm
việc bất lương, vồ được một vố, tiền của khá lớn. Con người
sợ sệt, mang tội một mình, chắc đọa địa ngục, chịu nhiều khổ đau,
bèn đem chút ít, tiền lẽ cúng chùa, trút hết tội lỗi, cho các
nhà sư, gánh vác thay mình, hoa quả nhang đèn, hối lộ tượng Phật,
để được tạm thời, an tâm chút chút!
Người
phát tâm tu theo Phật, nương theo Chánh Pháp, hiểu biết mình có tánh
giác, nhưng chỉ biết suông, chưa biết rõ ràng, một cách tường
tận. Chẳng hạn như là, mới chỉ biết được, các đồ trang sức,
dù là vòng xuyến, hoa tai dây chuyền, nhẫn trơn nhẫn cưới, tuy có
khác nhau, về mặt hình thức, nhưng mà tất cả, đều cùng bản chất,
đó là chất vàng. Cũng ý như vậy, tất cả mọi người, tuy không
giống nhau, về các màu da, cũng không đồng nhau, về mặt kiến thức,
cũng không hợp nhau, về các sở thích, cũng không cùng nhau, về
các hình tướng, nam phụ lão ấu, nhưng mà tất cả, đều cùng bản
chất, điều đó chính là: "Bản Tâm Thanh Tịnh", người nào
cũng có. Chẳng hạn như, nếu không có thù oán trước đây,
không có cạnh tranh nghề nghiệp, không có ganh tị đố kỵ, không có
đụng chạm tự ái, không có va chạm quyền lợi, chắc chắn con
người đem bản tâm thanh tịnh của mình đối xử với nhau, rất là
cởi mở, rất là tốt đẹp, rất là nhân đạo.
?
Hay nói cách khác: Bản tâm thanh tịnh của tất cả mọi người
đều giống nhau, không khác, đều đồng nhứt thể. Chỉ vì con người
tạo nghiệp khác nhau, cho nên hình tướng khác nhau. Có nhiều người
trong chúng ta thường phát biểu: "Không ai chọc ghẹo, tôi hiền
lắm đó!". Điều này chứng tỏ, mọi người đều thực sự
hiền lành, đều sống với bản tâm thanh tịnh, với điều kiện
đừng có gặp nghịch duyên, đừng có gặp việc gì trái ý.
"Bản
Tâm Thanh Tịnh" đó, không có hình tướng, không phải là một
vật, trong kinh sách, thường được gọi là Tánh Giác, là Chơn Như,
là Chơn Tâm, là Phật Tánh, là Pháp Vô Sanh, là Pháp Bất Diệt,
là Pháp Bất Tử, là Pháp Tối Thượng, là Viên Giác Tánh, là
Pháp Thân Huệ Mạng, là Trí Tuệ Bát Nhã, là Bản Lai Diện Mục, là
Bản Tánh Sáng Suốt, là Bản Thể Chân Thật, là Bản Nguyên Chân
Thật, là Con Người Chân Thật, là Con Người Bất Tử, là Kim Cang
Bất Hoại, là Tịch Diệt Hiện Tiền, là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Tùy theo
kinh sách, tên gọi có khác nhau, nhưng đều chỉ cùng không phải là
một vật, từ xưa đến giờ, từ trước đến nay. Trong Kinh Pháp Bảo
Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Bản Lai Vô Nhất Vật",
chính là nghĩa đó vậy.
*
3)
Sau một thời gian học hiểu Chánh Pháp nhiều hơn, đem những lời
dạy của Đức Phật quán chiếu, soi xét những hành động, những
lời nói, những ý nghĩ của mình, lúc đó mới hay, mình đã tạo
quá nhiều nghiệp xấu ác, còn nghiệp thiện lành, hình như chẳng có
chút nào đáng kể! Trong bóng tối của cuộc đời, nơi cuối con
đường hầm, có dạng chút ánh sáng le lói, đủ soi thấy bóng dáng
của con trâu.
? Con trâu tâm ý của mình lúc đó mới
hiện nguyên hình: Đó là con trâu, đen thủi đen thui, từ đầu tới
đuôi. Con trâu đen thui, tượng trưng cho những, ý nghĩ tư tưởng,
ác nhơn thất đức, xấu xa độc địa, cúp điện tối đen, hắc ám
mịt mờ, ti tiện nhỏ nhen, giả nhơn giả nghĩa, gian xảo điêu ngoa,
đầy trong tâm địa, tất cả mọi người, ngày cũng như đêm, quanh
năm suốt tháng.
Con
người nhận thấy, con trâu của mình, đen thủi đen thui, quá sức to
lớn, cảm thấy sợ hãi, bắt đầu vùng vẫy, cố gắng giẫy giụa,
tức là ra sức, biện bạch bào chữa, cho những lỗi lầm. Đôi khi
lắm lúc, con người tỏ ra, ăn năn hối cải. Ví như sau khi, đọc Kinh
Thủy Sám, Đức Phật chỉ dạy, một cách rành rẽ, những việc làm
nào, những lời nói nào, những ý nghĩ nào, tạo tội tạo nghiệp,
chúng ta mới biết, giựt mình tỉnh thức, cảm thấy tội lỗi, chất
cao như núi. Cũng giống như là, "tấm gương chiếu yêu", soi
thấy tâm địa, yêu ma quỉ quái, ẩn tàng bên trong, hình dáng con
người, nhờ "gương chiếu trâu", chúng ta nhận thấy,
một cách rõ ràng, từ trước đến giờ, mình luôn luôn nghĩ, tự
kỷ ám thị, thấy chuyện mình tốt, che dấu tội lỗi, đã và đang
làm, bằng các chiêu bài, bằng các danh nghĩa, bằng các bình phong,
bằng các mỹ từ, đao to búa lớn.
Chẳng
hạn như muốn, hãm hại người nào, chỉ vì ganh tị, bèn khoác bên
ngoài, các thứ chiêu bài: trừ gian diệt bạo, thế thiên hành
đạo. Chẳng hạn như muốn, tiêu diệt đối thủ, triệt hạ đối
phương, cạnh tranh nghề nghiệp, bèn khoác bình phong: bảo vệ công lý,
nêu cao chính nghĩa, tranh đấu tự do, bênh vực lẽ phải. Chẳng hạn
như vì, tham tiền tham vàng, tham lợi tham danh, sẵn sàng đấu tranh, hơn
thua giành giựt, ngay cả với anh, với chị em ruột, ở trong gia đình,
bất kể mẹ cha, mình cũng chẳng tha, biện bạch lý do: vì vợ vì
chồng, vì con vì cháu, vì chuyện nhân nghĩa, mới làm như vậy! Đâu
chẳng biết rằng: vợ chồng con cháu, sung sướng thụ hưởng, của
cải giàu sang, do mình tranh giành, đoạt được đem về, còn mình thì
sao, lãnh đủ nghiệp báo, đời này kiếp khác. Chúng ta nên biết: "có
vay phải trả", "mình làm mình chịu", không ai thay
được, dù là cha mẹ, dù là vợ chồng, hay là con cháu, không ai
cứu được, dù có van xin, Phật Trời cứu giúp, cũng chỉ vậy
thôi. Đó mới thực là: công bằng tuyệt đối!
Điều
quan trọng hơn hết là chúng ta phải biết cách chăn trâu. Nghĩa
là chúng ta phải biết cách dừng các vọng tâm, vọng tưởng, vọng
thức, vọng niệm. Đó chính là công phu tu tập theo đạo Phật, để
cải thiện cuộc đời mình, để chuyển hóa những ưu tư phiền muộn,
trở thành vô tư tự tại. Chẳng hạn như khi, tâm tham nổi lên,
lợi mình hại người, muốn được bạc triệu, xài chơi cho sướng,
nghĩ cách hại người, bất chấp thủ đoạn, chúng ta liền biết, lập
tức dừng ngay, không nên tiếp tục, theo đuổi vọng tâm, vọng
tưởng vọng thức, vọng niệm đó vậy, tức là chúng ta, đã dừng
được nghiệp, và chuyển được nghiệp.
Chẳng
hạn như khi, tâm sân khởi lên, muốn hại người khác, cho đã cơn
tức, cho được thỏa lòng, tự ái cao độ, muốn cho kẻ thù, chết
phứt cho rồi, hoặc ít ra cũng, khốn khổ khốn kiếp, tù tội te tua,
tả tơi xơ xác, tan tành hoa lá, hết đường sinh sống, bức bách
khổ não, thân tàn ma dại, sự nghiệp tiêu tan, tán gia bại sản,
mất hết việc làm, đói rách nghèo nàn, mới thiệt hả giận, chúng
ta liền biết, lập tức dừng ngay, không nên tiếp tục, theo đuổi
vọng tâm, vọng tưởng vọng thức, vọng niệm đó vậy, tức là
chúng ta, đã dừng được nghiệp, và chuyển được nghiệp.
Trong
giai đoạn này, người nào phát tâm chuyển hóa cuộc đời mình,
muốn biến phiền não khổ đau thành an lạc hạnh phúc, nhứt định
phải biết cách chăn trâu. Người không biết cách chăn trâu sẽ
đuổi theo vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm đó, đem ra
thực hiện, tức là tiếp tục, tạo thêm nghiệp mới! Người tu tâm
dưỡng tánh, biết cách chăn trâu, sẽ lập tức tự quở trách
chính mình: "Lại tạo nghiệp nữa rồi! Muốn đọa địa ngục sao?
Hãy dừng ngay lập tức!". Chuyện này khó khăn, không phải dễ
dàng, cần nhiều thời gian, mới thực hành được. Khi mình cưỡng
lại, sức kéo con trâu, thực là điêu đứng, vất vả nhọc nhằn.
Lắm lúc gặp phải, hoàn cảnh trái ngang, kẻ chửi người mắng,
hoặc khi gặp chuyện, bất bình trái ý, hãy tự nhủ thầm: Một nhịn
chín lành, cho nên phải nhịn, nhịn nhịn và nhịn, mới là phải đạo,
mới là người hiền, mới là người tu. Lập tức vọng tâm, vọng
tưởng vọng thức, vọng niệm của mình, nổi lên chống lại, xui
khiến xúi giục: Tại sao phải nhịn? Nhịn thì nhục, cự thì đục, nhịn
ở đàng chân, chúng lân đàng dầu, nhịn hoài thì chúng, được
nước làm tới, nhịn hoài chúng khinh, chúng khi khờ dại, chúng
mắng ngu ngơ, nếu như làm tới, không nhịn không ngưng, chúng biết tay
ông, chúng ngán tay bà, cả nhà chúng sợ!
Ôi
thôi! Tâm niệm như vậy, thực là con trâu, ngang tàng hoang dã, thực
đã lâu đời, ngông cuồng ngược xuôi, rất khó chăn giữ. Ngọn
hỏa diệm sơn, tức là tâm sân, trong lòng mỗi người, thực là
dễ sợ! Cần phải tìm được, cây quạt ba tiêu, mới mong dập tắt,
được lửa sân hận. Cây quạt "ba tiêu", trong Tây Du Ký,
là cái gì vậy? Đó chính thực là, ba điều cần tiêu, cần phải
diệt trừ. Như trong kinh sách, có lời phát nguyện:
Nguyện tiêu tam chướng
trừ phiền não.
Nguyện
đắc trí tuệ chơn minh liễu.
Phổ
nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế
thường hành bồ tát đạo.
Nghĩa
là muốn dứt hết khổ đau phiền não, muốn đạt được trí tuệ
sáng suốt, để đời đời tu theo hạnh của chư vị bồ tát, đem lại
ích lợi cho chúng sanh, chúng ta phải tiêu trừ tam chướng, tức
là tiêu trừ ba chướng nạn lớn của cuộc đời, gồm có: tội
chướng, nghiệp chướng và sở tri chướng. Do tâm tham lam sân
hận si mê, chúng ta tạo không biết bao nhiêu tội lỗi, mà không hề
hay biết, hoặc biết mà vẫn cố phạm. Do thói quen hằng ngày, trong
mọi hành động, lời nói hay tư tưởng, chúng ta tạo nghiệp không
biết bao nhiêu, mà không hề hay biết, hoặc biết mà vẫn cố phạm. Do
sự hiểu biết, kiến thức ngoài đời, từ những bằng cấp địa
vị, hay những hiểu biết trong đạo, người đời gặp không biết bao
nhiêu là chướng ngại, khó có thể thấy được đạo, càng ngày
càng bị con trâu của mình dẫn dắt đi quá xa quê hương, muốn trở
về cũng không còn biết lối nào nữa cả!
Người
nào hữu duyên, được gặp Chánh Pháp, có nhiều thiện căn, nên
khi thấy được, nguyên hình con trâu, liền nhận biết ngay, mình đã
tạo tội, nhiều tội tày trời, từ trước đến giờ, chắc chắn
sẽ phải, đền trả nay mai, không thể chạy đâu, cho thoát nghiệp
báo, giựt mình tỉnh thức, lập tức ngưng ngay, hành động bất
thiện, liền chừa bỏ ngay, lời nói độc ác, liền dẹp bỏ ngay, tư
tưởng lợi mình, ý nghĩ hại người!
Đó là giai đoạn, chăn giữ con trâu. Chăn
trâu nghĩa là: Áp dụng Chánh Pháp, vào trong cuộc sống, của mình
hằng ngày, dẹp trừ vọng tâm, vọng tưởng vọng thức, vọng niệm
liên miên, chuyển hóa ba nghiệp, thân khẩu ý mình, bất lương bất
thiện, thành ra ba nghiệp, hoàn toàn thanh tịnh.
Kinh sách có câu: "Tam
nghiệp hằng thanh tịnh. Đồng Phật vãng tây phương". Nghĩa là khi
nào ba nghiệp thân khẩu ý thường thanh tịnh, tức là con trâu đã
được chăn thuần thục, đã biến mất tiêu, chúng ta sẽ sống
được trong cảnh giới tịnh độ như chư Phật mười phương.
*
4)
Khi con trâu đã hiện nguyên hình, nếu không hạ quyết tâm chăn
trâu, không chịu ra công thuần phục con trâu tâm ý của mình, người
đời sẽ dễ dàng bị cám dỗ, dễ bị sa ngã, dễ bị lôi kéo đi vào
con đường gian tà, ác đạo. Chuyện gì cũng dám làm, lời nói nào
cũng phun ra được, ý nghĩ nào cũng dẫn tới chỗ lợi mình hại
người, chẳng chút vị tha, bất chấp thủ đoạn. Cuộc đời đau khổ,
vẫn hoàn khổ đau, không sao tránh được. Trong giai đoạn này,
người chăn còn yếu, con trâu còn mạnh, phải rất nhọc nhằn, lôi
cổ nó lại, nhưng nó chống cự, trì chân ghì kéo, trở lại
đường củ. Tức là vọng tâm vọng tưởng, vọng thức vọng niệm,
vẫn theo duyên trần, dấy khởi đều đều. Con người thường sống,
theo thói quen cũ, hằng ngày như vậy, rất khó điều phục, cho nên
phải biết, thực sự quyết tâm, kiên gan trì chí, không được lơi
lỏng, dù trong giây phút.
Chúng
ta hãy chiêm nghiệm câu chuyện sau đây: Trên một chuyến xe lửa,
người lái ngủ say sưa, hầu hết các hành khách, đều vui chơi ca
hát, nhảy nhót múa may, quay cuồng thỏa thích, cười nói huyên
thiên, khoe của khoe tài, khoe giàu khoe sang, khoe nhà khoe xe, khoe con khoe
cháu, nói xấu xóm làng, châm chích chọc chọt, khoái tỉ tì ti, lo ăn
ngủ khì, nhìn trời ngắm mây, chẳng hay biết gì. Không ai biết rằng:
chẳng bao lâu nữa, vì không người lái, chuyến xe lửa đó, tốc
độ sẵn có, sẽ trật đường rầy, lao xuống hố sâu, không còn
dừng được, tất cả hành khách, mạng vong thảm tử, không sót
một ai! Trong lúc hưởng thụ, mọi người sẵn sàng, tranh chấp cãi
vã, tranh giành phần phải, phần hơn phần tốt, phần lợi phần thắng,
về phía của mình, bà con phe nhóm, ngày này ngày khác! Đợi cho
đến lúc, toa đầu xe lửa, lao xuống vực sâu, mọi người giựt
mình, hoảng hồn la hét, mặt mày tái mét, lăng xăng lộn xộn, chộn
rộn ngược xuôi, cầu kinh lần chuỗi, cầu cứu thánh thần, niệm
Phật huyên thiên, kêu trời kêu đất, nhưng mà tất cả, đều quá
muộn màng!
Cũng
vậy, tất cả mọi người chúng ta đều ở trên chuyến xe lửa định
mạng của cuộc đời. Trạm cuối cùng của chuyến xe lửa định mạng,
ai ai cũng biết: đó là nghĩa địa, hay là lò thiêu! Thế là xong một
đời! Vậy mà khi còn hít thở không khí, còn khả năng làm việc,
còn nói năng và suy nghĩ, người đời không ngừng tạo tội tạo
nghiệp, vì miếng cơm manh áo, vì tự ái hơn thua, vì ganh tị đố kỵ,
vì tức giận người khác, vì tâm tánh luôn luôn thích thú nhìn
thấy người khác phiền não khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì con
người thường nghĩ: Đời của mình còn dài lắm mà!
Đó
là những lúc, mình làm mọi việc, thiện ác lẫn lộn, chuyện gì
cũng dám, tạo phước cũng làm, tạo nghiệp chẳng từ! Thực ra,
cuộc đời là vô thường, danh lợi là vô thường, tâm ý cũng
vô thường. Vô thường nghĩa là: nay còn mai mất, chứ không tồn
tại, vĩnh viễn muôn năm. Tâm tạo tội tạo nghiệp sẽ dẫn dắt con
người vào vòng sanh tử luân hồi. Tuy nhiên, tội nghiệp cũng vô
thường. Nếu có ý chí mạnh mẽ, con người có thể dừng nghiệp
và chuyển nghiệp! Biết dừng nghiệp và chuyển nghiệp, chúng ta sẽ
tránh được bao nhiêu hậu quả khó lường, sẽ khỏi được bao
nhiêu khổ đau phiền não!
Khi
thấy được con trâu, tức là chúng ta đã thấy được bao nhiêu
ngày tháng trôi qua của cuộc đời mình, thực là phí phạm, tạo
tội tạo nghiệp, đã quá nhiều rồi. Có rất nhiều người, bề
ngoài chơn chất, có vẻ hiền lành, nhu mì nhỏ nhẹ, nói năng từ
tốn, chưa hề hại ai, nhưng mà bên trong, tư tưởng nảy sanh, bao nhiêu
ý nghĩ, đen tối bậy bạ, đó chính thực là: con trâu cần phải
chăn giữ. Người tu tâm dưỡng tánh thực sự phải biết cách
chăn trâu. Có người rất ân hận, ăn năn sám hối về những đau
khổ, do vô tình hoặc cố ý, mình đã gây tạo cho người khác, chỉ
vì tâm tham lam, sân hận và si mê. Có người quá quẩn trí với
mặc cảm tội lỗi, muốn kết thúc cuộc đời mình, để đền trả
quả, vẫn cảm thấy cũng còn chưa đủ. Tuy nhiên, những người có
chút ánh sáng trí tuệ từ Chánh Pháp, bắt đầu dành nhiều thời
gian, để lo tu tâm dưỡng tánh, tìm gặp thiện hữu tri thức, thầy
lành bạn tốt trong đạo, cố gắng học hỏi cách nào, để làm lợi
mình lợi người, hầu trả bớt nghiệp báo đã vay, đã tạo đã
gây, từ bao lâu nay. Người tu tâm dưỡng tánh bắt đầu tìm cho
mình một nơi nương tựa, để mong rằng: những bước trên quãng
đường đời sau này, không còn tai nạn rủi ro, không còn hố sâu
vực thẳm, hiểm trở chông gai, để chuộc lại những lỗi lầm đã
tạo tác. Tâm sám hối mạnh mẽ thúc đẩy nhiều người phát tâm
hành thiện, cứu người giúp đời.
Ngày
xưa có người, vô minh lâu đời, che lấp chơn tánh, không được
sáng suốt, cho nên lúc nào, cũng tìm mọi cách, phỉ báng đạo Phật,
chê bai Chánh Pháp. Cho đến một ngày, hoát nhiên tỉnh ngộ, vì quá
ân hận, bèn định cắt lưỡi, từ lâu đã nói, những lời xằng
bậy, gây nên không biết, bao nhiêu tội nghiệp. May nhờ gặp lại,
một vị thiền sư, vốn là anh em, tu hành lâu năm, hết lời khuyên
bảo: Nên dùng cái lưỡi, xưa nay phạm tội, để mà tuyên xưng,
giảng giải Chánh Pháp, giúp cho nhiều người, liễu ngộ chánh đạo,
hiểu biết rõ ràng, pháp môn rõ ràng, tu tâm dưỡng tánh. Như vậy
mới là, phương cách tốt nhứt, thực tâm sám hối, để tạo
phước báu, để trả nghiệp báo, đền ơn chư Phật, ích lợi cho
mình, cho muôn người khác. Thời gian về sau, người đó trở thành,
một vị thiền sư, chơn tu đắc đạo, nổi tiếng khắp nơi.
Trong
Kinh Vị Tằng Hữu, Đức Phật có dạy:
Tâm trước nghĩ ác, như
đám mây đen che khuất mặt trời.
Tâm sau
ăn năn nghĩ thiện, như ngọn đuốc sáng tiêu trừ hắc ám.
Tuy
đã nhận được, mình thực sự có, bản tâm thanh tịnh, nhưng mà
những khi, nghe nói trái tai, thấy điều gai mắt, gặp chuyện bất
trắc, trong tâm liền khởi, bực tức giận hờn. Đó chính là lúc,
con trâu của mình, lên cơn hung hăng. Chúng ta luôn luôn, muốn làm
người tốt, trở nên người thiện. Nhưng nếu có người, bày mưu
mách nước, chỉ chước kiếm tiền, dễ làm giàu nhanh, kiếm được
vài triệu, bất chấp thủ đoạn, lợi mình hại người, do dự giây
lâu, mình liền nghe theo. Tức là chúng ta, bị con trâu lôi, tạo tội
nghiệp mới, chứ còn gì nữa!
Chăn trâu nghĩa là: Không
theo sức mạnh, sức kéo sức lôi, của tánh tham lam, sân hận si mê.
Chăn trâu nghĩa là: Phải biết kềm giữ, xỏ mũi kéo lại, đừng
để con trâu, dẫn mình đi đâu, tạo tội tạo nghiệp.
*
5)
Trong giai đoạn này, con người đã biết cách chăn trâu, nhưng nhiều
khi vẫn bị sức mạnh của con trâu kéo lôi ngược lại, có khi té
lăn cù bò càng, u đầu xước trán. Sau một thời gian, cố gắng nỗ
lực, tu tập tinh tấn, tâm không còn điên đảo mộng tưởng nữa.
Vọng tâm vọng tưởng, vọng thức vọng niệm, khởi lên liền biết,
nên tự lắng xuống, thường xuyên tỉnh giác, không bị nghiệp lôi.
Song vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm, cứ dấy lên
đều đều. Nghĩa là con người vì lăn lộn trong cuộc đời, bị vọng
tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm lôi cuốn, che lấp bản tâm
thanh tịnh, quanh năm suốt tháng cả ngày, quên mất con người chân
thật của chính mình, trong kinh sách gọi là "nghiệp thức che
đậy", lúc làm người tốt, khi làm kẻ xấu, sanh tử tử sanh
mãi mãi, không biết đến bao giờ mới chịu dừng nghiệp và chuyển
nghiệp.
Lúc
nào mình làm chủ được con trâu của mình, tức là làm chủ
được thân và tâm mình. Còn khi nào công phu chưa được thuần
thục lắm, chúng ta nên tránh bớt các cơ hội tiếp xúc với trần
đời, gan dạ cắt đứt các duyên liên hệ bên ngoài, để tâm ý
bớt giao động, để con trâu của mình không có cơ duyên nổi cơn hung
hăng dữ tợn. Trong lúc tu tập, chúng ta thường thấy, hành giả
chiêm ngưỡng, ba bức tượng gổ, hình ba con khỉ: một con bịt mắt,
một con bịt tai, một con bịt miệng, chính là nghĩa đó vậy.
Thấy cũng như không thấy, nghe cũng như không
nghe, nói cũng như không nói. Khi tiếp xúc với cảnh trần, nhưng
không ý kiến, không lập tri, không khởi tâm phân biệt, tức là
không dấy khởi vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm,
cũng như lúc không tiếp xúc với trần duyên vậy.
Trong
Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy:
Tri kiến lập tri tức vô
minh bổn.
Tri kiến
vô kiến tư tức niết bàn.
Nghĩa
là khi sống ở đời, chúng ta hiểu biết tất cả mọi việc, nếu
dấy khởi vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm thì gặp
phiền não khổ đau, đó là gốc của vô minh. Nhưng nếu không dấy
khởi vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm, thì chúng ta
sống được trong cảnh giới niết bàn. Nói cách khác đơn giản hơn,
sống ở đời tuy hiểu biết mọi việc, người nào nhiều chuyện,
người đó tự chuốc khổ, khổ thân và khổ tâm đó vậy. Cái
hạnh phúc ở chung quanh, nằm trong tầm tay, có sẵn từ lâu, nhưng
mình quên lững, không nhận thức được, chỉ vì không sống trong
chánh niệm, đến nay hạnh phúc đó hiện hữu trở lại trong vòng
tay, mình phải ý thức, biết trân quý và giữ gìn, làm con thuyền
đưa ta thoát khỏi biển sanh tử luân hồi.
Thời
Đức Phật còn tại thế, có một người theo ngoại đạo, mê tín dị
đoan, tìm giết cho đủ một trăm người, dâng cúng thần linh, để
được thần thông, được lên thiên đàng. Anh ta đã giết chín
mươi chín người, cho nên mọi người sợ hãi chạy trốn hết trơn.
Túng cùng, trên đường về nhà, định giết mẹ già, cho đủ số qui
định, anh ta gặp Đức Phật đang đi, bèn chạy theo định giết. Anh ta
hô to lên: Này sa môn kia, hãy dừng lại đi! Đức Phật vẫn thản
nhiên bước đi. Anh ta đuổi theo và hô to lên thêm hai lần nữa.
Đức
Phật từ tốn nói:
Như Lai đã dừng từ lâu, chỉ có ông chưa
chịu dừng mà thôi. Như Lai đã dừng tạo nghiệp từ lâu, cho nên
được tự tại an lạc. Nếu chịu dừng lại như vậy, ông cũng sẽ
được cảnh giới niết bàn không khác.
Do
tấm lòng đại từ đại bi, đại hỷ đại xả, Đức Phật đã cảm
hóa được người ngoại đạo mê tín kia, quay về chánh đạo, tu tập
tinh tấn, đắc đạo giải thoát. Đó là đại đức Angulimala.
Có
người suy nghĩ, mình đã "lỡ" tạo, quá nhiều tội
nghiệp, ăn năn sám hối, cũng chỉ bằng thừa, cũng chỉ vậy thôi,
chi bằng tiếp tục, làm ác như vậy, đến ngày tàn đời. Có
người thường nghĩ: Chiếc áo trắng tinh, dính một vết dơ, ai ai cũng
thấy. Chiếc áo quá dơ, dính thêm một vết, cũng chẳng khác gì! Họ
thường nghĩ rằng: "Chết đi là hết", không ai biết được,
mình đã làm gì, tại sao không chịu, hưởng thụ cho sướng, cả cuộc
đời này? Họ không biết rằng, sau khi chết đi, họ chỉ bỏ lại, cái
thân tứ đại, còn các nghiệp báo, lành dữ đã tạo, không thể
bỏ lại, sẽ đi theo họ, như hình với bóng. Dù muôn kiếp sau, họ
vẫn phải trả, nặng nề hơn nhiều.
Thí
dụ như những, người mãn tù ra, vẫn còn tiếp tục, gây tội tạo
nghiệp, bằng cách trả thù, người đã hại mình, thưa gửi kiện
tụng. Thí dụ như những, người có thân nhân, tới lúc phải trả,
nghiệp báo đã vay, từ nhiều kiếp trước, hưởng hết phước báo,
mạng vong thảm tử, trong các tai nạn, người đời chẳng biết, thức
tỉnh ăn năn, sám hối nghiệp chướng, làm thiện tạo phước, để
ngừa nạn sau, lại đi dựng chuyện, lòng tham sai khiến, kiện người
đòi tiền, gây thêm tội nghiệp, làm khổ chúng sanh! Như vậy tức
là, người đời đang mê, chưa chịu thức tỉnh, chưa chịu chăn trâu,
chưa chịu kềm chế, vọng tâm vọng tưởng, vọng thức vọng niệm.
Nói
một cách khác: người đời đang bị, con trâu lôi kéo, đi trên con
đường, u mê tà vạy, xa lìa chánh đạo, đem lại khổ đau, nhiều
đời nhiều kiếp. Nếu người đời có, gặp tai gặp nạn, thân nhân
thảm tử, theo Kinh Địa Tạng, và Kinh Dược Sư, chúng ta nên vì họ,
làm nhiều điều phước thiện, cứu người và giúp đời, đem tài
sản của họ, bố thí và cúng dường, để hồi hướng cho họ, chứ
tuyệt đối không nên, tạo tội tạo nghiệp thêm, cho họ và cho mình.
*
6)
Bắt đầu giai đoạn này, chúng ta cảm thấy được phần nào kết
quả của việc chăn trâu. Con trâu được trắng trẻo đôi phần.
Tức là con người đã biết hướng về việc thiện nhiều hơn, biết
quên mình vì người nhiều hơn, tâm tham lam ích kỷ, tật đố sân
hận, si mê mờ tối, giảm bớt đi nhiều. Con người làm chủ được
hành động, làm chủ được lời nói, làm chủ được ý nghĩ,
tức là con người làm chủ được con trâu của mình, đã chăn dắt
con trâu theo đúng con đường mình mong muốn. Trong kinh sách, con
đường đó được gọi là "Bát Chánh Đạo", người đó
được gọi là "Hành Giả", tức là người đang đi trên
đường tu tập hành trì. Đó là người thực sự biết tu tâm
dưỡng tánh.
Trên
bước đường tu tâm dưỡng tánh, việc trước hết là xả bỏ tâm
tham danh tham lợi, tránh làm các việc ác, các điều bất lương bất
thiện. Những sự tướng bên ngoài như đi chùa, tụng kinh, niệm
Phật, bố thí, cúng dường, ấn tống kinh sách, trích huyết tả kinh,
giúp đỡ người già, kiếm nhà cho trẻ, giới thiệu việc làm, là
những điều hết sức cần thiết, trên bước đường tu tập, để
tạo phước báu, nhưng như vậy thôi, thì cũng chưa đủ. Tại sao như
vậy? Bởi vì người đời, thường làm việc thiện, với cùng tâm
niệm: muốn được phước báu, muốn được khen thưởng, muốn
người biết đến, muốn được trả ơn, muốn lên thiên đàng, muốn
về cực lạc. Những tâm niệm như vậy chính là vọng tâm tạp niệm,
chính là con trâu đen thủi đen thui vậy.
Tu
theo đạo Phật là phải giác ngộ và giải thoát, tức là chuyển
hóa con trâu đen thành con trâu trắng. Trong tâm còn có chữ
"muĨn" là còn bị trói buộc, dù là muốn về cực lạc, muốn
lên thiên đàng! Khi còn muốn như vậy, chúng ta dễ bị dụ dỗ, dễ
bị gạt gẫm, dễ bị mù quáng, dễ đi sai đường, lầm đường lạc
nẻo, lạc vào ngoại đạo, rơi vào tà giáo, lúc nào không hay.
Hành
giả tu tập, tận tâm tận tình, tận sức tận lực, mới mong nhận
được, bản tâm thanh tịnh. Tuy nhận ra rồi, nhưng mà vẫn còn, chợt
hiện chợt ẩn. Hành giả quyết tâm, ngưng việc tạo tội, chỉ làm
việc thiện, tạo phước mà thôi. Cho nên lúc này, con trâu của
mình, chỗ đen chỗ trắng. Mặt trời trí tuệ, lúc sáng lúc mờ, vì
vẫn còn bị, mây đen che khuất. Con thuyền bát nhã, còn phải vượt
qua, nhiều cơn sóng gió, bát phong của đời, chưa đến bến bờ, một
cách bình yên.
Tâm
của chúng ta, cũng vậy chẳng khác, vừa mới an ổn, vui tươi thoải
mái, bổng dưng có người, đến nói khó nghe, hoặc cũng như là, con
cái cãi lộn, không biết nghe lời, chỉ dạy của mình, hay là vợ
chồng, bất đồng ý kiến, về một vấn đề, vọng tâm vọng tưởng,
vọng thức vọng niệm, liền dấy khởi lên. Con trâu của mình, lại
nổi cơn lên, phải thực khéo lắm, mới điều phục được. Kéo
dài lâu lắm, tâm của chúng ta, mới dịu trở lại. Nhưng chẳng bao
lâu, chuyện khác xảy đến, con trâu của mình, lại lồng lộn lên.
Bởi
vậy cho nên, chúng ta mới thấy: "Ai bảo chăn trâu không khổ?
Chăn trâu chẳng sướng lắm đâu!" . Trong giai đoạn này, theo
trâu thì dễ, chăn trâu khó lắm, khó lắm khó lắm, thiên nan vạn
nan. Tuy nhiên, chúng ta nên biết, trong sách có câu:
Vô ma khảo bất thành
đại đạo.
Nhân bất
phong sương vị lão tài.
Người
không sương gió khó thành công
Người
không khổ đau sao ngộ đạo.
Nghĩa
là trên bước đường tu tập, hành giả nếu gặp những ma chướng,
những bước thăng trầm, những nghịch duyên, những thử thách,
những bát phong, những sương gió, mới chứng tỏ ý chí mạnh mẽ,
kiên tâm trì chí, bồ đề tâm kiên cố, mới trở thành người
tài ba lão luyện, mới đạt được đạo cả chí thượng.
Bàn
về chuyện dễ hay khó, Thiền sư Linh Chiếu, con gái của Ngài Cư Sĩ
Bàng Long Uẩn, có dạy:
Dã bất nan, dã bất dị, cơ lai khiết phạn,
khốn lai thùy.
Nghĩa là:
Chẳng có khó, cũng chẳng dễ, đói đến
ăn cơm, mệt ngủ khò.
Thực
là đơn giản! Vậy mà ít người chú tâm chú ý thực hành! Tu tập
tinh tấn đạt được kết quả hay không, đa phần do mình có quyết
tâm mạnh mẽ hay không, một phần cũng do có phước duyên, gặp
được minh sư chỉ dạy, gặp thiện hữu tri thức hướng dẫn.
*
7) Chúng ta còn sống trên đời, khi sáu căn
tiếp xúc với sáu trần, vọng tâm vọng tưởng,
-- o0o --
| Mục lục tác giả|
Cập nhật ngày: 01-10-2001