Chết & Tái Sinh
( Death & Rebirth)
Thích Nguyên Tạng soạn
dịch
Melbourne, Úc Châu 2002
---o0o---
01
CHẾT,
THÂN
TRUNG
ẤM
VÀ
TÁI
SINH
---o0o---
1.
CHẾT:
Qua
sự
huân
tập
và
ảnh
hưởng
của
tam
độc
tham,
sân,
si,
ác
nghiệp
đã
hình
thành,
thiết
lập
những
mối
liên
kết
với
tâm
thức
qua
những
khuynh
hướng
có
mục
tiêu.
Khi
con
người
chết,
nếu
có
những
khuynh
hướng
như
thế
sẽ
tiếp
tục
đầu
thai
trong
vòng
sanh
tử
luân
hồi
với
thân
và
tâm
được
thừa
hưởng
từ
sự
tích
lũy
nghiệp
thiện
và
ác
ở
kiếp
sống
vừa
qua.
Một
số
người
chết
vì
kiệt
sức
hoàn
toàn,
một
số
khác
chết
do
hao
mòn
phước
đức,
chết
không
đúng
thời
điểm
hay
còn
gọi
là
bất
đắc
kỳ
tử.
Một
người
chết
thường
ở
một
trong
ba
trạng
thái
tâm:
Thiện,
Bất
thiện
và
Vô
ký.
Trong
trường
hợp
thứ
nhất,
người
hấp
hối
có
thể
quán
tưởng
về
Tam
Bảo
hay
một
vị
thầy
đức
hạnh
của
mình,
bằng
cách
đó
tâm
của
vị
ấy
mới
phát
sinh
tín
tâm.
Hoặc
người
hấp
hối
có
thể
nuôi
dưỡng
niềm
hỷ
lạc
vô
biên
để
thoát
khỏi
sự
ràng
buộc
của
những
phiền
não
tham
dục,
luyến
ái,
thay
vào
đó
bằng
cách
quán
niệm
Tánh
không
và
Tâm
từ
bi.
Ðiều
này
có
thể
tự
người
hấp
hối
làm
hoặc
qua
sự
trợ
niệm
của
người
khác.
Nếu
những
yếu
tố
trên
được
nuôi
dưỡng
trong
thời
điểm
hấp
hối,
một
người
chết
với
tâm
thanh
tịnh
như
thế
thì
việc
tái
sinh
của
họ
sẽ
được
cải
thiện.
Ðây
là
cách
tốt
nhất
để
chuẩn
bị
cho
cái
chết.
Mặt
khác,
ta
nên
tránh
đánh
thức,
quấy
nhiễu
người
đang
hấp
hối,
điều
đó
chỉ
khiến
cho
họ
nổi
giận
thôi.
Ðôi
khi
người
thân
và
bạn
bè
tập
trung
quanh
tử
sàng
bày
tỏ
niềm
tiếc
thương
và
khóc
lóc
bi
thảm,
sẽ
làm
cho
người
hấp
hối
khởi
tâm
tham
ái
và
quyến
luyến.
Nếu
người
chết
với
tâm
niệm
bất
thiện
như
thế,
sẽ
đẩy
họ
đầu
thai
vào
cõi
xấu,
điều
này
rất
nguy
hiểm.
Trong
bất
cứ
trường
hợp
nào,
trạng
thái
tâm
của
người
hấp
hối
bao
giờ
cũng
quan
trọng
trước
khi
chết.
Bởi
vì
ngay
cả
một
người
tu
luyện
tâm
linh
mà
bị
quấy
rầy
vào
thời
điểm
ấy
cũng
làm
cho
phiền
não
phát
khởi,
chính
trạng
thái
tâm
này
sẽ
tạo
ra
ác
nghiệp
và
đó
là
động
cơ
chính
dẫn
dắt
người
ấy
tái
sinh
vào
một
cõi
bất
lợi
như
bao
đường
ba
ác:
Ð?a
ngục,
Ngạ
quỷ
và
Súc
sanh.
Vì
thế,
điều
tối
quan
trọng
cho
cả
người
hấp
hối
lẫn
người
sống
là
tránh
tạo
ra
những
tình
huống
gây
bất
lợi
cho
tâm
thức
của
người
chết.
Chúng
ta
cần
biết
điều
này.
Những
người
chết
trong
trạng
thái
tâm
thiện
đều
có
cảm
giác
mình
từ
trong
bóng
tối
thoát
ra
ánh
sáng,
loại
bỏ
sự
khổ
đau
và
đạt
được
hạnh
phúc.
Có
nhiều
trường
hợp
người
bệnh
rất
nặng,
đến
lúc
gần
chết
đã
nói
ra
những
điều
tốt
đẹp
thoải
mái
thay
vì
nói
đến
căn
bệnh
của
họ.
Còn
đối
với
người
bệnh
tuy
nhẹ
nhưng
nỗi
sợ
hãi
quá
lớn,
giai
đoạn
cuối
cùng
này
tâm
họ
luôn
hoảng
hốt,
nên
có
cảm
giác
mình
từ
nơi
ánh
sáng
đi
vào
trong
bóng
tối
và
từ
nơi
hạnh
phúc
bị
rơi
vào
cảnh
khổ
đau.
Một
số
người,
thân
thể
ấm
áp
của
họ
đã
bị
suy
yếu
qua
cơn
bệnh
nên
họ
trở
nên
khao
khát
muốn
được
hơi
nóng,
bằng
cách
này
củng
cố
thêm
cho
khuynh
hướng
tái
sinh
của
họ
vào
nơi
như
địa
ngục
nóng
hoặc
một
nơi
có
khí
hậu
nóng.
Những
người
khác
thích
cái
mát
lạnh,
thích
uống
nước
lạnh
và
khiến
cho
khuynh
hướng
tái
sinh
của
họ
hướng
vào
nơi
như
địa
ngục
hàn
băng
hay
một
nơi
có
khí
hậu
lạnh.
Vì
thế
điều
rất
quan
trọng
là
tránh
khởi
những
ý
niệm
tham
ái
trong
lúc
chết
và
trực
tiếp
hướng
tâm
đến
những
điều
thiện.
2.
THÂN
TRUNG
ẤM
:
Thân
trung
ấm
(bardo/intermediate
state)
được
hiểu
nôm
na
là
sự
sống
sau
khi
chết
trước
khi
thần
thức
người
ấy
đi
tái
sinh
vào
một
trong
sáu
cõi
nào
đó
(Trời,
Người,
A
tu
la,
Ðịa
ngục,
Ngạ
quỷ
và
Súc
sinh).
Thân
trung
ấm
là
thân
không
có
xác
thịt
mà
chỉ
lấy
tư
tưởng
làm
thân.
Sau
khi
người
ấy
chết,
thần
thức
thoát
ra
khỏi
xác
thì
trụ
lại
ở
thế
giới
trung
gian
này
từ
một
đến
bảy
tuần
lễ,
rồi
sau
đó
tìm
kiếm
một
nơi
thích
hợp
với
nghiệp
lực
của
mình
mà
đi
tái
sinh.
Nếu
trong
thời
gian
này,
thân
trung
ấm
chưa
tìm
thấy
một
nơi
tương
ứng
với
mình
để
tái
sinh
thì
nó
lại
chết
đi
sau
mỗi
bảy
ngày,
sau
đó
thần
thức
lại
chuyển
qua
một
thân
trung
ấm
khác,
chu
kỳ
sinh
diệt
này
cứ
lập
lại
cho
đến
khi
thần
thức
đi
tái
sinh.
Trong
thời
gian
ở
lại
với
cõi
trung
ấm
này,
vào
những
ngày
đầu,
vong
linh
không
nhận
ra
mình
đã
chết,
họ
quay
lại
gia
đình
để
gặp
những
người
thân
nhưng
không
ai
hay
biết,
họ
hỏi
thăm
từng
người
nhưng
không
ai
trả
lời,
họ
cố
gắng
sinh
hoạt
trở
lại
bình
thường
như
lúc
còn
sống
nhưng
không
thể
được,
cho
đến
khi
họ
tự
phát
hiện
ra
họ
không
có
bóng
hình
trên
đất,
không
có
ảnh
trên
gương,
họ
mới
biết
là
mình
đã
chết.
Giờ
đây,
họ
lần
lượt
nhớ
lại
những
thiện
và
ác
nghiệp
mà
họ
đã
tạo
ra
trong
đời
sống
vừa
qua.
Tất
cả
những
cảnh
tượng
hạnh
phúc
hay
khổ
đau
trong
suốt
đời
họ
hiện
ra
trước
mắt
như
một
cuộn
phim.
Nếu
là
vong
linh
của
người
vốn
từng
tạo
phước,
tu
tập
tâm
linh,
thì
luôn
có
những
cảm
giác
yên
bình,
thanh
thản
và
dễ
dàng
để
tìm
đường
tái
sinh
vào
cõi
lành.
Còn
nếu
những
người
từng
tạo
ra
ác
nghiệp,
sống
cuộc
đời
tiêu
cực
thì
luôn
đối
mặt
với
những
cảnh
tượng
khổ
đau,
kinh
hoàng,
sợ
hãi,
thất
vọng
và
chán
chường.
Họ
lang
thang
một
cách
tuyệt
vọng
trong
cõi
trung
ấm
và
muốn
tìm
một
thân
xác
để
tái
sinh
tương
xứng
với
nghiệp
lực
của
họ.
Nếu
thân
trung
ấm
có
tu
tập
và
làm
chủ
được
thần
thức
của
mình,
thì
người
ấy
chọn
lựa
cho
mình
một
cảnh
giới
tốt
để
tái
sinh,
ngõ
hầu
tiếp
tục
tu
luyện
hoặc
vì
hạnh
nguyện
cứu
độ
chúng
sinh.
Bằng
như
trái
lại,
thì
không
có
sự
lựa
chọn
nào,
dù
muốn
hay
không
thì
thần
thức
của
người
ấy
cũng
buộc
phải
thọ
sinh
vào
một
cảnh
giới
nào
đó
khế
hợp
với
nghiệp
lực
của
mình.
3.
TÁI
SINH:
Nếu
được
tái
sinh
trở
lại
cõ
i
người,
thần
thức
của
người
ấy
thấy
cha
mẹ
tương
lai
của
mình
đang
nằm
với
nhau.
Nếu
người
ấy
tái
sinh
thành
người
nam
thì
phát
khởi
tâm
muốn
chiếm
hữu
người
mẹ
mà
rất
ghét
người
cha.
Nếu
tái
sinh
trở
thành
người
nữ
thì
ngược
lại,
thần
thức
người
khởi
tâm
muốn
giao
hợp
với
người
kia,
nhưng
lúc
ấy
họ
chỉ
thấy
bộ
phận
sinh
dục
của
người
kia
(nam
hay
nữ)
mà
không
thể
thực
hiện
được,
do
đó
họ
nổi
giận,
chính
cơn
giận
này
đã
làm
chấm
dứt
thân
trung
ấm
của
họ
và
thần
thức
của
họ
được
chuyển
qua
đời
sống
kế
tiếp,
bằng
cách
nhập
vào
bào
thai
của
người
mẹ
và
bắt
đầu
với
hình
dáng
của
một
con
người.
Khi
ấy
tinh
cha
và
huyết
mẹ
được
kết
hợp
với
thần
thức
của
người
ấy,
họ
tự
nhiên
và
dần
dần
phát
triển
thành
một
con
người.
Như
đã
nói
ở
trên,
khi
gần
đến
ngày
tái
sinh,
thần
thức
của
người
ấy
bị
lôi
kéo
về
nơi
tái
sinh
tương
lai,
thậm
chí
nơi
ấy
là
địa
ngục.
Ví
dụ,
một
đồ
tể
nhìn
thấy
một
con
cừu,
anh
ta
muốn
đuổi
bắt
và
giết
chết
nó,
nhưng
lập
tức
anh
ta
thấy
bóng
mờ
xuất
hiện,
nên
anh
ta
giận
dữ,
cơn
giận
đã
làm
kết
liễu
thân
trung
ấm
và
thần
thức
của
anh
ta
rơi
vào
Ðịa
ngục
hay
Súc
sinh.
Sự
chuyển
tiếp
sự
sống
từ
đời
này
sang
đời
khác
là
nghiệp
lực.
Nghiệp
(karma)
có
một
năng
lực
cá
biệt
và
đóng
một
vai
trò
rất
quan
trọng
trong
việc
cấu
tạo
tâm
tánh
của
con
người.
Nghiệp
được
hình
thành
dưới
sự
tập
hợp
của
tam
độc
tham,
sân,
si
hay
vô
minh
và
ái
dục.
Chính
vô
minh
(ignorance)
và
ái
dục
(desire)
là
cội
rễ
của
mọi
ác
nghiệp.
Do
ác
nghiệp
này
mà
khiến
cho
con
người
trôi
lăn
trong
vòng
sinh
tử
luân
hồi.
Ðể
thoát
khỏi
vòng
tuần
hoàn
khổ
đau
này
con
người
phải
nỗ
lực
tu
tập
đoạn
diệt
cho
bằng
được
cội
rễ
của
vô
minh.
Khi
vô
minh
bị
tận
diệt
thì
ái
dục
cũng
bị
tận
diệt,
ái
dục
diệt
thì
sinh,
lão,
bệnh,
tử,
sầu
bi
khổ
ưu
não
cũng
không
còn,
khi
ấy
con
người
mới
thật
sự
thoát
khỏi
vòng
vây
của
sinh
tử
luân
hồi.
---o0o---
Mục
Lục
|
01
|
02
|03
|
04
|
05
|
06
|
07
|
08
|
09
|
10
|
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
|20
|
---o0o---
Vi tính : Đàm
Thanh - Ngọc Dung
Trình bày : Nhị Tường