Chết & Tái Sinh
( Death & Rebirth)
Thích Nguyên Tạng soạn
dịch
Melbourne, Úc Châu 2002
---o0o---
18
MỘT
BẰNG
CHỨNG
SỐNG
VỀ
THUYẾT
TÁI
SINH
---o0o---
T
hượng
tọa
Thubten
Zopa
Rinpoche,
là
đồng
sáng
lập
viên
"Hội
bảo
vệ
truyền
thống
Phật
giáo
Ðại
thừa"
(năm
1975,
văn
phòng
trung
ương
đặt
tại
bang
California,
Hoa
Kỳ).
Hiện
tổ
chức
này
có
gần
một
trăm
chi
nhánh
trên
khắp
các
châu
lục.
Vừa
qua,
một
tu
viện
tại
Nepal
đã
cử
hành
lễ
"thụ
phong
cho
một
chú
bé
bốn
tuổi
mà
giới
Phật
giáo
Tây
Tạng
xem
đây
là
người
tái
sinh
của
cụ
bà
Amala
(mẫu
thân
của
Thượng
tọa
Zopa
Rinpoche).
Dưới
đây
là
bài
viết
của
Sư
cô
Robina
Courtin,
đúc
kết
lại
những
gì
đã
nghe
thấy
về
cuộc
"hành
trình
chuyển
tiếp"
khá
lý
thú
này.
"Tôi
đã
tìm
thấy
được
mẹ
tôi",
Ngawang
Samten,
chị
của
Thượng
tọa
Zopa,
reo
lên
một
cách
vui
sướng
khi
vừa
gặp
lại
cô
Merry
Colony
vào
tháng
8
năm
1993,
sau
hai
năm
vắng
mặt
từ
ngôi
làng
bé
nhỏ
nằm
trong
vùng
núi
đá
lởm
chởm
thuộc
vùng
Khumbu,
nước
Nepal.
Cụ
bà
Amala,
bà
thân
sinh
của
Thượng
tọa
Zopa
Rinpoche,
được
rất
nhiều
người
biết
đến,
đã
qua
đời
vào
đầu
năm
1991.
Merry
nghĩ
rằng
chắc
Ngawang
Samten
muốn
ám
chỉ
một
điều
gì
đó
có
liên
quan
đến
sự
tái
sinh
của
cụ
Amala.
Merry
rất
thân
với
cụ
Amala
và
Ngawang
Samten
trong
dịp
cô
đến
tu
thiền
trong
một
hang
động
gần
đó
và
thường
đến
thăm
họ
ở
chùa
Lawudo.
Cả
hai
đều
là
nữ
tu,
công
việc
chính
của
họ
là
chăm
sóc
các
hang
động
và
ngôi
chùa
này.
Họ
đến
đây
từ
Thami,
Tây
Tạng.
"Gia
đì
nh
tôi
rất
nghèo",
Ngawang
Samten
nhớ
lại,
"bố
tôi
qua
đời
lúc
em
trai
tôi
Sangye
còn
trong
bụng
mẹ.
Mẹ
tôi
suốt
ngày
đi
chặt
củi
đổi
lấy
gạo
để
nuôi
cả
gia
đình.
Bà
chỉ
kiếm
vừa
đủ
để
nuôi
anh
em
chúng
tôi
và
bà
thường
lượm
những
mảnh
vải
người
ta
vứt
trong
thùng
rác
để
may
áo
quần
cho
chúng
tôi".
"Và
bà
thường
đến
biên
giới
Tây
Tạng
(hai
ngày
đi
bộ)
mua
muối
đem
về
bán
cho
người
trong
làng
-
Merry
nói
-
Bà
cụ
là
một
người
nhỏ
nhắn
nhưng
rất
khỏe
mạnh,
bà
làm
mất
đi
nhiều
ngón
tay
của
mình
khi
chặt
củi.
Giống
như
nhiều
người
ở
miền
núi,
bà
cụ
không
biết
chữ,
bà
cũng
không
biết
nhiều
về
giáo
lý.
Nhưng
bà
tin
tưởng
Ðức
Bồ
tát
Quán
Thế
AÂm
và
siêng
năng
thọ
trì
câu
thần
chú
:
"OM
MANI
PADME
HUM"
trong
mọi
lúc,
mọi
thời.
Bà
cụ
rất
tận
tụy
với
các
tăng
ni.
Mỗi
ngày
bà
đều
chăm
sóc
hang
động,
quét
dọn,
cúng
dường
hương
đèn
lên
các
bàn
thờ".
Gần
đây,
Thượng
tọa
Zopa
Rinpoche
cũng
cho
biết
rằng:
"Sau
khi
làm
xong
mọi
việc
trong
chùa
mỗi
ngày,
bà
cụ
đều
đến
đảnh
lễ
Phật
và
cầu
nguyện
cho
tôi.
Bà
cụ
nói
là
bà
cụ
cầu
nguyện
cho
tôi
ba
lần
trong
một
ngày,
sáng,
trưa
và
buổi
tối".
"Mẹ
cầu
nguyện
những
gì
?",
tôi
hỏi
bà
cụ,
"Bà
nói
rằng
bà
chỉ
cầu
mong
chư
Phật
gia
hộ
cho
tôi
vượt
qua
mọi
chướng
ngại
trên
con
đường
tu
học
của
mình".
Vào
tháng
12
năm
1990,
cụ
Amala
muốn
đi
thăm
Ð?c
Dalai
Lama
(ở
Ấn
Ðộ)
trước
khi
cụ
qua
đời.
Già
và
yếu,
nhưng
bà
vẫn
cố
gắng
băng
núi
đèo
để
đến
Kathmandu,
và
rồi
đến
tỉnh
Sarnath
(Bắc
Ấn),
đi
cùng
với
bà
có
cậu
út
Sangye
và
Ngawang
Samten.
"Ðó
là
ngày
trăng
tròn
tháng
giêng
năm
1991",
Sangye
nhớ
lại,
"cũng
là
ngày
cuối
cùng
của
khóa
tu
Mật
tông
Kalachakra.
Suốt
ngày
hôm
đó
cụ
Amala,
chị
Ngawang
và
tôi
đã
dự
lễ
điểm
đạo
của
Ðức
Dalai
Lama.
Sau
đó
chúng
tôi
trở
lại
túp
lều
và
cụ
Amala
bảo:
"Mẹ
muốn
nghỉ
ngơi,
đừng
quấy
rầy
mẹ".
Chúng
tôi
linh
cảm
có
một
điều
gì
đó
sắp
xảy
ra,
chúng
tôi
ngồi
quanh
giường
của
cụ,
khoảng
mấy
phút
sau,
cụ
trở
mình
nghiêng
bên
phải
và
rồi
mất
tại
đó.
Khuôn
mặt
bà
như
đang
ngủ".
"Bà
cụ
vẫn
nằm
trong
tư
thế
"kiết
tường"
như
vậy
trong
ba
ngày,
nét
mặt
đẹp
hơn,
sáng
hơn.
Chúng
tôi
không
chạm
đến
thi
thể
của
cụ
cho
đến
chiều
ngày
thứ
ba,
nét
mặt
vẫn
không
thay
đổi.
Chúng
tôi
tiến
hành
tang
lễ
và
hỏa
táng
sau
đó.
Có
hơn
200
Tăng
Ni
và
Phật
tử
đến
dự.
Rõ
ràng
vào
ngày
cụ
Amala
qua
đời
là
ngày
trăng
tròn,
người
dân
trong
vùng
Lawudo
(ở
Nepal)
nhìn
thấy
một
con
chim
ưng
lông
trắng
bay
lượn
ba
vòng
ở
trong
vùng
rồi
sau
đó
bay
về
hướng
đông
Tây
Tạng.
Sau
này
họ
nói
cho
tôi
về
điều
đó,
họ
nói
là
họ
rất
ngạc
nhiên".
Trên
đây
là
toàn
bộ
câu
chuyện
mà
Ngawang
đã
kể
cho
cô
Merry
nghe,
khi
cô
đến
thăm
Lawudo
vào
tháng
8
năm
1993.
Vào
đầu
tháng
7
năm
đó
(1993),
Ngawang
Samten
hay
tin
một
người
bạn
láng
giềng
của
chị
là
Lhakpa
bị
tai
nạn,
vì
thế
chị
quyết
định
đi
thăm
cô
ta.
Ngawang
không
gặp
cô
ta
từ
khi
cụ
Amala
qua
đời.
Gia
đình
cô
dời
về
ở
một
ngôi
làng
Genukpa
cách
chùa
Lawudo
khoảng
mười
lăm
phút
đi
bộ.
Ðó
không
phải
là
nơi
gần
với
Lawudo,
nên
Ngawang
Samten
và
Lhakpa
ít
khi
gặp
nhau.
Lhakpa
bị
thương
ở
chân
nhưng
không
nặng
lắm,
cô
ta
rất
mừng
khi
gặp
lại
Ngawang
Samten.
Lhakpa
có
bốn
đứa
con,
đứa
nhỏ
nhất
là
một
cậu
bé
được
sanh
sau
khi
cụ
Amala
mất
và
i
tháng
ở
Ấn
Ðộ.
Lhakpa
bắt
đầu
nói
với
Samten
về
đứa
con
trai
út
của
mình.
Nó
là
một
đứa
trẻ
thông
minh
lạ
thường,
cô
ta
nói,
từ
khi
nó
tập
nói
lúc
2
tuổi,
chú
bé
thường
nhắc
đến
chùa
Lawudo,
một
ngôi
chùa
mà
chú
chưa
từng
biết
đến
bao
giờ.
Vì
thế,
điều
này
làm
cho
chị
và
cả
gia
đình
rất
kinh
ngạc.
Và
khi
Ngawang
Samten
gặp
riêng
chú
bé,
chú
dường
như
nhận
ra
chị,
và
chú
yêu
cầu
chị
đưa
chú
đi
thăm
chùa
Lawudo.
Chú
bé
là
một
đứa
trẻ
đẹp
và
khỏe
mạnh,
chú
bày
tỏ
sự
quen
thuộc
đối
với
Lawudo
-
nhắc
đến
tên
của
ba
con
bò
chẳng
hạn.
Và
chú
tiếp
tục
nói
là
chú
muốn
đi
đến
đó:
"Ðó
là
nơi
cháu
đã
từng
sống",
chú
nói.
Ngawang
Samten
rất
ngạc
nhiên,
chị
bắt
đầu
đến
thăm
chú
bé
thường
xuyên
hơn
và
luôn
luôn
tìm
thấy
những
điều
tương
tự.
Chú
yêu
cầu
chị:
"Hãy
đưa
cháu
về
Lawudo
đi".
Một
điều
đáng
chú
ý
hơn,
là
chú
thường
nhắc
đến
Sangye,
Thượng
tọa
Zopa
Rinpoche
và
ngôi
tu
viện
Kopan
của
ngài,
trong
khi
tu
viện
đó
ở
dưới
thung
lũng
Kathmandu.
"Cháu
tự
hỏi
không
biết
khi
nào
Thượng
tọa
và
Sangye
sẽ
đến
thăm
cháu",
chú
nói.
Ngawang
Samten
đi
từ
ngạc
nhiên
này
đến
ngạc
nhiên
khác
khi
chú
đưa
ra
những
thông
tin
mới
hơn:
"Con
đường
đi
đến
tu
viện
Kopan
rất
xấu,
có
lẽ
họ
đang
bận
rộn
sửa
sang
lại
nó".
Rõ
ràng
đó
là
sự
thật.
Chú
bé
cũng
thường
bày
tỏ
ý
định
muốn
đến
Kopan
một
mình.
Một
ý
tưởng
nảy
sinh,
phải
chăng
chú
bé
nà
y
là
một
bằng
chứng
tái
sinh
của
mẹ
chị?
Ý
tưởng
đó
đã
ngự
trị
và
trở
nên
rối
bời
trong
đầu
óc
của
Ngawang
Samten.
Chị
nghĩ
rằng
mình
không
thể
ngạc
nhiên
và
bỏ
qua
cơ
hội
này;
chị
quyết
định
trắc
nghiệm
chú
bé.
Cuối
cùng,
chị
đưa
bé
về
thăm
chùa
Lawudo.
"Ngay
khi
bước
vào
phòng
ăn",
chị
nhớ
lại,
"Chú
bé
bắt
đầu
mô
tả
nhà
bếp,
những
băng
ghế,
lò
sưởi;
điều
đáng
chú
ý
là
chú
chạy
lên
chánh
điện
và
đi
kinh
hành
mấy
vòng
-
giống
như
cụ
Amala
đã
từng
làm.
Dù
ở
đây
chú
hay
bị
vấp
và
té,
bởi
vì
chú
nhỏ
quá".
Ngawang
Samten
cùng
kiểm
tra
với
Hòa
thượng
Wangchuk,
một
người
địa
phương
lừng
danh
trong
việc
quan
sát
các
trường
hợp
như
thế,
và
ngài
đã
xác
nhận
chú
bé
này
đúng
là
người
tái
sinh
của
cụ
Amala.
Ngawang
Samten
cũng
viết
thư
cho
Hòa
thượng
Trulshig
và
Thượng
tọa
Nyingma
thuộc
tu
viện
Thubten
Choeling
ở
Jumberi.
Hai
ngài
đã
trả
lời
thư,
chứng
nhận
rằng
chú
là
một
hình
dạng
khác
của
cụ
Amala
và
khuyên
chị
phải
làm
lễ
cầu
an
cho
chú
cũng
như
chăm
sóc
chú
một
cách
cẩn
thận.
Ngài
Trulshig
đã
đặt
tên
cho
chú
là
Ngawang
Jigme.
Ngawang
Samten
rất
sung
sướng.
Chị
quyết
định
tổ
chức
lễ
cầu
an
cho
Ngawang
Jigme,
mời
tăng
ni
và
bà
con
trong
làng
đến
dự.
Trong
buổi
lễ
ở
chùa
Lawudo,
chú
bé
lại
một
lần
nữa
làm
cho
mọi
người
phải
ngạc
nhiên
bởi
việc
đi
kinh
hành
ba
vòng
trong
chánh
điện
và
sau
đó
chú
lễ
Phật
giống
như
cụ
Amala
đã
làm
trước
đây.
Ngawang
Samten
may
cho
chú
mấy
bộ
đồ
và
trong
số
đó
có
cả
chiếc
mũ
len
của
cụ
Amala.
Giật
lấy
chiếc
mũ
một
cách
vui
mừng,
chú
reo
lên
"đây
là
cái
mũ
của
cháu",
và
lập
tức
chú
nhận
ra
một
số
nút
áo
cũ
mà
cụ
Amala
đã
để
dành
trước
kia,
nay
được
khâu
vào
chiếc
áo
ấm
mới:
"Cái
nút
này
của
cháu",
chú
la
lên
một
cách
sung
sướng.
Sangye
đã
nhớ
lại
trong
buổi
lễ
hôm
đó
mọi
người
đều
tặng
khăn
trắng
Khatas
cho
chú,
chú
đều
biếu
lại
họ
theo
truyền
thống
như
một
cử
chỉ
ban
phước.
Ð
iều
này
không
có
ai
dạy
cho
chú
biết
trước
đó.
Kể
từ
hôm
đó,
chú
thường
xuyên
đến
chù
a
Lawudo,
và
chú
tiếp
tục
làm
cho
mọi
người
phải
chú
ý
về
sự
hiển
lộ
trí
nhớ
của
mình.
Chú
chỉ
ra
mọi
việc
trong
chùa,
trong
nhà
bếp,
trong
hang
động.
Chú
biết
rõ
những
thứ
đó
là
gì
và
dùng
để
làm
gì.
Chú
cũng
hỏi
thăm
các
đồ
vật
thuộc
về
cụ
Amala
mà
chú
không
thấy
ở
chỗ
cũ.
"Cây
đèn
của
cháu
ở
đâu
".
Chú
hỏi.
Cụ
Amala
gìn
giữ
các
đồ
dùng
riêng
trên
một
chiếc
kệ
trong
phòng
ngủ
của
cụ:
Một
cái
kính
đeo
mắt,
một
bánh
xe
pháp
luân
nhỏ
(dùng
để
cầu
nguyện),
một
xâu
chuỗi,
một
cây
đèn
dầu...
Chú
bé
dường
như
quyết
định
tìm
các
đồ
vật
và
chú
tỏ
ra
bực
mình
khi
không
tìm
thấy
chúng.
Cầm
tay
Ngawang
Samten,
chú
chỉ
về
phía
chiếc
kệ:
"Cháu
muốn
lấy
cây
đèn
của
cháu
về
nhà,
cháu
sẽ
mang
nó
trở
lại
vào
ngày
mai".
"Chú
bé
rất
kỳ
lạ",
Sangye
cảm
nhận,
"và
mọi
người
gặp
chú
cũng
đều
cảm
thấy
như
thế".
Cách
cư
xử
của
chú
quá
lạ
lùng
so
với
các
đứa
trẻ
khác.
Chú
hành
xử
và
nói
năng
như
người
lớn
một
cách
tự
nhiên.
Về
trí
nhớ
của
chú
cũng
hoàn
toàn
chính
xác.
Vào
tháng
5
năm
1994,
bố
mẹ
của
Ngawang
Jigme
cảm
thấy
đã
đến
lúc
đưa
đứa
con
của
họ
đến
tu
viện
Kopan.
Buổi
lễ
thụ
phong
được
tổ
chức
để
chính
thức
xác
nhận
chú
là
tái
sinh
của
cụ
Amala,
một
nữ
tu
người
Tây
Tạng,
bởi
250
Tăng
ni
và
Phật
tử.
Cuối
cùng,
chú
cũng
đã
bước
vào
tu
viện
như
là
một
tu
sĩ
thực
thụ
và
chú
sẽ
được
giáo
dục
theo
một
phương
pháp
dành
riêng
cho
người
được
xem
là
tái
sinh.
Tu
viện
và
các
bậc
cao
đức
sẽ
tạo
cho
chú
có
cơ
hội
để
tiếp
tục
công
việc
tu
tập,
hóa
giải
nghiệp
lực,
phát
triển
tâm
linh
và
hoằng
pháp
lợi
sinh
sau
này.
Khi
Ðức
Dala
Lama
lần
đầu
tiên
gặp
chú
bé
tái
sinh
người
Tây
Ban
Nha,
Tenxil
Osel
Rinpoche
(1),
và
Ngài
đã
thừa
nhận
chú
ấy
là
hóa
thân
của
cố
Lama
Thubten
Yeshe.
Ngài
nói:
"Tất
nhiên,
khi
chú
lớn
hơn
một
chút,
tự
chú
sẽ
để
lộ
ra
những
chứng
cứ
cho
người
ta
biết
chú
thật
sự
là
ai".
Và
trường
hợp
của
Ngawang
Jigme
ở
đây
cũng
tương
tự
như
vậy.
Nhưng
nếu
bằng
chứng
đã
có
giá
trị
bề
mặt
thì
chú
là
một
minh
chứng
hùng
hồn
nhất
về
công
hiệu
của
luật
nhân
quả.
Ðó
là
suốt
một
quãng
đời
cống
hiến
và
tận
tụy
mà
cụ
Amala
đã
đặt
trọng
niềm
chánh
tín
của
mình
cho
Chánh
pháp
để
cuối
cùng
đổi
lấy
một
kết
quả
thấy
rõ,
đó
chính
là
sự
"quay
lại"
của
mình
trong
một
dáng
hình
nam
tử
mà
trước
đây
cụ
đã
hằng
mong
ước.
*
Ghi
chú:
1.
Tenzil
Osel,
sinh
ngày
12/02/1985
tại
Tây
Ban
Nha,
được
xem
là
hậu
thân
của
cố
Lama
Thubten
Yeshe
(một
pháp
sư
nổi
tiếng
của
Phật
giáo
Tây
Tạng
ở
phương
Tây,
là
thầy
của
Thượng
tọa
Zopa
Rinpoche).
Hiện
tại
Lama
Tenzil
Osel
2
tuổi
đang
sống
và
tu
học
ở
tu
viện
Sera,
nước
Ấn
Ðộ.
---o0o---
Mục
Lục
|
01
|
02
|03
|
04
|
05
|
06
|
07
|
08
|
09
|
10
|
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
|
19
|20
|
---o0o---
Vi tính : Đàm
Thanh - Ngọc Dung
Trình bày : Nhị Tường