HÀNH TRÌNH TỚI CÁC CÕI
BÊN KIA CÁI CHẾT
DELOG DAWA DROLMA
(Nguyên tác: DELOG: Journey to Realms
Beyond Death
Delog Dawa Drolma) – Xuất bản năm 1995
Richard Barron
dịch sang Anh ngữ từ tiếng Tây Tạng
dưới sự hướng dẫn của Đức Tôn Quý
Chagdud Tulku Rinpoche
Bản dịch Việt ngữ của
Liên Hoa
---o0o---
1-NÚI HUY HOÀNG MÀU ĐỒNG-ĐỎ
CÕI THUẦN TỊNH CỦA ĐỨC PADMASAMBHAVA
Con đường mà tôi để cập tới là một lối đi hẹp, khó khăn và đóng kín.
Vì thế những ai khao khát giải thoát có thể đi vào con đường dẫn tới giải
thoát đó.
Tôi sẽ rộng mở chút ít trên vòng hoa lời dạy chữa lành này liên quan tới
động lực cao cả hơn.
Những tường thuật được kể lại ở đây liên quan tới tôi, Dawa Drolma, con
gái của Jigmed T’hrogyal thuộc bộ tộc Tromge, một đạo sư sống trong vùng
Washul T’hron. Từ khi còn là một đức trẻ, tôi được phú bẩm một bản tánh bi
mẫn, đức tin không định kiến và thị kiến thanh tịnh. Tình thương của tôi
thật mãnh liệt đối với mọi hành khất và những người kém may mắn hơn tôi và
tôi hiến thân mình để cúng dường và bố thí.
Tôi thực hiện nhiều cuộc nhập thất trì tụng mãnh liệt, đã hoàn tất chẳng
hạn như hàng trăm ngàn lần Lời Khẩn nguyện Bảy-Dòng.
Sau này tôi được cảm hứng bởi Dakini Dorje Yudron
và những bổn tôn khác của giác tánh nguyên sơ, cũng như bởi một Bồ Tát (bodhisattva)
đệ bát địa,
Ngài mang thân tướng của một vị trời địa phương, đại nyen siêu phàm ở
phương bắc.
Mặc dù các Ngài không hoàn toàn thuật lại quá khứ, hiện tại và tương lai
cho tôi nghe, dù sao thì tôi cũng đã nhận một số lượng phi thường những
tiên tri liên quan tới thời đại của chúng ta.
Có một dịp, ba vị tulku,
cũng như ngài Jatrul
và những vị khác du hành xuống thung lũng để tham dự một nghi lễ trọng
thể, một sự kiện hàng năm được tổ chức trong một cái lều lớn bằng nỉ. Vào
buổi chiều tối, trước khi các ngài giải tán, tôi có một linh kiến mà nửa
là một kinh nghiệm thiền định, nửa là một giấc mộng. Trong linh kiến này,
ba yêu ma có tên là “các chị em gãy bể samaya”
từ hướng cao nguyên Lashar tới, lấy cắp sinh lực của chúng sinh trên ba
mức độ thuộc sự hiện hữu có điều kiện.
Bà Chị chính cầm một lá cờ bằng lụa đen và một sợi thòng lọng; mặc dù
nhiều lần bà ta cố cột chúng vào eo lưng tôi, nhưng vị bổn tôn nghiệp của
tôi là Đức Tara tôn quý đã xuất hiện trong một biểu lộ trẻ trung, thân màu
trắng chói lọi và đặt tôi trong một chiếc lều được bảo vệ chặt chẽ khiến
sợi thòng lọng không thể đụng tới tôi được.
Sau này, tôi có một thị kiến về người nào đó lại gần và đánh vào xương vai
tôi bằng một cuộn len màu có kích thước cỡ một hòn đá nhỏ, sau đó biến
mất. Đây là một kinh nghiệm hết sức xấu, nhưng một lần nữa, Đức Tara lại
can thiệp và nói: “Bởi sự việc này, ta phải đi Ấn Độ để lấy một ít thuốc
kanadava từ kho tàng bí mật của các dakini ở Orgyan.
Ta sẽ không trở về trong bốn ngày. Trong thời gian này, con nên mặc y phục
của người nào đó như anh Palchhen của con mà thân anh ta được các vị trời
bảo vệ che chở và hãy giữ gìn đừng để tâm con lang thang vơ vẩn. Vào tối
thứ tư, hãy dâng cúng tám mươi torma để giải trừ các chướng ngại.
Sau đó, như một dấu hiệu là ta đã lấy được thuốc, ta sẽ đến như mặt trời
chói lọi, không bị mây che hay một cơn gió hung tợn vây bủa”.
Trong bốn ngày này, tôi đau đớn ghê gớm; cơn đau dữ dội đến nỗi tôi không
thể buộc khăn quanh người. Vào tối ngày thứ tư, vị đạo sư hóa thân Tromge
Trungpa cử hành một nghi lễ cúng dường tám mươi torma, và ba chị em cắt
đứt sinh lực hài lòng với các vật cúng dường, đã quay về trụ xứ riêng của
họ. Một mùi hương dễ chịu ngập đầy căn lều bằng nỉ, từ đỉnh lều tới đáy,
cho thấy là thuốc đã về tới. Tôi đã có thể thưởng thức một chất dị thường
có hương vị rất tuyệt vời, và ngay lập tức, cơn đau của tôi tan biến. Tôi
thực sự kinh nghiệm sự kiện kỳ diệu này, là điều mà bất kỳ ai cũng có thể
tự mình chứng thực.
Một lúc khác, bất ngờ tôi bị đánh gục như thể giờ chết của tôi chắc chắn
đã tới. Đạo sư gốc quý báu
và chỗ nương tựa duy nhất của tôi, bậc quyền uy từ bi là kho tàng của lòng
bi mẫn, đã cử hành một buổi lễ tràn đầy oai lực để triệu hồi sinh lực
trường thọ của tôi. Các vị đạo sư của dòng Sakya
lừng lẫy cử hành những sự cầu nguyện, những nghi lễ ban sự che chở, lễ quy
y của Đức Hevajra vinh quang
và những buổi lễ khác. Sau cùng, những cơn đau mạnh mẽ suy giảm và những
cơn đau vi tế hơn nguôi dịu thành một kinh nghiệm về đại lạc tánh Không.
Sau đó, ngài Khakyod Wangpo, đấng thống lĩnh của một trăm bộ Phật, kho
tàng vô song và duy nhất của lòng bi mẫn, Đức Vajrasattva
toàn thiện vĩ đại trong thực tế, đã dẫn dắt tôi trong một linh kiến với
sắc tướng huyễn mộng của giác tánh nguyên sơ của Ngài. Như một người nói
chuyện với người khác, tôi đã trò chuyện cùng các dakini của giác tánh
nguyên sơ không có thân thể vật lý và đáp lại những câu hỏi của tôi, họ
cho tôi những câu trả lời rõ ràng, khiến cho những chướng ngại đối với thọ
mạng của cô gái
này được giải trừ và tôi đã có thể làm lợi cho chúng sinh theo khả năng
của riêng tôi. Tôi đã được tiên tri rằng tôi phải thực hiện các cuộc nhập
thất trì tụng về ba vị bổn tôn – Amitayus, Samyak và Vajrakilaya – để
viếng thăm nhiều cõi thuần tịnh Hóa thân.
Đức Tromge Kundun Rinpoche đã cử hành các lễ quán đảnh về ba bổn tôn này
từ các giáo lý của đại terton Laykyi Dorje.
Những cách nhìn quen thuộc của tôi về các sự việc được nhẹ nhàng quét sạch
và tôi được đưa dẫn trực tiếp vào bản tánh tinh túy vô điều kiện của giác
tánh nội tại, không chút lầm lạc. Tôi đốn nhập vào giác tánh nội tại trong
toàn bộ sự trần trụi của nó, rồi thì những ngôn từ kim cương bí mật tuôn
ra không ngưng nghỉ.
Thiên nữ tôn kính, Đức Tara Trắng cao quý, ban cho tôi một linh kiến và
nhiều kinh nghiệm thiền định của sự hợp nhất không thể nghĩ bàn của đại
lạc và tánh Không đã ló rạng trong dòng tâm thức tôi.
Đó là năm đầu tiên của chu kỳ sáu mươi năm cũ, năm Mộc Tý.
Trong tuần trăng khuyết tháng tám, vào ngày hai mươi ba âm lịch xảy ra một
sự kiện quan trọng kỷ niệm sự tụ hội của các dakini, một thời gian tốt
lành cho sự truyền bá được cách-tân giáo lý quý báu của con đường mật chú.
Vào ngày này, chúng tôi lại thăm Chhogtrul Rinpoche. Cô gái này nằng nặc
hỏi Ngài về những giấc mơ và kinh nghiệm thiền định trong đời trước của
cô, cũng như những kinh nghiệm gần đây và mới vừa xảy ra. Ngài có vẻ hân
hoan đến độ đáng kinh ngạc và hết sức hài lòng bởi những tường thuật này.
Tôi nói với Ngài: “Theo một tiên tri mà Đức Tara Trắng nói về cô gái này,
con sẽ trải qua khoảng sáu hay bảy ngày trong một trạng thái kiên cố thiền
định sâu xa, như thể ở trong một sự hôn mê hay một trạng thái giống như
chết”.
Trên thực tế, Chohogtrul Rinpoche và Tromge Trungpa đều bảo tôi: “Tuyệt
đối không cần tới loại đồn đại này. Sau khi trải qua tối đa một ngày trong
nghi lễ chay nyungnay, con cảm thấy đói và khát.
Không tốt hơn sao khi ở trong một lều thiền định tĩnh lặng tự nhiên, không
suy nghĩ nhiều, nghỉ ngơi thoải mái trong những điểm trọng yếu của các
giai đoạn phát triển và thành tựu
và hoàn tất một ít sự trì trụng thần chú?”
“Nhưng”, tôi trả lời “an trụ bảy ngày trong một tình trạng như thế là một
điều lợi lạc và rất cần thiết cho việc chữa trị bệnh tật của con”. Tôi cứ
quấy rầy các ngài mãi khi hỏi:
“Con có nên ở trong phòng khóa cửa, không dùng chút thực phẩm và nước uống
nào không?”
Tromge Kundun Rinpoche nói: “Hoàn toàn không nên làm gì cả! nếu muốn bớt
bệnh, con nên cử hành những nghi thức và lễ trường thọ rộng lớn và hãy
nhận những lễ quán đảnh Vajrakilaya cùng nghi lễ tắm gội của bổn tôn
Bhurkakuta.
Con cũng nên chuộc mạng những con vật sắp bị làm thịt. Nếu con ước muốn
hoàn thiện hạnh phúc của chúng sinh, hãy thực hành một nghi thức chẳng hạn
như nghi thức dẫn dắt chúng sinh ở sáu cõi
được tìm thấy trong giáo khóa Sự Giải thoát Tự nhiên của Ý hướng Giác
ngộ của các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ
cùng khẩn cầu nguyên lý của lòng bi mẫn siêu việt bằng cách trì tụng thần
chú mani
cùng với những lời cầu nguyện hồi hướng và ước nguyện”.
Trước phương cách này và nhiều cách khác mà Ngài buộc tôi phải làm, và mặc
dù rất tốt khi tuân theo lời khuyên của Ngài, tôi lặp lại rằng theo ý kiến
của tôi thì không có gì để làm ngoài những gì tôi đã mô tả, và tôi quyết
định thực hiện phù hợp, không thể trì hoãn thêm nữa.
Vào ngày hai mươi lăm âm lịch, tôi báo cho mọi người xung quanh về tình
trạng của tôi. Vào buổi tối, thời điểm của năng lực,
khi các dakini tụ hội, bảy lạt ma và tulku khá đặc biệt (lạt ma toàn trí
Tromge Kundun Ringpoche là vị lỗi lạc nhất trong số họ) được nhiều đệ tử
và các thị giả tháp tùng. Cô gái này cũng nhập vào đám đông. Khi tôi ở đó,
tâm tôi trở nên minh mẫn hơn bao giờ hết và những kinh nghiệm thiền định
và các trạng thái chứng ngộ hết sức đặc biệt xuất hiện trong dòng tâm thức
của tôi. Trong tầm nghe của Tromge Kundun Rinpoche tôi tụng đọc những bản
văn nghi lễ theo thứ tự thích hợp của chúng mà tôi chưa bao giờ học,
Những Mệnh lệnh của Bà Mẹ Phối ngẫu, cũng như sự dâng cúng tiệc và
nghi thức thực hiện.
Tâm tôi cực kỳ hỉ lạc và tôi cảm thấy chưa bao giờ hạnh phúc như đêm ấy.
Sau khi đám đông giải tán, tôi ở lại một lúc trong sự hiện diện của đạo sư
quý báu của tôi. Sử dụng nhiều phương tiện cả nhẹ nhàng đến phẫn nộ,
Rinpoche lập đi lập lại: “Con gái ta, ta xin con đừng tiến hành kế hoạch
này”. Tuy nhiên, yêu cầu đó không ích lợi gì và vì thế sau cùng Ngài nói”
“Bởi con đã quyết định làm thế, hãy giữ những lời này trong tâm và đừng
quên chúng. Từ nay trở về sau, đừng ô nhiễm nẻo đường mê muội, bất tịnh và
tăm tối như con đã làm trong quá khứ. Hãy an trụ mà không dùng phương tiện
hay nỗ lực nào trong bản tánh chân thật của tâm con, đúng như nó xuất hiện
và tự nó xuất hiện. Càng nhiều càng tốt trong mức độ có thể, hãy phát
triển lòng tin và cái nhìn thanh tịnh về các đạo sư và bổn tôn được chọn
lựa của con, cũng như lòng từ bi đối với mọi chúng sinh, họ đã từng là
những bậc cha và mẹ của con”
Cùng với lời nói đó, Ngài tỏ vẻ cung kính tôi bằng cách đích thân cho tôi
một đĩa đầy những khẩu phần đặc biệt của tiệc cúng dường. Ngài ngâm tụng:
“Cầu mong con được đặt dưới sự bảo trợ của các đạo sư, Tam Bảo và Đức
Orgyan vĩ đại.
Cho tới khi con thành tựu sự Giác ngộ, cầu mong mọi chướng ngại và nghịch
duyên được làm yên dịu. Cầu mong ý hướng giác ngộ không bị tạo tác của hai
phương diện của Bộ Đề tâm (bodhicitta),
bản tánh nền tảng của thực tại được nảy sinh trong dòng tâm thức của con.
Cầu mong con được thiên nữ tôn kính, Đức Tara cao quý dẫn dắt trên con
đường và nhờ đó hãy thành tựu lợi ích không thể nghĩ bàn cho chúng sinh”.
Khi Ngài nói những lời này, lòng tin của tôi phát triển thật mãnh liệt
khiến tôi có cảm tưởng như thể mình bật khóc. Tôi thực hiện ba lễ lạy và
quay trở về ẩn thất của mình.
Sau đó tôi nói với Tulku Tromge Trungpa: “Con sẽ như thể thực sự chết
trong khoảng năm ngày. Trong thời gian đó không ai trong những nhà sư hay
đệ tử được ra vào phòng con hoặc đi lại nhiều ngoài cửa; họ không nên nói
luôn miệng hay gây những tiếng động kinh suất, quấy rối. Xin dọn dẹp mọi
thực phẩm ở trước mặt con, đừng để lại nhiều hơn bảy hạt lúa mạch.
Để tịnh hóa những khuynh hướng quen thuộc, sự che chướng thai tạng
và những ô nhiểm của thân thể con, xin rửa sạch con bằng nước nghệ đã được
hiến cúng qua thực hành Vijaya.
Vào lúc đó, để cung cấp một điều kiện tốt lạnh đặc biệt, phải có sự hiện
diện của một cô gái tên là Drolma”. (Nhưng cuối cùng mọi việc hóa ra tự
nhiên suông sẻ bởi một người đàn bà đức hạnh có giới nguyện samaya trong
sạch tên là Tsult’hrim Drolma đã trở thành bạn đồng hành của tôi).
Tôi nói tiếp: “Để xác định rõ ràng con thuộc loại bộ Phật nào và để giải
trừ các chướng ngại, xin quấn một miếng vài màu xanh da trời quanh đầu con.
Cho tới khi con trở lại cuộc đời, Kuzhab Rinpoche
sẽ cử hành sự cúng dường bánh cho năm chị ở Lhaman Tsering.
Tromge Trungpa sẽ cử hành một trăm tiệc cúng dường của Nữ Hoàng Cực Lạc
trong giáo khóa Những Mệnh lệnh của Bà Mẹ Phối ngẫu. Để giải trừ
những chướng ngại cho các linh kiến của con, các đệ tử và thị giả nên trì
tụng càng nhiều càng tốt Lời khẩn nguyện Bảy-Dòng, bài cầu nguyện Giải trừ
Chướng ngại trên Con Đường và các thần chú vajra guru (Kim Cương
Đạo sư) và Tara.
Để bảo vệ con, hãy cài chốt cửa phòng con bằng một khóa móc và có người
mặc đồ xanh dương. Và để ngăn chặn và trấn áp thế lực của loài quỷ khát
máu, xin niêm phong miếng vải với sáp ong được đóng dấu bằng dấu triện
ngược đầu.
“Bây giờ cần một bộ quần áo sạch để thay đổi, nó không làm bằng da thú vật
hay da sống.
Nếu con không chết thực mà quay trở lại cõi đời, con sẽ phải súc miệng; vì
thế, con sẽ phải cần tới một cái bình đựng đầy nước mưa sạch hứng từ một
trận mưa thuốc của các nhà thấu thị, nó xảy ra nhờ năng lực của những sự
ban phước và đại nguyện của Đức Phật Dược Sư Bhaishajyaguru.
“Nếu bất kỳ ai hỏi Dawa Drolma đang làm gì khi hành động như này, thì đừng
nói điều gì đặc biệt, tốt hay xấu; chỉ cho biết chắc chắn con không sống
cũng không chết. Trong năm ngày, xin hãy mời anh Palchhen của con, anh ấy
đang sống với gia đình con và những người bà con dưới thung lũng và nói
với anh ấy rằng “Em gái anh đang ở trong một trạng thái không sống cũng
không chết. Hãy đích thân tới thăm cô ấy”. Mặc dù đòi hỏi chút ít nhọc
nhằn nhưng mọi sự con vừa sắp xếp thi hết sức quan trọng, vì thế xin Ngài
tiến hành cho”.
Tulku Tromge Trungpa và các thị giả của Ngài hứa sẽ tôn trọng bức thư
hướng dẫn mà tôi đã đưa và trung thành với lời cam kết của họ, và như thế
tôi nằm xuống giường để nghỉ ngơi.
Cô gái này nói: “Hãy để tâm mi an trụ trong trạng thái tự nhiên nơi đó nó
phát triển một cách nội tại, không bị bất kỳ niệm tưởng lan man nào làm
gián đoạn”. Phù hợp với yêu cầu này, tôi để tâm tôi an trụ. Trong một tâm
trạng khoáng đạt và cực kỳ hỉ lạc, tôi kinh nghiệm một trạng thái hoàn
toàn trong sáng. Đây không phải là trạng thái tiềm ẩn kunzhi, là sự
vắng mặt đơn thuần các niệm tưởng lan man.
Cũng không phải là việc tôi hoàn toàn mê đắm trong những cảm xúc của lạc,
sự trong sáng và sự tỉnh giác vô niệm.
Và tôi không đơn thuần rơi vào một cuộc nô đùa vô tận của sự vô minh. Đúng
hơn, tôi hoàn toàn tỉnh giác về trạng thái nền tảng của tâm tôi trong mọi
tính chất thông thường của nó.
Bởi giác tánh đó không bị ngăn che, tôi như thể nghe được tất cả âm thanh
và tiếng nói trong mọi xứ sở, chứ không chỉ ở vùng lân cận.
Vào sáng ngày hai mươi sáu âm lịch, khi mặt trời nhú lên ở chân trời, tôi
nhìn thấy Đức Tôn kính và cao quý Tara thực sự hiện diện trước mặt tôi
giữa một khối ánh sáng cầu vồng, thân Ngài có sắc trắng như một bình pha
lê. Bà cầm một mũi tên có trang trí những giải ruy băng mà bà dùng để ban
phước cho tôi.
Từ hướng núi Huy Hoàng trên tiều lục địa Chamara, một cầu vồng gồm năm dải
ánh sáng màu song song rọi vào thiền phòng của tôi.
Dọc theo con đường này xuất hiện một toán hộ tống gồm bốn phụ nữ trẻ mặc y
phục bằng lụa và tô điểm các đồ trang sức bằng xương. Vị dakini ở phương
đông, Thiên nữ có Năng lực trên sự Trường thọ, sắc trắng sáng ngời và cầm
một mũi tên trang trí dải ruy băng lụa và một cái bình. Dakini ở phương
nam là Akyang Tara, dakini ở phương tây là Tara Rồng màu Lam Ngọc, và
dakini ở phương bắc là Thiên nữ phương Bắc.
Các ngài đặt tôi trong một ổ rơm có trải lụa sặc sỡ trang trí hoa văn đỏ
và trắng. Ngay lập tức, các dakini ở bốn tầng cấp và tôi cùng nhau hát
tụng Lời Khẩn nguyện Bảy-Dòng và lớn tiếng trì tụng liên tục các thần chú
vajra guru và mani. Tâm tôi trải rộng rộng tới một trạng thái cực kỳ hỉ
lạc, bản tánh cốt tủy của sự hoàn toàn trong sáng trong đó tôi không thể
bám níu vào bất kỳ điều gì dù tốt hay xấu theo nghĩa thông thường, giống
như pháp giới vô sanh không có gì trong nó và của chính nó, nhưng với một
sự chói lọi tự nhiên tuyệt đối không bị ngăn che. Kinh nghiệm thiền định
hài hòa và tự phát này xuất hiện như sự phô diễn không thể nghĩ bàn của
một đám mây mạn đà la, phạm vi hoàn toàn rộng lớn của kinh nghiệm thuần
tịnh.
Sau đó tôi cảm giác leo lên càng lúc càng cao tới một khoảng không gian
khá rõ ràng, còn nhanh hơn một con chim kên kên đuôi trắng hoang dã bay
vút lên không trung. Khi kinh nghiệm bi tráng này mở trải ra như một ảo
ảnh biến dịch, bất ngờ tôi thấy mình ở một nơi mà tôi không nhận ra là ở
đâu. Giữa một cánh đồng rộng lớn, bao la và siêu phàm đến nỗi dường như
bầu trời đổ sập xuống trái đất, một tảng đá có bề mặt lớn đứng sừng sững
có hình dạng như một trái tim. Ở mọi phương và những rặng núi trông như
những vũ khí chĩa lên bầu trời và đỏ như thể có lấm tấm máu. Trên bầu trời
xuất hiện một vòm ánh sáng cầu vồng năm màu. Những chim công trống, chim
hét và chim cu cu vút lên, bay chuyền thật vui thích. Không gian tràn ngập
mùi hương ngọt ngào có năng lực chuyển hóa những tri giác của ta. Khắp mặt
đất phủ đầy các loài hoa gồm năm màu thật đáng yêu – trắng, vàng, đỏ, xanh
lá cây và xanh dương. Tôi kinh nghiệm cảnh giới này như một nơi chốn thực
sự.
Tôi cũng nhìn thất một ngọn núi rất đẹp, xanh thẳm như một viên ngọc bích.
Tâm tôi tràn đầy đức tin và thị kiến thanh tịnh không tưởng tượng nổi. Tôi
lớn tiếng lập đi lập lại những lời cầu nguyện của pháp guru yoga, Lời Khẩn
Nguyện Bảy-Dòng và một lời khẩn cầu mà trước đây chính Đức Tara đã nói với
tôi và tôi thực hiện những sự lễ lạy và cúng dường mạn đà la.
Nơi đây là Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trên tiểu lục địa Chamara. Khoảng nửa
đường lên tới mặt tảng đá, trên một vùng bằng phẳng rộng lớn bao la là lâu
đài Liên Hoa Quang rộng mênh mông đứng sừng sững.
Cung điện, một hóa thân của giác tánh của Đức Padmasambhava, dc làm bằng
năm loại châu báu, một mạn đà la thành tựu tự-sinh và tự nhiên. Từ ngoài
vào, bên trong sáng sủa rực rỡ và từ trong nhìn ra, ta có thể thấy rất
tường tận. Được kết bằng những cầu vồng, lâu đài có bốn mặt, bốn cổng và
các sân, trong đó có hơn một ngàn cung điện khác. Trong những cung điện
này là tập hội các vidyadhara
cũng như những daka và dakini.
Cô gái này tới cổng phía đông. Ở đó tôi gặp bốn người đàn bà, họ mặc cho
tôi một áo choàng lụa sặc sỡ, chiếu sáng như một cầu vồng. Rồi họ ra đi,
nhưng tôi không rõ họ đi đâu.
Người đàn bà gác cổng phía đông thách thức tôi: “Cô là ai?”
Tôi trả lời: “Tôi là Dawa Drolma, một con gái của bộ tộc Tromge trong thế
giới con người”.
“Vì sao cô tới cõi này?”
Tôi trả lời khiêm tốn: “Nhằm mục đích bảo đảm hạnh phúc của chúng sinh,
tôi xin được hội kiến Đức Orgyan Tsokey Dorje
và nhiều vidyadhava, daka và dakini trên Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trong
tiểu lục địa Chamar”.
Vị dakini trả lời:
Cầu mong cô được Đức Vajravarahi ban phước.
Cầu mong các nghịch cảnh và chướng ngại cho sự trường thọ của cô được giải
trừ.
Cầu mong cô đạt được quán đảnh kim cương bất diệt.
Và cầu mong cô bảo đảm được hạnh phúc của vô lượng chúng sinh.
Sau đó tôi nhìn thấy cảnh tượng phi thường của cổng phía đông kỳ diệu, một
cửa làm bằng pha lê. Trên đó, trong hình chạm khắc lờ mờ là hình ảnh của
một tathagata
và những chữ đi kèm đem lại sự giải thoát nhờ cái thấy. Bên trái và phải
cửa là những báu vật có hình những con rồng màu lam ngọc uốn mình hình
xoắn ốc theo chiều kim đồng hồ và ngậm nhiều viên ngọc.
Thình lình vị dakini mở cửa bằng một chìa khóa pha lê thạch anh trắng, có
bề dài khoảng một bàn tay và đánh dấu bằng những chữ tượng trưng tự-tạo
hình, kỳ diệu và huyền bí. Tôi đi bộ vào trong và tìm thấy một cầu thang
dài làm bằng châu báu. Tôi trèo lên và trong một căn phòng rộng mênh mông,
tôi tìm thấy ngài Jampa Migyur ngồi trên một cái ngai nhỏ.
Ngài mặc một áo choàng không tay bằng lụa trắng và tô điểm với nhiều vật
trang sức quý báu, tóc Ngài kết lại thành một cái búi. Tay trái Ngài đang
lần một mala bằng pha lê trắng, mỗi một trong 108 hột có kích thước
khoảng ngón tay cái của ta.
Quanh Ngài là đoàn tùy tùng gồm vài trăm dakin ni mặc áo choàng lụa trắng,
đang cử hành một buổi tiệc vui vẻ. Các thiên nữ kim cương thuộc sự hoạt
động mặc áo choàng xanh dương cúng dường những phần đặc biệt của bữa tiệc
trong bốn phương chính trên bầu trời.
Từ hàng sau của tập hội, cô gái này thực hiện ba lễ lạy và cầu nguyện với
những ước nguyện cao quý khi xuất hiện trong tâm. Đến gần vị lạt ma, tôi
dâng lời sám hối, tự tịnh hóa bằng cách tụng thần chú một trăm âm
và cử hành mạn đà la vũ trụ ba mươi bảy điểm.
Một dakini ở bên phải vị lạt ma là điều tra kỹ lưỡng quá khứ của tôi. Để
trả lời bà, tôi nói năng thẳng thắn nhưng khiêm tốn. Vị lạt ma có vẻ hết
sức hài lòng. Tôi tham dự vào buổi lễ tiệc.
Rồi tôi được một bà mặc y phục xanh dương đưa ra ngoài và dẫn tới lâu đài
rộng mênh mông khác. Một người có mặt ở đây đang tắm cho một dakini của mộ
bộ tộc thuộc thảo nguyên thấp ở miền đông Tây Tạng.
Tôi cũng nhận một nghi lễ tắm rửa. Ngự trên một chiếc ngai cao ngất ở giữa
chúng tôi, trên một tấm nệm cao bằng lụa đỏ trông thật đặc biệt là ngọn
đèn soi sáng các sutra và tantra,
vương miện của mười triệu vidyadhara, đạo sư vô song, bậc thông thái và
thành tựu, bậc toàn trí Jamyang Khyentsei Wangpo.
Thân tướng chói ngời của Ngài trông thật lôi cuối và trẻ trung; dường như
khoảng mười sáu tuổi. Ngài mặc ba chiếc y nghi lễ và đầu đội chiến nón
tượng trưng cho ba sự tích tập kinh điển.
Tay Ngài cầm chày kim cương và chuông.
Ngài được vây quanh bởi một đoàn tùy tùng hơn một trăm daka và yogini.
Như trước đó, tôi đảnh lễ, cúng dường và cử hành lễ dâng cúng mạn đà la vũ
trụ. Tôi dâng lên Ngài một đoạn khăn lụa trắng
toàn mỹ để xin được diện kiến và thực hiện những sự khẩn cầu ước nguyện
khi tôi có thể. Vị lạt ma dường như có một tánh khí rất khó khăn và cứng
cỏi; Ngài không nói một tiếng nào và cố ý tránh nhìn tôi.
Tôi ra đi và tới lâu đài rộng mênh mông khác. Người gác cửa là một cô gái
không thể quá mười lăm tuổi. Mặc dù tôi không nhận ra cô, cô ta tỏ ra rất
vui thích đối với tôi như cha mẹ bộc lộ khi gặp con cái họ. Bên trong lâu
đài, ngồi trên một cái ghế thấp chất đầy những đệm lót bằng lụa xanh là
một người đàn bà tên là Yul-lha, một dakini vùng Derge, là một hóa thân
của bổn tôn Vajravarahi.
Tóc bà được búi lên bằng sáu dải ruy băng màu xanh da trời, bà cầm một bản
văn giáo huấn tâm linh nhỏ. Bà đang tụng những vần kệ gốc của Trạng
thái Trung ấm sau Cái Chết.
Có khoảng mười sáu dakini trong đoàn tùy tùng của bà. Tôi đảnh lễ và cúng
dường hương trầm được pha chế từ gỗ đàn hương trắng Ấn Độ. Tôi được ban
thức ăn khô với các gia vị làm từ năm thứ cam lồ.
Sau cùng tôi nói về các sự kiện trong cõi người. Bà tiếp tục: “Con sẽ tìm
thấy bốn cầu thang trong một sảnh đường, ở giữa vùng này. Đừng dùng cầu
thang màu đen, bởi ở đó ẩn dấu nguy hiểm do rắn độc và những quỷ ma khát
máu. Thay vào đó, hãy lên cầu thang màu xanh lá cây”.
Với sự chỉ dạy ấy tôi tiếp tục cuộc hành trình. Trong lâu đài rộng mệnh
mông khác, tôi đi ngang qua một người đàn bà có vẻ rất già, tóc ngả màu
xám hơi vàng, có khoảng hai trăm dakini vây quanh. Các dakini đang đọc các
bản văn từ giáo khóa của ngài Karma Lingpa trên mạn đà la các bổn tôn hòa
bình và phẫn nộ và Tantra Sám hối Bất Nhiễm.
Người đàn bà chính cầm giữ hơi thở trong thực tập thở-cái bình.
Khi bà thở hết ra, bà trục xuất nhiều sinh vật sống trong nước như rắn
nước, ếch và cá; từ thây chúng nổi lên những cầu vồng trắng, vàng, đỏ và
xanh lá cây, trong khi tâm thức chúng được kéo lên các cõi thuần tịnh,
Thực ra vị dakini này tên là Wangmo. Sau khi đảnh lễ và cúng dường, tôi
tới gần bà. Bà đặt một chuỗi xương sọ lên đầu tôi và cười thật dễ thương,
trong một lát bà hỏi tôi là ai.
Trong lâu đài mênh mông khác, bất chợt tôi gặp một thiên nữ áo trắng, một
dakini có năng lực an bình, ngồi trên một tấm nệm phủ lụa và mặc áo choàng
thêu kim tuyến linh thánh, có đoàn tùy tùng gồm bảy dakini vây quanh. Tôi
đảnh lễ và cúng dường bà. Các dakini đang hát thật ngọt ngào một bài cầu
nguyện sùng mộ để khẩn cầu năng lực của Đức Avalokiteshvara và một bài
nguyện ước hợp nhất với thần chú mani sáu âm. Nhưng ở đây tôi sợ trở thành
quá dài dòng và sẽ không viết dài hơn nữa.
Đức Yeshe Tsogyal xuất hiện trong một tòa lâu đài rộng mênh mông rất đẹp
có cửa nhìn về hướng đông. Bà phục sức đẹp đẽ với những áo choàng lụa và
trang điểm nhiều vật trang sức bằng châu báu và bằng xương, mái tóc Bà
đen, dày và rực rỡ. Sắc thân mỹ lệ không tả xiết của Bà đem lại niềm hỉ
lạc cho người chiêm ngưỡng. Bà được một đoàn tùy tùng gồm một ngàn dakini
vây quanh. Họ đang làm lễ tiệc cúng dường cội gốc đạo sư (guru), Sự Hội
tập các Đạo sư Trì giữ-Giác Tánh; cội gốc bổn tôn, Sự Hội tập các
Đấn Vĩ đại và Vinh quang; và cội gốc dakini, Nữ Hoàng Cực Lạc.
Tôi nhập vào những người tham dự tiệc cúng dường, đảnh lễ và cúng
dường Đức Yeshe Tsogyal, điều ấy làm Bà hài lòng. Tôi khiêm tốn kể cho Bà
về tiểu sử của mình thật rõ ràng và chi tiết.
“Hãy tiếp tục đi lên” Bà nói “và ta sẽ cho người dẫn co tới gặp chú của
con.
Sẽ khó mà vượt mà vượt qua, bởi con sẽ gặp một người gác cổng rất nghiêm
khắc”.
Tôi đi tới một nơi khủng khiếp, quả là cảnh tượng làm tôi rùng mình khiếp
sợ. Những mái vòm làm làm bằng da người được treo bằng những sợi thừng là
những con rắn. Những đầu lâu khô, những đầu người còn mới và những đầu héo
khô còn dính tóc treo khắp nơi. Những màn cửa và rèm tường làm bằng da
trăn màu đen.
Giữa tất cả những thứ đó, ngồi trênmột cái ngai màu đen tuyền là một yogi
tên là Pawo Namkha Odsal mặc y phục đen pha lẫn đỏ tía. Tóc Ngài kết lại
thành búi quanh một chày kim cương, trên đỉnh của nó là một miếng ngọc lam
nhỏ. Tai Ngài đeo những chiếc vòng bằng vỏ ốc xà cừ. Ngài mặc một áo
choàng trắng và cầm một trống tay lớn và chiếc kèn làm bằng xương đùi
người. Trông Ngài thật lôi cuốn khó cưỡng nổi. Một đoàn tùy tùng vây quanh
Ngài gồm sáu nhân vật mặc áo choàng không tay màu đen. Họ cực kỳ hung nộ,
với mái tóc đen xõa xuống và những biểu lộ nham hiểm, giận dữ. Tôi đảnh lễ
và cúng dường các ngài, cũng như dâng những lời ước nguyện.
Tiếp theo, tôi gặp một người gác cửa, một người đàn bà da trắng mặc quần
áo lụa và những vật trang sức bằng xương. Tên bà là Nordzin Dronma và bà
có mối liên hệ với tôi trong nhiều đời.
Giữa một lâu đài màu cam rộng mênh mông có bản chất ánh sáng, ngự trên một
cái ngai rất cao bằng pha lê đỏ và những tấm đệm bằng lụa nhiều màu là vị
phối ngẫu linh thánh Mandarava,
có sắc đỏ sậm. Trong tay phải, bà cầm một mũi tên cột những dải ruy băng
và tay trái cầm một bình trường thọ. Bà mặc một hạ y lụa ngắn, xếp li và
đeo những vật trang sức quý báu. Được vây quanh bởi một đoàn tùy tùng gồm
một trăm dakini giác tánh nguyên sơ, bà hát một bài ca du dương về âm nhạc
kim cương bất hoại. Tôi đảnh lễ và cúng dường như đã làm trước đây và được
Đức Tara thúc giục, tôi tụng một bài sùng mộ với bà. Một cảm thức của đức
tin phát khởi không thể tưởng tượng nổi trong tôi.
Tôi đứng lên khi hội kiến và tới gần bà. Vị phối ngẫu linh thánh đặt bàn
tay phải có cầm mũi tên cột dải ruy băng lên đầu tôi và hát:
Hung Ở biên giới tây bắc xứ Orgyan, …
Con khẩn cầu Ngài tới ban cho những ân phước.
Khi đã ban phước cho con nơi chốn tuyệt hảo này,
xin ban bốn quán đảnh cho hành giả ưu tú này.
Xin giải trừ những chướng ngại bởi cái chết không đúng lúc.
Xin ban cho thành tựu của sự bất tử.
Đi xa hơn nữa, tôi chợt thấy một lâu đài rất đẹp, duyên dáng. Mười hai
người đàn bà gác cữa đông, mười hai người gác cửa nam, mười hai người gác
cửa tây, mười hai người gác cửa bắc. Ở phía đông, cửa và những người gác
cửa toàn bằng pha lê, mặt phía nam bằng vàng, phía tây bằng hồng ngọc và
mặt phía bắc bằng lam ngọc.
Ở hướng đông là mười hai thiên nữ có mục đích dẫn dắt chúng sinh, ở phương
nam là mười hai thiên nữ có nhiệm vụ chỉ ra con đường đi tới giải thoát. Ở
phương tây tôi nhìn thấy mười hai thiên nữ thuộc yếu tố lửa chói sáng và
phương bắc mười hai thiên nữ là những bậc chiến thắng những mara.
Tất cả các ngài mặc áo choàng theo màu phù hợp với các hướng tương ứng.
Ổ khóa trên cổng ngoài có chiều dài khoảng cánh tay
và bằng vàng. Một trong những dakini mở cổng và cho tôi vào. Rồi cửa bắc
mở ra và tôi đi vào tòa nhà. Trong tòa lâu đài có 180 cây cột chống, 180
dakini mặc y phục bằng lụa và đeo những đồ trang sức bằng xương, nhảy múa
ca hát với nhạc đệm một bài hát tên là “Sự Giải thoát Tự nhiên khỏi những
Cõi Thấp”:
Hri Trạng thái không chỉnh sửa thoát khỏi sự tạo tác ý niệm là đạo
sư Pháp Thân.
Cực Lạc là đạo sư Báo Thân, chúa tể của Pháp.
Sinh ra từ một hoa sen là đạo sư của Hóa thân.
Chúng con đảnh lễ và tán thán bậc Kim Cương trì của ba thân.
Thân giác ngộ của Ngài thì bất biến, là thân tướng của Đức Samantabhadra
(Phổ Hiền)
Ngữ giác ngộ của Ngài thì không lây động và siêu vượt ngôn ngữ, sự tưởng
tượng, cùng sự biểu lộ.
Chúng con tán thán Ngài. Ôi vua Hoa Sen, bậc được phú bẩm thân, ngữ và tam
giác ngộ.
Đại học giả của xứ Ấn Độ cao quý, xin thương xót xứ sở Tây Tạng.
Đức Kim Cương Sanh - trong - Hồ thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử.
Chuyển hóa đám quỷ ma hiểm độc khát máu hướng về Pháp.
Chúng con tán thán Ngài, Ôi Đức Padma T’hod T’hreng Tzal.
Om ah hung vajra guru padma siddhi hung.
Maha guru padma t’hod t’hreng tzal la namo hung.
Khi họ hát, tôi kinh nghiệm vô lượng đức tin và sự hỉ lạc.
Ở một nơi khác, thình lình tôi nhìn thấy một người đàn bà có nước da trắng
mặc một cái khăn choàng và hạ y thêu kim tuyến trắng và cầm một sợi chuỗi
bằng pha lê đỏ. Bà chính là ni cô Kunga Monlam mà cũng được biết là dakini
Laykyi Wangmochhe.
Bà biểu lộ niềm vui chân thành đối với tôi. Vén một tấm rèm có đính những
hình trang trí bằng lụa, bà dẫn tôi tới giữa cung điện. Ở đó tôi thấy đoàn
tùy tùng của bà gồm bảy dakini, họ đặt một chiếc nệm trắng để tôi ngồi.
Chính Laykyi Wangmochhe đặt một mũi tên trường thọ lên đỉnh đầu tôi và
ngâm:
Om Sự trường thọ nguyên sơ không lầm lỗi.
Ta triệu mời điều này trong sự vinh quang cao cả nhất của sự nối kết mặt
trời và mặt trăng.
Sự trường thọ của đại lạc không biến đổi,
Ta triệu thỉnh điều này trong sự vinh quang của cốt tủy vi tế của thân ánh
sáng.
Sự trường thọ lâu dài không có sự đến và đi bình phàm.
Ta triệu thỉnh điều này giữa Pháp giới bao la bất hoại, vĩnh cửu và kiên
cố.
Sự trường thọ là cái bị đánh cắp, cướp đoạt, gãy bể, hoặc suy sụp bởi niệm
tưởng lan man,
Ta triệu thỉnh điều này trong bản tánh nền tảng vô điều kiện của giác tánh
nguyên sơ vô niệm
Sự trường thọ đặt nền trên sự vô minh về các sự xuất hiện của samsara,
nirvana và con đường tâm linh.
Ta triệu thỉnh điều này trong trạng thái tự nhiên của các sự việc bởi
chúng thì phi - thời gian và nguyên sơ.
Nếu không có sự ngừng dứt, thì không có gì già đi,
và vì thế ta cũng triệu thỉnh sự trường thọ, nó không có ngừng dứt và già
đi.
Nếu không có sanh, thì không có chết đi,
và vì thế ta cũng triệu thỉnh sự trường thọ là cái không sanh và không
diệt.
Ah ah ah.
Bà tiếp tục: “Thật là may mắn bởi con đã tới cõi thuần tịnh này từ thế
giới bình phàm của con người. Con làm ta xúc động biết bao” và bà khóc.
Rồi bà gọi một cô gái tên là Apal đi cùng với tôi và tôi được dẫn ra
ngoài.
Đức tôn quý Tara Trắng nói với tôi: “Dawa Drolma, con gái ta, chính ta là
người đã sắp xếp cho con rời cõi người bình phàm và là người dẫn dắt con
tới cõi thuần tịnh này. Nhưng bây giờ chưa tới lúc để con và ta ở lại núi
Huy Hoàng này.
“Có một cõi thuần tịnh cao hơn cõi này, được phú cho năm điều chắc chắn,
nó là phạm vi chứng nghiệm của những bậc an trụ trong địa thứ mười của sự
chứng ngộ. Ở đó Báo thân của Đấng Bi Mẫn Siêu việt
được vây quanh bởi một đoàn tùy tùng gồm vô số các Bồ Tát nam và nữ, đang
giảng dạy Tantra Chúa công của sự Nhảy múa Hoa Sen Binh mẫn Siêu
phàm.
“Trên đó là cõi thuần tịnh Pháp Thân, thoát khỏi sự tạo tác ý niệm. Ở đó
Đức Guru Padma an trụ, không gì khác hơn là sự xuất hiện tự-hiển lộ tự
nhiên của Đấng bảo trợ nguyên sơ,
ban những giáo lý tâm linh cho một tập hội trong đó ý hướng giác ngộ của
vị thầy và của quyến thuộc thì không thể phân ly, trình bày những giáo
huấn truyền dạy trực tiếp vượt lên những biểu tượng, ngôn ngữ và niệm
tưởng bình phàm – tantra Đại Viên Mãn của sự bí mật tối hậu, có tên là
Giác Tánh Nội tại Tự-sinh.
“Thời đại ngày nay thiếu một sự may mắn cần thiết để tiếp xúc trực tiếp
với những cấp độ này. Vì thế hãy liên tục biểu lộ ước nguyện thực hiện
điều này vào một lúc nào đó. Đừng đề cập tới việc con đã đi tới cõi thuần
tịnh này”.
Cơ sự đã như thế này, tôi đau khổ đến nỗi tim tôi tưởng chừng tan vỡ, buồn
tủi đến độ tôi tưởng như mình có thể mất trí, hoàn toàn lạc hướng khiến
tôi không thể nhớ lại bất kỳ điều gì đã từng suy nghĩ vào thời gian đó;
tri giác của tôi bị mê lầm và lạc lối. Nước mắt tuôn rơi như thể mắt tôi
rơi ra ngoài. Tôi tự nghĩ: “Mặc dù giờ đây tôi có thể hội kiến Đức
Padmasambhava, tôi không vật cúng dường chính thức nào để dâng lên Ngài,
không có vàng bạc, không lễ cúng dường mạn đà la, ngay cả một khăn quàng
lụa cũng chẳng có”.
Ngay lập tức, Đức Tara ban cho tôi một dải ruy băng tinh khiết bằng lụa
trắng rất dài lấy từ mũi tên có trang trí ruy băng của Ngài. Bởi quá nhiều
hồ nghi, tôi nghĩ rằng hành động này sẽ làm mũi tên giảm giá trị, nhưng
Đức Tara nói: “Nó không bao giờ bị suy giảm, vì thế đừng quá keo kiệt”.
Ngài nói thêm: “Đây không phải là chỗ để bắt đầu kêu khóc. Hãy đi tới Đức
Guru và thỉnh cầu Ngài bất kỳ điều gì con ước muốn. Bất luận Ngài ban cho
con điều gì, dù là vàng, bạc hay ngọc quý, đừng mang chúng đi với con.
Thay vào đó hãy cầu xin Ngài ban cho con một khăn quàng lụa màu xanh dương
có điểm những hình ảnh của năm Hóa Thân.
Cũng hãy cầu xin để những mối liên hệ nghiệp của con với Ngài từ những đời
trước được thức giấc, những hành động làm lợi lạc chúng sinh của con sẽ
không có định kiến hay phân biệt, cầu xin cho con có năng lực để trực nhận
ra chúng sinh trong cõi thấp và để đem lại hứng khởi cho họ trong việc
trau dồi đức hạnh và cầu xin bất kỳ ước nguyện nào của con cũng được thành
tựu”.
Rồi tôi nhìn thấy cung điện khác, làm bằng pha lê đỏ với hai cánh cung
điển dính liền, giống như những tay áo màu san hô trên bộ quần áo. Không
cần chìa khóa để vào cung điện; thay vào đó là một chữ biểu tượng màu đỏ
trên cử. Một người đàn bà đứng nơi cửa, bà có mái tóc trắng và nước da
trắng như một vỏ ốc xà cừ. Bà có hàm răng đầy và được gọi là Thiên nữ có
Năng lực đối với Trường thọ. Bà ban cho tôi một nghi thức để thỉnh cầu
trường thọ và cho tôi một miếng pha lê có sáu mặt. Tuy nhiên, tôi có cảm
tưởng rõ ràng là tôi không nên nhận miếng pha lê, và vì thế tôi đặt nó
trên đỉnh một đĩa mạn đà la chất đầy gạo được sắp đặt theo kiểu mẫu làm ta
nhớ lại những chủ đề Ấn Độ.
Đi xa nữa, tôi chợt thấy một lâu đài rộng lớn mênh mông và cao sừng sững
đến nỗi kích thước của nó vượt quá tiêu chuẩn xác đáng. Đỉnh mai có trang
trí những viên ngọc. Ở bên trong, tôi nhìn thấy hàng trăm chiếc dù bằng
lông công, những cờ chiến thắng bóng mượt, những tấm rèm treo tường bằng
sa tanh, những màn trướng thêu kim tuyến, những cái móc và dây bằng ngọc
trai, những dãy vật cúng dường không thể tưởng tượng nổi và những của cải
của một buổi tiệc cúng dường vĩ đại chất cao như núi, đổ sụp xuống giống
như những con đê vỡ nát và cuộn tròn như một đại dương cam lồ.
Trong mạn đà la này, nó giống như những đám mây không gì sánh được gồm
những vật cúng dường của Đức Phổ Hiền,
là một của cải gồm những chất thể samaya linh thánh vượt xa của cải của
những vị trời vĩ đại ở cõi trời Nirmanarati.
Những tia sáng phóng ra muôn phương không bờ mé từ một cái ngai khổng lồ
mà kích thước khó có thể đo lường, cao hơn cả một tòa nhà ba tầng. Mặt
ngai có ba tấm nệm chồng lên nhau bọc lụa đủ màu, trang trí những hoa sen
ngàn cánh.
Ngự trên ngai là tinh túy, suối nguồn của sự quy y và sự hợp nhất của tất
cả các Đấng Chiến Thắng, vị thống lãnh tràn đầy năng lực của tâm giác ngộ
của tất cả các Đấng Chiến Thắng, sự hợp nhất trong một thân tướng duy nhất
của ba phẩm tính – trí tuệ, lòng bi mẫn và năng lực – của tất cả các Đấng
Chiến Thắng khắp mười phương, bổn tôn được chọn lựa duy nhất của Xứ Tuyết,
vương uốc Tây Tạng: Đức Guru xứ Orgyan, Padma T’hod T’hreng Tzal, chính là
Đức Kim Cương Sanh-trong-Hồ bất tử.
Thân Ngài sắc trắng hơi pha đỏ. Ngài cầm một chày kim cương trong tay
phải, tay trái cầm một bình trường thọ trong một chén sọ người đựng đầy
chất cam lồ. Trong chỗ gập của khuỷu tay trái, Ngài mang chĩa ba bí mật
kim cương.
Hai chân Ngài chéo nhau lơi lỏng trong tư thế du hí vương giả. Ngài mặc
một áo choàng ngắn tay bằng lụa màu hạt dẻ như sa tanh, một hạ y bằng lụa
đỏ, một đại y màu đỏ trang trí bằng chỉ vàng và một quần áo bên trong bằng
lụa trắng của các vị trời. Trên đầu Ngài là vương miện hoa sen đem lại sự
giải thoát nhờ cái thấy.
Khi cô gái này trông thấy mạn đà la hài hòa viên mãn của khuôn mặt Đức
Orgyan vĩ đại, tôi mê mải ngắm nhìn Ngài. Mọi tri giác lờ mờ thường tục
của tôi tự nhiên ngừng dứt và tôi kinh nghiệm một trạng thái không thể
nghĩ bàn, không thể diễn tả được, giống như một người câm đang nếm đường
mía.
Tôi an trụ một lát trong tâm thái này, vừa vui lại vừa buồn.
Ở bốn phương chính quanh Đức Orgyan vĩ đại là bốn dakini giác tánh nguyên
sơ ban-hỉ lạc, mặc áo choàng lụa nhiều màu, thân huyễn mộng của họ giống
như những khối ánh sáng. Họ vung vẩy những mũi tên trường thọ và những
bình trường thọ trong bốn phương khi hát bài ca tán thán.
Ở bên kia chiếc ngai, trên một ngai khác là bậc đạo sư tôn kính của lòng
bi mẫn, bậc Kim Cương Trì ba nhánh vĩ đại,
bậc dẫn dắt siêu phàm Dechhen Dorje (cũng được biết là Drimed Khakyod
Wangpo). Ngài là hiện thể đầy năng lực gần đây nhất của một loạt những hóa
thân linh thánh trải qua nhiều đời, gồm cả Srongtzan Gampo (thân tướng mà
Đức Avalokiteshvara đã hóa hiện làm một vị vua tâm linh để che chở miền
bắc Tây Tạng, Xứ Tuyết), cũng như Nub Namnying và Dagpo Daod.
Thân tướng của Dechhen Dorje thì còn gây xúc động hơn trước đây,
rực rỡ với “cờ chiến thắng” là những chiếc y nhà sư màu nghệ. Ngài đội
chiếc nón của học giả, nhọn đầu với những miếng vải che tai dài, cầm một
cái trống tay và một cái chuông. Trong bốn hướng chính quanh Ngài, tôi
thấy bốn dakini màu trắng cầm những mũi tên có đính những dải ruy băng lụa
xanh dương. Trước mặt Ngài là một dakini màu xanh dương sậm có vẻ biểu
hiện phẫn nộ, đeo một khăn choàng lụa nhiều màu và cầm một mũi tên có dải
ruy băng lụa màu xanh dương.
Trên một chiếc ngai, bên trái ngai là bậc siêu vượt mọi hoạt động, đạo sư
chứng ngộ Jigmed Pawo (cũng được biết là Dza Konchhog) là một tái sanh của
Lhatsun Namkha Jigmed
và là trưởng tử tâm huyết của Dzaga Chhogtrul Ringpoche.
Ngài có nước da hơi xanh sậm, mặc một áo choàng lụa buông dài, đội một
chiếc nón học giả, trong tay một cái bình. Ngài là một vị vua trong số
những bậc lão luyện thành tựu, là bậc trong đời đã đạt tới sự chứng ngộ
tột bực của bốn cái thấy về con đường bí mật hợp nhất sự thuần tịnh nguyên
thủy và sự hiện diện tự nhiên,
và là bậc tâm đã ngập chìm trong trạng thái nơi những hiện tượng thường
tục biến mất trong chân tánh của thực tại. Trong bốn phương chính quanh
Ngài là bốn dakini đỏ mặc áo choàng đỏ và trước mặt Ngài là dakini khác.
Tôi cũng nhìn thấy một tập hội khoảng mười ngàn daka, những bậc trì giữ
giác tánh nội tại, đội nón lông công. Không gian quanh họ tràn đầy hằng hà
sa số hàng tỉ thiên nữ đang cúng dường từ nước uống, nước tắm cho tới hoa
và thực phẩm. Vài vị trong số đó cầm chày kim cương và chuông, một số cầm
trống tay nhỏ, một số cầm xập xõa, một số cầm chiêng, một số cầm các vỏ ốc
xà cừ và một số (ở bốn hướng chính) cầm các kèn trắng, vàng, đỏ và xanh lá
cây. Những chiếc kèn ở phương tây được làm bằng san hô và được hai dakini
mặc áo choàng cam thổi; tôi được kể lại rằng họ đã thực hiện chứng năng
đặc biệt là kéo chúng sinh tới con đường Kim Cương thừa. Những chiếc kèn
trum pét xương đùi hoàn toàn được làm bằng xương đùi của con người, chứ
không bằng đồng đỏ hay đồng thau.
Khoảng một trăm tù và bằng cây sậy cũng vang lên. Có khoảng một trăm người
giữ lăng mộ trong những áo choàng vàng, vai trái của họ quấn một miếng lụa
đủ màu truyền thống.
Tôi hỏi một trong những dakini: “Tập hội nghi lễ được thực hành cái gì ở
đây?”
Bà trả lời: “Chúng tôi đang cử hành nghi thức và lễ cúng dường Tám Mệnh
lệnh, sự Tập Hội của các Đấng đã Đạt tới Đại Lạc, nó là tinh yếu của
giáo lý trong thời kỳ ban đầu của trường phái dịch thuật”
Lúc này, nhiều thành viên của tập hội đứng lên. Cảm thấy bối rối và sợ
hãi, tôi cũng đứng lên và lễ lạy liên tục. Tiến lại gần, tôi đặt bàn chân
Đức Guru toàn trí vĩ đại lên đỉnh đầu. Tôi cúng dường Ngài một mạn đà la
có hình dạng kim loại và đá quý và một khúc lụa trắng trinh nguyên. Sau đó
Đức Orgyen vĩ đại đặt bàn tay lên đầu tôi, đọc Lời Khẩn nguyện Bảy-Dòng.
Chú tôi, Khakyod Wangpo bắt đầu: “Với năng lực đối với sự trường thọ, cuộc
đời con sẽ vô hạn…” và, trong khi vung vẩy một mũi tên trường thọ ông tụng
một nghi lễ triệu thỉnh những năng lực trường thọ.
Về phần mình, Dza Konchhog hát:
Tri giác của giác tánh nguyên sơ thì trong trẻo sống động.
Ngọn đèn cho sinh linh là ngọn đuốc của giác tánh nguyên sơ.
Lộng lẫy và tráng lệ tột bậc, chói ngời rực rỡ.
là bậc đạo sư trì giữ thần chú, vị vua của các thần chú của giác tánh.
A P’hat A P’hat A P’hat.
Tôi vẫn quỳ trên nệm bằng lụa trắng, kêu
khóc không thôi. Những giọt nước mắt rơi xuống tụ lại giống như nước trên
nền pha lê. Sau cùng, bởi tràn ngập đau buồn, tôi kêu lên: “Ôi chú tôn
quý, chú đã bỏ rơi chúng sinh, nhất là lũ chúng con là những đệ tử và thị
giả và là đối tượng của lòng thương yêu của chú. Trong khi chú đã đi tới
một cõi thuần tịnh không để lại một dấu vết, thì đứa cháu gái này cảm thấy
còn đau đớn hơn là trái tim nó bị xé tung ra. Những đệ tử và thị giả khác
của chú cũng cảm xúc như thế. Chú ơi, con khẩn cầu chú từ đáy lòng con.
Chú chỉ phải quay trở lại thế giới loài người vì lợi lạc của chúng sinh.
Cho tới khi hiện thân giác ngộ của chú xuất hiện trở lại, đứa con gái này
sẽ không đi đâu hết. Con tới đây với ý hướng chín chắn. Con đã tới, con
gặp được chú; và gặp chú rồi, con đưa ra lời thỉnh cầu. Xin hãy làm cho
tất cả những gì con yêu cầu chú trở nên có ý nghĩa, con van xin chú!” Và
tôi lại bắt đầu khóc, đôi mắt tôi đẫm lệ.
Drimed Khakyod Wangpo biểu lộ lòng thương yêu của Ngài bằng cách trả lời:
“Dadrol cháu ta, những gì con nói thì hoàn toàn chân thực, tuy thế con
không nên buồn rầu. Giữa ta và Đạo sư Orgyen vĩ đại không có chút khác
biệt nào. Mặc dù những danh xưng theo quy ước ‘sinh’ và ‘chết’, đối với
ta, trong ý nghĩa tối hậu, không có chút ý niệm nào về sinh hay tử.
“Mọi chúng sinh hữu tình đã từng có bất kỳ mối liện nào – dù tích cực hay
tiêu cực – với ta, lão già Dechhen Dorje này, đã được đưa dẫn tới núi Huy
Hoàng trên tiểu lục địa Chamara, cõi thuần tịnh của các Đấng Chiến Thắng
của ba thân, giống như một đàn chim bị giật mình bởi một viên sỏi bắn ra
từ một súng cao su.
Ngay cả bây giờ, ta ban cho con một lời hứa trang nghiêm rằng những đệ tử
hay thị giả nào có thể cầu xin ta sẽ đồng thời trở thành những vị Phật”.
“Con là kẻ đau khổ vì lời giải thích của ta, hãy thận trọng trong sự sùng
mộ của con, hãy nhìn đạo sư như Pháp Thân của Phật Quả. Hãy chú tâm tới
lòng bi mẫn của con, hãy thấu hiểu rằng sáu loài chúng sinh là những cha
mẹ của con. Hãy thận trọng trong việc thực hành đức hạnh, đừng làm mờ tối
bất kỳ điều gì con làm với những lợi lạc vị kỷ. Hãy thận trọng trong việc
trì tụng các thần chú và những thực hành thiền định, đừng rơi vào tám ảnh
hưởng thế tục,
hãy thấu suốt duy nhất thần chú mani sáu-âm để làm đầy đủ thực hành của
con. Hãy thận trọng trong thực hành chính thức của con, hãy gộp chung mọi
sự trong tâm chân thật của riêng con. Chớ phạm sai lầm! Chớ phạm sai
lầm!”.
“Ngay khi con rời bỏ thân người này, ta sẽ dẫn tất cả các con tới cõi
thuần tịnh này như một con ngỗng dẫn dắt đàn ngỗng con của nó. Hãy đơn
giản nhận ra rằng không phải ta dẫn dắt, mà chính là Tam Bảo! Khi con trở
lại cõi người, hãy thuật lại tất cả những thông điệp này cho Tromge
Kundun, cho những người chủ gia đình trong vùng và cho các đệ tử thân
thiết của ta. Hãy thực hiện điều ta nói, bởi ngay cả nếu họ có trực tiếp
gặp ta, ta cũng không có gì hơn để nói với họ”.
Khi nói những lời này, Ngài ban cho tôi một phần hậu hĩnh thức ăn và nước
uống của tiệc cúng dường. Tôi quỳ lạy ba lần nữa rồi từ giả Ngài.
Trong một lâu đài bằng pha lê với tám con rồng lam ngọc cầm những hạt ngọc
trong móng vuốt của chúng và cặp đôi trong tám phương chính và phụ, tôi
tìm thấy một cái giường dễ thương với những chiếc gối và gối ôm, và nằm
xuống đó. Một dakini làm thị giả phục vụ tôi. Tôi có cảm tưởng là mình đã
ngủ một lúc, khi tôi được đánh thức bởi tiếng kêu của một chim công có màu
xanh xanh: “A a u u e o a m!”
Tôi lập tức quay trở lại với Đức Guru linh thánh và được hội
kiến Ngài như trước đó. Tôi thực hiện nhiều lễ lạy và cúng dường. Trước sự
hiện diện của người chú linh thánh, tôi lại khóc. “Chú ơi, không phải chú
chỉ bỏ chúng con, mà giờ đây chú còn bỏ lại phía sau cả Tromge Chhogtrul
Rinpoche là nơi nương tựa duy nhất cho những người tràn đầy hy vọng. Nếu
công đức cho phép chúng con nương cậy Ngài đã cạn kiệt, thì nỗi khổ của
chúng con sẽ to lớn hơn nỗi khổ của một người mù thiếu sự dẫn dắt và ngã
nhào nơi vách núi. Có thể làm được gì để bảo đảm rằng sẽ không có chướng
ngại nào cho cuộc đời Rinpoche, để Ngài có thể hoàn toàn thực hiện được sứ
mạng của Ngài là làm lợi ích chúng sinh và làm thỏa mãn quyến thuộc và các
đệ tử của Ngài?”
Chú Khakyod Wangpo có vẻ quan tâm: “Điều đó chắc chắn là một vấn đề có giá
trị”, Ngài nói: “Tromge Chhogtrul sẽ sống mười một năm nữa. Nhưng bởi Ngài
có thể đau đớn bởi vài bệnh tật nhẹ trước thời gian đó, nên nếu cử hành
một nghi thức để mời gọi lại sự bảo hộ của các dakini tương ứng với số
tuổi của Ngài, và cúng dường một hình nộm của Ngài theo hướng mặt trời mọc
thì sẽ có ích lợi.
Sau đó chắc chắn Ngài sẽ sống thọ như thế”.
Tôi hỏi: “Khi nào Ngài quay trở lại?”
Ngài trả lời: “Hiện tại ta sẽ đi cõi thuần tịnh gọi là Mộ Địa Núi lửa Đang
Phun để dạy Giọt Tâm Yếu của Chetzun
cho những người tụ hội ở đó. Mặc dù rất có thể người ta nghe nói về cách
thức mà hóa thân của ta sẽ được sanh ra sau đó, chớ ghi lại những điều
này, bởi chúng cần một sự niêm phong bí mật.
Còn bây giờ con gái ta sẽ nguy hiểm cho con khi ở lại cõi giới này và con
không nên tới đây một lần nữa.
Hãy quay về cõi người và làm lợi lạc các sinh loài. Trong vòng ba năm tới,
ta sẽ tái sanh ở đó một lần nữa”.
Mặc dù rất đau đớn khi phải chia ly với nơi nương tựa của tôi, tôi chuẩn
bị để quay trở về. Tôi hát lớn ba lần Lời Khẩn nguyện Bảy-Dòng và cầu
nguyện tha thiết nhiều lần với Đức Padmasambhava, với chú tôi và với Tam
Bảo. Như một dấu hiệu là tôi đã viếng thăm núi Huy Hoàng trên tiểu lục địa
Chamara, tôi được ban pháp danh là Khadro Sherab Chhodron (Dakini Bậc là
Ngọn Đèn Trí huệ Tâm linh).
Nhiều hiện thể tập họp ở đó tấu nhạc và các dakini làm những người hộ tống
cho tôi. Thân tôi bị để ý và tâm tôi thì tràn đầy sự vướng mắc, nhưng
không có gì để làm. Nước mắt tôi rơi như mưa trong khi thiết tha cầu
nguyện thật nhiều.
Rồi chúng tôi tiến lên phía trước. Dakini Tsewang Barma lại gặp tôi lần
nữa. Bà ban cho tôi bảy viên cam lồ
và một hộp châu báu hình khối vuông của dakini làm bằng pha lê thạch anh.
Bởi tôi không mang chúng theo mình, bà đọc một bài cầu nguyện rất hay cho
tôi:
Cầu mong giáo lý của chư Phật được truyền bá.
Cầu mong cuộc đời các đạo sư được vững chắc.
Cầu mong đại lạc và hạnh phúc đếnvới các sinh loài.
Cầu mong tất cả đạt được Phật Quả giác ngộ.
Tôi cũng gặp dakini Laykyi Wangmochhe một lần nữa. Bà ban cho tôi lụa
trắng, gạo, những bó nhang và những thức khác và tôi ở với bà một lát, Bà
nói:
Cầu mong đại lạc và hạnh phúc đến với cô gái này.
Cầu mong không có chướng ngại cho cô gái này.
Cầu mong sự che chở và nương tựa cho cô gái này.
Cầu mong cô gái này có thể làm lợi lạc các sinh loài.
Sau đó tôi gặp vị phối ngẫu linh thánh Mandarava một lần nữa. Một người
đàn bà với vẻ mặt phẫn nộ rót một chất cam lồ trong giống như nước than từ
bình bát của bà và đưa cho tôi. Đức Mandarava nói:
Cầu mong chúng sinh được phú tặng sự hạnh phúc.
Cầu mong họ thoát khỏi đau khổ.
Cầu mong họ không bao giờ xa rời hạnh phúc.
Cầu mong họ chứng ngộ tánh bình đẳng của mọi hiện tượng.
Kế đó tôi gặp rapa
Namkha Odsal, Ngài nói:
Bồ Đề tâm quý báu:
Nơi đâu nó không phát khởi, cầu mong nó phát khởi.
Nơi đâu nó đã phát khởi, cầu mong nó không bao giờ suy giảm.
Mà tăng trưởng thêm, thêm nữa!
Om mani padme hung.
Sau đó tôi gặp dakini Yeshe Tsogyal. Bà cho tôi một chất lỏng màu hơi
trắng giống như nhựa cây. Mặc dù Bà hát một bài ca nối kết với thần chú
bao gồm danh hiệu của Đức Padmasambhava, nhưng tôi không viết ra đây. Bà
cho tôi bài cầu nguyện tha thiết sau:
Cho cô gái Dawa drolma này,
trong thế giới phàm tục của cõi người,
trong lãnh vực của thị kiến bao gồm trong đôi mắt cô ta,
khi còn trong thân xác hữu hình:
Ở phương đông khi cô ta nhìn về phương đông,
cầu mong cô nhìn thấy một người gác cổng pha lê.
Khi cô nhìn về phương nam, hãy nhìn về phương nam,
cầu mong cô thấy một người gác cổng bằng vàng.
Khi cô nhìn về phương tây, hãy nhìn về phương tây,
cầu mong cô nhìn thấy một người gác cổng bằng san hô.
Khi cô nhìn về phương bắc, hãy nhìn về phương bắc,
cầu mong cô thấy một người gác cổng màu lam ngọc.
Khi cô ta hát một bài ca thần chú Kim Cương Đạo sư
cầu mong cô thấy Đức Padma Jungnay.
Khi tiệc cúng dường được cử hành ở đây
cầu mong cô gái tới viếng cõi giới này.
Cầu mong cô đưa dẫn những chúng sinh này, những kẻ có liên hệ với cô,
trong phạm vi vật lý hay ngôn ngữ
tới lục địa Chamara.
Bà bảo tôi: “Hãy tới đây vào những ngày âm lịch khi những kết quả của
những hành động của chúng ta được nhân lên một trăm ngàn lần: những ngày
mồng mười, mười lăm và những ngày mười lăm và mồng một”.
Bà nói thêm: “Hãy khởi hành ngày hôm nay và đừng khóc lóc”, nhưng khi Bà
đi với tôi một trăm bước, Bà đã để mặc nước mắt tuôn rơi. Bà nhấn mạnh:
“Trừ một quãng ngắn ta đã đi hôm nay, nhưng thực ra ta chưa bao giờ đi đâu
hết”. Sau khi đi thêm 110 bước nữa, tôi nhìn lại Bà. Tôi đã quá quyến
luyến, nhưng Bà gọi to: “Đừng buồn vì điều này”.
Đi xa hơn nữa, tôi lại tới trú xứ của dakini Wangmo. Một trong những người
gác cổng dẫn tôi tới gặp bà. Do bởi mối liên hệ chặt chẽ của chúng tôi,
tôi khóc òa lên vì sợ rằng chúng tôi sẽ phải chia ly và chính vị dakini
cũng nhỏ ít dòng lệ. Bà cho tôi một nhúm hạt.
Bà nói: “Ta không được tự do di hộ tống con, nhưng ta có một thông điệp
cho con mang về. Không có lỗi lầm gì trong việc con kiên quyết cắt đứt
những ràng buộc của con với cõi người và đi tới đây. Nếu con thấy mình
không thể thoát khỏi miệng một con cá sấu dữ tợn hay một con rắn độc hiểm,
hãy ném hạt này và nói: “Hạt này ném ra từ tay dakini Wangmo”.
Tiếp tục đi xuống, tôi được gặp và hộ tống bởi tám dakini, gồm cả Yul-lha,
vị dakini ở vùng Derge đã nói ở trên. Khi chúng tôi thảo luận về sự tường
thuật của tôi về cõi thuần tịnh, tôi cứ khóc mãi. “Bây giờ hãy nghỉ qua
đêm”, bà nói. “Nếu ta có thể ban cho con một quán đảnh về ba bổn
tôn-Amitayus, Samyak và Vajrakilaya thì con, ôi dakini, đối với các tulku
đặc biệt, các lạt ma, thiện tri thức và những terton hóa thân linh thánh
đang ở trong cõi người bình phàm, con sẽ trở thành một dakini cao quý, bậc
sẽ xua tan chướng ngại cho những cuộc đời trường thọ của các ngài”. Nhưng
tôi không có thời gian để nhận lãnh quán đảnh này.
Khi tôi tiếp tục, Đức Tara Trắng cảnh báo tôi chớ nói bất kỳ điều gì về
các điềm xấu. Tôi lại tới hội kiến Đức Jamyang Khyentsei Wangpo. Với vẻ
khoan thai từ tốn, dường như Ngài vui hơn lần trước và hơi mỉm cười. Ngài
chắp tay hướng về phía tôi và Đức Tara Trắng nói những lời như sau:
Dù Ngài có chắp tay hay không,
dù Ngài có tin hay không,
tái sanh này của Đức Tara Trắng tôn quý
sắp đi tới cõi người bình phàm.
Đi xuống nữa, vị nhiếp chính Jampa Migyur gởi một đội hộ tống gồm năm
dakini tới gặp tôi. Để xua tan nỗi sợ của tôi đối với những cư dân ở trong
địa ngục, Ngài ban cho tôi một sợi dây ban phước có một chày kim cương
được khắc từ một miếng đá phiến và một cái nơ có hình dạng một con bò cạp
khắc trên đá. Ngài tụng những lời ước nguyện chẳng hạn như bài bắt đầu
bằng “Bồ Đề tâm quý báu…”
Khi tôi tiếp tục, Đức Tara Trắng nói: “Con đã không mang theo người hộp
châu báu của dakini bằng pha lê mà hai chúng ta định đem về, vì thế có ý
nghĩa gì khi mang chiếc nơ đá này, là thứ không cần thiết?” và vì thế tôi
bỏ rơi nó trên mặt đất.
Rồi ở chỗ khuất gió của một mặt tảng đá, tôi nhìn thấy một cõi thuần tịnh
sinhh ra từ đại nguyện, một cung điện rộng lớn bằng pha lê. Trên cổng phía
đông là một cái khóa bằng pha lê có kích thước khoảng chiều dài tay áo
tôi. Bên phải và trái trên chiếc cổng là hai hình ảnh của Đức Phật
Amitayus. Giữa hai tấm hình tôi nhìn thấy thần chú mani sáu-âm được viết
trong ba loại chữ, chữ này trên chữ kia: Tây Tạng, Lantza và Wardhu.
Ở đó vị dakini Yul-lha (là vị tôi đã gặp trước kia) và tôi gặp một cô gái
thuộc gia đình Gya Chhagla tên là Adam. Cô ta và Yul-lha hết sức mừng rỡ,
hôn và ôm nhau quanh cổ như những người trong thế giới phàm tục.
Trên một chiếc ngai cao trong cung điện là một lạt ma cao tuổi có bộ râu
trắng. Ngồi nép một bên trên một cái ngai trước Ngài là Ashey Drolma, chị
của cha tôi (Tromge Jigmed T’hrogyal). Một người đàn bà với mái tóc cột
túm lên trong một chiếc khăn xếp đang đặt nhiều câu hỏi cho cả hai vị về
những vấn đề liên quan tới giáo lý đạo Phật. Có khoảng hai mươi ngàn người
đàn bà khác ở đó, cả nữ cư sĩ lẫn ni cô; tất cả đều cầm những chiếc đèn bơ
bằng kim loại và hát tụng những lời ước nguyện.
Khi tôi tiến lại gần hơn, Ashey Drolma nói: “Hãy mang thông điệp sau đây
tới cho Jigmed T’hrogyal: ‘chị đã tái sanh trong cõi giới của đại nguyện
này. Cha mẹ chúng ta đều đã tái sanh tại Zangri Kharmar,
nơi họ đang làm lợi ích cho chúng sinh như những hành giả Kim Cương thừa
đầy năng lực. Tên của em khi em còn nhỏ là Yudra Nyingpo; tên mà em được
gọi bây giờ thì không rõ ràng đối với chị, nhưng em đã mắc phạm những hành
động đức hạnh lẫn ác hạnh trong đời này. Trong khi không khó để thực hiện
một sự pha trộn như thế gồm những hành động như một con người phàm tục
trong vòng luân hồi, điều quan trọng là em đã có được sự sinh ra làm người
ít nhất là một lần. Đã tới lúc để chứng ngộ tiềm năng của đời người này,
vì thế hãy trì tụng thần chú sáu-âm và đừng quên thỉnh thoảng nhập thất.
Khi ấy, không còn nghi ngờ gì là em sẽ được tái sanh trên núi Huy Hoàng ở
tiểu lục địa Charmara ngay tức khắc khi từ giã cuộc đời này”’.
Tôi cũng tụng những lời ước nguyện nhiệt thành.
Như thế, đây là linh kiến vắn tắt của tôi về núi Huy Hoàng. Tôi, một đứa
con gái khiêm tốn của bộ tộc của Đạo sư Tromge, có tên là Dawa Drolma đã
chết trong năm ngày và đã kinh nghiệm những linh kiến về núi Huy Hoàng,
núi Potala và những cõi giới khác. Những tường thuật này không được thêm
thắt bằng những ngôn từ bác học, không được tô điểm bởi văn thuật của thi
ca kinh điển mà cũng chẳng có những vần điệu du dương thích hợp. Nhưng tôi
cũng không làm cho những ngôn từ huyền diệu của các dakini trở nên khó
hiểu.
Đây là những câu chuyện dông dài, không đầu không đuôi khùng điên của
chính cô gái này, được hóa thân Nyag Trulpa
ghi chép ngay khi tôi thuật lại chúng trên đỉnh Đèo Mani Tashi trong vùng
T’hrom. Tôi xin sám hối với tập hội chư vị dakini và Hộ Pháp bất kỳ lỗi
lầm nào bao hàm trong những câu chuyện đó và cầu mong công đức này khiến
cho những ai nghe tới ngay cả danh hiệu của tôi và những ai nhiệt thành
quan tâm tới những kinh nghiệm thuần tịnh linh kiến này được tái sanh
trong núi Huy Hoàng trên tiểu lục địa Chamara.
May mắn, may mắn, may mắn!
Sarva mangalam – cầu mong mọi sự tốt lành.
Khi chúng sinh trong nhân loại làm gãy
bể các thệ nguyện Kim Cương thừa, hay samaya của họ, họ bị tái
sanh làm những chúng sinh yêu ma phi-nhân mà tiếng Tây Tạng gọi là
damsri, hay “những yêu ma gãy bể samaya”. Những yêu ma này không
chỉ chịu đựng những hậu quả tiêu cực của những vi phạm đạo đức riêng
của họ mà bằng những hành động của họ, họ còn khuyến khích người khác
mắc phạm những vi phạm tương tự.
Amitayus là vị Phật của sự trường thọ
mà pháp thực hành của Ngài kéo dài thọ mạng của hành giả. Samyak và
Vajrakilaya là những bổn tôn phẫn nộ mà những pháp thiền định của các
ngài che chở hành giả tránh khỏi các chướng ngại.
Một lễ quán đảnh là một nghi lễ trong
Phật Giáo Kim Cương thừa, nó cho phép người nhận thực hành một pháp
thiền định bổn tôn đặc biệt.
Các giáo lý được hệ thống hóa bởi
Chetzun Sengge Wangkhyug (thế kỷ mười một tới thế kỷ mười hai) dựa
trên sự thành tựu “thân cầu vồng” của Ngài vào năm 125 tuổi. Chúng
được Jamyang Khyentse Wangpo (1820-1892) khám phá.
---o0o---
Mục Lục
>> 1>>
2 >>
3>>
4>>
5
---o0o---
Vi tính: Từ Thanh.
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật: 1-2007