NGƯỜI TÂY TẠNG
NGHĨ GÌ VỀ CÁI CHẾT
(NGƯỜI CHẾT ĐI VỀ ĐÂU)
Dịch từ bản tiếng Anh
The Tibetian Book of the Death
(Lạt-ma Kazi Dawa Samdup)
Nguyên tác: Bardo Thodol của Tây Tạng
NGUYÊN CHÂU - NGUYỄN MINH TIẾN
Biên dịch
01.
DẪN NHẬP LUẬN VÃNG SANH
Tiến sĩ W. Y.
Evans Wentz
Tập luận vãng
sanh này, nguyên tác tiếng Tây Tạng có tên là Bardo Thődol. Ðây là
một trong số rất ít những quyển sách nghiêm túc nghiên cứu về cái chết, về
sự sống sau khi chết và về sự tái sanh. Sách này cũng trình bày một cách
cô đọng các giáo lý chính yếu của Phật giáo Ðại thừa. Hơn thế nữa, nó
không chỉ rất quan trọng về mặt tôn giáo, mà còn cả trong các lãnh vực
triết học và lịch sử nữa.
Sách này đã
từng được sử dụng như một trong những luận thuyết căn bản của thuyết
Du-già, và nằm trong chương trình đào tạo cơ bản của Viện Ðại Học Phật
giáo Nãlandã – một dạng Oxford của Ấn Ðộ xưa kia. Vì thế, đây có
thể xem như là một trong những tác phẩm đáng chú ý nhất của phương Ðông mà
người phương Tây từ trước đến nay chưa từng biết đến.
Chủ đề của
quyển sách có vẻ như khá tương tự với quyển “Sách dành cho người chết”
của Ai Cập, với những mô tả và hướng dẫn bí ẩn xuyên qua thế giới bên
ngoài của nhiều vương quốc thuộc ảo tưởng mà biên giới là sự sống và cái
chết. Tuy nhiên, sự so sánh này không thể giúp đi đến một kết luận nào
khác ngoài việc gợi ra một mối tương quan về văn hóa giữa hai khu vực.
Ðộc giả phương
Tây cũng nên lưu ý một điều rằng, những lời giáo huấn trong sách này đã
được truyền lại đến chúng ta qua một quá trình tiếp nối không hề gián đoạn
của những vị thánh sư chứng ngộ xứ Tây Tạng, một vùng đất linh thiêng với
nhiều đỉnh núi quanh năm tuyết phủ, được tin là có những thiên thần thường
xuyên bảo vệ.
Sự độc đáo của
quyển sách này là nó nhắm đến việc luận giải một cách hợp lý tác
động của nghiệp quả trong giai đoạn giữa cái chết và sự tái sanh. Luận
thuyết về sự tái sanh từ lâu đã được mặc nhiên chấp nhận như là sự thiết
yếu cho sự sống của con người – vì tất nhiên không có ai thật lòng muốn
nghĩ rằng sự chết là dấu chấm hết cho tất cả mọi chuyện. Nhưng vấn đề này
lại hình như rất thường bị xem là phản đề của sự hợp lý, vì cho đến nay nó
vẫn còn là một sự bí ẩn.
Tiến sĩ L.
A. Waddell, sau một thời gian dài nghiên cứu đã phải thốt lên rằng:
“Các vị Lạt-ma Tây Tạng, bằng vào giáo lý của đức Phật, đã có thể hé mở
cho chúng ta thấy được ý nghĩa của nhiều sự việc người AÂu Tây hầu như
không thể nào hiểu được.”
Một số các vị
Lạt-ma uyên bác, như cố Lạt-ma Kazi Dawa Samdup đã giải
thích rằng: “Trong giai đoạn ban đầu, Phật giáo đã có một quy tắc tượng
trưng bí mật, được sử dụng trong việc truyền trao giáo pháp. Nó là chìa
khóa để mở ra ý nghĩa sâu kín của những giáo lý bí ẩn, và được giữ gìn kỹ
lưỡng trong các cộng đồng tôn giáo ở Ấn Ðộ, Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ
và Nhật Bản.”
Có lẽ cũng
tương tự như thế, các nhà thần bí học phương Tây đã xem những loại chữ
tượng hình của Ai Cập thuở xưa và của Mexico như là một hình
thức tượng trưng phổ thông và công truyền của ngôn ngữ bí mật. Họ cũng nói
rằng có một qui tắc tượng trưng đôi khi đã được Platon và những
triết gia Hy Lạp khác dùng trong quan hệ của các khoa âm nhạc và toán học.
Trongthế giới người Celtes, các thầy cúng đã lưu lại tất cả các
giáo điều bí truyền của họ bằng cách tượng trưng. Việc sử dụng tỷ
dụ trong các bài thuyết giảng của Chúa Jésus, của đức Phật và của
các vị đại đạo sư khác cũng cho thấy cùng một khuynh hướng ấy. Và qua các
tác phẩm ngụ ngôn của Esope, các phép mầu và những sự việc huyền
diệu được diễn lại tại Nam AÂu, thì nhiều biểu tượng xưa kia của phương
Ðông đã được đưa vào trong nền văn học tân tiến của phương Tây.
Ðiều không thể
phủ nhận được là ngôn ngữ thông thường, với tất cả mọi hình thái của nó
cũng không sao có thể diễn đạt được trọn vẹn các hệ thống tư tưởng lớn,
các giáo lý siêu việt, hay thậm chí là ý nghĩa của những câu cách ngôn về
đạo đức.
Rất nhiều
những biểu tượng được sử dụng từ xa xưa ngày nay vẫn còn có thể nhìn thấy
được, nhưng không ai hiểu được ý nghĩa ban đầu của chúng. Như những hình
tượng cừu con, rồng, rắn, chim bồ câu... trên các bàn thờ; hoặc hình tam
giác vây quanh con mắt nhìn phổ quát thường thấy ở hội bí mật
FrancMacnnerie ở châu AÂu; hoặc biểu tượng linh thiêng của con cá,
lửa vĩnh cửu, hay hình ảnh mặt trời mọc trên điện thờ, các biểu tượng
thuộc cấu trúc về hướng nhà thờ và thánh đường, cả đến thánh giá thình chữ
thập... và các màu sắc, hình vẽ trên lễ phục của các cha cố và giáo
hoàng... đều là những chứng tích thầm lặng còn sống sót của những biểu
tượng vô tín ngưỡng xưa kia – chúng thật ra là một loại hình
ngôn ngữ siêu ngôn ngữ – mà đến nay vẫn tồn tại trong các nhà thờ
hiện đại thuộc Cơ Ðốc giáo. Nhưng ý nghĩa bí mật hàm chứa trong các biểu
tượng được Cơ Ðốc hóa ấy đã bị vất bỏ đi một cách vô ý thức. Các
giáo sĩ không hiểu được ý nghĩa của chúng đã hội họp với nhau thành những
hội nghị để diệt trừ tà thuyết, trong khi thật ra chúng chỉ là
những ý nghĩa có tính cách bí truyền.
Phật giáo Bắc
tông thường sử dụng những biểu tượng rất sống động trong sự truyền pháp,
đã phải chịu sự chỉ trích của Phật giáo Nam tông rằng họ tự cho mình là
người giữ giáo lý bí truyền. Nhưng thực ra thì giáo lý bí truyền ấy đã
được trực tiếp truyền lại từ đức Phật qua các thế hệ liên tục nối tiếp
nhau, bằng vào những bậc thầy chứng ngộ, hiểu rõ được ý nghĩa bí truyền do
đức Phật truyền dạy. Mặc dù Bắc tông khẳng định rằng chỉ có thể có một
lối giải thích về các lời giáo huấn của đức Phật theo văn tự, nhưng
thực tế thì ngay trong các kinh điển Pali cũng hàm chứa rất nhiều
ngụ ngôn, ẩn dụ, mà một số trong đó đã được các vị Lạt-ma xem như
là sự xác nhận những ý nghĩa tượng trưng trong truyền thống bí truyền của
riêng họ. Không phải là vô cớ khi các vị này nói rằng, họ có được cái
chìa khóa đầu tiên để mở ra các ý nghĩa bí truyền của giáo lý do đức
Phật truyền dạy.
Các vị
Lạt-ma thừa nhận rằng ba tạng kinh điển là lời giảng thuyết của
đức Phật đã được ghi chép bằng văn tự để làm giáo lý truyền dạy.
Phật giáo Bắc tông, Phật giáo nguyên thủy
cũng tán thành như vậy. Nhưng các vị Lạt-ma nói thêm rằng, ba tạng
kinh điển không chứa đựng tất caû những lời dạy của Phật; trong đó
còn thiếu một số các lời dạy về pháp môn Du-già, mà vẫn được bí
truyền cho đến ngày nay. Phật giáo Mật tông thừa nhận là đã được
chính truyền theo phương thức truyền khẩu những giáo lý thuộc loại
này.
Trong kinh
tạng Pali có nó rằng, đức Phật không hề giữ lại bất cứ điều gì bí
mật cả. Ðiều đó có nghĩa là, ngài không giấu bất cứ điều gì về giáo lý
thiết yếu cần phải truyền dạy cho giáo hội Tăng già, nhằm có thể
giúp cho một đệ tử của ngài có thể được chứng ngộ. Tuy nhiên, điều này
không có nghĩa là tất cả những lời dạy của ngài đều phải được ghi chép
bằng văn tự. Hay nói cách khác, người ta không phải đã ghi chép hết
các lời dạy của ngài trong kinh điển.
Thực tế là
chính đức Phật cũng không hề viết ra một lời dạy nào. Chỉ nhiều năm sau
khi ngài tịch diệt, các đệ tử của ngài mới ghi chép những lời dạy của ngài
thành kinh điển. Vô tình hay cố ý, có thể họ đã không ghi lại hết những gì
mà ngài đã dạy cho họ. Hoặc nếu không phải là như vậy, thì hẳn có một số
giáo lý của Phật đã không bao giờ được truyền dạy cho những người
không thuộc giáo hội Tăng-già, theo như truyền thống mà đến nay các
vị Lạt-ma vẫn còn theo đúng. Trong trường hợp đó, chúng ta phải
thừa nhận là có một giáo lý bí truyền của Phật giáo không nằm trong
kinh điển. Giáo lý bí truyền, nếu hiểu theo cách này, thì không thể
xem là không hòa hợp với phần giáo lý công truyền trong kinh điển,
mà phải là có một mối liên hệ tương quan với nhau, như toán học cao cấp có
liên hệ với toán học giản dị vậy.
Quyển sách
này, lần đầu tiên được công bố, là một trong những bằng chứng cụ thể cho
lời tuyên bố của các vị Lạt-ma về việc có những giáo lý do chính
đức Phật truyền dạy đã không được ghi chép, mà chỉ được truyền khẩu để bổ
túc cho phần giáo lý được ghi trong kinh điển.
Trong quyển
sách này, chúng ta thấy có những ý nghĩa bí ẩn được thể hiện qua sự tượng
trưng bằng con số – số 49, bình phương của thánh số 7. Theo giáo lý đã có
từ xưa của Ấn Ðộ giáo, một phần nào đó đã để lại ảnh hưởng trong Phật
giáo, có 7 thế giới hay là 7 trình độ giả huyễn trong vòng sanh tử luân
hồi, mỗi thế giới lại gồm có 7 khối cầu của một chuỗi hành tinh. Trên mỗi
khối cầu có 7 vòng tiến hóa: 7 lần 7 thành 49 trạm dừng để sanh sống hoạt
động; cũng như từ tinh trùng đến lúc thành thân người, thai nhi phải trải
qua các hình thái của cấu trúc cơ thể mới đạt đến hình dạng cao nhất của
loài có vú. Như vậy, trong tình trạng sau khi chết, thực trạng phôi thai
của thế giới tâm lý là thần thức, hay dạng nguyên sơ nhất của ý
thức, trước khi trở lại trong thế giới vật chất thô nặng, nhất thiết phải
trải qua các trạng thái tâm lý thuần túy một cách có tương quan với
thế giới vật chất. Nói một cách khác, trong hai tiến trình phôi thai tùy
thuộc lẫn nhau, có liên quan với nhau – tức là vật lý và tâm lý – thì sự
tiến hóa được thông suốt hay trở ngại đều có tương ứng với 49 thời kỳ
chuyển tiếp mà thần thức phải trải qua.
Cũng giống như
vậy, 49 ngày của thân trung ấm có thể tượng trưng cho 49 quyền năng
bí mật của 7 nguyên âm. Trong thần thoại Ấn Ðộ, từ đó xuất phát nhiều cách
tượng trưng cho thân trung ấm. Các nguyên âm ấy trở thành sự huyền
diệu của lửa và 49 hình thái của lửa. Chúng cũng được thể hiện bằng dấu
hiệu Svastika
trên 7 đầu rắn, tiêu biểu cho tính chất vĩnh cữu của sự huyền diệu trong
Phật giáo Bắc tông, và sự huyền diệu này có nguồn gốc từ Ấn Ðộ giáo cổ
xưa. Trong các bài viết về thuật luyện kim đã được giữ kín thì các dạng
khác nhau của lửa chính là 7 trạng thái trải qua sau khi chết, hay là
những trạng thái của thân trung ấm. Mỗi kinh nghiệm tượng trưng cho
một lần trải qua trạng thái chuyển tiếp từ một trong 7 yếu tố riêng biệt
của nguyên lý ý thức phức tạp. Như vậy, chúng tạo ra cho nguyên lý ý thức
49 trạng thái khác nhau được biểu thị bằng các dạng thức của lửa. Số 7 là
một thánh số từ rất xa xưa của chủng tộc Aryen và một số chủng tộc
khác. Việc sử dụng nó trong những phát lộ của thánh Jean cũng giải
thích thêm về điều này, cũng như quan niệm về ngày thứ 7 đã được xem là
ngày thánh. Trong thiên nhiên, số 7 quản trị các định kỳ, các hiện tượng
của sự sống, cũng như các nhóm hóa chất, các âm và các màu trong vật lý
học. Và chính giáo lý vần thân trung ấm đã có căn cứ một cách khoa học dựa
trên số 49, hay là 7 lần 7.
Một điều nổi
bật khác trong quyển sách này là những khái niệm về 5 yếu tố.
Sự giải thích về 5 yếu tố này, một cách đáng kinh ngạc, lại rất gần với
những hiểu biết hiện nay của khoa học phương Tây. Chúng ta có thể thấy
được điều này trong lời giải thích sau đây của Lạt-ma Kazi Dawa Samdup:
“Vào thời kỳ
đầu tiên của hành tinh chúng ta, chỉ có một yếu tố chuyển biến, đó là
lửa. Theo định luật của nghiệp tác động vào sự sanh diệt nơi tiểu vũ trụ,
bụi mù của lửa bắt đầu tự xoay chuyển và trở thành một khối hình cầu nóng
bỏng, gồm các nguyên tố chưa phân biệt, còn tất cả các yếu tố khác đều
đang ở trong trạng thái phôi thai. Sự sống ban đầu được bao phủ hoàn toàn
trong lửa, và nếu như có một chúng sanh nào đó hiện hữu vào thời kỳ này
thì chúng sanh ấy phải có thân thể bằng lửa. (Những huyền thoại ở phương
nam tin rằng người Salamandres có thân bằng lửa). Vào thời kỳ tiến
hóa thứ hai, khi yếu tố lửa đã có một hình dáng xác định thì yếu tố không
khí tự tách rời khỏi lửa và bao quanh cái mầm hành tinh như một vỏ trứng
bao quanh ruột trứng. Thân thể của mọi chúng sanh vào lúc ấy đều gồm có
lửa và không khí. Vào thời kỳ tiến hóa thứ ba, sự chuyển động của yếu tố
không khí làm biến đổi, giảm đi tính chất nóng bỏng của hành tinh, và yếu
tố nước thoát ra khỏi không khí. Vào thời kỳ tiến hóa thứ tư, là thời kỳ
hiện nay còn đang kéo dài, không khí và nước làm trung hòa hiệu năng của
lửa, nên lửa tạo ra yếu tố đất bao quanh nó.”
Nghiên cứu
thần thoại cổ xưa của Ấn Ðộ cũng thấy có những lời giải thích tương tự
trong việc đánh sửa thành bơ: sữa trong thần thoại là bụi mù của lửa và từ
đó thoát ra bơ và đất. Ðất được thành lập xong, các vị thiên thần tự nuôi
sống bằng đất nên hiện thân thô nặng trên hành tinh này và trở thành tổ
tiên ban sơ của loài người.
Vào 4 ngày đầu
tiên sau khi chết, 4 yếu tố đất, nước, gió, lửa được biểu hiện
trong hình thức ban sơ của chúng đối với người chết. Còn một yếu tố thứ
năm không hiện ra là yếu tố không, yếu tố bao quát tất cả, được thể hiện
trong hình thái ban đầu của nó, với biểu tượng như là ánh sáng màu xanh
lục của Thành sở tác trí. Trong sách giải thích rằng sở dĩ yếu tố
này không hiện ra là bởi vì tâm thức của người chết chưa đạt đến sự phát
triển hoàn toàn.
Yếu tố thứ năm bao quát này được nhân cách hóa thành đức Phật Ðại Nhật.
Ðể diễn tả
quan niệm của các vị Lạt-ma theo danh từ tâm lý học của phương Tây
thì yếu tố này có thể gọi là tiềm thức. Tiềm thức là tâm thức siêu
việt, cao hơn ý thức bình thường và chưa được phát triển đầy đủ, nó là hạt
giống tiềm tàng của năng lực giác ngộ, và sẵn sàng trở thành ý thức hoạt
động trong thời gian thích hợp. Sự ghi nhận trong ký ức tất cả các tiền
kiếp, tất cả những trạng huống đã qua của cuộc sống luân hồi, đều ẩn tàng
trong tiềm thức,
theo như lời dạy của chính đức Phật. Một khi tiềm thức có đủ điều kiện để
bừng dậy trở thành hoạt động, các hạt giống hàm chứa trong nó sẽ có thể
được nhớ lại qua tất cả các tiền kiếp. Khi đạt đến sự giác ngộ và giải
thoát khỏi vòng sanh diệt của các yếu tố, thể nghiệm được tính cách không
thực, hư huyễn của kiếp sống luân hồi, con người sẽ tự mình đạt đến trạng
thái này.
Mục đích tu
tập của mọi trường phái Du-già ở Ấn Ðộ hay Tây Tạng, hoặc theo như
được truyền dạy trong sách này, là cố gắng đạt được trạng thái giải thoát
đó.
Trong thân thể
con người có đủ sự hiện diện của bốn yếu tố cấu thành thế giới vật chất,
đó là các yếu tố: lửa, gió, nước và đất. Những yếu tố này không phải bao
giờ cũng hoàn toàn hòa hợp với nhau. Vì thế, sự tồn tại và hoạt động của
chúng được đặt dưới sự chi phối tổng quát của tâm thức con người. Nếu là
vị chỉ huy tài giỏi, có đầy đủ ý thức siêu việt của một vị tu tập
Du-già đắc đạo, hay một bậc thánh triết, thì các yếu tố trực thuộc này
sẽ thường xuyên bộc lộ bản chất thực sự của chúng, và như vậy là đặt trong
tay vị chỉ huy chiếc quyền trượng – được tượng trưng bằng chày Kim Cang –
của sự chi phối tổng quát trên thế giới vật chất. Ðược như vậy, con người
thật sự là vị chúa tể của thiên nhiên, vì theo sự giải thích của thần
quyền, chính ở trạng thái này con người trở thành một đấng toàn năng, một
vị Chuyển luân thánh vương, Thượng đế hay Ðấng sáng tạo.
Quyển sách này
cũng hàm chứa các yếu tố cơ bản của Phật giáo Ðại thừa, với hình thức cốt
lõi nhất của chúng. Có thể tạm phác họa như sau :
1. Về
tánh Không: Trong tất cả các hệ thống giáo lý Du-già của Tây
Tạng thì sự thể nghiệm được tánh Không là mục tiêu rất lớn. Bởi vì,
sự thể nghiệm ấy là sự đạt đến pháp thân tuyệt đối. Ðó là trạng
thái uyên nguyên không tạo tác của tâm bồ –đề xuất thế, hay
là Phật tánh.
2. Về
ba thân Phật : Trong giáo lý về ba thân Phật, Pháp thân là thân
siêu việt nhất của tất cả chư Phật và các chúng sanh đã được giác ngộ hoàn
toàn. Còn hai thân khác là Báo thân, thân có đầy đủ công năng, và
Hóa thân, thân mà tất cả chúng sanh đều có thể nhận biết được bằng
mắt thường.
Pháp
thân chỉ có thể được mô tả bằng phương thức tượng trưng, bởi vì tất cả
ngôn ngữ và quan niệm của người đời đều không thể diễn tả được trọn vẹn.
Hình ảnh tượng trưng đó là một đại dương mênh mông không giới hạn, lặng
yên tịch tĩnh, không có một đợt sóng nào; từ đó bốc lên những mù sương,
mây và cầu vồng, tượng trưng cho Báo thân; mây và sương mù lại được
soi sáng bằng sự chiếu tỏa của cầu vồng, nên ngưng tụ lại và rơi xuống
thành mưa, tượng trưng cho Hóa thân.
Pháp
thân là bồ-đề uyên nguyên không hình tượng, là sự thực chứng,
không có bất cứ một tì vết hay sự tối tăm che lấp nào. Trong pháp thân
có bản thể của vũ trụ, bao hàm cả sanh tử và Niết-bàn. Hai pháp này
– sanh tử và Niết-bàn – với dạng biểu hiện thông thường vẫn được
xemnhư là hai cực đối nhau của ý thức, nhưng khi được phân tích đến mức
tột cùng thì chúng là đồng nhất.
Pháp
thân là trí tuệ bồ-đề, sáng suốt, vô ngại, thường tồn, bất
biến.
Báo
thân là sự hiển bày thiện nghiệp của chư Phật, như các đức Phật đang
hiện thân giáo hóa ở các cõi Tịnh độ của các ngài.
Hóa
thân, hay cũng gọi là Ứng thân, là thân Phật do lòn g từ bi
muốn cứu độ chúng sanh mà thị hiện trong các cõi thế giới uế trược, nhiều
tội lỗi, như Phật Thích-ca Mâu-ni đản sanh trên trái đất này.
Như vậy,
thực tánh không tạo tác, không hình tướng, thường tồn không biến đổi là
Pháp thân.
Sự hiển
lộ tất cả các thuộc tính hoàn hảo cũa pháp thân trong một thân thể mà
chúng sanh có thể nhận biết được là Báo thân.
Sự thể
hiện của pháp thân trong cỏi thế giới này thành nhiều thân khác nhau với
đầy đủ các tính chất phàm tục của nhân loại, nhằm mục đích giáo hóa, cứu
độ cho chúng sanh, đó là Hóa thân.
Pháp
thân được tượng trưng bằng hình ảnh đức Phật Ðại Nhật (Vairocana).
Báo thân được tượng trưng bằng đức Phật A-di-đà (Amita) với
ánh sáng vô lượng chiếu suốt khắp thế giới. Và sự giáo hóa của đức Phật
Thích-ca Mâu-ni ở thế giới Ta-bà này được xem như là biểu tượng
rõ nét nhất của Hóa thân.
Trong
Phật giáo Tây Tạng, Hóa thân còn được kết hợp với ngài Liên Hoa
Sanh (Padmasambhãva) là vị thầy đầu tiên đã giảng dạy giáo lý về
thân trung ấm ở Tây Tạng. Ngài được những người tin vào giáo lý này
tôn xưng là Ðại giáo chủ.
Như vậy,
giáo lý về Ba thân Phật là một nét đặc trưng của Phật giáo Bắc tông. Trong
Phật giáo Nam tông, chúng ta thấy có ba khái niệm tương ứng là Phật, Pháp,
Tăng. Về mặt giáo lý, hẳn phải có sự tương quan nhất định giữa hai hệ
thống đó.
Lạt-ma
Kazi Dawa Samdup cho rằng giáo lý Ba thân đã lưu truyền qua một sự
tiếp nối không đứt đoạn của chư vị tổ sư được truyền thụ, từ Ấn Ðộ sang
Tây Tạng. Chuỗi truyền thừa ấy đã khởi sự từ đức Phật và được tiếp nối
không dứt cho đến ngày nay. Vị Lạt-ma này cũng cho rằng, chính khi
đức Phật truyền dạy giáo lý ấy là ngài đã tiếp nhận từ chư Phật xưa kia.
Vì giáo lý này chỉ được truyền khẩu từ bậc thầy này sang bậc thầy khác mà
không bao giờ được ghi chép ra. Chỉ cho đến thời gian tương đối gần đây,
khi Phật giáo đã suy yếu đi, không có bậc thầy nào sống còn để truyền dạy
nó theo phương thức xưa kia nữa.
Các học
giả phương Tây thường quan niệm rằng: “Nếu không thể tìm được bất cứ
dấu vết nào cũa một văn bản trước đây nói về một giáo lý, thì giáo lý ấy
tất nhiên là trước đó chưa từng hiện hữu.” Với tư cách là một người đã
được truyền thụ giáo lý bí truyền, Lạt-ma Kazi Dawa Samdup cho rằng
quan niệm ấy thật đáng buồn cười.
Giáo lý
Ba thân được xem như sự chỉ dạy về con đường của các bậc đạo sư đi từ
thưởng đẳng đến hạ đẳng, từ Niết-bàn đến sanh tử; và sự tiến thủ từ
hạ đẳng đến thượng đẳng, từ sanh tử đến Niết-bàn. Trong luận
vãng sanh, điều này được tượng trưng bằng 5 đức Thiền-na Phật,
mỗi vị nhân cách hóa một thuộc tính thánh thiện phổ quát. Ẩn kín trong 5
đức Thiền-na Phật là con đường thánh thiện dẫn đến sự hòa hợp trong
Pháp thân nơi thực tánh Phật, dẫn đến sự chứng ngộ Niết-bàn,
tức là về tinh thần được giải thoát khỏi mọi ham muốn.
3. Về
Năm trí:
a.
Pháp giới trí:
Pháp thân
vốn không có hình tướng, là thực tại cuối cùng của chân lý, của pháp giới;
nó cũng được xem là mầm mống tiềm tàng của chân lý. Trong luận vãng sanh
mô tả rằng, pháp thân sẽ lóe sáng trong ngày đầu của thân trung ấm
như là một thứ ánh sáng màu xanh dương tốt đẹp của đức Phật Ðại Nhật, vị
Phật là hiển lộ thế giới vật chất, làm cho thế giới ấy trở thành có hình
tượng, có thể trông thấy được. Nói “pháp giới” là để tượng trưng
cho thế giới vật chất giả hợp thành hình tướng. Từ vật chất giả hợp hiện
ra các sanh vật của thế giới này và của tất cả các thế giới. Trong các
sanh vật ấy thì sự ngu độn của cảnh giới súc sanh là nổi bật, ảo giác hay
sự mê lầm về hình tướng bắt đầu tạo tác, làm nên các cảnh giới của vòng
luân hồi, cũng như cảnh giới tri thức của loài người, mà muốn thoát khỏi
sự lệ thuộc vào đó thì chỉ có Niết-bàn. Khi một người cố gắng đạt
đến sự hoàn hảo bằng vào sự tu tập đúng hướng trong suốt đời sống của
mình, thì sự ngu độn của thú tính kia và ảo tưởngvề hình tướng hay sự chấp
ngã đều được chuyển hóa thành cái biết đúng đắn, thánh thiện; cái trí thâm
nhập khắp Pháp giới – Pháp giới trí – đó sẽ lóe sáng trong tâm thức
người ấy.
b. Ðại
viên cảnh trí:
Giống như
vật chất giả hợp chói sáng trong thân trung ấm vào ngày thứ nhất
tạo ra các vật thể, yếu tố nước sẽ chói sáng trong ngày thứ hai tạo ra
dòng sinh động là máu. Sự giận dữ và sự đam mê của nó thường làm mở ám tâm
trí. Ý thức giả hợp với tâm sân hận, hai yếu tố này một khi được chuyển
hóa thì sẽ trở thành Ðại viên cảnh trí, được nhân cách hóa thành
Kim Cang tát-đỏa, là ánh sáng phản chiếu trong báo thân của đức Phật
Bất Ðộng.
c.
Bình đẳng tánh trí:
Trong
ngày thứ ba, yếu tố đất – vốn tượng trưng cho các chất rắn chắc đã cấu tạo
thành hình thể con người và mọi hình dáng của vật chất – làm phát sanh ra
sự kiêu mạn. Xúc giác giả hợp với tâm kiêu mạn, hai yếu tố này một khi
được chuyển hóa thì sẽ trở thành Bình đẳng tánh trí, được nhân cách
hóa thành đức Phật Bảo Sanh.
d.
Diệu quan sát trí:
Trong
ngày thứ tư, yếu tố lửa – tượng trưng cho mọi nguồn năng lượng của người
và động vật – làm phát sanh ra sự đam mê tham luyến, sự thèm muốn, hay tâm
tham dục. Sự chuyển hóa tâm tham dục sẽ trở thành Diệu quán sát trí,
được nhân cách hóa thành đức Phật A-di-đà là đức Phật có ánh sáng
vô biên, soi sáng khắp thế giới.
e.
Thành sở tác trí:
Trong
ngày thứ năm, yếu tố gió, hay sự chuyển động của không khí – yếu tố đã tạo
thành hơi thở và sự chuyển động của cuộc sống – tạo ra sự ganh ghét. Sự
chuyển hóa tâm ganh ghét này sẽ trở thành Thành sở tác trí, được
nhân cách hóa thành đức Phật Bất Không Thành Tựu.
Sự hoàn
hảo của nguyên lý tư tưởng thánh thiện dẫn đến sự bất thối chuyển
thánh thiện, được tượng trưng bằng đức Phật Ðại Nhật. Sự hoàn hảo
của những đặc tính tốt đẹp được tượng trưng bằng đức Phật Bảo Sanh.
Và sự hoàn hảo của những hành động thánh thiện được tượng trưng bằng đức
Phật Bất Không Thành Tựu.
Ðược mô
tả giống như trong một kịch bản, người chết liên tiếp nhìn thấy từ cảnh
này đến cảnh khác, mỗi cảnh trình diễn một thuộc tính thánh thiện hay
nguyên lý bẩm sanh vốn có trong mọi thực thể con người, để thử thách từng
người và làm bộc lộ rõ một phần nào đó trong tâm thức của họ đã được phát
triển như thế nào. Sự phát triển trọn vẹn Năm trí hay 5 năng lực giác ngộ
được nhân cách hóa thành hình tượng 5 vị Phật, dẫn đến sự giải thoát, hay
sự thể nhập Phật tánh. Sự phát triển từng phần sẽ đưa đến sự tái sanh
trong một cảnh giới cao hơn trong lục đạo, chẳng hạn như cõi trời, hay cõi
người...
Sau ngày
thứ năm thì các cảnh được nhìn thấy của thân trung ấm sẽ trở nên
mỗi lúc một kém thánh thiện hơn. Người chết càng ngày càng chìm trong bùn
lầy ảo tượng luân hồi. Ánh sáng lóe chiếu cũa những bản chất thánh thiện
tự xóa mờ dần thành ánh sáng của bản thể hạ đẳng. Lúc bấy giờ, giấc mộng
sau cái chết chấm dứt theo sự tiêu tan của tình trạng chuyển tiếp, đối với
người nhận biết nó. Vì các tưởng tướng được tích chứa trong tâm thần, tất
cả đều đã hiện ra như các quá tượng của một cơn ác mộng, nên người chết từ
trạng thái chuyển tiếp bước dần sang trạng thái giả dối, tức là sự tái
sanh vào thế giới loài người, hay một trong nhiều cảnh giới của lục đạo.
Vòng bánh
xe của cuộc luân hồi cứ xoay vòng liên tục như thế cho đến khi nào kẻ dính
mắc vào đó có thể tự mình dứt bỏ được các mối dây ràng buộc, nhờ vào sự
giác ngộ mà đi đến chổ chấm dứt mọi đau khổ, ràng buộc.
Một điều
cần lưu ý nữa là, quyển sách này sẽ được tiếp nhận một cách dễ dàng hơn
nếu như người đọc đã tìm hiểu qua các hình thức tang lễ của xứ Tây Tạng
cùng với những ý nghĩa tượng trưng của chúng. Phần sau đây sẽ trình bày
một cách tóm lược để giúp người đọc có được một cái nhìn khái quát về vấn
đề này.
Sau khi
các triệu chứng của cái chết đã hiện ra như được mô tả trong những trang
đầu của sách, người ta lấy một tấm drap trắng phủ lên mặt người
chết. Lúc bấy giờ, sẽ không ai động chạm đến thân thể người chết nữa, để
cho tiến trình của cái chết không bị gián đoạn, bởi vì tiến trình này chỉ
chấm dứt khi thân trung ấm hoàn toàn ra khỏi xác thân. Người ta tin
rằng tiến trình này được kéo dài bình thường từ ba ngày rưỡi đến bốn ngày.
Nếu không có sự giúp sức của một vị tu sĩ thì người chết thông thường phải
trải qua trọn thời gian ấy mới biết là mình không còn có thân người nữa.
Vị tu sĩ
đến làm công việc giúp sức cho người chết được người Tây Tạng gọi là
Phô-ô. Khi vị này đến, ông ngồi trên một chiếc chiếu hay trên một
chiếc ghế đặt bên cạnh đầu của người chết. Những thân thuộc của người chết
đều phải ra khỏi phòng đặt tử thi và đóng hết các cửa sổ, cửa ra vào lại
để giữ yên lặng trong khi tiến hành việc giúp thần thức ra khỏi xác thân.
Vị
Phô-ô làm việc này bằng cách tụng đọc kinh điển có ý nghĩa chỉ dẫn cho
người chết hướng về cõi Cực Lạc ở phương tây của đức Phật A-di-đà
để thoát khỏi trạng thái phải mang thân trung ấm. Vị này khuyên dạy
thần thức trong lúc thoát xác đừng quyến luyến tài sản, thân quyến. Sau
đó, vị này quan sát trên đỉnh đầu của người chết, nơi giao tiếp giữa hai
phần của đỉnh sọ gọi là cửa Brahma, để xác định sự thoát ra của
thần thức. Nếu đầu của tử thi không bị hói thì vị này sẽ nhổ đi một ít tóc
ở vị trí này. Nếu người chết do tai nạn hay vì một lý do nào khác mà thi
hài không có tại nơi hành lễ thì vị này phải tập trung tinh thần, quán
tưởng cho đến khi có thể nhìn thấy thân người chết như thật, rồi mới gọi
thần thức người ấy đến để khuyên dạy và tiến hành cuộc lễ trong khoảng một
giờ.
Vào lúc
ấy, một vị Lạt-ma giỏi về chiêm tinh được gọi là Tsi-pa, sẽ
được mời đến để quyết định về giờ giấc sẽ di chuyển thi hài người chết,
cũng như việc phải đặt thi hài như thế nào là tốt nhất, đồng thời xác định
cả giờ giấc và phương thức tiến hành tang lễ, cùng với các nghi thức để có
lợi cho người chết.
Thi hài
người chết thường phải được cột trong tư thế ngồi, giống như tư thế của
những bộ xương hay xác ướp đã được tìm thấy trong các ngôi mộ rất xưa ở
nhiều nơi trên thế giới. Tư thế đó được gọi là hình phôi thai,
tượng trưng cho sự tái sanh vào một đời sống khác. Sau đó, thi hài được
đặt trong một góc phòng của người chết, không phải là góc phòng của vị
thần nhà.
Bạn bè và
thân quyến của người chết tụ họp trong nhà và ăn uống ở lại đó cho đến khi
nào thi hài người chết được mang đi. Nếu việc thần thức hoàn toàn thoát ra
khỏi xác thân chưa được vị Phô-ô xác định chắc chắn thì chưa được
động chạm đến thân người chết trước ba ngày rưỡi hoặc bốn ngày sau khi
chết. Trong khi vẫn còn người đến dự tang lễ thì người ta tiếp tục cúng
cơm cho người chết vào mỗi bữa ăn. Thức ăn được đặt trong một cái bát để
trước thi hài, và sau khi tin rằng người chết đã hưởng hết phần tinh túy
vô hình của thức ăn, người ta mang thức ăn ấy đổ đi.
Sau khi
thi hài người chết được mang đi rồi thì một bức ảnh của họ được thay thế
vào đó, và trước bức ảnh ấy, người ta tiếp tục dâng cúng thức ăn cho đến
hết một thời gian là 49 ngày. Ðây chính là quảng thời gian mà thần thức
được tin là phải trải qua giai đoạn mang thân trung ấm.
Trong lúc
tiến hành tang lễ, tập Luận vãng sanh này được tụng đọc trong nhà
người chết, hoặc tại nơi họ đã chết. Các vị Lạt-ma luân phiên nhau
tụng đọc suốt đêm ngày để giúp cho thần thức người chết hướng về cõi Cực
Lạc phương tây của đức A-di-đaø. Việc cầu nguyện cho người chết
cũng được tiến hành tại ngôi chùa mà lúc sanh tiền người chết thường lui
tới, và thường là do các tu sĩ chùa ấy tổ chức.
Sau lễ an
táng, các vị Lạt-ma vẫn còn trở lại nhà người chết mỗi tuần một lần
để tiếp tục tụng đọc Luận vãng sanh cho đến hết thời gian 49 ngày.
Người
chết thường được vẽ hình ngồi trên một chiếc ghế gỗ với quần áo tươm tất.
Trước mặt bức ảnh này, người ta đặt một hình vẽ khác gọi là Spyang-pu.
Trong hình Spyang-pu có vẽ tượng trưng hình người chết ở giữa, hai
chân được cột lại trong tư thế sùng kính, chung quanh có những vật biểu
tượng cho năm đối tượng tuyệt hảo của các giác quan: thứ nhất là
một cái gương soi, biểu tượng cho thân, phản ảnh các hiện tượng và cảm
giác, nhất là thị giác; thứ hai là một cái vỏ ốc, thức ba là
một cái đàn 7 dây, hai vật này biểu tượng cho âm thanh; thứ tư là
một cái lọ hoa, tượng trưng cho khứu giác; và thứ năm là các áo
quần bằng lụa và đồ trang sức với lọng che trên đầu, tượng trưng cho xúc
giác. Các món ăn dâng cho người chết đều để trước ảnh này, và các vị
Lạt-ma xem ảnh tượng này như là người đã mất và đọc Luận vãng sanh
này ở phía trước ảnh.

Hình Spyang-pu
Sau thời
gian nghiên cứu ở Tây Tạng và nhất là sau 3 năm nghiên cứu các truyền
thống tang lễ ở vùng sông Nil, tôi phát hiện ra rằng ảnh tượng của người
chết dùng ở Tây Tạng và ở Sikkim hoàn toàn giống với loại ảnh tượng
được gọi là “tượng của Osiris”, tức là của người chết, vẫn được sử
dụng ở Ai Cập. Hai loại ảnh tượng này có chung một nguồn gốc, và đều nhắm
đến việc giúp cho linh hồn người chết có được một nơi nương tựa và hướng
dẫn họ đi trong thế giới sau khi chết.
Nơi gần
bên vai trái của hình người chết ở giữa Spyang-pu, hoặc đôi khi là
ngay ở giữa, phía dưới, người ta khắc các chữ tượng âm, liên hệ đến 6 cõi
trong luân hồi, được tạm diễn dịch như sau:
S
à Sura, cõi trời, cảnh
giới của chư thiên.
A
à Asura, cảnh giới
A-tu-la.
Na
à Nara, cảnh giới loài
người.
Tri
à Trisan, cảnh giới súc
sanh, loài vật.
Pre
à Pretam, cảnh giới ngạ
quỷ.
Hu
à Hung, cảnh giới địa
ngục.
Sau khi
tang lễ chấm dứt, tức là sau 49 ngày, hình vẽ Spyang-pu được mang
ra đốt một cách trịnh trọng trên ngọn lửa của một ngọn đèn thắp bằng bơ,
và người ta chào linh hồn người chết lần cuối cùng với những lời vĩnh
biệt. Tùy theo màu sắc của ngọn lửa cháy lên mà người ta đoán biết số phận
của người chết. Tro tàn của hình đã đốt được thu lượm vào trong một chiếc
đĩa, người ta trộn tro ấy với đất sét, và dùng đất ấy để nắn hình những
cái tháp nhỏ, gọi là sa-tscha. Một trong số những tháp ấy được để
nơi bàn thờ ở nhà, số còn lại được đặt nơi có bóng mát ở các ngã tư, hay
trên một đỉnh đồi, hoặc trong một hang đá, thường thì ở dưới một tảng đá
to nhô ra.
Ðồng thời
với việc đốt hình Spyang-pu, người ta phá hủy ảnh tượng người chết,
và quần áo thì được hiến cho các vị Lạt-ma để bán cho người nào đến
mua đầu tiên, và tiền bán được các vị ấy giữ lấy xem như tiền tạ lễ.
Ðược tròn
một năm, người ta làm lễ tạ cho người chết. Ðó là lễ tạ ơn chư Phật đã cứu
độ người chết. Và sau thời gian đó thì một người góa phụ có thể đi lấy
chồng.
Phương
thức hỏa thiêu thi hài người chết là điều rất phổ biến ở Tây Tạng, nhưng
thường là vì thiếu chất đốt nên người ta có thể đưa xác lên một ngọn đồi
cao hay một tảng đá lớn, để cho các loài chim, thú, đến ăn thịt, gọi chung
là điểu táng, giống như ở các vùng Ba Tư và Bombay. Gia đình
nào có đủ chi phí cho việc làm giàn hỏa thì sẽ thiêu xác. Trong những khu
vực xa đô thị, người ta chôn xác. Khi người chết đã bị bệnh truyền nhiễm
nặng, dễ lây lan, như bệnh đậu mùa chẳng hạn, thì người ta buộc phải chôn.
Nói chung, người Tây Tạng không thích việc chôn xác, vì họ tin rằng cái
xác chôn sẽ có thể bị linh hồn người chết nhập trở lại và hóa thành ma
cà rồng. Theo cách nghĩ này, người ta chuộng việc thiêu xác hay làm
cách nào đó để cho các yếu tố của xác thân tan biến ngay đi. Ðôi khi người
ta cũng bỏ xác xuống sông giống như người Ấn Ðộ, hoặc một nơi nào có nước
sâu.
Ðối với
đức Ðạt- lai Lạt–ma hay những vị thánh thiện, tôn quý thì người ta
ướp xác. Giống như ở Ai Cập xưa, xác chết được vùi trong một hộc muối biển
trong vòng 3 tháng, cho đến khi muối hút hết các chất lỏng của thân, khiến
cho cái xác khô teo lại. Rồi kế đó, người ta tô lên xác một hỗn hợp bột
nhão gồm có những bột đất sét, bột gỗ chiên đàn, bột tiêu ớt, hay những
chất thuốc trị mối mọt. Chất bột nhão ấy được tô vào những chỗ lõm như
mắt, má, bụng... để cho hình xác trở lại bình thường, và khi xác khô cứng
lại thì thành một xác ướp theo kiểu Ai Cập.
Sau cùng
khi toàn bộ xác ướp đã khô cứng, thì người ta quét lên đó một lớp nước sơn
màu vàng, và xác ướp được đặt thờ trong một tu viện hay tịnh xá.
Bốn cách
làm mất xác của người chết nói trên xuất phát từ quan niệm cho rằng thân
người gồm có 4 yếu tố cấu thành là đất, nước, gió, lửa.
Chôn xác
là trả về cho đất. Bỏ xuống sông là trả về cho nước. Ðiểu táng
là trả về cho gió, vì loài chim sống trong không khí. Thiêu xác là
trả về cho lửa. Ðó là tóm lược những ý nghĩa huyền bí ẩn sau các
hình thức tang lễ của người Tây Tạng.
Sau khi
chết, trong thời gian từ 3 ngày rưỡi đến 4 ngày, người ta tin rằng thần
thức của những người bình thường ở trong một trạng thái giống như ngủ say,
không biết là mình đã ra khỏi thân người. Gian đoạn đầu tiên ấy của
thân trung ấm được gọi là Tschikhai-Bardo hay trạng thái
chuyển tiếp ngay sau khi chết.
Trong
giai đoạn này, trước tiên là ánh sáng trong suốt lóe sáng trong dạng thể
nguyên sơ của nó. Rồi nếu thần thức người chết không thể nhận được nó,
nghĩa là không thể tự duy trì trong trạng thái siêu việt, không biến đổi,
phù hợp với ánh sáng ấy, thì ánh sáng ấy bị mờ dần đi theo nghiệp lực. Khi
ấy bước vào giai đoạn thứ hai.
Khi giai
đoạn đầu chấm dứt, thần thức chợt tỉnh ra, biết được là mình đã chết và
bắt đầu trải qua giai đoạn thứ hai, gọi là Tschőnyi-Bardo, hay là
trạng thái chuyển tiếp của kinh nghiệm thực tại. Trạng thái này sẽ
tan biến đi khi chuyển sang giai đoạn thứ ba, gọi là Sipa-Bardo,
hay là trạng thái chuyển tiếp khi chuẩn bị tái sanh. Trạng thái này
sẽ chấm dứt vào lúc thần thức thực sự tái sanh vào một trong các
cảnh giới của sáu cõi luân hồi.
Sự chuyển
tiếp từ một giai đoạn này sang giai đoạn khác của thân trung ấm
diễn tiến cũng tương tự như tiến trình của sự sanh ra. Thần thức chợt
tỉnh, đi từ cơn mê này sang cơn mê khác, cho đến cuối giai đoạn thứ ba.
Khi bắt
đầu thức tĩnh trong giai đoạn thức hai, thần thức nhìn thấy từng hiện cảnh
tượng trưng tức là các ảo giác do nghiệp lực tạo ra bởi các hành động đã
làm khi còn sống. Những điều đã suy nghĩ, đã làm trước đây, giờ trở thành
những đối tượng khách quan. Các hình ảnh được nhìn thấy hoàn toàn do sự
tưởng tượng một cách có ý thức, được sanh khởi từ những gì trước đây đã
nhìn thấy và ăn sâu, phát triển trong tâm thức. Các hình ảnh ấy hiện ra
rồi đi qua, trong một toàn cảnh trang nghiêm và mạnh mẽ, như nội dung ý
thức cá biệt của mỗi người.
Trong
giai đoạn thứ hai, thần thức nếu không giác ngộ sẽ vẫn còn chìm trong một
phần ảo tưởng, tự nghĩ rằng cho dù đã chết nhưng vẫn còn có một xác
thân. Cho đến khi thần thức hoàn toàn hiểu rõ rằng mình thực sự không
còn có thân xác nữa, thì thần thức bắt đầu cảm thấy khao khát, mong muốn
có một xác thân. Sự khao khát lên đến cùng cực không thể vượt qua, thôi
thúc thần thức đi tìm một xác thân, và vào lúc ấy thì sự ưa thích theo
nghiệp lực tất nhiên sẽ trở thành quyết định. Thần thức bước vào giai đoạn
thứ ba để tìm đường tái sanh.
Khi thần
thức thực sự được tái sanh trong thế giới này hay thế giới khác, thì trạng
thái sau khi chết sẽ chấm dứt.
Nói
chung, sự mô tả như trên là một tiến trình bình thường. Còn đối với các
tâm thức đặc biệt, có sự tu tập và giác ngộ, thì chỉ trải qua giai đoạn
của những ngày đầu tiên sau khi chết mà thôi. Một vị chân tu giác ngộ có
thể không phải trải qua giai đoạn mang thân trung ấm bằng cách đến
thẳng cảnh giới của chư thiên, rồi với một hóa thân ở đó, sau khi đã vứt
bỏ xác thân bằng xương thịt họ vẫn giữ được sự sống liên tục của tâm thức,
không dứt đoạn. Khi đó, vị ấy suy nghĩ như thế nào sẽ tức khắc trở thành
như thế ấy, trong hiện tại cũng như trong vị lai, bởi vì chính tâm thức
tạo ra thế giới sự vật và là nguồn gốc của mọi hành động tốt hay xấu.
Nhân đã gieo thế nào thì quả sẽ gặt đúng như thế ấy.
Trong
suốt thời gian ở trong trạng thái chuyển tiếp khi chưa tái sanh vào một
đời sống khác, thần thức người chết luôn bị các ảo tưởng của nghiệp lực
chi phối. Thân trung ấm được sung sướng hay đau khổ tùy theo mỗi
trường hợp nghiệp lực cá biệt của mỗi người.
Ngoài sự
giải thoát bằng cách được vãng sanh về một trong các cõi tịnh độ
của chư Phật sau khi chết, nếu phải tái sanh thì cảnh giới tốt nhất được
khuyến khích chính là cõi người. Tái sanh vào bất cứ cảnh giới nào khác
với cảnh giới của loài người đều sẽ làm trì trệ việc tu tập để đạt đến
giải thoát hoàn toàn.
Có một ý
nghĩa tâm lý xác định gắn liền với hình ảnh các thiện thần hiện ra trong
giai đoạn mang thân trung ấm. Nhưng muốn nắm hiểu được điều ấy,
chúng ta không nên quên rằng các cảnh tượng mà thần thức người chết nhìn
thấy trong giai đoạn mang thân trung ấm không phải là những cảnh
tượng thật. Chúng chỉ là ảo giác biểu lộ các tưởng tướng do tâm thức của
người ấy tạo ra. Hay nói một cách khác, chúng là các hình tướng được nhân
cách hóa của những thôi thúc thuộc tinh thần trong trạng thái sau khi
chết.
Như vậy,
các thiện thần là các hình tướng được nhân các hóa của những tình
cảm thuộc nhân tính cao cả nhất, có nguồn gốc ở trung tâm tâm lý
của con tim. Chúng được hiện ra trước dưới dạng thức các vị thiện thần,
bởi vì theo tâm lý mà nói thì các thôi thúc của con tim luôn đi trước các
thôi thúc của trí óc. Chúng hiện ra với hình dạng các thiện thần để tác
động đến thần thức người chết vì những mối liên hệ của họ với thế giới
loài người chỉ vừa mới bị dứt đoạn. Người chết đã bỏ lại những bà con thân
thuộc, bạn bè và những công việc còn dở dang, những ước muốn chưa thỏa
mãn; và trong nhiều trường hợp họ cảm thấy một sự luyến tiếc sâu sắc, một
ước mong tìm lại được cơ hội đã mất để được giác ngộ về tinh thần trong
một đời sống khác ở kiếp người.
Nhưng
nghiệp lực thường mạnh mẽ hơn mọi sự thôi thúc và luyến tiếc của họ. Nếu
nghiệp lực của người chết không cho họ được giải thoát trong các giai đoạn
đầu thì họ đi lang thang xuống đến các giai đoạn mà sự thôi thúc của con
tim phải nhường chỗ cho những thôi thúc của trí óc.
Cũng
giống như việc các thiện thần là sự nhân hóa các tình cảm, các ác thần là
sự nhân hóa các lý luận và nguồn gốc của chúng nằm ở trung tâm tâm lý của
trí óc. Nhưng một thôi thúc phát xuất từ con tim cũng có thể biến đổi
thành lý luận trong trí não, cho nên các ác thần cũng có thể là các thiện
thần được tái hiện dưới một dạng thức khác.
Sau khi
các thôi thúc tình cảm giảm dần và những thôi thúc lý trí hoạt động, và
thần thức người chết càng lúc càng nhận biết được tình trạng đang diễn
tiến. Họ bắt đầu dùng các khả năng siêu việt của thân trung ấm theo
cách như một đứa trẻ bắt đầu dùng các khả năng thuộc giác quan của bình
diện con người. Tuy nhiên, nghiệp lực vẫn làm chủ và xác định những giới
hạn. Trong đời sống con người thì các thôi thúc thuộc tình cảm hoạt động
mạnh trong thời trẻ và mất dần đi khi về già; khi ấy chúng được thay thế
bằng những lý luận. Cũng vậy, trong giai đoạn mang thân trung ấm
sau khi chết, các kinh nghiệm được trải qua ban đầu sung sướng hơn các
kinh nghiệm sau chót.
Trong một
ý nghĩa khác thì các thiện thần hay ác thần chính là sự biểu hiện của tâm
thức, là biểu hiện của những thần lực phổ quát. Người chết liên hệ với các
thần lực đó một cách mật thiết, không thể dứt được. Người chết là một tiểu
vũ trụ trong đại vũ trụ; tất cả các thôi thúc thâm nhập xuyên qua họ, cũng
như tất cả các năng lực tốt hay xấu.
Theo ý
nghĩa đó, Samanta Bhadra
chính là cái thiện phổ quát, nhân hóa thực tại, tức là ánh sáng
trong suốt nguyên sơ của pháp thân vô sanh, vô tướng. Ðức Phật Ðại Nhật
là nguồn gốc của tất cả các hiện tượng, là nguyên nhân của các nguyên
nhân. Ðức Phật Ðại Nhật làm hiển lộ mọi sự vật giống như người ta gieo
giống; đức Phật mẫu, Hư không nhãn là tâm địa phổ quát đón
nhận các hạt giống ấy. Từ đó, chúng biến hóa thành các hệ thống của những
thế giới. Kim Cang Tát-đỏa tượng trưng cho sự bất biến; đức Phật
Bảo Sanh là vị tượng trưng cho nguồn gốc của mọi cái đẹp trong vũ trụ.
Ðức A-di-đà là lòng từ bi vô hạn. Phật Bất Không Thành Tựu
là sự nhân hóa quyền năng tối thượng, vạn năng. Các thiện thần, ác thần
tương ứng với các tư tưởng xác định của người chết, với các đam mê, sự
thôi thúc mãnh liệt hay vừa phải, thuộc nhân tính hay của bậc siêu nhân
hoặc hạ tiện...
Trong
quyển sách này cũng chỉ ra rất rõ bằng những lời xác ngôn lặp đi lặp lại,
rằng không một vị thiện thần, ác thần hay cảnh tượng nào được trông thấy
là có thực cả. Ðối với thần thức người chết, khi trông thấy mọi cảnh
tượng, chỉ cần biết rằng đó là biểu hiện những tư tưởng riêng của chính họ
là đủ. Chúng đơn thuần chỉ là nội dung của ý thức hiện ra do tác dụng của
nghiệp thức, cũng như các bóng dáng trong trạng thái trung gian của những
hoa đốm ở hư không, dệt thành các giấc mộng... Sự nhận thức trọn vẹn về
tâm lý này sẽ giải thoát cho thần thức người chết ngay trong thực tại. Vì
lẽ đơn giản đó mà quyển Luận vãng sanh này đã được tôn xưng là Ðại
giáo lý dẫn đến sự giải thoát qua lắng nghe.
Thần thức
người chết là khán giản duy nhất của một toàn cảnh kỳ diệu, những thấy
biết ảo giác. Mỗi mầm tư tưởng của nội dung ý thức đều theo nghiệp lực
sống lại, và thần thức người chết giống như một đứa bé kinh ngạc khi nhìn
các hình ảnh được phóng to trên màn ảnh. Họ quan sát các cảnh tượng mà
không biết rằng đó chỉ là ảo ảnh, hoàn toàn giả dối, hư huyễn, trừ khi
trước đây họ đã có một quá trình tu tập chứng ngộ.
Trước
tiên là các cảnh tượng sung sướng và vinh quang, phát xuất từ những mầm
thôi thúc và khát vọng có tính cách thánh thiện nhất. Nhưng những cảnh
tượng đó cũng có thể làm cho người không hiểu biết phải khiếp sợ.
Tiếp đó,
các cảnh tượng ấy tan biến thành những cảnh phát xuất từ các yếu tố tinh
thần tương ứng với bản chất thấp kém hay thuộc thú tính. Các cảnh tượng
này làm cho thần thức người chết hoảng hốt và muốn trốn chạy. Nhưng than
ôi, các cảnh tượng ấy với thần thức người chết vốn chỉ là một, nên
dù họ chạy trốn ở đâu chúng cũng bám theo họ.
Không hẳn
là tất cả những người chết đều trải qua, đều nhìn thấy cùng những cảnh
tượng giống như nhau, cũng giống như mọi người không ai có thể cùng sống
chung và nhìn thấy giống như nhau trong một cơn ác mộng. Những gì mà người
chết trước đây đã từng học hỏi thì họ sẽ tin vào điều đó. Những tư tưởng
được gieo cấy vào tâm thức của con người có thể ảnh hưởng trọn vẹn đến nội
dung tinh thần người ấy.
Do đó,
người Phật tử, người tín đồ Ấn Ðộ giáo, hoặc Hồi giáo, Cơ Ðốc giáo... đều
sẽ trải qua các cảnh tượng khác nhau khi mang thân trung ấm, sẽ
nhìn thấy những gì theo đúng như giáo lý họ đã được truyền dạy...
Những
kinh nghiệm sẽ trải qua sau khi chết hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung tâm
tưởng của mỗi người. Hay nói một cách khác, như đã được giải thích, tình
trạng sau khi chết rất gần giống với tình trạng của một giấc chiêm bao; và
các giấc mộng ấy là do tâm trạng của người nằm mộng sản sanh ra. Tâm lý
này giải thích một cách khoa học tại sao những người sùng đạo, trong Cơ
Ðốc giáo chẳng hạn, đã đưa ra những chứng cứ của các bậc thánh, hoặc những
trường hợp xuất thần, hoặc trong giấc mộng, đã thấy được đức Chúa Cha ngồi
trên ngôi, có đức Chúa Con bên cạnh, và thấy cả những cảnh giống như trong
Kinh Thánh mô tả, với các thuộc tính của bầu trời, hoặc thấy đức Mẹ đồng
trinh, các vị thánh và các thiên sứ, hoặc những chỗ đền tội và địa ngục...
Quyển
sách này có vẻ như được căn cứ trên những dữ kiện có thể kiểm chứng được
bằng chính kinh nghiệm của con người về mặt sanh lý và tâm lý, và đã phân
tích vấn đề sau khi chết như một vấn đề đơn giản thuộc về tâm lý. Rất khoa
học là ở điểm này.
Sách đã
xác quyết nhiều lần rằng: Những gì được trông thấy trong giai đoạn mang
thân trung ấm là hoàn toàn do nội dung tâm trạng riêng của người chết
mà hiện ra. Không có cảnh tượng nào, thiện thần hay ác thần nào ngoài
những hiện tướng xuất phát từ các ảo giác thuộc nghiệp thức của những
tuởng tướng đã tạo ra. Ðây là một kiểu sản phẩm vô thường sản sanh ra từ
nơi đức tin, sự khao khát được hiện hữu và ý chí muốn sống còn.
Từ ngày
này sang ngày khác, những cảnh tượng của thân trung ấm dần dần thay
đổi, phù hợp với sự phát khởi cũa các tưởng tướng cũa thần thức người
chết, cho đến khi nghiệp lực chiếm lấy quyền chi phối và dẫn đến sự tái
sanh. Khi sự tái sanh thực sự bắt đầu, tình trạng sau khi chết chấm dứt và
người nằm mộng ra khỏi giác mộng, lại bắt đầu trải qua các hiện tượng của
đời sống mới.
Kinh
Thánh của đạo Cơ Ðốc, cũng như kinh Koran của đạo Hồi không hề cho
rằng các kinh nghiệm tâm linh với dạng thức những ảo giác được nhìn thấy
của các nhà tiên tri hay một tín đồ sùng đạo lại có thể là không thật.
Nhưng sách Luận vãng sanh này đã trình bày vấn đề một cách dứt
khoát đến nỗi tạo ra nơi người đọc một ấn tượng rất rõ là: Mọi cảnh tượng
được trông thấy, bất cứ là cảnh tượng gì, đều chỉ thuần túy là hư huyễn
không có thật. Dù là các thiện thần, ác thần, cảnh thiên đàng hay địa
ngục... tất cả đều chỉ là ảo mộng, căn cứ trên sự biến hiện của tâm thức
trong cuộc sống luân hồi.
Toàn bộ
nội dung của quyển sách này đều hướng về moät mục đích duy nhất là tạo
điều kiện cho sự thức tỉnh của thần thức người chết, trở về với thực tại.
Một khi thần thức người chết đã thoát khỏi được mọi sự che mờ của các ảo
tưởng thuộc nghiệp thức hay thuộc sự sống luân hồi thì sẽ đạt được một
thực trạng Niết-bàn siêu việt tất cả các hiện tượng như thiên đàng,
địa ngục, các cõi trời, người, súc sanh...
Trong
những cảnh tượng được xác định là giả dối, không thật, sách này cũng có đề
cập đến một vấn đề tương tự như là sự phán xét thiện ác sau khi chết.
Những gì được mô tả ở đây và trong quyển “Sách dành cho người chết”
của Ai Cập rất giống nhau, về những điểm cơ bản, đến nỗi người ta có thể
tin rằng chúng có cùng một nguồn gốc. Trong sách của Tây Tạng, vua Diêm
Vương được gọi là Dharma-Ràja, sách của Ai Cập gọi là Osiris.
Trong hai câu chuyện được kể lại, người ta thấy đều có cảnh cân lường
tượng trưng. Với Dharma-Ràja, có những hòn sỏi đen được đặt lên một
đĩa cân và đĩa cân bên kia là những hòn sỏi trắng. Sỏi trắng và sỏi đen
tượng trưng cho những hành động tốt hoặc xấu. Với Orisis thì quả
tim được đặt lên một đĩa cân và đĩa cân bên kia là chiếc lông vũ, hoặc đôi
khi là hình tượng vị nữ thần công lý. Quả tim tượng trưng cho đạo đức của
người chết, và chiếc lông vũ tượng trưng cho sự ngay thật hay công lý.
Trong
quyển “Sách dành cho người chết” của Ai Cập thì người chết nói với
quả tim mình rằng: “Ðừng trở thành một sự hiển nhiên chống lại ta, đừng
là kẻ thù của ta trước vòng thánh thiện. Mong sao cho đĩa cân đừng lệch về
phía chống lại ta trước mặt ngài thánh vương Amenti.” Thần Toth
đầu khỉ là thần trí tuệ kiểm soát sự cân lường.
Trong sự
phán xét của Tây Tạng thì thần Shinje cũng có đầu khỉ, làmviệc ấy.
Cả hai cảnh đều xảy ra trước một “bồi thẩm đoàn” gồm các thiên thể,
kẻ thì đầu thú, kẻ thì đầu người. Trong sách của Ai Cập thì một vị thần
hung bạo chờ đợi để nuốt tươi người chết nếu họ bị kết án, còn trong sách
của Tây Tạng thì các hung thần đứng đợi để đưa kẻ làm ác vào thế giới bị
hành hình. Bản tổng kết các tội lỗi mà người ta nói là do thần trí tuệ
Toth cầm giữ, lại tương xứng với kính chiếu nghiệp do
Dharma-Ràjf nắm giữ; hoặc như trong một số câu chuyện khác thì kính
chiếu nghiệp do một vị thần dự vào bồi thẩm đoàn nắm giữ.
Trong cả
hai quyển sách, khi sự phán xét diễn ra chúng ta đều thấy người chết hướng
về quan tòa để tự bào chữa là mình đã không làm ác. Trước mặt
Osiris thì sự bào chữa ấy được chấp thuận, còn trước mặt
Dharma-Ràja thì sự bào chữa đó phải được kính chiếu nghiệp xác
nhận lại. Ðây là nét đặc biệt của Ấn Ðộ hay của Phật giáo nói riêng. Theo
ức đoán, có thể là từ một nguồn gốc chung vào thời cổ xưa đã hình thành
nên hai tập sách của Ai Cập và Tây Tạng, nhưng tập sách của Ai Cập hình
như đã ít biến đổi hơn.
Trong
quyển thứ 10 của tập “Livre de la Republique”, khi kể về những cuộc
phiêu lưu của Er trong thế giới bên kia, Plato đã mô tả một
sự phán xét tương tự. Trong đó, người ta thấy có các quan tòa, các bản ghi
tội lỗi được gắn vào các linh hồn bị phán xét, và những con đường dẫn đến
những nơi khác nhau. Người hiền lành đi vào đường dẫn lên trời, người ác
độc đi xuống đường vào địa ngục. Có những hung thần đứng chờ để dẫn các
linh hồn bị kết án vào nơi trừng phạt.
Tín
ngưỡng về sự đền tội ngày nay đã được đạo Cơ Ðốc tin nhận, được thánh
Patrick giảng dạy ở Irlande. Hệ thống các truyện truyền kỳ của
người Celtes về thế giới bên kia và những chuyện tái sanh lẫn lộn
với các tín ngưỡng của họ về các bà tiên; truyện truyền kỳ của
Proserpine được kể lại một cách phổ quát trong nhiều quyển sách thiêng
của nhân loại; những giáo lý của người Sémites ở Tiểu Á về trời,
địa ngục, về sự phán xét, và về sự sống lại; cùng với câu chuyện của
Plato, tất cả những điều đó đã chứng minh rõ về một tín ngưỡng phổ
quát, chắc hẳn là đã có từ xa xưa, vào trước thời kỳ các truyện cổ của xứ
Babylone và của Ai Cập.l
Bức tranh
trình bày sự phán xét theo truyền thuyết của một tu viện ở Gantok,
thuộc xứ Sikkim, Tây Tạng, được vẽ năm 1919, do một hoạ sĩ người
Tây Tạng tên là Lharipa-Pempa-Ten-dup-La vẽ trong thời gian tạm trú
ở đó. Một trong những bức tranh tường xưa nhất cũng vẽ đề tài ấy cho đến
gần đây vẫn còn được giữ nguyên vẹn tại điện Tadishing ơû Sikkim.
Trong bức họa diễn tả bánh xe luân hồi của sự sống.
Tiến sĩ
L. A. Waddell đã mô tả nó như sau: “Sự phán xét bao giờ cũng có
Dharma-Ràja vô tư chủ trì. Ngài cầm một tấm gương soi, trong đó hiện rõ
trọn vẹn linh hồn của người chết, trong lúc thần Shinje cân các hành động
tốt để đối chiếu với các hành động xấu, bằng những hòn sỏi màu trắng và
màu đen.” Ông cũng cho biết, nguồn gốc của hình ảnh đó là do một bức
tranh cùng loại diễn tả “bánh xe của sự sống” thường được gọi là
le Zodiaque, hiện ở nơi cửa vào của hầm nhà số 17, Ajantaø, Ấn
Ðộ. Ðiều này minh định tính cách cổ xưa của hình tượng phán xét mà trong
sách này mô tả.
Khi phân
tích những giáo lý trình bày vũ trụ quan của Phật giáo, và trước đó là Ấn
Ðộ giáo, chúng ta có thể đạt đến một sự hiểu biết rộng rãi. Ðây có thể xem
là một khoa học được lưu truyền từ thời rất xa xưa của các môn thiên văn
học, hình thái học, vận hành học, đã cố gắng mô tả về các tinh cầu và giải
thích các thế giới. Một số thế giới được cho là ở dạng rắn có thể trông
thấy được – khoa học phương Tây chỉ biết được những thế giới loại này -
còn một số thế giới khác ở dạng khí, hay nói đúng hơn là vô hình nên không
thể trông thấy được, nhưng vẫn hiện hữu trong trạng thái có thể tạm gọi là
chiều thứ tư của không gian.
Núi
Tu-di được mô tả là nằm ở trung tâm vũ trụ. Thế giới của chúng ta bao
quanh nó, được sắp xếp thành 7 vòng đại dương, ngăn cách nhau bằng 7 vòng
núi đồng tâm màu vàng ánh. Núi Tu-di là cái trục chính, là điểm tựa
của cả thế giới. Cách mô tả này có thể xem là tương đương như mặt trời ở
trung tâm của thiên văn học Tây phương, trung tâm dẫn lực của vũ trụ hiện
hữu.
Ngoài bảy
vòng đại dương và bảy vòng núi vàng ánh xen kẻ là những vòng đại lục.
Như đã
nói, núi Tu-di là cái lỏi của thế giới. Bên dưới núi là các tầng
địa ngục, bên trên núi là các tầng trời của chư thiên, được tin là thuộc
quyền cai trị của vua trời Ðế Thích.
Ngang cấp
với tầng trời của Ðế Thích, có tám vị Thánh mẫu, mỗi vị ở một tầng trời
riêng. Những vị này chính là các thánh mẫu của Ấn Ðộ giáo xưa kia.
Trong núi
Tu-di, chỗ dựa của các tầng trời, có 4 cõi thế giới chồng lên nhau.
Ba cõi phía dưới có các vị thiên thần cư trú, cõi thứ tư cao nhất, nằm
trực tiếp dưới các tầng trời. Cư dân ở đây là hạng a-tu-la,
được mô tả là phải chịu đọa đày vì sự kiêu ngạo, và trong đời sống của
mình họ không ngừng gây chiến với chư thiên ở các tầng trời cao hơn.
Vây quanh
núi Tu-di là đại dương. Tiếp theo bên ngoài là một lớp núi vàng
ánh, kế đó lại là một đại dương khác. Cứ một vòng núi lại đến một vòng đại
dương, nối tiếp cho đến vòng thứ 15 là vòng đại dương ngoài cùng, trong đó
có các đại lục và những hải đảo phụ thuộc. Cuối cùng là một bức tường sắt
bao quanh toàn thể vũ trụ.
Bên ngoài
của vũ trụ như vừa được mô tả là một vũ trụ khác, cứ như thế nối tiếp vô
biên vô tận. Mỗi vũ trụ đều khép kín trong một bức tường sắt che khuất ánh
mặt trời, mặt trăng, và các tinh tú. Bức tường sắt ấy là biểu tượng của
bóng tối ngăn cách thế giới này với thế giới khác. Tất cả các vũ trụ đều
chịu sự chi phối của một định luật tự nhiên gọi là nghiệp lực. Phật giáo
không hề xác nhận hay phủ nhận sự hiện hữu của một đấng sáng tạo thế giới,
nhưng định luật về nghiệp quả đã đưa ra một cách giải thích hợp lý và đầy
đủ về các hiện tượng trong vũ trụ.
Những
điều được mô tả cần phải được hiểu theo ý nghĩa tượng trưng hơn là những
chi tiết cụ thể. Chẳng hạn núi Tu-di được mô tả là cao 80.000 dặm
bên trên đại dương, và chiều sâu của chân núi ở dưới nước cũng tương đương
như vậy. Ðại dương ở trong cùng cũng sâu và rộng 80.000 ngàn dặm. Vòng núi
kế tiếp về phía ngoài có kích thước bằng một nửa, và đại dương vây quanh
vòng núi ấy cũng vậy, nghĩa là chỉ có 40.000 ngàn dặm chiều sâu và rộng.
Càng ra xa trung tâm, các vòng núi và đại dương phía ngoài càng giảm kích
thước đi, cả về chiều cao, chiều sâu và chiều rộng. Cứ mỗi vòng lại giảm
đi một nửa, nên kích thước giảm dần là 20.000 dặm, 10.000 dặm, 5.000 dặm,
2.500 dặm, 1.250 dặm, 625 dặm...
Trong số
các đại lục, có 4 đại lục chính nằm ở 4 phương, được mô tả trong sách này.
Nằm bên cạnh mỗi một đại lục lại có hai đại lục nhỏ hơn, đưa tổng số các
đại lục lên số 12, là một số tượng trưng trong sự sắp xếp vũ trụ, tương tự
như số 9.
Ðại lục ở
phương đông là Ðông Thắng Thân Châu.
Hình tượng trưng của nó là hình mặt trăng lưỡi liềm, có màu trắng. Cư dân
ở đó có khuôn mặt hình lưỡi liềm, có tinh thần bình thản và đức hạnh. Ðại
lục này được mô tả là có đường kính 9.000 dặm.
Ðại lực ở
phương nam là quả đất của chúng ta, có tên là Nam Thiệm Bộ Châu.
Hình tượng trưng của nó là hình xương bả vai của con cừu, nghĩa là giống
hình quả lê, đó cũng là hình gần đúng với khuôn mặt của cư dân nơi đây.
Ðại lục này có màu sanh dương. Tại đây cuộc sống giàu có phong phú và có
sự lẫn lộn giữa cái tốt với các xấu. Với 7.000 dặm đường kính, nó là đại
lục nhỏ nhất.
Ðại lục ở
phương tây gọi là Tây Ngưu Hóa Châu.
Ðại lục này có hình mặt trời, màu đỏ. Cư dân ở đây có khuôn mặt tròn, rất
mạnh bạo và có thói quen dùng súc vật để nuôi sống mình. Ðường kính của
đại lục này là 8.000 dặm.
Ðại lục ở
phương bắc gọi là Bắc Câu Lô Châu.
Ðại lục này hình vuông, có màu xanh lá cây. Cư dân ở đó có khuôn mặt hình
vuông như hình mặt ngựa. Cây cối cung cấp thức ăn và các món cần dùng cho
họ. Khi chết đi, họ thường quanh quẩn nơi các thân cây, như những thần núi
hay thần rừng. Ðây là đại lục rộng nhất với 10.000 dặm đường kính.
Mỗi đại
lục nhỏ nằm kế cận lại giống với đại lục mà nó phụ thuộc, và có kích thước
bằng một nửa đại lục chính. Bên trái của Nam Thiệm Bộ Châu là thế
giới của loài quỷ la-sát
hung dữ. Người ta tin rằng vị Ðại giáo chủ Liên Hoa Sanh hiện nay đang trị
vì ở đó với mục đích là để giáo hóa cho loài la-sát hung ác này về
lòng tốt và đường lối tu tập để đạt được giải thoát.
Ý nghĩa
sâu kín ẩn sau những sự mô tả về vũ trụ như vừa trình bày trên là một
phương thức tượng trưng đã được cố ý tạo ra. Chẳng hạn như, tiến sĩ
Wadded đã nhận xét về cách mô tả núi Tu-di như sau: “Sườn phía
đông của núi bằng bạc, sườn phía nam bằng vân thạch, sườn phía tây bằng
ngọc đỏ, sườn phía bắc bằng vàng. Ðiều này chứng tỏ việc sử dụng các biểu
tượng cũ, rất giống với các biểu tượng thiên khải của thánh Jean.”
Việc giải
thích đầy đủ toàn bộ vũ trụ quan theo phương thức biểu tượng của Phật giáo
sẽ còn phải đi rất xa, vượt ra ngoài khuôn khổ của phần dẫn nhập này. Ðể
tạm kết thúc vấn đề, ở đây cần lưu ý một điều là : Các vị Lạt-ma
Tây Tạng tin rằng họ đã nắm được những điểm then chốt để giải thích quan
điểm về vũ trụ trong Phật giáo, và những gì mà người phương Tây đã biết về
vấn đề này chỉ mới có thể giúp họ đến được nơi ngưỡng cửa để bước vào biển
tri thức mênh mông này.
---o0o---
Mục Lục
>> 01
>>
02
>>
03
>>
04
>>
05
---o0o---
Vi tính: Tâm Như.
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 3-2008