
QUA CỬA CHUYỂN TIẾP
ÐOÀN VĂN THÔNG
Kính thưa
quý vị độc giả
Khi Sống,
Con Người lo đủ việc và nhất là hết lòng chuẩn bị mọi thứ: - Nào chuẩn bị
thi cử, chuẩn bị ra trường, chuẩn bị cưới hỏi, chuẩn bị sinh con, chuẩn bị
nhận việc làm, chuẩn bị mua nhà, chuẩn bị đi du lịch, chuẩn bị đi nằm bệnh
viện vân.. vân...
Nhưng có
một việc rất gần gũi, thiết thực và hệ trọng cho mỗi người thì lại không
thấy ai chuẩn bị cả… Đó là chuẩn bị lúc Lâm chung!.
Tại sao lại
phải chuẩn bị lúc qua đời? Mọi người ai cũng Chết cả, đó là chuyện tự
nhiên, có gì mà phải chuẩn bị? Nhiều người sẽ nói như thế khi nhắc tới chữ
Chết.
Nhưng
chính vì mọi người ai cũng phải Chết nên cũng phải chuẩn bị - mà nên
chuẩn bị kỷ hơn - Vì thật sự Chết không phải là đơn giản như những điều ta
chuẩn bị trên đời Lý do:
- Khi
Chết, ta ra đi chỉ một mình đơn độc.
- Ở ngưỡng
cửa Tử Sinh, vì không Chuẩn bi trước nên ta sẽ bơ vơ, ngơ ngác, lo sợ, mơ
hồ không biết làm gì và tới đâu
- Rời khỏi
thế gian rồi, ta sẽ đi vào những Cõi giới khác mà ta không biết xấu tốt ra
sao? Tâm thức ta lúc ấy vô cùng bấn loạn, sợ sệt kinh hãi, hoang mang.
Vì thế khi
sống ta cần biết rõ khi Chết sẽ ra sao và chuẩn bị trước để lúc lâm chung,
tâm thức ta đủ sáng suốt để nhận định đâu là Cửa tới Cõi An lành hầu
chuyển đổi một kiếp đời mới khác… tốt đẹp hơn…
Tập sách
nhỏ này được biên soạn qua các tài liệu Kinh sách giá trị - Hy vọng sẽ
giúp mọi người có được một số chuẩn bị hữu ích cho lúc phải già từ thế
gian này.
Soạn giả
Đoàn văn Thông
Khi giải
thích về Sự Chết, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói rằng: "Chết là một phần tự
nhiên của Sự Sống - Chết không có gì bất công và đáng sợ vì ai rồi cũng
phải Chết và Chết không phải là “Mất hẳn”. Tuy nhiên không ai biết trước
là mình sẽ Chết vào lúc nàoVà Chết ra sao? - Vì thế, tốt nhất là ta
nên chuẩn bị - Hãy xem sự chết như là một sự đi xa. . .".
Tại sao mọi
người đều biết rõ là người đi du lịch thường chuẩn bị trước nhiều thứ
trước khi đi mà lại không biết chuẩn bị trước cho mình nhiều việc trước
khi cái chết sẽ phải đến?
Tìm hiểu
sự Chết rất quan trọng và cần thiết cho tất cả mọi người - Vì sự thật hiển
nhiên là mọi người ai cũng phải tới lúc Chết - Vậy thì tìm hiểu sự chết sẽ
giúp kịp thời chuẩn bị cho mình được an bình, thuận lợi khi phút lâm chung
đến. Đừng đợi tới khi sắp qua đời mới lo thì không còn kịp nữa...
Đại Đức
Sogyal Ripoche khi viết về Sự Chết đã ghi nhận rằng: Trên thế giới, nhất
là nơi những xã hội tân _tiến - quả thật là rất ít người hiểu biết về cái
chết - trước khi Chết, trong khi Chết và sau khi Chết như thế nào..?
Nhiều người
như cố quên về cái chết, cho cái Chết là đáng sợ, không dám nhắc tới.
Nhưng cũng có người lại làm ra vẻ thản nhiên bất cần, coi thường sự chết
bằng cách biểu lộ qua lời nói: “Ôi! Ai rồi cũng chết cả vậy thì lo sợ,
nghĩ ngợi làm chi cho mệt! Cứ để cho nó tới”.
Thật sự thì
lời nói đó chỉ là để khỏa lấp về sự chết, chối bỏ sự chết, vì không muốn
nghe chữ chết mà thôi – Nhưng khi sự chết đến gần với họ thì sự lo âu
khủng khiếp không còn làm họ thản nhiên nữa và khi đó vì không có chuẩn bị
trước nên sự ra đi của họ về thế giới bên kia lại chất chứa nhiều đau khổ
và sai lầm . . .
Có người
còn cho rằng Chết là Hết là không còn gì nữa - Vì thế họ sống vội vả, cố
hưởng được những gì họ có trong cuộc đời hiện tại mà họ đang sống chớ
không cần nghĩ đến tương lai, hậu quả của đời sau ra sao - Như vậy họ sống
chỉ là để hưởng thụ, nặng về vật chất mà coi nhẹ hay không nghĩ đến phần
tâm linh - họ chỉ sống với mục đích thuần vật chất chớ không vì mục đích
tâm linh...
Sự chết quả
thật là rất quan trọng, nếu mỗi người tự suy nghĩ về cái giờ phút cuối ấy
thì thật sự là không đơn giản.
Khi biết
được vấn đề trên một cách sâu xa tế nhị và quan trọng thì ngoài sự chuẩn
bị cái chết cho riêng mình, ta còn nên giúp người khác biết chuẩn bị cho
họ được an lành khi cái chết đến với họ ...
Sống trên
thế gian này mọi người đều bị mê muội làm và nghĩ biết bao điều mê muội
trong khi cái chết là cái thực tế đang chờ đợi thì lại không bao giờ để
tâm tới. Ðó chính là cái sai lầm ghê gớm mà mọi con người đã và đang phạm
phải mà không biết.
Con_người
hầu như gần cả cuộc đời mình đã hao phí gần hết thời gian khổ công cho
việc làm ra tiền, xài tiền hay cóp nhặt để dành tiền...Chỉ ngần ấy thôi
cũng đã khiến tiêu tán hết năng lực... để rồi cái chết tới bất ngờ trong
khi ta chưa chuẩn bị gì cả. Mà cái chết thì lại không mang theo được bất
cứ gì.
Khi chết
không ai đem theo được bất cứ cái gì. Dù Vua chúa, người giàu sang hay kẻ
nghèo hèn... một khi đã chết thì không đem theo của cải vật chất nào cả.
Thật vậy,
khi chết, hai tay buông xuôi, quả thật người chết không mang theo được bất
cứ gì nhất là tài sản, tiền bạc. Vì thế trong cuốn Tử thư Tây Tạng thường
nhắc nhở mọi người rằng: trước khi chết ta nên rời bỏ không luyến tiếc
những gì mà ta có – Những tài sản, tiền bạc vật dụng ta nên chia, trao
tặng rõ ràng – như thế là hoàn toàn buông xả, để chính ta cũng không còn
phải phân vân khi ra đi, không còn khao khát, thiết tha, quyến luyến tiếc
nuối... Ngay cả sự thương hay sự ghét cũng phải buông xả, trút bỏ. Có thế
người sắp mất ra đi với “cái tâm bình thản” – không bị ray rứT bịn rịn hay
ràng buộc bởi bất cứ vấn đề gì.
Ngay khi
mới ra đời là ta đã tiến dần tới Cõi chết. Ấy vậy mà ta thì lo gom góp
mọi thứ cho mình để rồi khi Chết ta lại đi có một mình với hai bàn tay
trắng, để lại tất cả những gì mà ta đã khổ công đeo đuổi bấy lâu... Chỉ có
cái ta có thể mang theo là cái Tâm linh tu tập...
(Ðức Ðạt
Lai Ðạt Ma đời thứ 14)
Phần lớn
người Ðông phương lấy làm lạ và có khi phẩn nộ khi thấy bác sĩ Tây phương
hay nói thẳng về sự sống chết cho bệnh nhân biết – Khi biết căn bệnh đã
đến hồi vô phương cứu chữa, bác sĩ thường nói thẳng cho người bệnh biết để
lo liệu trước. Xét cho cùng thì là điều hay, nên làm vì con người ta ai
cũng quen dần với tình trạng hoàn cảnh hiện tại của họ cả. Lúc mới
nghe bác sĩ nói điều không may thì họ rất kinh hãi, sợ sệt – nhưng rồi dần
dà họ sẽ an phận vì không còn con đường nào khác – và những giây phút còn
lại của họ sẽ sống theo với hoàn cảnh của họ - khi đó họ cũng tự nhủ là
con người trước sau rồi ai cũng phải chết – mà sự thật xưa nay đều thế.
Cùng lúc nếu thân nhân bè bạn cũng nói và cùng chấp nhận điều đó với đời
của họ thì người bệnh sẽ cảm thấy phần an ủi rất lớn lao và tự nhiên họ
không còn đau khổ, lo sợ về cái chết sắp tới nữa.
Ðại sư
Soyal Rinpoche đã khuyên mọi người là nên nói một cách tế nhị, khéo léo sự
thật về cái chết cho thân nhân sắp qua đời biết khi căn bệnh họ đã tới hồi
nguy kịch - Ðiều ấy có lợi vì giúp họ “kịp dọn mình, chuẩn bị tinh thần
cho một tình huống phải đến - Nhờ thế mà dần dần họ sẽ cảm thấy yên tâm và
cũng từ đó họ bắt đầu sửa đổi thái độ, tâm linh với mọi người, với gia
đình, với những ân oán, nợ nần, những gì cần giải quyết vân vân cho tốt
đẹp.
Soyal
Rinpoehe là một Đại đức lừng đanh của xứ Tây Tạng, là người am hiểu sâu xa
về Sự chết đã cho biết rằng: Những người sắp chết thường giống nhau về tâm
tư, nguyện vọng. Khi đang còn sống tự nhiên, khi mà cái sự chết chưa di
chuyển dần đến với họ thì họ chưa cảm nhận được sự chết ra sao cả.
Nhưng khi sự chết đến gần họ rồi, họ đã cảm nhận được rồi thì lúc đầu, họ
cảm thấy dè đặt, bất an. Nhưng Rồi từ từ, tinh thần họ sẽ an bình kế cận
với cái chết - Điều quan trọng lúc đó họ thích thổ lộ những điều liên quan
tới cái chết và những điều mà họ mong mỏi ước ao.
Theo
Đại đức Rinpoche thì nếu người sắp qua đời đã nói được những tâm tư
nguyện vọng của họ một cách tự nhiên thoải mái thì điều ấy sẽ
giúp họ thay đổi được quan niệm sống, thay đổi về cuộc đời mà họ đã
từng trải qua để đi vào thế giới khác một cách bình an tốt đẹp
- Khi bạn đến thăm người sắp chết, nếu họ nói ra những gì về cá nhân
họ, cuộc đời họ, tình cảnh họ, bệnh.tình họ... thì đó là những cảm
nghĩ riêng tư của họ. Hãy để cho họ thổ lộ những gì mà họ muốn nói, đừng
cản lời họ vào lúc đó.
Không những
là không cản trở mà còn khuyến khích, cảm thông với họ, hòa đồng
vào với họ một cách ân cần đầy tình cảm ... khi họ nói ra: Có vậy
họ sẽ có được cảm giác là khi ra đi họ không cô đơn. Lúc này rất quan
trọng, vì người sắp qua đời đang ở vào giai đoạn dễ cảm xúc nhất, nhạy bén
nhất. Khi tiếp xúc với người sắp qua đời, bạn nên tự đặt mình vào với
hoàn cảnh của người sắp mất, đang kề cận với cái chết thì lúc đó tình cảm
bạn đối với họ sẽ chân thật, sâu đậm hơn và lúc đó bạn sẽ hiểu thấu
tâm can, ước vọng hay sự lo lắng của họ hơn - còn họ thì lại cảm
thấy an bình thanh thản như trút được gánh: nặng và có người vào
lúc đó cảm thấy như có được người cảm thông hòa điệu với mình khiến
họ an bình can đảm hơn. Nói tóm lại bạn phải tỏ ra tự nhiên không hốt
hoảng, lo sợ và tin tưởng là giây phút sắp tới là giây phút mà người sắp
mất sẽ gặp đấng tối cao, họ sẽ được Chúa hay Phật dẫn đắt họ vào cõi tốt
lành an lạc. Đáng ngại nhất và sai lầm nhất là vào giây phút đó người
thân lại hay kêu gào than khóc níu kéo như sợ người mình thương ra đi -
Phải nghĩ rằng mọi người ai rồi cũng phải chết, không đi trước rồi cũng sẽ
đi sau - Có lẽ vì thế mà ông bà ta thường có câu an ủi rằng: Kẻ Chết trước
được mồ được Mả, kẻ Chết sau mồ mả ngả nghiêng. Người đi trước vậy
mà được may mắn..
Theo
kinh nghiệm của Đại đức Rinpoche và những chuyên viên đã từng khảo sát
theo dõi từ Trung tâm tiễn đưa người chết (gọi là Tiếp dẫn đường)
tại St.Christopher (Anh quốc) thì người sắp qua đời có nhiều nổi lo lắng
bồi hồi mà một trong những lo sợ ấy là sự đau đớn trong khi sắp qua đời.
Nếu lúc ấy, người sắp qua đời đau đớn thân xác thì cần phải có sự chăm sóc
tận tình nhưng đừng hốt hoảng. Các loại thuốc giảm đau có thể dùng nhưng
tránh đừng dùng nhiều chất á phiện. Sự làm giảm đau đớn cho
người sắp qua đời nếu họ bị đau đớn sẽ giúp cho thần trí của họ được sáng
suốt bình tỉnh hơn, giúp họ giữ được ý thức và tự chủ vì trước giây phút
Thần thức thoát ra khỏi cơ thể, giây phút quan trọng trong sự chuyển tiếp
- mà t. óe - không minh mẫn, không sáng suất, thần trí hơn loạn vì
những cơn đau đớn thì sẽ dễ bị tối tăm lầm lạc mà đi vào những
đường xấu xa bất lợi (Lục đạo) - ( sẽ trình bày rõ về Lục đạo là 6
con đường trong sách này ). Do đó, thật phước lành cho ai khi sấp lìa đời
mà không đau đớn, từ từ như đi vào giấc ngủ bình thường.
Ngoài Vấn
đề đau đớn thân xác, người sắp qua đời còn mang nặng một nổi niềm luyến
tiếc, bịn rịn vì chưa hoàn tất một công việc, một ước vọng hoặc chờ mong
việc gì đó. Ngoài ra về mặt tình cảm, ngoài bịn rịn gia đình, cha mẹ, vợ
con, đôi khi họ còn phiền muộn lo âu về những điều họ đã phạm phải tội
lỗi, những mối căm thù, những món nợ vân vân mà họ chưa giải quyết xong...
Đây là sự thật và cũng là điều đáng ngạc nhiên - phải chăng lúc lâm
chung con người sắp ra đi, họ thường tỏ ra thánh thiện? Phần lớn
người sắp qua đã thường tha thứ những gì mà người khác đã gây hại
cho họ, kể cả kẻ thù mà lúc còn sống họ rất căm giận. Ngay cả nợ nần
họ cũng nhớ và muốn giải quyết dứt khoát. Anh
Trần H Loan là một quân nhân đã kể rằng: trong một cuộc đụng độ xảy ra
vào năm 1966, người bạn thân của anh là Nguyễn V Lễ bị đạn trọng
thương lúc hấp hối đã nhờ anh nhắn gởi với gia đình những lời trăn trối và
còn bảo:" 'tôi còn nợ thằng Sáu trong đại đội 350 đồng nhớ trả giùm.."
Những điều
vừa trình bày trên cho thấy ở phút lâm chung, con người tự nhiên tốt lành
hơn, cởi mở hơn, thánh thiện hơn, tất cả như buông xả nên họ dễ dàng tha
thứ. Ngay cả tử tội, trước khi thọ hình cũng thường tỏ ra
ăn năn hối cải những lỗi lầm mà mình đã phạm phải.
Tại một số
bệnh viện ở Luân Đôn - Anh quốc, khi thuyết giảng về những giây phút trước
lúc lâm chung cho bệnh nhân, Đại đức Soyal Rinpoche đã lưu ý rằng:
"Các bệnh viện cần tôn trọng ước nguyện của người sắp qua đời cũng như
cần để cho họ được nằm yên và giữ im lặng càng nhiều càng tốt -- "' Vì
giây phút lâm chung sắp đến tâm linh họ cần được mở ra. Do đó khi biết
được người bệnh không thể nào qua khỏi thì tốt nhất là gở bỏ những gì gài,
cắm vào cơ thể người bệnh như các dây nhợ, kim tiêm, máy đo, thuốc truyền
vào cơ thể vân vân để thân thể người sắp qua đời được tự nhiên, tâm trí
thanh thản.... Đồng thời người thân túc trực bên thường nói lời tốt đẹp
hay cầu nguyện cho người sắp mất và săn sóc tâm linh cho họ . . .Có thế sự
ra đi của họ mới mong được an bình.
Ngày thứ
49 sau khi mất rất quan trọng - vì đó là thời hạn lâu nhất mà Thân
Trung ấm chuyển đi vào một kiếp đời khác (đầu thai) Giai đoạn này nên có
Sư hay Linh mục hoặc bạn bè bổn đạo, khuôn hội tới đọc kinh, tụng ít kinh
giúp hương linh siêu độ. Đây là việc nên làm nhất: "(Một thời điểm khác
cũng rất quan trọng là hai tuần sau khi mất tức là khoảng nửa tháng, thời
gian ấy nên đọc kinh, tụng kinh cầu nguyện cho hương linh được vãng sanh
cực lạc hay thiên đường tùy theo tôn giáo họ.
Trong hai
thời điểm ấy nếu thân nhân làm việc nhân đức thiện nguyện bố thí với ý
hướng làm thay người mới qua đời cũng phần nào giúp lợi lạc cho họ về mặt
tâm linh, chuyển kiếp. . .
Đối với
người Tây Tạng thì việc làm phước thiện nhân danh người chết là một việc
làm có ý nghĩa nhất - Đó là cách trả ơn, tỏ lòng thương mến và hổ trở
người đã mất hay nhất chớ không phải cứ ủ rũ than khóc tiếc nuối sầu
thương cũng chẳng ích gì. Cho vong linh người quá vãng...
Người nào
đã từng ở cạnh người sắp chết họ sẽ học được thế nào là nỗi lo sợ, cô đơn
của người sắp qua đời - Nếu người ở cạnh ấy cảm thấy lo sợ thì mối lo sợ
đó cũng giống mối lo sợ của người đang nằm trên giường. Nhờ vậy mà những
người đã từng ở cạnh kề người sắp mất như thế sẽ có được nhiều thiện tâm
hơn vì chính họ cũng như đã từng trải qua giai đoạn của lúc lâm chung đó -
Họ sẽ nhìn đời khác hơn và nhận chân rõ đời người hơn, xem giá trị của tâm
linh cao hơn vật chất. Cô M.Ph làm việc tại một bệnh viện lớn tại Colorado
Hoa Kỳ - tuy còn rất trẻ, phần hành của cô là chăm sóc an ủi những người
sắp qua đời -. Cảm tưởng của cô sau gần 6 năm làm việc ở bệnh viện với độc
nhất công việc đầy buồn bả này là: Tự nhiên tôi nhận thức cuộc đời có phần
khác với nhận thức của bạn bè tôi cũng như anh chị em tôi - Tôi nghĩ là
không nên ganh ghét, căm thù ganh tỵ bất cứ ai vì chung cuộc tất cả có lẽ
cũng giống nhau về hình ảnh thường diễn ra sát bên cạnh tôi, lúc nào tôi
cũng thấy những con người chân thật đầy lòng thương và đầy quyến luyến -
những người sắp ra đi- Hình như hầu hết những người sắp ra đi đều bao dung
vị tha.. Tại sao ta không bao dung, cởi mở, thiện tâm trong lời nói, hành
động, việc làm ngay khi ta đang còn sống trên đời.
Càng
ngày con người càng tin vào luật Nhân Quả - và ngay cả Khoa học cũng đang
tiến dần vào việc xác nhận sự kiện nữa, riêng tôi, tôi tin vào Luật Nhân
Quả . . " Albert Einstein
Điều quan
trọng cần nói là bạn bè, người thân khi kề cận bên người sắp qua đời thì
đừng bịn rịn, khóc lóc, níu kẻo người sắp mất. Nếu ta cứ tạo ra làm mối
cảm thương day dứt thì người sắp qua đời sẽ đau buồn thảm khốc vô cùng
khiến họ khó nhắm mắt - đó chính là điều vô cùng tai hại. Cần nhớ kỷ rằng
khi gần tới phút lâm chung, họ cần phải được an ổn tâm hồn, buông xả tất
cả, không còn gì vướng bận vào giai đoạn quan trọng đó.
Theo
Christine Longaker thì tốt nhất là người thân phải để cho họ ra đi một
cách an bình - thanh thản, tự nhiên - muốn thế, phải làm cho họ an tâm,
nói với họ là mình ở lại không sao cả, không có gì phải lo cả, mọi việc sẽ
ổn thoả sau khi họ mất.
Người sắp
mất luôn luôn mong ước có người hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của họ, gần gũi
họ để an ủi ân cần chăm sóc, chịu lắng nghe. Cần tránh sự sợ hãi mà không
dám gần họ- Hãy mạnh dạn nắm lấy tay họ và nhất là đừng nói lời chia buồn
khổ đau mà trái lại nói lời an vui giúp họ phấn chấn tinh thần. Lời an ủi
ở đây không phải là nói với họ rằng họ sẽ không chết - Theo Đại đức
Rinpoche thì hoặc yên lặng hoặc để họ biết là họ sắp lìa đời - Vì
một khi cho họ biết sự thật, họ sẽ có thì giờ chuẩn bị dọn mình cho sự
chết đến với sự can đảm chính chắn và sáng suốt hơn. Đừng để họ ra đi khi
không biết trước là họ sắp mất.
Có một điều
mà Đại đức Rinpoche nhắn nhủ mọi người thêm về vấn đề này là đừng bao giờ
thuyết giảng giáo lý của riêng bạn cho người sắp lìa đời nhất là khi người
ấy không cùng tín ngưỡng với bạn - Trái lại người thân phải khích lệ, ân
cần phụ giúp họ vững tin vào những gì mà tinh thần và niềm tin của họ đã
từng gắn liền. Bạn phải cố gắng tạo cho mình có được thái độ, cử chỉ và
nhất là gương mặt không tỏ ra đau khổ, sợ hãi, bối rối, lo âu hoặc kinh
hoàng khi đang ở bên cạnh họ - Vì những hình ảnh đó sẽ khiến cho người sắp
qua đời lo sợ bất an, làm cho giây phút lâm chung của họ trở nên nặng nề,
khốn khổ u buồn - Làm như vậy không phải là có lợi cho người sắp mất mà là
gây sự bất lợi nếu không nói là tai hại cho người sắp qua đời.
Các vị Đạo
sư Tây Tạng khuyên thân nhân vào lúc đó nên tạo sự an bình cho người sắp
qua đời như sau:
Nếu họ bị
những cơn đau đớn hành hạ thì ngồi gần bên họ nói với họ là: hãy cố gắng
cầu nguyện rằng họ đang bị đau đớn nhưng họ cũng cầu nguyện thay cho những
ai đang bị những đau đớn hành hạ như họ.
Nếu họ tỉnh
táo thì khuyên họ hãy thở vào với ý nghĩ là thu vào những khổ đau của
những ai từng bị đau đớn như mình. Rồi thở ra với ý nghĩ tống xuất những
vi trùng, những đau đớn, những xấu xa, tội lỗi để cơ thể được thanh thoát.
Khi còn
sống ta cũng thường nên tập như vậy cho quen dần...
Ở
các nước Âu Mỹ, phần lớn các người qua đời thường cảm thấy lạc loài bơ vơ,
cô đơn - Có lẽ tập tục của người Âu Mỹ quá khác xa với người Đông phương
nên người ta, ngay cả thân nhân cũng ít quan tâm tới sự tiếp cận chăm sóc
về mặt tâm linh lúc người thân sắp qua đời và ngay cả trong thời gian thân
xác thân nhân còn nằm ở nhà quàn. Cũng như cả những vị bác sĩ
tốt nghiệp ra trường cũng chưa hề được trang bị những gì thuộc lãnh vực
tâm linh - Do đó nhiều vị đã gặp những trường hợp bệnh nhân hấp hối ngay
trước mắt mình với những lời mong ước cầu xin liên quan tới tâm linh.
Nhưng không biết hổ trợ giúp đỡ người sắp mất trong giây phút ấy như thế
nào cả..
Một nữ bác sĩ người Anh vừa mới tốt
nghiệp vào làm ở một bệnh viện đã chạm trán ngay một trường hợp khó xử -
Cô tới trước một bệnh nhân - một ông già sắp chết - một ông già cô độc -
ông này không có bà con bạn bè nào tới thăm cả. Thấy cô ông già thều thào
nói: "Khi tôi chết, cô có
nghỉ là Thượng đế sẽ tha tội cho tôi không?” Người nữ Bác sĩ lúc
đó cảm thấy lúng túng không biết trả lời sao.
Khi nghe
người nữ bác sĩ kể lại chuyện đó, Đại đức Sogyal Rinpoche đã nói rằng:
"Nếu gặp trường hợp đó, ta hãy nói với cụ già ấy rằng:
Thượng Đế luôn luôn nhân từ nên ngài đã tha thứ cho cụ rồi. Còn
tâm trí cụ để được thanh thản, hãy thành tâm sám hối, hãy tha thứ cho
chính mình về những tội lỗi - nếu có - mà mình đã gây ra lúc còn sống.
Ngoài ra cụ hãy tha thứ cho những ai đã từng làm cụ đau khổ và sám hối
nhận lỗi những gì mà mình đã từng sai lầm hay làm tổn hại họ. Sám hối và
tha thứ là hai yếu tố giúp ích cho bất cứ người nào khi ở vào phút lâm
chung..
Theo các Lạt Ma Tây Tạng thì dù người sắp
lìa đời đã tạo nhiều ác nghiệp, nhưng lúc sắp mất, họ tỏ ra ân hận, hối
tiếc, ăn năn sám hối, mong cầu sự tha thứ thì chắc chắn sẽ phần nào chuyển
hoá được nghiệp xấu. Điều luôn luôn cần lưu ý là người sắp qua đời sẽ ra
đi một mình nên phút tiễn đưa cần có thân nhân bè bạn để lúc qua đời khỏi
cảm thấy bơ vơ lạc lỏng. Vì thế sự lẻ
loi đơn độc là điều bất hạnh nhất của người sắp mất.
Tất cả
chúng ta, khi đọc sách này vào đoạn này, ta hãy tưởng tượng rồi có ngày ta
cũng như thế thì cái ao ước về sự an lạc tâm hồn khi ra đi cũng là điều mà
ta mong ước.
Đại sư Dudjom Rinpoche đã nói: "Đừng bao giờ bỏ người sắp qua đời - ở phút lâm chung nằm
một mình cả. Ở cạnh họ, hòa cả thiện tâm của mình vào với họ lúc ấy chính
là giúp họ an tâm vững tiến vào thế giới khác mà không lo lắng sợ hãi ở
cạnh họ vào cái giây phút quan .trọng nhất ấy với lời thành tâm cầu nguyện
cho họ là điều cực kỳ quý giá .. .” Nếu người sắp mất tin vào Chúa Jesus
thì hãy nguyện cầu Chúa Kitô hãy thương xót và giúp đở họ. Nếu họ là một
tín đồ Phật giáo thì hãy cầu nguyện Phật A Di Đà, Phật Quan âm cứu độ họ.
Chính sự cầu nguyện các đấng này mà vào phút lâm chung, người sắt qua đời
sẽ được yên tâm hơn khi họ cảm thấy như có.đấng tối cao ở bên cạnh mình.
Theo Đại
Đức Rinpoche thì: Nếu người sắp mất là một tín đồ Thiên Chúa Giáo và bạn
là tín đồ Phật giáo thì khi bạn cầu nguyện, hãy hướng tới Phật - vì Phật
hay Chúa cũng đều mang lại lòng từ bi bác ái cứu độ cả - chẳng có gì phân
biệt. Chỉ có điều là vào giây phút đó, bạn đừng bao giờ truyền
giảng đức tin của ban cho người sắp mất khi ho khác niềm tin với bạn.
Các bậc thầy nổi danh xứ Tây Tạng đều từng dạy các môn đệ
rằng: Hãy để tâm luôn được thanh tịnh và an lạc - Đừng để sự khổ đau,
giận, ghét oán hờn bám díu vào - Hãy để tâm mình hòa cùng với tâm của đấng
tối cao. Với tâm thức trong sáng ấy, sẽ dẫn dắt người chết đi vào
cõi thanh cao, không bị lầm lạc chọn lầm đường vào 6 cõi bất an của lục
đạo là 6 nẻo luân hồi.
Con người
khi chết, phần lớn họ chưa hay không cảm nhận được là họ đã chết, họ không
còn trên cõi đời này nữa. Do đó người chết thường hoang mang vô định. Họ
run sợ trước những gì xảy ra sau khi họ qua đời, họ tới đâu, gặp ai, về
đâu..? Điều khủng khiếp đáng sợ nhất là khi họ đang đứng giữa 6 con đường
mà họ chẳng biết chọn đường nào - Nếu lúc đó "linh hồn" họ bất định hoang
mang thì sẽ đi vào con đường tối tăm lầm lạc, dễ sa vào nơi Ngạ quỷ súc
sanh hay cõi Địa ngục. Để “hồn” người chết hiểu rõ tình cảnh thực của họ,
không bị hoang mang mơ hồ thì thân nhân phải lo liệu việc cầu siêu cầu an
cho hương linh mới chết hầu dẫn dắt họ ra khỏi chốn ảo tưởng mơ hồ
- Dưới đây là những tư liệu quý giá biên soạn từ các tài liệu kinh sách
rất hữu ích cho bất cứ ai muốn người mới qua đời được sáng suốt bình tâm
đi vào con đường sáng.
Thế giới
ngày càng văn minh phát triển mọi mặt bao gồm trong đó cả lãnh vực y khoa
- Tuy nhiên, cho đến nay giới y khoa bác sĩ vẫn chưa có chương trình nào
nghiên cứu tìm hiểu sâu xa về những giai đoạn, diễn biến của sự chết –
Sự chết
theo họ chỉ là một chuỗi biến chuyển về sự huỷ hoại tan rã của thân xác
vật chất mà thôi chớ không gì khác - khác với sự hiểu biết sâu xa kỳ
diệu của các bậc đại sư từ ngàn xưa đã có cái nhìn thông suất rõ ràng về
các diễn biến, các giai đoạn của sự chết với những sự kiện chi li mà giới
y khoa ngày nay vẫn chưa biết rõ - nhất là ở giai đoạn mà Tử thư Tây Tạng
gọi là giai đoạn Trung ấm.
Trong bộ Tử
thư Tây Tạng có những đoạn mô tả diễn biến của sự chết như sau: Trước
tiên người sắp lia đời nhận biết rõ cơ thể họ suy yếu dần. Các cử động
tay chân, thân mình trở nên khó khăn, họ không thể đứng ngồi, cầm nắm...
Lúc bấy giờ họ cảm thấy như choáng váng. Cơ thể như bị một lực nặng nhận
xuống nên rất dễ té ngả và nhất là khó thở - có người còn bảo thân nhân mở
hết các cửa ra vì như cảm thấy ngột ngạt. Mắt thấy lờ mờ không rõ, hai má
hóp lại, màu da và môi tái xanh, răng có những chấm đen xuất hiện. Vào
giai đoạn đó tâm thần bất định, chập chờn đôi khi nói như mê sảng
và chìm dần vào trạng thái hôn mê...
Những trạng
thái vừa mô tả trên đây tương tự như các nhận định của giới Y khoa xưa
nay. Ở đây, kẻ biên soạn sách này cũng xin nêu thêm vài chi tiết về giai
đoạn sắp qua đời của những người trong bệnh viện mà cô Trần T. M. chuyên
trách tiễn đưa người chết đã kể lại rằng phần lớn những người sắp lìa đời
có những báo hiệu trước như trong phòng họ nằm thường tỏa ra mùi khó chịu
– theo cô M thì vì lúc ấy các cơ quan và những chức năng trong cơ thể
không còn hoạt động như trước nên những chất thải độc, dơ trong cơ thể
không còn được giữ lại như khi còn sống, khi còn khoẻ mạnh nên bắt đầu
thoát ra qua các lỗ chân lông và những phần hở của cơ thể.. Sự bốc tỏa mùi
ấy có khi xuất hiện sớm trước đôi ba ngày -Trong dân gianViệt Nam gọi đó
là mùi Tử khí - Theo cô Tr M thì đôi khi mùi tử khí tỏa ra rất mạnh và
duy trì mùi không tan rất lâu - Có lần có một bà Mỹ da đen qua đời, mùi Tử
khí xông lên khắp phòng và như đổ ập vào người cô Tr. M. Mấy ngày sau,
dù tắm kỷ, mùi kỳ lạ ấy vẫn phảng phất khắp người cô.
Theo kinh
nghiệm của cô Tr. M. thì có thể suy đoán là sẽ có người qua đời trong
phòng nào đó khi mùi Tử khí tỏa ra trong phòng - Đối với những người làm
phần hành như cô ở các bệnh viện thì họ rất nhạy với mùi này. Dấu
hiệu khác báo trước sự sắp lìa trần là da thay đổi màu sắc, không còn hồng
hào tự nhiên như khi còn sống mà trái lại xám xịt, tái mét. Lý do là
vì máu không còn luân lưu điều hòa trong cơ thể nữa mà rút dần về tim nên
da tái nhợt hay tím dần từ đầu các ngón tay, ngón chân trở vào thân mình.
Dấu hiệu kế tiếp là nước mắt, nước mũi, nước
miếng chảy ra một cách tự nhiên không còn có sự kiểm soát nào.
Miệng môi, mắt khô, khát nước vô hạn - Hơi thở lúc bấy giờ trở nên lạnh
giá và khó khăn khi qua mũi, miệng - hơi thở vào ngắn nhưng thở ra lại dài
hơn.
Theo các
Lạt Ma Tây Tạng thì vào giai đoạn này mắt người sắp qua đời tự nhiên lộ
nhiều lòng trắng, trợn trừng vì các dây cơ ở mắt không còn giữ thế cân
bằng cho mắt nữa. Đây là giai đoạn mà tâm thức mờ mịt, hầu như không còn
nhận biết những gì thật giả chung quanh. Chính vào giai đoạn này người
sắp mất trông thấy nhiều thứ hư hư thật thật phát sinh do những ảo giác.
Phần lớn
những người đang gần kề cái chết, họ thường thấy nhiều người thân quen qua
đời từ trước đến ngồi bên giường. Những người đã có lần chết đi sống lại
thường đề cập nhiều và giống nhau về vấn đề này
Chết chính
là sự hủy hoại của cơ thể. Theo các Kinh sách cổ Đông phương thì thân xác
và tâm thức hình thành là do sự liên kết của 5 Thể hay 5 Đại - Đó là
Đất, Nước, Gió, Lửa và khoảng Không.
-
Đất tạo nên thịt, xương và cả khứu giác để nhận biết các
mùi.
- Nước tạo nên máu huyết, chất nhờn, chất lỏng trong cơ thể và luôn cả
vị giác để nhận biết cay, chua đắng mặn, ngọt, bùi.
- Gió tạo nên hơi thở, hình thể và cả xúc giác để cảm nhận khi tiếp xúc,
sờ mó, va chạm.
-
Lửa tạo nên hơi ấm, màu sắc và thị giác để nhìn ngắm, xác
định hình thể sắc màu.
-
Khoảng không tạo ra thính giác giúp nghe và phân biệt các âm
thanh - Khoảng không còn tạo ra những xoang bào, những khoảng trống,
khoảng hở ở bên trong cơ thể.
Khi chết
thì những tan rã của các Thể hay các Đại nên diễn ra rất nhanh và người
sắp chết lúc ấy cũng sẽ trãi qua những xáo trộn biến chuyển trong cơ thể
và cả tinh thần rất nhanh...
Trước hết
thì Thể Đất tan rã nên cơ thể hầu như không còn sức mạnh nữa, khi đó người
sắp chết cảm thấy cơ thể nặng nề kỳ lạ và như bị té chúi xuống, không tự
mình nhấc người lên được. Da bắt đầu có màu tái xanh, má hóp và trên răng
hiện ra những điểm màu đen. Khi đó hai mắt như bị kép sụp xuống, thấy mờ
mờ, miệng bắt đầu nói những lời tối nghĩa, mơ hồ, tâm thần suy sụp.
Tiếp đến
Thể Nước bắt đầu tan rã với dấu hiệu nước mắt nước mũi nước miếng chảy ra
mà ta không thể cản được. Mắt miệng, cổ họng khô và lưỡi như cứng lại và
khát nước vô cùng. Hai lỗ mũi như lún vào trong- Tay chân co giật, run
rẩy, tâm thần mờ mịt như bồng bềnh. Khi đó từ cơ thể tỏa ra mùi khó chịu
- đó là mùi Tử Khí. Điều này cũng dễ hiểu vì cơ thể con người thật sự là
một khối dơ dáy - như nhận định của các vị chân sư quán triệt cái thân ô
trọc - và thấy rõ “cái cơ thể của con người“ là như vậy - nó tích chứa
biết bao cái xấu xa, bất toàn và xú uế nhưng nhờ các cơ phận của cơ thể
giữ chúng lại bên trong nên mọi người không thấy - chỉ thỉnh thoảng thấy
qua mồ hôi, hơi thở hay phân giải, nước tiểu.. Nhưng khi các đại bắt đầu
tan rã thì các cơ phận của cơ thể cũng không còn khả năng cầm giữ các thứ
đó nữa mà phân rả hay tuôn ra khiến tỏa mùi khó chịu. Những người làm
việc ở bệnh viện thường cho biết là họ đã từng cảm nhận những mùi hôi tỏa
ra trong phòng người sắp qua đời hay vừa mới qua đời. Ở giai đoạn tan rã
của thể Nước thì qua một số người đã có lần chết đi sống lại nhiều khi nhớ
và mô tả lúc này họ như bị chìm sâu trong lòng biển lớn hay bị khối nước
ào ạt cuốn đi.
Tiếp theo
là giai đoạn Thể Lửa tan rã dần, nên cơ thể lạnh, tái, mắt mũi miệng, cổ
khô rát. Hơi thở lạnh. Lúc này không thấy rõ sự vất tâm trí mờ tối không
nhận rõ ra bất cứ ai cũng như không nhớ được ai. Họ thấy những đám khói
mờ bốc lên.
Khi Gió bắt
đầu tan rã thì bản thân người sắp mất cảm thấy khó thở, nhiều người vào
giai đoạn này thường bảo thân nhân mở các cửa ra vì họ ngợp thở. Vì là
gió đang tan rã nên thoát ra từ bên trong cơ thể qua cổ họng khiến ta thở
hổn hển. Nhưng không có sức hít vào. Ðôi mắt lúc bấy giờ trợn ngược vì
các giây cơ trong mắt không còn tạo thế cân bằng nữa. Cả cơ thể trở nên
cứng đờ. Tâm thức lúc ấy mờ mịt tối tăm, không còn khả năng nhận biết
những gì xảy ra chung quanh. Khi ấy các ảo giác bắt đầu hiện ra. Tùy theo
Nghiệp Thiện, Ác mà ta gây ra lúc còn sống mà ta sẽ trông thấy những hình
như tương ứng, ta cũng thấy lại tất cả quãng đời của ra như một cuốn phim
chiếu ngược - Lúc này các hình ảnh và sự kiện như cuồng phong, bão tố vì
Thể Gió đang đi giai đoạn tan rã. Đây là lúc máu rút về Tim - Hơi thở
cuối cùng hắt ra. Chỉ còn một chút hơi ấm ở tim. Sự sống chấm dứt.
Tuy nhiên
theo các Lạt Ma Tây Tạng, nhất là những ghi chép trong Tử Thư thì lúc này
thật sự vẫn chưa chết vì tâm thức còn có thể nghe, nhận biết những gì về
chung quanh – Do đó mới có lời căn dặn rằng, thân nhân người mới chết
không nên gây huyên náo, khóc lóc kể lễ hay làm những điều gì có thể gây
đau khổ, buồn phiền, thất vọng cho người vừa mới qua đời - Lúc này là lúc
mà thân nhân nên thay phiên nhau tụng kinh, đọc kinh cầu nguyện ít nhất là
trong vòng 49 ngày...
Họ sẽ thấy
nhiều hình ảnh tùy vào nghiệp lực mà họ đã gây ra lúc còn sống như trước
đó đã tạo nhiều nghiệp thì ác thì họ sẽ thấy những hình ảnh ghê rợn, có
khi thấy người bị họ tàn hại trước đó xuất hiện đòi mạng hay kêu van. Nếu
khi sống họ đã làm việc thiện thì sẽ thấy cảnh an lạc, thanh tao, êm ả...
Nhiều người
có lần chết đi sống lại đã kể rằng, họ đã thấy những người bà con, bè bạn
xuất hiện - và những người này là những người đều đã chết cả rồi.
Đại Đức nổi
danh tài đức của Tây Tạng là Soyal Rinpoche - học giả của Đại học Luân Đôn
Anh quốc khi viết về Sự Chết có nhắc tới vấn đề Người đang đi dần vào cái
chết, họ thường gặp gỡ những "người"' khác. Tuy nhiên những con người mà
họ gặp đều là những người đã chết. Tài liệu trích dẫn một số lời kể của
những người đã từng chết đi sống lại như Michael Sabom có người bạn quân
nhân tham chiến ở Việt Nam bị đạn và bất tỉnh nhân sự - Trong giai đoạn
chết ngất đó anh ta thấy lại 13 người đồng đội - mà cả 13 người này thật
sự là đã chết mấy hôm trước rồi. Điều kỳ lạ là trong suốt cả tháng trời
anh ta như bị hôn mê thì cả trung đoàn của anh bị tổn thất 42 người - Ấy
vậy mà anh ta cũng thấy cả bọn họ - Tuy nhiên theo lời quân nhân này thì:
“những người mà anh ta thấy đó không ở trong hình dạng mà ta thấy như
người thường. Nhưng anh ta biết họ có mặt ở đấy - Anh ta cảm thấy sự hiện
diện của họ, liên lạc với nhau không bằng lời nói.”
Theo các
lài liệu kinh sách nói về giai đoạn này thì các hình ảnh mà người sắp qua
đời trông thấy như vừa mô tả trên là những ảo giác chớ không phải là hiện
thực. Các hình ảnh đó chính là do tâm tạo ra.
Có nhiều
lối giải thích, giải thích đơn giản nhất là con người khi sinh ra và lớn
lên thì trong suốt thời gian lúc còn sống, họ suy nghĩ, hành động, gần
gũi, tiếp xúc quen biết với biết bao là người, bao sự kiện... Tất cả đi
vào trong bộ não và ấn nhập trong đó. Khi chết, bộ não cũng như cái bình
ac-quy vẫn còn hoạt động - lúc này những hình ảnh được in sâu trong bộ não
từ lâu dần dần hiển hiện ra như chiếu một cuốn phim. Đây cũng tương tự
với lý luận của y khoa hiện đại. Những người vì lý do nào đó có lần chết
đi sống lại đã kể rằng họ đã thấy lại những hình ảnh từ quá khứ xa xăm
trong đời, diễn ra như một bộ phim chiếu lại.
Tuy nhiên
những giải thích trên chưa hoàn toàn được xem là chính xác vì có những
trường hợp khó lý giải như: phần lớn những người chết đi sống lại cho
biết rằng lúc họ đi vào giai đoạn hôn mê - xem như đi vào cõi chết, họ
thấy những người thân mà phần lớn là những người đã chết trước đó. Như
vậy tại sao chỉ thấy những người đã chết mà không thấy những người còn
sống mặc dầu những người còn sống thường gần gũi thân mật với họ hằng
ngày? Bác sĩ Đoàn văn Huy khi làm việc ở một số bệnh viện tại New York
(Hoa Kỳ) đã từng lưu tâm nghiên cứu tìm hiểu sự kiện vừa kể - Vào tháng 9
năm 2006, bác sĩ Huy cho biết là chính bác sĩ đã nêu vấn đề này ra
để hỏi bác sĩ Robert K. (người thường nghiên cứu về các vấn đề liên quan
tới sự chết) thì được bác sĩ Robert K. trả lời như sau:
“Khi một
người qua đời, họ không còn thấy và biết ở ngay thế giới họ đã từng sống
nhưng cái tâm linh, cái biết của cái mà ta gọi là “linh hồn” nếu có lại đi
vào thế giới khác hay chiều khác. Thế giới mà chúng ta đang sống là thế
giới 3 chiều, có thể thế giới mà "linh hồn" người mới chết tới là thế giới
thuộc chiều thứ tư, thứ năm nào đó...” Là nơi mà những người đã chết tới
đó, hiện hữu ở đó.
Theo các
Lạt Ma Tây Tạng thì cái mà người ta thường gọi là Linh Hồn thì người Tây
Tạng gọi là Thân ý sanh về cõi không gian mà thân ý sanh thấy các hình ảnh
lúc đó gọi là cõi Trung ấm.
Tài liệu
đăng tải trong các sách thuộc về những sự kỳ bí không thể giải thích
(Mysteries of the unknown) của nhà xuất bản Time - Life Books - Hoa Kỳ có
đăng tải nhiều sự kiện
có thật liên quan tới những người chết đi
sống tại đã tường thuật như Đại uý Tommy Clark trong một cuộc hành quân
tại Việt Nam vào ngày 29 tháng 5 năm 1969 qua đời vì đã đạp nhằm quả mìn:
Nhưng sau đó thì ông sống lại như một phép lạ - Đại uý Tommy kể rằng chính
khi hấp hối, ông thấy mình như thoát ra khỏi cái thân xát đầy máu me của
mình và từ trên cao ông nhìn xuống thấy xác mình nằm sóng soài bất động.
Rồi ông thấy xe cứu thương chạy đến chở xác ông về đơn vị Mash để giải
phẫu. Lúc này đại uý Tommy vẫn còn ở ngoài thân xác của chính ông nên ông
có thể quan sát được mọi tình huống xảy ra. Khi đó bên giường mổ, ông
thấy những bạn đồng đội như Dallas, Terry, Ralph... chạy đến lôi kéo như
muốn rủ ông theo họ. Nhưng ông không đi theo họ - Rồi một vầng sáng tỏa
đến, tự nhiên đại uý Tommy cảm nhận là mình đang nằm trên bàn mổ, không
còn thoát ra khỏi thân xác của mình nữa... Sau đó, khi tỉnh lại ông ta mới
biết những người bạn níu kẻo ông đều là những người vừa mới chết trong
trận đánh đó. Điều đáng quan tâm thắc mắc của tôi - Đại uý Tommy nói với
nhà báo – là tại sao lúc đó tôi chỉ thấy những người đã chết mà không
trông thấy các đồng đội đang sống?
Một tài
liệu trung thực khác trong tập hồ sơ lưu trữ tại Viện Nghiên cứu các
trường hợp kỳ bí lại tiểu bang Virginia Hoa Kỳ ghi lại lời kể của bác sĩ
Lucien Grau - Một người Ấn Độ tên là Laila Kundan Lal Kapur qua đời vì
bệnh tại Burdwan - Trong lúc người nhà lo đặt người chết nằm ngay ngắn để
chuẩn bị hỏa táng thì người cháu chụp một bức ảnh - Khi ảnh được sang ra,
mọi người trong gia đình đều kinh ngạc vì thấy trong hình có những người
lạ ngồi quanh xác chết: Những người ấy khi nhìn kỷ đều là những người
trong gia đình đã qua đời trước đó.
Tâm thức
của người sắp qua đời rất nhạy bén. Tử thư Tây Tạng có ghi rằng "Khi
người sắp chết nghe và thấy người thân khóc lóc thảm thương bên cạnh họ
thì sự cảm nhận đau đớn của họ gia tăng khủng khiếp. Vì thế mà người thân
phải cố gắng làm sao giữ cho phút lâm chung của người sắp mất được yên
lặng - thanh thản có thế người ấy mới ra đi một cách tự nhiên, an bình.”
Ngoài ra,
cũng theo Tử thư Tây Tạng viết về sự Chết thì giai đoạn này quả là rất tế
nhị, lạ lùng mà ngày nay các nhà nghiên cứu về sự chết tại một số Đại học
Mỹ rất lấy làm ngạc nhiên vì tính chất vi diệu, lạ lùng và cũng đầy tính
khoa học bên trong sự mô tả nếu chịu để tâm nghiên cứu, khảo sát?
Vậy, ta hãy
xem qua một số tư liệu liên quan tới Sự Chết được ghi lại trong bộ Tử Thư
này:
Khi Chết,
cái thân xác thì nằm bất động, chỉ có phần như sương khói là Thần thức
thoát ra khỏi cơ thể. Theo tài liệu trong Tử thư thì lúc bấy giờ người
Chết đang ở trong cỏi Trung ấm, chưa nhận thức được là mình đã thực sự
chết rồi mà cứ nghĩ là mình đang còn sống bình thường. Giai đoạn này quả
thật là phức tạp, khó khăn. Vì cứ nghĩ là mình còn sống tự nhiên nên vẫn
đi lại cũng ra vào nhà, cũng tiếp xúc gần gũi với vợ con, bạn, hàng xóm
láng giềng. Nhưng có điều là không ai trông thấy họ dù họ làm đủ mọi cách
như xô đẩy, cản đường, kêu gọi... họ vẫn không thể làm cho bất cứ ai thấy
được họ, Họ cũng thấy gia đình, bà con nói về họ, nhắc nhở họ. Lý do lúc
bấy giờ họ không còn cái thân vật chất, vật lý và Hoá học như trước đây
nữa.. Rồi khi họ thấy trong nhà bày biện bàn thờ khói hương nghi ngút, có
ảnh của họ phóng lớn đặt lên đó nữa thì họ rất phân vân tưởng như là mơ,
nhưng rồi thấy người thân vật vã khóc lóc khiến dần dần họ hiểu ra rằng
mình đã chết - Mặc dầu, họ vẫn trong tình trạng mơ hồ phân vân không nhận
định hoàn toàn rõ rệt tình huống của họ lúc ấy.
Sự phân vân
mê mờ của người đã mất không biết rõ tình trạng, hoàn cảnh của mình như
vậy rất tai hại vì trong vòng 49 ngày nếu tâm thức họ cứ mơ mơ màng màng
không rõ rệt thì họ lại càng khó phản ứng thích hợp thuận lợi với những gì
đang chờ đợi họ bên kia của tử... Do đó các vị Đại sư thường căn dặn các
đệ tử khi ở cạnh người sắp qua đời hãy tế nhị cho họ biết rõ là họ sẽ phải
từ giã cõi thế gian - đó là điều mà bất cứ ai cũng đều phải trãi qua không
sớm thì muộn - Biết được chắc chắn như thế thì họ sẽ mạnh dạn và dứt khoát
ra đi, với ý thức là mình đã thực sự chết rồi - Điều đó sẽ giúp họ đối phó
với những tình huống bất ngờ sẽ xuất hiện khi họ ở vào giai đoạn Trung ấm
- giai đoạn mà những gì xuất hiện thường sẽ rất lạ lùng, hiếm thấy khi họ
còn đang sống như: ánh sáng lạ toả ra chiếu vào họ, và cả âm thanh nữa:
Về ánh sáng thì có nhiều loại ánh sáng đủ mọi cấp độ sáng tối và màu sắc
khác nhau. Lúc bấy giờ họ nên tránh xa loại ánh sáng nào, nên vào với ánh
sáng nào... Chính lúc này là lúc quan trọng, phải biết rõ, âm thanh nào
nên tới, ánh sáng nào nên lìa xa..để khỏi đi vào 6 đường lục đạo xấu xa
tai hại do tâm thức mơ hồ lầm lạc.
Sau khi qua
đời, "Hồn" hay Thân trung ấm sẽ chuyển vào một trong 6 cõi tùy theo Nghiệp
mà khi còn sống để tạo nên. Dưới đây là tánh cách của 6 cõi mà kinh sách
gọi là Lục đạo:
1. Cõi
Trời: là nơi thanh thoát an vui. Những người khi sống làm điều phước
thiện tốt lành cũng như những đời trước đó đã tạo phước đức, tu niệm chân
chánh thì khi chết sẽ vào nơi đây. Cảnh trí ở đây trong sáng tươi vui,
không có sự lo buồn, tức giận, đau khổ hay chán chường. Nói về chi tiết
thì cõi Trời rất rộng lớn chia ra nhiều tầng và mỗi tầng ứng với những cấp
độ khác nhau về nghiệp lành. Màu sắc ở cỏi trời tỏa sáng, có nơi rực rỡ vì
là cỏi của Chư Thiên.
2. Cõi
Người: Là nơi dành cho những ai mà Nghiệp tạo ra trước khi chết được
xem là nghiệp lành - dĩ nhiên không phải ai cũng đều tạo nghiệp lành nhiều
hơn nghiệp ác - vì thế nên tuy vào nghiệp mà khi tái sinh thành người sẽ
có người hạnh phúc người bần hàn, kẻ an vui, người đau khổ.. Do đó kinh
sách thường khuyên ta kiếp này được làm người là may mắn hãy cố gắng làm
phước đức, tạo nghiệp lành để khi chết đi thành lại kiếp người sống hạnh
phúc, an vui, sung sướng.. Màu sắc ở cõi người thường là mây vàng không
chói sáng mà sáng đục.
3. Cõi
ATULA: Đây là nơi hiện diện của những linh hồn của những con người mà
khi còn sống thường kiêu hãnh vì được nhiều người kính nể do có công tu
hành, học hỏi, luyện tập, cố gắng - Tuy nhiên họ lại là người tham danh
lợi, thích tiếng khen, tự đắc, huênh hoang. Ví dụ như người tu hành tới
cấp cao nhưng lại tham sân si, thích tán tụng công đức, mỗi bước đi có
lọng tàng che, chung quanh đầy kẻ hầu người hạ, thích được mọi người bái
lạy, tôn xưng... Những tánh cách ấy đã tạo thành Nghiệp. Dù họ là người
có công với đạo pháp, xây nhiều nơi tu tập cho mọi người nhưng không gột
rửa được lòng tham luyến sân si, còn tức giận, nóng nảy được khen thì vui,
bị chê thì nổi giận, hay phân biệt giàu nghèo sang hèn. Kinh Sách xưa gọi
họ là Người không có phước báu lớn - Vì thế mà khi qua đời phải đọa vào
cõi A Tu La. Cõi này gồm có hai tầng: Atula thượng là nơi tự do thoải mái
hơn tầng Atula hạ. . Đây là nơi dành cho người nào lúc sống làm được nhiều
điều lành nhưng không có phước báu lớn, lòng còn đầy tham luyến ích kỷ..
Còn Atula hạ dành cho người lúc sống làm nhiều điều thiện nhưng vẫn tạo ác
n ghiệp...Về màu sắc thì cõi Atula thường mơ hồ, phảng phất màu xanh lá
cây . . .
4. Cõi
Súc Sanh: Đây là cõi giới của những loài sinh vật, chúng chỉ biết
sống theo bản năng chớ không có lý trí... Những kẻ lúc sống ở thế gian
chuyên chạy theo vật chất, ham muốn xác thân, những kẻ chuyên mua bán các
loại cần sa, bạch phiến, hút xách, chứa chấp, chiêu dụ, bắt cóc đàn bà con
gái hãm hiếp hay bắt làm đỉ điếm - Theo Tử Kinh Tây Tạng thì người mới
chết khi "hồn" còn ngơ ngác thấy những vùng đất trãi dài đầy hang lỗ, động
đá thế là hồn đang ở ngưỡng cửa của cõi Súc sanh - Màu sắc cõi này màu xám
mờ mờ.
5. Cõi
Ngạ Quỷ: đây là cõi giới của những linh hồn mà khi còn sống đã rất
tham tàn gian manh xảo quyệt hối lộ tham nhũng vơ vét của công giết người,
cướp của nhất là của từ thiện làm của riêng mình, đặc điều vu khống cho
người vô tù rồi ăn hối lộ thả ra hay tự khảo người để đoạt tình, đoạt tiền
của... thấy người đói khát mà lòng không mảy may thương xót còn đánh đập
xua đuổi. Màu sắc nơi cõi nga quỷ là màu đỏ bầm dữ tợn.
6) Cõi
Địa Ngục: Cõi này có màu sắc tối mờ hắc ám ghê sợ. Đây là nơi dành
cho những linh hồn mà lúc còn sống là những kẻ đại gian ác, vô lương tâm,
những kẻ chuyên tàn sát, khủng bố, những kẻ gây tai họa đau thương nghiệt
ngả cho vô số đồng loại. Theo Tử Kinh Tây Tạng thì khi Hồn tới một nơi mà
cảnh trí nơi đó tối tăm thấp thoáng những căn nhà màu đen, trắng xen kẻ,
hay lẫn lộn kề bên những hố sâu thăm thẳm thì đó chính là cõi địa ngục.
Theo các
Lạt Ma Tây Tạng thì khi chết linh hồn người chết sẽ chuyển vào cõi giới
nào đó và tùy theo tâm thức mà họ thấy được hình dáng, màu sắc sự vật nơi
họ đến. Ngoài ra, tùy theo lòng tin vào tôn giáo của mình lúc còn sống
như đối với những người theo Hồi giáo, Thiên Chúa giáo hay Bà La Môn họ...
sẽ thấy cảnh trí trước mắt theo tâm thức riêng của tôn giáo họ đã qua Kinh
sách từng đọc ví dụ.. người theo Thiên Chúa giáo họ có thể thấy Chúa
Jesus, Đức Mẹ, hoặc thấy các Thiên Thần bay lượn hay sự xuất hiện của ác
Thần, của Thiên sứ hay Quỷ Sa tăng vân vân...
Qua các tài
liệu nghiên cứu của các Y Bác sĩ Âu Mỹ như Giáo sư Bác sĩ H.H. Price, Bác
sĩ Raymond A. Moody, Giáo sư Bác sĩ Wilfred Abse, Tiến sĩ Laubscher, Bác
sĩ E.W.Oaten, Bác sĩ A.J.Davis, Bác sĩ D.P.Kayner, Bác sĩ Hereward
Carrington...vân .vân..., cũng như các tài liệu kinh sách viết về sự Chết
của Tử thư Ai Cập và Tử thư Tây Tạng thì lúc con người đi dần vào cõi chết
thì họ ở vào trạng thái hôn mê. Khi đó mọi người đều thấy cái thể của
người này bất động, tim ngừng đập, phổi ngừng làm việc, không hô hấp tức
là đã ngưng thở. Thông thường vào giai đoạn đó, ta bảo là người ấy đã
chết không còn biết gì nữa cả.
Tuy nhiên
thực tế không phải như vậy. Những người vừa mới qua đời tuy rằng họ bất
động nhưng thực sự là họ vẫn còn nghe, biết những gì xảy ra chung quanh
họ. Vì thế nên người thân cần phải thận trọng trong lời nói lúc ở gần bên
người hấp hối hay đã chết. Những lời nói đầy thiện cảm, thiện tâm, tốt
lành rất cần thiết vào giai đoạn quan trọng này. Nhiều gia đình khi người
thân vừa mới nhắm mắt xuôi tay đã bắt đầu tranh cải nhau, tranh chấp nhau
về đủ vấn đề - họ không biết rằng người mới mất vẫn nghe biết và đi vào
thế giới bên kia với một tâm thức đau xót khốn khổ như thế nào. Người
thân hãy cùng nhau giúp người mới mất được êm ả, an bình khi đi vào cõi
giới khác với cái tâm an lạc - đó chính là cuộc tiễn đưa tốt đẹp và thánh
thiện nhất mà bất cứ ai khi ở phút lâm chung cũng đều mong ước. Cần phải
ghi nhớ rằng: "Đừng để ai chết trong khổ đau, ân hận, căm thù hay nuối
tiếc cả... vì lúc ấy họ còn phải đối diện với nhiều thứ mà phần lớn xa
lạ, bất ngờ... họ cần phải thanh thản an bình mới có sáng suốt nhận định
những gì sẽ đến với họ. Những điều mà vì lúc còn sống không tu tập hay
chuẩn bị tinh thần nên thường kinh ngạc, lo âu, phân vân khiến phản ứng
đôi khi vụng về, sai lạc rất tai hại”. Đại đức Sogyal Rinpoche khi nhắc
tới vấn đề này đã nói rằng : “những ý tưởng và cảm xúc ở những giâv
phút trước khi lìa đời rất quan trọng - vì sẽ có ảnh hưởng lớn lao đối với
đời sống kê tiếp . .” Do đó mà lúc có người sắp mất, người thân
bạn bè nên tạo một sự an bình thanh thản và thiêng liêng quanh người ấy
(không ồn ào, tranh cãi, lý sự, khóc lóc , kể lễ, níu kéo, lay gọi .. .) .
“Ta
đi Chùa, Nhà thờ lạy Phật, Lạy Chúa mà ta quên không nghĩ tới Chúng sanh -
Nhờ có Chúng sanh mà ta có thể thực hành việc thiện tạo phước cho ta: Vậy
cả đấng Tối cao và Chúng sanh đều góp phần vào quả vị tốt lành mà ta mong
đạt tới vì vậy tại sao ta chỉ lo tôn kính đấng tối cao mà bỏ quên chúng
sanh và còn ganh ghét, ích kỷ với họ (Đức Đai Lạt Ma. Ma đời thứ 14)
Kinh sách
cổ Tây Tạng kể chi tiết về màu sắc thấy nơi cõi Trung ấm như sau: màu sắc
cầu vồng, ánh vàng chói mọi rực rỡ khó chịu đựng nổi khi thấy chính là ánh
sáng trí tuệ phát ra từ cõi tốt lành hay Cõi Phật. Nếu người Chết đã được
truyền dạy, căn dặn, học hỏi được khi đang còn sống thì lúc này Thần thức
sẽ an tâm nương vào ánh sáng ấy để tới mặc cho ánh sáng quá chói chang làm
cho khiếp sợ. Ánh sáng màu xanh dịu chính là ánh sáng của cỏi người, nơi
mà bất kỳ ai cũng đều phải trải qua sự khổ đau tàn hại của Sanh, Già,
Bệnh, Chết.. Khi vào đó rồi thì sự giải thoát rất khó khăn. Nhưng theo
các vị Lạt Ma Tây tạng thì nguyên nhân khiến Thần thức chuyển vào cõi màu
xanh ấy là do khi sống, con người ta hay bị cái Tham, sân, Si làm mê mờ.
Sống chỉ thích cho an nhàn, khoẻ khoắn, thích có nhiều của cải bạc tiền,
thích vật chất, sắc đẹp, danh vọng, chức quyền, ăn ngon mặc đẹp vân vân...
ghét giận những ai hơn mình, căm thù những ai làm mình đau khổ... Lâu dần
(trải qua một đời làm người) những xấu tánh ấy trở thành tập quán khó bỏ
nên khi thấy ánh sáng êm dịu mát mẻ thì vội tìm đến, thấy ánh sáng chói
chang thì khiếp sợ tránh xa chớ không biết đâu là tốt, đâu là xấu - cũng
giống như khi còn sống, thấy ai nịnh bợ, tâng bốc, ton hót, khen ngợi mình
thì thích thú thấy ai nói thật, lờí thẳng, trung trực, công minh thì ghét
bỏ giận hờn tránh xa - cái thói quen ấy đã ăn sâu vào tâm trí lúc còn sống
nên lúc lâm chung - dù xác thân bất động, chết hẳn rồi nhưng Thần thức
thoát ra vẫn còn mang nặng cái ký ức, bản tánh như lúc còn sống nên rất dễ
lầm lạc khi ờ vào giai đoạn Trung ấm. Vì thế các vị thầy thường khuyên đệ
tử hãy tập ngay từ bây giờ, khi con đang còn sống hãy học xả bỏ dần cái
tánh tham lam, sân hận, kiêu căng, si mê lầm lạc để lúc lâm chung không bị
những cái xấu xa ấy dẫn ta vào những cõi xấu xa mê mờ nguy hiểm của lục
đạo.
Tuy vậy,
con người ta không ai giống ai, có người bản tánh rất xấu xa độc ác nhưng
không bao giờ biết hối cải ân hận chớ đừng nói tới chuyện tu tập. Những
người như thế khi phút lâm chung đến, họ thường bất loạn tâm thân vì ác
nghiệp tràn tới làm họ kinh hãi. Họ khó chấp nhận hay tin vào những gì mà
người thân cầu nguyện hay giải thích cho họ bên giường. Với bản chất mê
mờ ấy họ sẽ vô cùng khiếp sợ khi thấy ánh sáng chói chang vàng rực toả ra
nơi cõi Trung ấm – Khi thấy ánh sáng xanh xuất hiện, họ sẽ trốn ngay vào
nơi có ánh sáng xanh dịu ấy để tìm chỗ nương thân ẩn náu – đó cũng chính
là nơi mà họ sẽ trở thành người chịu trả quả - ác nghiệp mà họ đã gây ra.
Theo kinh điển Tây tạng thì một vị Phật nguyện quyết tâm cứu vớt và dẫn
dất các vong linh trót mang nghiệp chướng mà tâm thức u tối mê mờ - Vị
Phật ấy là Phật A Di Ðà – Ngài sẽ xuất hiện tiếp nối để dẫn dắt cho kẻ lầm
mê thêm một lần nữa bằng cách toả ánh sáng dẫn đường màu đỏ chói - hầu
giúp Thần thức kẻ mới lìa đời nương theo – Nhưng lúc ấy, từ cõi Ngạ quỷ
súc sanh phát ra ánh sáng màu xám mờ đục - Nếu tâm thức sáng suốt an lạc
thì sẽ biết nương vào ánh sáng của Phật A Di Ðà – Nhưng kẽ mà lúc còn sống
đã làm những việc ác, xấu xa đê tiện thì bản tính luôn tối tâm, thấp hèn,
gian xảo nên thường có thói quen tìm những nơi tối tâm, mờ mịt để ẩn thân,
trốn tránh... Vì thế mà thay vì khi thấy màu sáng đỏ ác chúng lại sợ hãi,
nghi ngờ tìm tới nơi ánh sáng mờ đục tối tâm để nương thân mà không ngờ đó
là coi địa ngục xấu xa ghê rợn.
Những bậc
Ðại sư những vị thầy thường khuyên những thân nhân có người sắp lìa đời
hãy nhớ hổ trợ thêm cho người ấy bằng cách:
-
Ngồi bên họ nói cho họ nghe về vấn đề vừa trình bày trên.
-
Hãy cầu nguyện cho tâm thức họ được trong sáng để họ nhận thức đúng
khi nhìn thấy ánh sáng - ở giai đoạn Trung ấm.
-
Hãy nói với họ là nếu trông thấy ánh sáng màu vàng chói chang rực
rỡ thì đừng có sợ hãi – vì đó là Phật quang – là ánh sáng của Trí tuệ tốt
lành – hãy tin tưởng mạnh mẽ vào ánh sáng đó, an tâm tiến vào đó để được
vãng sanh an lành vào nơi tịnh độ... Còn khi thấy màu xanh êm dịu thì
không nên chạy vào nơi đó – vì nơi đó là cõi người – vào đó sẽ lại chịu
những sinh tử triền miên, nhữn thói hư tật xấu làm phát sinh vô số nghiệp,
khó lòng thoát khỏi....
Tử thư Tây
tạng ghi rằng: Một khi người thân làm được điều vừa nói trên bên cạnh
người sắp mất thì kết quả mang lại thường rất tốt lành. Dù cho người sắp
mất lúc còn sống họ tạo nhiều ác nghiệp, hành động xấu xa thì lúc lâm
chung nghe được lời nói và lời cầu nguyện giãi bày về ánh sáng nơi cõi
Trung ấm sẽ có lợi nhiều cho họ vì một khi họ đã ghi nhận những híểu biết
ấy với niềm tin tưởng nhiệt tình thì sẽ phần nào làm đổi thay nghiệp lực
của họ dù cho đó là nghiệp xấu, ác.
Câu hỏi
được đặt ra là tại sao sau khi chết lại có khi phải qua giai đoạn Trung ấm
lâu ngày mà không đầu thai ngay? Câu trả lời là: do kiếp đời của một người
tích chứa vô số nghiệp mà nghiệp đủ loại xấu tốt chồng chất nhau khi sống,
không những ở kiếp hiện tại mà từ nhiều kiếp đời trước đó nữa? Có khi được
nhiều Thiện Nghiệp tốt lành nhưng rồi phát sinh các nghiệp xấu ác kế tiếp
khiến nghiệp thiện bị giải trừ đi nhiều ít khiến sự mất cân bằng về thiện
ác, sự tăng giảm thiện ác qua lại này sẽ hướng dẫn Thân Trung ấm tới cõi
giới tương ứng với Nghiệp xấu hay tốt mà người chết ấy đã tạo nên để đầu
thai. Vì phải hội đủ điều kiện thuận lợi và tương ứng với Nghiệp để đầu
thai cho xứng hợp nên không phải tức thì được mà có khi lâu.
Vì Nghiệp
quan trọng khi đầu thai nên các Vị chân tu thường khuyên thân nhân nên hổ
trợ thiện nghiệp cho người mới qua đời trong thời gian ít nhất là 49 ngày
- kể từ khi người ấy mất (vì trong khoảng thời gian đó vong linh người mới
chết ở vào giai đoạn được quyết định đầu thai dưới hình thức nào tùy theo
duyên nghiệp của họ tạo lúc còn sống). Theo lời khuyên của các vị chân sư
thì thân nhân nên làm việc phước thiện, ăn chay, bố thí, đọc kinh, tụng
kinh siêu độ, vừa trợ lực tạo phước thay người mới mất và giúp họ sáng
suốt để khỏi lạc vào cõi giới u tối xấu xa.
Tuy những
điều khuyên của các vị chân tu vừa mô tả trên thường ít được thực hiện do
bởi nhiều lý do: như có người không tin, cho rằng chết là hết, hay vì
quá thương xót nên chỉ biết than khóc, chớ không biết làm gì hơn vào
những lúc đau khổ đó. Trái lại nhiều gia đình vào lúc ấy lại lo tổ chức
tang ma cho lớn, xe cộ rình rang, trướng liểng giăng đầy, xe cộ dập dìu đồ
ăn thức uống tràn ngập, người đưa đám càng đông càng nở mặt nở mày với
thiên hạ bà con. Nhưng họ không biết rằng chính lúc đó, vong linh người
mới mất vô cùng đau đớn xót xa, hoang mang, mờ tối, phân vân lo sợ trước
sáu ngả luân hồi (lục đạo), những giờ quyết định sinh mệnh cuộc đời mới
qua đầu thai chuyển kiếp hết sức gay go nghiệt ngả… họ bơ vơ, đơn độc mà
nào ai có thể biết tới, hổ trợ hay giúp đỡ - mà giúp làm sao được khi cõi
sống và cõi chết cách ly nhau? Chỉ có vấn đề - trợ lực mà các vị chân sư
từng chỉ bày là cách nên làm nhất.
Khi cơ thể
hoàn toàn bất động và ngưng thở thì từ thân xác, phần vi diệu gọi là Thần
thức thoát ra - giai đoạn nầy gọi là giai đoạn Trung ấm. Vào giai đoạn
này, tâm thức người chết sẽ thấy vô số hình ảnh - Những hình ảnh ấy đều là
ảo giác, không thật vì đó chính từ tâm của người mới chết hiện ra.
Cần phải
nhớ kỷ rằng: nếu có những hình ảnh ghê rợn, dữ dằn hiện ra thì cũng đừng
lo sợ vì chỉ là do tâm tạo ra mà thôi chớ năng lực thật sự thì không có.
Nhưng vì sao lúc ấy lại sợ hãi? Vì lúc chết đi, cái thân vật lý của ta
không còn nữa, đã bất động, đã chết - chỉ có Thần thức mà thôi thì những
hình ảnh ấy lại trông như thật - hơn nữa, đối với những ai lúc còn sống
không tu tập vững vàng không được chỉ dạy về sự kiện này, không chuẩn bị
những kiến thức cần thiết cho giai đoạn Trung ấm thì những hình ảnh vừa
nói sẽ là hình ảnh thật sự hiện ra ngay trước mắt chớ không thể bảo là ảo
ảnh hay ảo giác không thật. Do đó mà vào giai đoạn Trung ấm, phần lớn
những hình ảnh do tâm tạo sẽ gây nên sự lo sợ hay thích thú - Cảm xúc mạnh
nhất của nghiệp thức ta lúc ấy sẽ định đoạt đưa ta đi vào lối nào đó của
lục đạo (còn gọi là 6 ngả luân hồi) khiến ta dễ sa vào những cõi xấu xa
dẫn đưa ta vào một kiếp đời mới qua sự tái sanh mới.
Chính vì sự
quan trọng của nhận thức hiểu biết vào lúc đó nên Tử thư Tây Tạng đã
thường nhắc nhở mọi người rằng: bất cứ ai rồi cũng phải trải qua giai
đoạn Chuyển Tiếp ấy nên phải cẩn thận - muốn vậy phải chuẩn bị học hỏi
từ khi ta đang còn sống chớ đừng đợi tới lúc lâm chung, tâm trí bất định
hoảng hốt khiến mê mờ, nhận định sai lạc mang lại hậu quả xấu xa bất lợi
cho kiếp lai sinh.
Các vị Đại
sư Tây Tạng từ ngàn xưa đã thấy rõ là sự thần thức cuả người mới qua đời
đối với màu sắc, ánh sáng, cảnh quang chung quanh ở giai đoạn Trung ấm là
rất quan trọng. Vì thế nên đã chỉ bày rất chi li, cẩn thận cho các đệ tử,
nhắc nhở họ phải biết rõ về giai đoạn này (giai đoạn Trung ấm) hầu cứu
giúp mọi người lúc lìa đời khỏí rơi vào lầm lạc…
Theo sự
giảng dạy ấy thì:
·
Sau khi chết được 3 ngày, Thần thức sẽ chứng kiến nhiều hình
ảnh lạ lùng kỳ diệu, đôi khi rất khiếp sợ. Trước tiên là thấy ánh sáng
màu sắc vàng tỏa ra như cầu vồng. Nguồn ánh sáng ấy rất chói chang khiến
Thần thức không chịu nổi khi trông thấy ánh sáng ấy. Nhưng cùng lúc ấy
lại có một nguồn sáng dịu màu xanh chiếu tới khiến Thần thức cảm thấy an
ổn, yên bình quá nên vội vã tránh ánh sáng vàng rực rỡ để tiến vào vùng
ánh sáng màu xanh mát dịu vừa mới xuất hiện kia. Nơi có ánh sáng xanh mát
ấy không phải thuộc cảnh giới tốt lành thanh thản mà là cõi của kiếp
người.
Mà trở lại
kiếp người thì cũng lại phải đắm mình trong kiếp trầm luân, chịu quả báo
do nghiệp tạo ra... Ngoài cảnh giới màu xanh dịu kia ra còn có những cõi
giới có mầu sắc khác nhau tương ứng với những cõi giới khác nhau – Vì có
nhiều cõi giới còn xấu hơn cõi người nhiều nữa nên cần biết rõ để khỏi lạc
vào…Do đó mà lúc còn sống nên biết rõ về màu sắc, âm thanh từng cõi giới
để khi lìa đời nhận biết được cõi giới nào tốt, là xấu - Chuẩn bị được sự
hiểu biết đó trước khi mất là điều rất quan trọng.
Trong phút
lâm chung, thường thì ai cũng hay thấy những nguồn ánh sáng, những hình
ảnh quái dị, ghê sợ hay nghe những âm thanh lạ lùng sẽ làm cho ta lo lắng
sợ hãi bàng hoàng, ngơ ngác – Giây phút đầu tiên tiếp cận ranh giới của
sống chết mà đã vậy thì rất tai hại – Vì thế khi còn sống nên tập cho quen
hay chuẩn bị tinh thần để phút ra đi thấy những điều vừa nói sẽ không làm
cho tâm thần chao đão. Lúc ấy, cứ giữ tâm an nhiên tự tại, đừng khiếp sợ
mà hãy đọc kinh hướng về Chúa hay tụng kinh hướng về Phật – nghĩa là tùy
theo niềm tin tôn giáo của mình mà liên tục tụng niệm để được nhất tâm bất
loạn có thế thì mọi hình ảnh xấu sẽ qua mau.
Ngoài ra
phút cận kề cõi chết, phần lớn đều thấy người thân đã quá cố tới bên
giường hay chào đón lôi kéo thì phãi biết họ đã vào một trong 6 nẻo luân
hồi không mấy tốt lành nên đừng theo họ vì có thể bị lôi kéo vào cõi giới
không an lành. Lúc ấy cần nhất tâm đọc kinh hoặc tụng kinh, giữ tâm an
định, không lo lắng phân vân.
Những lời
khuyên trên của các vị chân sư từng thấu rõ mọi sự việc bên kia cửa tử
mách bảo cho chúng nhân để tránh rơi vào cõi xấu trong lục đạo rất khó
tránh. Lý do là ở giờ phút hấp hối phần lớn con người ta ham sống sợ
chết, thân nhân bên mình thì khóc lóc kêu than, níu kéo còn tâm thần thì
hoảng loạn, làm sao đủ bình tỉnh để làm y lời dặn hữu ích trên. Do đó tốt
nhất khi còn sống mỗi người nên tập trước về tâm thân, ý chí, tập để
chuẩn bị cái chết trước sau rồi cũng phải đến – Theo Kinh Phật
Giáo thì người sắp lìa đời hãy trì chí niệm câu “Nam Mô A Di Ðà Phật” thì
sẽ được vãng sanh cực lạc – (Phật A Di Ðà có đại nguyện là dẫn dắt bất kỳ
ai lúc lâm chung muốn được ngài đến dẫn về cõi an lạc).
Phần lớn
những người chết, khi bước vào cõi giới bên kia thường bị cái “Tâm trạng
hốt hoảng, lo sợ, đau buồn, xót xa vì cảm thấy xa lìa người thân và bơ vơ
lạc lõng ở nơi mà họ nghĩ là chưa bao giờ thấy hay biết. Tâm xao xuyến
của họ lúc ấy sẽ hiện ra mà phần lớn theo sự tưởng tượng của mình qua
những gì mà lúc sống họ đã từng nghe, từng đọc qua. Nếu họ là người Thiên
Chúa giáo có thể họ lúc ấy sẽ thấy Ðịa ngục, nơi luận tội, hay thấy Chúa
có thể họ sẽ thấy Thiên đàng vân ...vân... Nếu là Phật giáo thì họ thấy
Phật, thấy nhà sư, thấy hào quang hay thấy ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục...
Như vậy: Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng thì tùy vào Tâm thức mà người chết
thấy những cảnh giới khác nhau. Khi người sắp chết, những giây phút lúc
lâm chung càng lo lắng, đau khổ, sợ hãi, hoảng hốt bao nhiêu thì họ sẽ
phải trãi qua một giai đoạn thời gian rất lâu với cảnh trí mà họ đã tưởng
tới bấy nhiêu. Tuy nhiên sự bình tỉnh, sáng suốt thường hiếm thấy nơi
những người sắp lìa đời nhất là khi quanh họ có các người thân vật vã khóc
lóc - điều mà các vị sư, các Lạt Ma rất tối kỵ. Lý do là càng làm cho
người sắp chết dùng dằng không thể lìa đời một cách thanh thản tự nhiên.
Điều đó cũng thường khiến họ sa vào những ngỏ sai lạc ở các nẻo luân hồi
khi chết.
Phần lớn
những người chết vẫn còn mang nặng cái “Tôi” tức là cái bản ngã của họ mà
ngay lúc sống họ luôn luôn bảo vệ lấy (cái này là của tôi, người
này là của tôi, cái kia là của tôi, tôi thương, tôi ghét,
tôi thích, tôi giận.. cái gì cũng tôi cả - chính vì cái tôi ấy mà khi sống
đã tạo ra biết bao sự khổ..) Vì cố bảo vệ lấy ngay cả sau khi lìa đời,
lìa bỏ thân xác, cái tôi vẫn đeo đẳng nơi cái gọi là Hồn và vì chỉ biết có
mình nên không lưu ý tới những gì xảy ra khi linh hồn thoát ra khỏi thân
xác.
Các vị Lạt
Ma Tây Tạng cho biết rằng: rất nhiều linh hồn mất dịp may vì khi bắt đầu
đi vào thế giới bên kia thường có một luồng ánh sáng rực rỡ phát ra. Nếu
họ sáng suốt do không bị mê mờ cố bám lấy cái Tôi hay cái Ta của mình hoặc
đã được các Lạt Ma hổ trợ, chỉ dạy lúc lâm chung thì họ sẽ thấy và biết
nguồn sáng đó là loại ánh sáng cao cấp chỉ đường cho họ tới cõi giới tốt
lành yên ổn hơn. Tuy nhiên phần đông các linh hồn đều lầm lạc nên đã đi
nhầm vào những nơi tai hại.
* * *
“Vì cái
giận sẽ gây nên Phiền não - vì thế không giận là hay hơn cả. Vì Từ bi,
bác ái tạo ra Hạnh phúc - vì thế nên phát triển tâm thiện này thì hơn.”
(Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14).
Theo trình
bày trên thì Thân Trung ấm là cái đi đầu thai - nhiệm vụ nó là mang theo
Nghiệp lực để đi đầu thai.
“Nhiệm Vụ
của Thân Trung ấm là đi tìm một kiếp đời mới thích hợp, thích ứng với
Nghiệp tạo ra - Sự tìm kiếm ấy mau hay chậm còn tùy thuộc vào người đã qua
đời lúc sống bản thể việc làm thiện ác của họ tốt xấu như thế nào –
Ví dụ:
- Người
có thiện tâm nhân đức thật sự như các bậc đại sư lừng danh thì có khi chỉ
trong chốc lát đã đi vào kiếp khác ngay sau khi qua đời.
- Người có
lòng nhân tốt lành tuy không từng tu trì công quả thượng thừa nhưng vì ít
phạm vào các giới có khi chỉ nửa tháng, hay một tháng là đã đầu thai.
- Còn
những kẻ bình thường thì thường sau khi chết độ 49 ngày là bắt đầu chuyển
đi đầu thai.
- Tuy
nhiên cũng có những người khi chết vì quá u mê mờ tối, luyến lưu kiếp sống
cũ thì họ sẽ trì chậm đầu thai - nhất là những người tự vẫn mà Chết (chưa
tới kỳ chết) hay những người bị chết oan ức, tức tưởi.. Phần lớn những oan
hồn này thường lang thang vô định, không có nơi nương tựa nên lâu ngày dễ
tạo thành thể chất đặc biệt mà người cõi thế gọi là "Ma" - cần phải cầu
hồn cho hương linh được siêu độ mới mong thoát được kiếp oan hồn vất
vưỡng.
Nói theo
kinh điển Phật giáo thì khi chết cái thân xác sẽ bất động, không còn biết
gì nữa cả và cái xác thân ấy sẽ phải bị hủy hoại theo luật tự nhiên để
chấm dứt một kiếp đời hiện tại.. Nhưng cái dòng sinh mệnh thì lại không
mất mà tiếp tục chuyển đổi qua một kiếp đời mới khác qua một hình hài thân
xác mới. Khi đó A Lại Gia Thức sẽ mang những Nghiệp xẩu tốt, những tính
chất, cá tánh hoài bảo của sinh mệnh kiếp đời trước (như những hạt mầm)
chuyển qua cho sinh mệnh kiếp đời sau để rồi những hạt mầm ấy sẽ mọc lên
cây lành hay cây tốt theo đúng luật Nhân Quả, khiến cuộc đời mới của sinh
mệnh ấy khổ đau hay sung sướng là tùy vào những hạt mầm ấy.
Vậy, A Lại
Gia Thức rất quan trọng, nó Duy Trì Nghiệp Nhân Quả Thiện Ác.
Quý vị độc
giả đọc đến đây, nếu thấy có vài điểm chưa hiểu thì xin quý vị đọc lại lần
nữa thật chậm, vừa đọc vừa suy nghĩ, phân tích để hiểu cho rõ thì những lý
giải về sau mới được rõ hơn.
Đọc xong
quý vị sẽ thấy là:
- Chết
không phải là hết.
- Chết là
chuyển đổi kiếp đời này qua một kiếp đời khác như bước qua một cánh cửa
chuyển tiếp, Khi bước qua cửa là đã chết, khi đó thân xác cũ hủy hoại như
ta thay bộ đồ cũ bỏ đi và mặc vào bộ đồ mới khác-Bộ đồ mới này là Thân xác
khác
- Những
Nghiệp tạo ra từ những kiếp đời vừa qua được giữ gìn, mang theo bởi A Lại
Gia Thức - Như vậy A Lại Gia Thức có nhiệm vụ thu nhặt ghi chép từng chi
tiết hành vi cuộc đời tạo ra Nghiệp và cất giữ.
Sau khi
biết rõ những điểm liên kết vừa trình bày trên, chúng ta bắt đầu bước qua
giai đoạn kế tiếp là:
1 - Sau khi
Chết, sự chuyển kiếp hay còn gọi là Đầu Thai sẽ như thế nào?
2 - Cái gì
đi đầu Thai?
3 - Đầu
thai có dễ đàng không?
4 - Đầu
thai lâu hay mau?
Ta lần lượt
đọc qua tài liệu kinh sách ghi rõ các vấn đề nêu trên qua những phần thu
gọn hết sức đơn giản để dễ hiểu như sau:
Kiếp này
muốn chuyển qua kiếp kia hay còn gọi là Đầu thai do nhiệm vụ của Thân
Trung ấm - Theo tài liệu của Hòa Thượng Thích Chánh Lạc - Tiến sĩ văn
chương Trưng Hoa - trong cuốn Sống Chết - Phú Lâu Na xuất bản thì dạng thể
của thân Trung ấm cao chừng 90 cm -gần bằng một đứa bé 5, 6 tuổi nhưng rất
sáng suốt, lanh lợi - Món ăn của thân này là mùi hương. Về dạng thể thân
này như cái bóng mờ - Khi chuyển đi sẽ ở tư thế khác biệt dễ nhận biết -
Nếu Thân trung ấm của loài Trời thì phần đầu sẽ ngửa lên phía trên - Nếu
của người, Quỷ là đầu đi ngang, nằm ngang. Còn của Chúng sanh trong Cõi
địa ngục thì đầu chúc ngược xuống phía dưới (trong Luận Câu Xá - cuốn thứ
9).
Ở đây tưởng
nên nhắc lại về sự kiện Thân Trung Ấm có liên hệ gì với hiện tượng Sợi dây
mờ đục liên kết thân xác người chết với phần mờ như sương khói - mà các
Lạt Ma Tây Tạng thường nhắc tới ở phút giây sắp lìa đời hay Sợi dây bạc
Silver cord mà ngày nay các nhà khoa học cũng như một số bác sĩ đã nhắc
tới?
Trong Tử
thư Ai Cập và Tây Tạng đều có sự mô tả phần nối "linh hồn" người chết với
Thân xác người chết. Đó là một giải mờ sáng giống sợi dây. Dawasandup,
nhà nghiên cứu về cõi chết nổi tiếng của Tây Tạng đã cho biết rằng: Khi
chết, "linh hồn" người chết thoát ra từ một huyệt đạo, thường là ở đỉnh
đầu - Tuy nhiên chưa đứt lìa hẳn mà nối bằng một sợi dây lung linh mờ sáng
rất khó thấy - Tuy nhiên các bậc chân tu thì lại thấy rõ.
Các vị Chân
sư thời cổ đại Ai Cập trong các buổi lễ Điểm Đạo, họ thường quan sát sợi
dây liên kết nối lỉền thân xác và Linh hồn của người đệ tử đang trong tình
trạng mê man của cơn đồng thiếp - điều chứng tỏ cuộc điểm đạo đang trong
tình trạng bình thường. Mục đích buổi lễ là giúp "linh hồn" người
đệ tử học hỏi được những gì ở bên kia cửa Tử. Đó không phải là một sự
chết hoàn toàn - Nhưng đối với người lìa đời thì sợi dây liên kết này sẽ
đứt lìa.
Một số nhà
khoa học, y bác sĩ... trên thế giới cũng có lần mô tả về sợi dây lạ lùng
kỳ bí nầy. Như bác sĩ R.J sTaver,
Giáo sư R.Crookall, Reverend L.J. Bertrand, Oliver Fox, Bác sĩ Wiltse. Tại
Na Uy, cô Engeborg cho hay là cô có lần thấy mình như lướt ra khỏi cơ thể
một cách nhẹ nhàng và cô thấy có một sợi dây mờ sáng lung linh theo mình.
Có một số
nhân chứng khác còn cho rằng, từ sợi dây mô tả trên họ thấy có phần khói
mờ đục thoát ra lơ lửng gần cơ thể người vừa mới qua đời. Bác sĩ Hout mô
tả rằng khối hơi hay sợi dây liên kết ấy rung động và như có chớp sáng.
Còn nhà khoa học J.C.Street thấy làn hơi từ từ giống dạng người. Trên đặc
san Society for Psychical Research, ông K.G đã chứng kiến sợi dây nối linh
hồn và thể xác của người vợ lúc bà qua đời. Các hình ảnh tương tự cũng
được các bác sĩ, y tá mô tả như bác sĩ R.B. Hout, bác sĩ E.W. Oaten, Bác
sĩ A.j. Davis, Bác sĩ Raynor.C. Johnson.. những vị này còn cho biết là
khối hơi có dạng hình người và có khi ở những vị trí ngang, thẳng đứng,
nghiêng hay ngược. Điều này trùng hợp với mô tả trong các cổ thư Tây
Tạng, Ai Cập về hình ảnh lạ lùng này. Năm 1929, sinh viên khoa học Sylvan
Muldoon là người có thể xem như là tiên phong trong vấn đề nghiên cứu tìm
hiểu sự liên kết giữa cái gọi là "Hồn" và xác cũng như sợi dây mờ đục lung
linh nối hai phần vừa kể. Cuốn Projection of the Astral Body do sinh
viên này biên khảo và xuất bản. Về sau, các nhà khoa học khác đã bắt đầu
lưu tâm nghiên cứu.
Ngày nay,
sự kiện sợi dây màu trắng bạc cũng như khối hơi vẫn đang là đề tài nghiên
cứu của một số nhà khoa học - Họ tạm cho rằng phần kỳ lạ đó thuộc siêu vật
thể có khả năng vận truyền sức sống cho cơ thể - Một khi siêu vật thể ấy
đứt lìa tức là sự sống của thân xác không còn.
Ngày nay
một số lớn người Mỹ có thái độ và niềm tin về những gì sẽ xảy đến với bản
thân họ sau khi chết có rất nhiều thay đổi sâu xa.
Sau khi một
số y bác sĩ trình bày những bài thuyết giảng, những bài báo và cả luận án
cũng như nghiên cứu về vấn đề kề cận với cái chết, các nhà báo bất đầu đổ
xô đi săn lùng những đề tài vừa kể. Năm 1982, viện Gallup đã mở một cuộc
thăm dò rộng rãi khắp nước Mỹ về những hiện tượng của vấn đề cận tử. Kết
quả, viện này đã tham khảo được 8 triệu người Mỹ đã có lần Chết đi và Sống
lại.
Những hồ sơ
ghi chép về những gì mà những người này đã có lần đi vào cõi giới khác mô
tả lại được đem phân tích so sánh, đối chiếu rất cẩn thận - Điều lạ lùng
kỳ thú là mặc dù ở những tiểu bang khác nhau, không quen biết nhau, nhiều
mô tả của những người Mỹ này lại khá tương tự hay trùng khớp nhau về những
cảnh trí, sự kiện được xem là ở bên kia cửa Tử. Dưới đây là một số
sự kiện được các nhà nghiên cứu hiện tượng Cận Tử ghi lại như sau:
1) Ở phút
hấp hối rồi xuôi tay, họ thường có những cảm giác lạ lùng như cảm thấy
thanh thản, an vui, nhưng có người lại cảm thấy lo lắng sợ sệt, hoang mang
hay ngơ ngác.. .
2) Các giác
quan lúc đó (cận tử) tự nhiên như được phát huy nên nghe rõ, nhận thức rõ,
cảm giác nóng lạnh hay đau đớn rõ hơn. Về âm thanh họ nghe như có tiếng
gió mạnh và thân xác họ như nhẹ đi và tách rời khỏi thân xác. Phần lớn họ
đều thấy mình nằm chết bất động, còn họ thì ở trên cao - họ thấy rõ thân
xác họ và thấy biết những gì đang xảy ra chung quanh. Lúc đó họ lướt đi dễ
dàng như lên cao xuống thấp và có thể xuyên qua tường hay vật rắn - Vào
giai đoạn đó họ không cảm thấy nặng nề, không còn dính dấp với xác thân,
lúc đó họ chỉ còn liên kết với tâm họ thôi nên cảm thấy nhẹ nhàng một cách
kỳ diệu.
3) Lúc này
họ biết mình đang ở vào tình huống nào, biết mình đang ở vào hoàn cảnh
khác với trước lúc còn sống - Họ cảm thấy mình như bị cuốn hút vào trong
một khoảng tối đen mông lung diệu vợi không biết đâu là chiều hướng. Họ
thấy mình lướt đi rất nhanh qua một đường hầm hun hút.
4) Kế đến,
họ thấy từ xa một điểm sáng, rồi một vừng sáng rực rỡ tỏa ra đồng thời họ
cảm thấy một tình thường bao la như hoa trong ánh sáng bao phủ lấy họ -
Lúc bấy giờ những hình ảnh của cuộc đời họ bất đầu diễn ra như một cuốn
phim của đời mình được chiếu lại.. Về sự kiện ánh sáng thì hình như mọi
người đã được hỏi qua đều cảm thấy hân hoan kỳ lạ, họ mô tả đó là loại ánh
sáng chưa từng thấy, một thứ ánh sáng toàn vẹn, rực rỡ nhưng lại không làm
cho mắt bị lòa, một thứ ánh sáng mà khi được bao phủ họ cảm nhận sự an lạc
kỳ diệu vô bờ bến nên lúc ấy họ hoàn toàn hòa vào với ánh sáng ấy..
5) Phần lớn
mô tả thấy những cảnh trí đẹp đẽ lạ lùng diệu vợi với âm thanh thanh thoát
phiêu bồng – Đôi khi hình ảnh có vẻ như xa vắng mông lung hay tối tăm u
buồn dễ sợ. Có người thấy dinh thự lâu đài nhà cửa, có người thấy hang
đá, hố sâu...
6) Phần lớn
thấy là họ không thể vượt qua một lằn ranh giới nào đó mà phần lớn như
cánh cửa hay cái cổng lớn.
7) Vấn đề
trông thấy người thì ở đây có điểm rất tương đồng là trong số 8 triệu
người Mỹ đã từng chết đi sống lại phần đông đều kể là họ đã gặp lại người
thân thuộc, bạn bè - nhưng là người thân, bè bạn đã qua đời rồi chớ không
gặp người hiện đang còn sống.
8) Những
người chết đi rồi tự nhiên sống lại đều kể giống nhau là có một động lực
thúc đẩy, chỉ bảo họ nên quay về - Có người gặp lại người cha, mẹ, anh
em... đã mất trước đó rất lâu, họ ra dấu bảo hãy mau mau quay về đừng tới
đây làm gì và sau đó chính họ trở lại thân xác của họ...
(* Quý
vị muốn biết thêm chi tiết về các sự kiên trên xin tìm đọc cuốn: Bí ẩn sau
Cõi Chết và cuốn Biên giới Tử Sanh của tác giả Đoàn văn Thông biên soạn)
. . .
Kết quả
những khám phá và nghiên cứu trên còn mang lại một số điểm như sau:
Những người
đã từng Chết đi Sống lại ấy hầu như tất cả đều thay đổi thái độ sống.
Nghĩa là trước đó họ sống “rất là tính người, thì nay không hoàn toàn như
thế nữa -Trước đó họ hay tham lam, giận dữ, tranh chấp, tự ái... thì nay
họ sống có khi như an bần lạc đạo, sống nhiều về nội tâm, hướng về đấng
tối cao nhiều hơn - Có người tới nhà thờ làm việc thiện, có người tìm đọc
sách Thiền, tập tu Thiền, tìm hiểu thêm về lý thuyết của Phật giáo - Đặc
biệt là những giáo lý của Phật giáo Tây Tạng có những lý giải phần lớn
trùng khớp với những điều họ đã trải qua trong thời gian cận kề với cái
chết.
Đối
với những vị Đại sư Tây Tạng thì những sự thấy biết của những người Chết
đi sống lại mô tả trên thật ra chỉ là những gì xảy ra ở ngưỡng cửa của Cõi
Trung ấm mà thôi chớ chưa thực sự vào sâu sau cõi Chết. Lý do là họ mới
tới đó rồi trở về nhập xác chớ nếu vào sâu nữa thì chắc chắn họ đã Chết
hẳn không thể trở về lại với thân xác nữa... Một sự kiện làm các vị Lạt Ma
lưu ý là qua lời mô lả, kể lại của những người cận kề cái Chết và may mắn
sống lại là họ đều trải qua giai đoạn thấy lại rõ ràng toàn cảnh cuộc đời
của họ vô cùng chi tiết từ những hành động tốt cũng như xấu - Như vậy là
rõ ràng vấn đề tạo Nghiệp rất quan trọng phát sinh từ những hành động việc
làm của chính mình trong đời - Những lời kể lại ấy nói lên rằng Những gì
ta đã làm, đã gây nên và thấy rõ trong phút lâm chung không thể nào chối
cải hay trốn chạy được Nghiệp báo.
Chính nhờ y
khoa ngày càng tiến bộ có thể giúp hồi sinh một số người tưởng đã qua đời
– Nhưng cũng chính nhờ vậy mà giới Y khoa ngày nay biết thêm một số sự
kiện đặc biệt, những tiến trình cùng với hình ảnh màu sắc diễn ra khi con
người tiến dần vào cõi Chết qua những mô tả của những người có lần chết đi
sống lại.
Đại sư
Sogyal Rinpoche đã từng đối thoại với những y bác sĩ Tây phương về vần đề
này rằng: "Làm sao mà bạn là vị Bác sĩ tài ba và giàu kinh nghiệm thực sự
nếu bạn không được hổ trợ thêm một số kiến thức về sự thật của cái chết
như thế nào. Nếu không có được may mắn đó thì làm sao bạn có thể giúp đở
người sắp chết về mặt tâm linh?
Ngày nay
trên thế giới, nhiều y bác sĩ đã mạnh dạn đi sâu vào việc nghiên cứu tìm
hiểu những gì liên quan tới sự Chết và có gì đằng sau cõi chết . . .
Trong hai
bộ sách Tử Thư Ai Cập và Tử Thư Tây Tạng, thì nội dung có nhiều điểm tương
đồng, tuy nhiên về chi tiết vẫn có những điểm hơi khác biệt. Đối với Tử
Thư Tây Tạng thì chi li và ứng hợp với nhiều điểm mà những người chết đi
sống lại mô tả thường rất ăn khớp. Đối với nhà khoa học, các y bác sĩ
hiện nay khi nghiên cứu tìm hiểu về Cận tử, họ tận dụng kinh sách Tây Tạng
nhiều hơn - nhất là Bộ Tử Thư.
Ngày xưa,
các vị Lại Ma Tây Tạng, nhất là các vị Đại sư hay Đạt Lai Lạt Ma sống ẩn
dặt tại quê hương họ nên thế giới ít biết về những vấn đề sâu xa thuộc
lãnh vực Tâm tinh - Nhưng ngày nay, qua biến cố Trung quốc tự chiếm đóng
Tây Tạng cả trăm nghìn người Tây Tạng đã sống lưu vong, trong đó có cả vị
Đạt Lai Lạt Ma và một số lớn các vị Ðại đức, đạo sư... Nhờ đó mà nhiều
người, kể cả các học giả, các nhà khoa học Âu Mỹ có dịp tiếp cận và thu
thập kiến thức về thế giới tâm linh, qua đó còn có cả Sự Chết - Một vấn
nạn mà Con người thường phân vân trăn trở và lo sợ.
Nhiều vấn
đề thắc mắc về sinh tử cũng nhờ đó mà được các Đại sư giải thích rõ ràng.
Ví dụ như vấn đề sống chết, trong khi chết, sau khi chết. Ngoài ra còn vô
số các thắc mắc liên quan tới sự chết ví dụ như những thắc mắc về tự tử,
về sự hư thai, về vấn đề hiến tặng xác thân, về bảo quản cơ thể .. đã được
Đạo sư Dilgo Khyentse Rinpoche giải thích rất tường
tận:
- Về người
Tự vẫn thì việc làm đó là một sai trái mà ngay cả Thiên Chúa giáo cũng
tuyệt đối ngăn cấm. Khi một người tự tử thì Thần thức của người đó cũng
không có thời gian chuẩn bị, sự bất ngờ mà không thể cưỡng lại được nên
Thần thức hay Thân Trung ấm khi đó vụt thoát ra khỏi thân xác - Lúc chết
vì tự sát, tâm thức người ấy rối ren, vụt tốc do tự ái, nóng giận, không
kềm nổi lý trí - vì thế họ đi vào cõi chết trong u tối lầm lạc nên Thần
thức buộc phải đi theo Nghiệp Xấu của mình - Đó là lúc rất nguy hiểm vì
không có thời gian suy nghĩ kiểm soát chuẩn bị đề phòng... nên dễ bị các
vong linh xấu dẫn dắt vào cõi xấu xa của lục đạo. Hơn nữa, Tự vẫn là do
mình quyết định lấy thân phận chớ chưa hẳn là người ấy đã tới giai đoạn
phải lìa đời - Như vậy thì vong linh họ chưa được sấp xếp quy định nên mãi
cứ lang thang vất vướng vô cùng tai hại...
- Về vấn đề
hư thai: Khi một người đàn bà có thai và thai bị hư - Dĩ nhiên là Thai nhi
đã chết. Theo Đạo sư Dilgo Khyentse Rinpoche thì dù là cái trứng thụ tinh
mới tượng hình phôi thai nhưng nó cũng đã có Thần thức tiềm ẩn bên trong.
Vậy mà đứa bé đã chết trước khi được sinh ra
nên Thần thức của bé lại phải chuyển qua một kiếp đời khác.
Trong trường hợp này, người mang thai cháu bé phải hết lòng cầu nguyện cho
bé chuyển di trong an lạc, nên làm việc từ thiện, tạo cồng đức giúp mình
và bé được an lành mới mong hy vọng có bé khác sinh ra bình thường.
(Tuy nhiên
cũng có nhiều người bị sẩy thai liên tiếp nhiều lần - như vậy có nghĩa là
vong linh nào đó nhập vào gia đình này không hợp ý về vấn đề gì đó - như
vợ Chồng hay tranh cải đánh đập nhau, đời sống của cha mẹ tương lai của
vong linh mới nhập vào sống bê tha cờ bạc rượu chè, gian ác... Nhưng cũng
có khi là công đức kiếp trước của hài nhi quá nghiệt ngả xấu xa, tối tăm
mê mờ..khiến bị khó khăn trở ngại gian nan trong giai đoạn chuyển kiếp -
Vì thế mà vấn đề bố thí tu tập của người mẹ bị sẩy thai rất quan trọng -
sẽ hổ trợ giúp đỡ công đức cho tâm thức hài nhi sáng suốt, giác ngộ thoát
được sự lệch lạc trắc trở lần đầu thai kế tiếp).
- Về vấn đề
ngày nay khoa học tiến bộ đã khiến các nhà khoa học nghĩ tới việc đông
lạnh thân xác người mới chết vì bệnh để chờ đợi tương lai ngành y khoa
tiến bộ hơn có thể làm cho sống lại nhờ loại thuốc hay phương cách nào đó.
Theo Đạo sư Dilgo Khyentse Rinpoche thì khi một người trút hơi thở cuối
cùng thì Thần thức sẽ rời khỏi thânxác để thực hiện vai trò đầu thai
chuyển kiếp. Vì thế không có vấn đề Thần thức chờ đợi thân xác được cứu
chữa. Điều tai hại lớn lao nguy hiểm hơn nữa là trước khi người ấy chết
mà được hứa hẹn là được bảo quản nhờ đông lạnh chờ đợi cứu chữa thì khi
người ấy chết, tâm thức họ sẽ đầy hy vọng vào sự sống lại qua cái thân xác
cũ ấy. Do đó mà càng bám víu vào cái xác lạnh vô hồn làm cho sự tái sinh
vào kiếp đời khác bị ngăn cản, chặn đứng - quả không có gì tai hại cho
bằng - Vong linh họ sẽ lang thang vật vờ, phiêu diêu vất vướng tình trạng
họ sẽ vô cùng đau thương vì họ đã rơi vào cõi giới giá băng ghê rợn mà họ
không biết.
Về vấn đề
hiến tặng thân xác - Ví dụ như có người hứa là sẽ hiến thân xác họ sau khi
qua đời hầu giúp các công trình nghiên cứu y khoa hay sau khi chết có thể
dùng cơ phận của cơ thể họ cứu giúp những người không may bị bệnh như gan,
thận, mắt, phổi, tim... Theo Ðạo sư Dilgo Rinpoche thì đây là một nghĩa cử
vô cùng cao cả, một công đức không thể nghĩ bàn. Nếu người bệnh, người
sắp chết có hy sinh ấy, ước nguyện cúng hiến ấy thì khi người ấy mất, tâm
thức họ đã biết rõ việc ấy rồi nên không tạo sự bất ngờ, hốt hoảng, lo
lắng cho họ - dù bệnh viện có tận dụng phần thân xác họ bao nhiêu đi nữa
thì Thần thức vẫn không bị ảnh hưởng mà còn mang thêm công đức, nghiệp tốt
của người chết để hổ trợ vào tiến trình tái sanh qua một kiếp đời mới khác
an lành hơn.
Đối những
người bị xử tội bằng bất cứ hình thức nào như xử chém, thắt cổ, xử bắn,
ngồi ghế điện, tiêm thuốc độc vân vân thì tâm trạng của họ trước giây phút
lìa đời vô cùng khủng khiếp, tâm thức họ kinh hãi, xót xa, đau khổ ngập
tràn... Vì thế trước và trong khi chết họ sẽ hoang mang ngơ ngác không
biết vào đâu dễ bị các vong linh xấu xa lôi kéo vào Cõi tối tăm khốn khổ -
Hơn nữa vào giây phút bị giết dù họ có linh mục hay nhà sư làm lễ đi nữa,
họ cũng khó mà tiếp nhận được lời cầu nguyện lúc tinh thần đang bấn loạn
ấy - Vì thế thân nhân người chết ấy phải thiết lập bàn thờ cầu nguyện tiếp
lại nhà hay tại chùa, nhà thờ để hổ trợ cho hương linh người chết.
Đối với
những người bị chết bất ngờ như tai nạn, té ngả, bị xe, bị ám sát, bị
đạn... thì đó là điều mà họ không nghĩ tới, không ngờ tới. Vì thế dù đã
chết nhưng họ vẫn nghĩ là mình chưa chết nên thường cứ về nhà như lúc còn
sống - Tuy nhiên vì chỉ là cái “vong linh” vô hình vô ảnh nên không ai
thấy họ, nghe họ, biết họ còn sống cả - Tình trạng ấy khiến họ đau khổ vô
cùng - Chỉ khi thấy bàn thờ có hình ảnh họ và gia đình thờ cúng khóc lạy
họ thì họ mới cảm nhận mình đã qua đời nhưng vẫn hoang mang, mơ hồ chưa
rõ. Do đó thân nhân phải lo đọc kinh, tụng kinh hộ niệm, làm lễ cầu hồn
cầu siêu giúp hồn người chết ấy mau siêu thoát - Việc làm này rất cần kíp.
Về
Tái sinh làm người cần lưu ý điều này: Thật ra thì; con người khi
chết đi, nếu tái sinh trở lại làm người thì đó là là một điều đáng mừng vì
khi chết đi tùy theo nghiệp mà tái sinh vào cõi giới nào đó - Theo Phật
giáo thì có những cõi giới đáng sợ như cõi Địa ngục, Cõi Ngạ Quỷ, Súc Sanh
hay Cõi không mấy hoan nghênh là Cõi A Tu La. Có Cõi lại khó đến như Cõi
Trời là Cõi sung sướng tốt lành - Chỉ có cõi Người là trung bình, tuy cõi
này kiếp đời cũng nghiệt ngả khổ đau với Sinh, Lão, Bệnh, Tử... nhưng nếu
xét tới cảnh làm thân thú vật hay quỷ dữ thì làm người là may mắn hơn rất
nhiều - Các Kinh sách cũng thường nhắc tới vấn đề này như sau: "nếu lỡ
khi tái sanh không được làm kiếp người mà làm kiếp thú thì không gì khốn
khổ cho bằng - Do đó, nếu khi sống không chịu tu tập để tới được cõi giới
thanh cao thì một khi đã mất làm thân người thì khó mà trở lại kiếp ấy”
Chết không
phải là mất hẳn - Chết chỉ là chuyển đổi cái kiếp thân này sang cái kiếp
thân khác mà thôi- Nguyên nhân là do Nghiệp mà khi sống ta tạo ra - Nghiệp
ấy hoặc tốt hoặc xấu, hoặc Thiện hoặc ác. Tùy theo Nghiệp xấu tốt mà kiếp
đời mới của ta theo luật Nhân quả sẽ sung sướng hay khổ đau, mạnh khỏe hay
tật bệnh triền miên... Như vậy Nghiệp là cầu nối làm cho Sinh Mệnh mỗi
người tiếp tục từ đời này qua đời khác - Nghiệp phát sinh là chính ta cho
không ai khác cả - làm ác tạo ra Nghiệp ác, làm Thiện tạo nên Nghiệp
Thiện. Những Nghiệp ấy được tích chứa, lưu giữ bởi A lại Gia thức...
Khi ta còn đang sống trên cõi đời thì A lại Gia Thức không ra khỏi thân
xác của ta - vì nó luôn luôn có nhiệm vụ ghi chép, giữ lại tất cả hành
động của ta từng li từng lí một - Nó giống như nhà quay phim về mọi hành
động tốt xấu của đời ta. Tới khi ta nhắm mắt qua đời thì nó mới thoát ra
khỏi thân xác ta để làm sứ mệnh đầu thai cho ta.
Khi một
người chết đi thì Thần thức thoát ra khỏi thân xác của người ấy - Thần
thức là cái mà dân gian thường gọi là Hồn hay Linh hồn. Câu hỏi xưa nay
là Thần thức thoát ra như vậy là từ nơi đâu của thân xác? Theo Tử
Thư Tây Tạng thì có 9 huyệt đạo trên cơ thể và Thần thức sẽ thoát ra từ
một trong 9 huyệt ấy. Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng thì tùy theo nơi phát
xuất mà các vị biết được cõi nào thần thức đi tái sanh.
- Nếu
Thần thức thoát ra từ đỉnh đầu của người chết thì họ sẽ tái sinh vào cõi
thanh cao.
-
Nếu Thần thức thoát ra từ vùng Tim thì sự tái sinh sẽ là Người.
-
Nếu Thần thức thoát ra từ phần bụng thì sẽ tái sinh vào cõi xấu như
cõi của ngạ quỷ
- Nếu
Thần thức thoát ra từ phần chân, đầu gối thì sẽ tái sinh vào cõi Súc sánh
thú vật.
-
Nếu Thần thức thoát ra từ lồng bàn chân thì sẽ tái sinh vào cõi Địa
ngục.
Nơi Thần
thức thoát ra từ cơ thể là nơi thường còn chút nóng ấm - Khi chết cơ thể
tái và lạnh dần - Nếu điểm nào trên cơ thể còn nóng thì nơi đó Thần thức
sẽ rời bỏ xác thân mà chuyển đi làm nhiệm vụ đầu thai.
Thật ra
thân nhân không cần tò mò biết điều này vì chẳng ích lợi gì - Hơn nữa
nhiều người vì muốn biết người chết sẽ tái sanh vào cõi nào nên đã mày mò
tìm hơi ấm còn lại trên xác thân người chết để xác định. Làm như thế rất
tai hại vì có thể làm cho Thần thức bất ngờ bị động nên thoát ra từ những
vị trí bất lợi khiến cho sự tái sánh lệch lạc có khi tốt thành ra xấu.
Theo lời căn dặn của các bậc chân tu thì sau khi chết khoảng 10 tiếng đồng
hồ, đừng ai đụng chạm vào thân xác của người chết cả giữ được như
thế là giúp cho Thần thức từ thân xác người ấy thoát ra khỏi một cách tự
nhiên. Nếu muốn, ta chỉ cần biết qua những việc làm hành động của người
lúc còn sống thế nào: ác đức hay hiền lương mà ta có thể biết là họ sẽ tái
sánh vào cõi xấu hay tốt. Sách Kinh cổ xưa đã ghi rằng:" Muốn biết quá
khứ hành động ra sao thì hãy nhìn cuộc đời hiện tại – Còn muốn biết tương
lai ta ra sao thì cũng hãy nhìn những gì ta làm trong hiện tại.."
“ Ta
có Bạn và Kẻ Thù. Những ai làm lợi cho ta thì gọi là bạn. Những ai làm
hại ta thì gọi là Kẻ Thù. Gọi và đánh giá như vậy có cái hại là ta cứ bị
vướng mắc vào người mà ta gọi là bạn. Họ thể nào ta vẫn cứ thương - Còn kẻ
mà ta gọi là kẻ Thù thì làm tốt mấy cũng bị ta ghét - Đó chính là do ta bị
cái chấp ngả ở ngay trong tâm ta chi phối ta .. “
Nếu muốn
tránh được Quả báo xấu xa, đau khổ thì ngay trong cuộc đời hiện tại, ta
hãy cố tập cho mình có được mối Thiện tâm - Lòng ta phải hướng
thiện và tránh ác. Chỉ cần có ý nghĩ về những gì gọi là Thiện không thôi
cũng tạm là đủ cho tâm thanh thản vì tâm hướng về cái Thiện. Dần dần ta
hãy làm việc thiện, tức là thể hiện Thiện tâm qua hành động. Trước hết ta
hãy thực hành việc Bố thí. Có một câu nói từ cổ xưa mới nghe qua thấy vô
lý nhưng đầy sự thiện tâm nhân đức: "Cho tức là Nhận" hay "Cho hết để lấy
vô nhiều”. Ta không có khả năng và ý nghĩ đó thì hãy làm việc Thiện, bố
thí với khả năng mình - đừng khư khư ôm lấy những gì mình có hãy chia sớt
ít nhiều cho người túng thiếu. Của cho tuy ít nhưng cứ làm mãi thì
có ngày càng được nhiều lên, đời ta cũng sẽ tạo được phước đức lớn - nếu
không được ngay trong đời này thì cũng sẽ ở đời sau như Chúa Kitô đã nhắc
nhở các đệ tử: "Hãy răn bảo họ làm điều lành, làm nhiều việc phước
thiện. Kíp ban phát, phân chia của cải mình có. Vậy là dồn chứa về ngày
sau một cái nền tốt và bền vững cho mình để được cầm lấy sự sống thật. . ".
Tuy nhiên
cần phải lưu ý: vì có người làm được việc bố thí thì tự cho mình là người
được phước báu lớn lao. Có người vì muốn có tài vật để bố thí cho kẻ khác
đã làm điều không hay để có được tiền của. Nếu làm như thế thì việc bố
thí cũng như không. Nếu bạn làm việc phước thiện để mong khoả lấp, tiêu
trừ việc gian ác mà bạn đang làm, đang theo đuổi thì quả báo xấu xa vẫn
tới với bạn.
Quả báo tốt
lành nhận được khi Phước và Đức được làm tròn - Làm Phước phải kèm theo
đức độ - mà cái đức độ luôn nằm sẵn trong Tâm mình. Nếu bố thí với mục
đích mong cầu lợi lộc cho chính mình , bố thí mà chỉ trông chờ người mình
bố thí trả ơn, bố thí mà tự cao tự đại, phách lối, trách mắng la rầy, khoe
khoang... thì đó không phải là bố thí, bố thí như thế thì sự tốt sẽ mất
đi rất nhiều.
Làm việc bố
thí, giúp đỡ người sa cơ lỡ vận giúp người cô thế là việc phải làm theo
đúng với thiện tâm. Nhưng để cái Tâm Thiện được trong sáng thì điều cần
thiết là nên tập thương mọi vật. Thương đồ vật tức là tiết kiệm chăm sóc,
giữ gìn cho chúng khỏi hư hao tốn kém, đó không phải là ích kỷ, keo kiệt
bõn xẻn. Thương chúng sanh là thương mọi loài, hãy tránh sát sanh, không
giết loài vật. Được vậy thì sẽ thành thói quen dù con kiến cũng không nỡ
giết thì làm sao ta có thể hại người, làm khổ người, đánh đập người? Giết
người? Mà đã không làm những điều vừa kể tức là không tạo nên nghiệp ác -
Đã không tạo nên nghiệp ác thì sẽ không bị quả báo trả vay. Tạo Nhân lành
thì gặp Quả Lành, tạo Nhân ác thì nhận Quả ác.
Vậy muốn
tránh được quả báo không hay đời này hay đời sau, thì trước nhất ta nên
tập làm việc Thiện. Việc Thiện nẩy sinh từ cách sống chân thật, trong
sạch, hòa nhã, nhẫn nại, sáng suốt, không hại người, không hại vật, không
lấy của người, không ích kỷ, căm thù, xảo ngôn, ganh ty: Luôn luôn nghĩ
đến người khác với mối thiện lâm, tập đức tính hỉ xã khoan đung, độ lượng
- Nhất là thực hành Bố thí giúp người. .
Nhiều kinh
sách tôn giáo xưa nay đã từng khuyên người thân trong gia đình mỗi khi có
người thân sắp qua đời thì nên có thái độ, hành động và việc làm đúng hợp
với hoàn cảnh lúc đó - có vậy mới mong người sắp mất ra đi một cách thanh
thản, không u buồn nuối tiếc, khổ đau...
Sau đây là
một số điều cần làm:
1) Điều
quan trọng nhất và cũng là khó nhất, đó là khi người thân sắp hay mới qua
đời thì thân nhân không nên khóc lóc, kêu gào, vật vã - Vì người sắp chết
sẽ rất khổ đau ray rứt khó ra đi. Còn khi người mới xuôi tay nhắm mắt, bề
ngoài thấy là họ đã mất, dù cho tim ngừng đập; Nhưng thật sự là họ vẫn còn
nghe, biết những gì xảy ra chung quanh họ. Do đó thân nhân nên cố gắng
tránh khóc lóc, kể lễ làm đau lòng người sắp mất.
2) Không
nên đụng chạm, tắm rửa, thay quần áo hay di chuyển thân xác người mới mất
trong khoảng thời gian 12 tiếng đồng hồ kể từ khi người ấy mất.
3) Trong
khoảng thời gian 12 tiếng kể từ khi mất, người thân nên đọc kinh cầu
nguyện (nếu là Thiên Chúa giáo) hay tụng kinh siêu độ (nếu là Phật giáo)
liên tục cho vong linh hay linh hồn người mất được ra đi một cách thanh
thoát, an lạc, tự nhiên... dĩ nhiên là trong thời gian đó nên giữ yên
lặng; chỉ có tiếng kinh thôi - cố tránh không có tiếng than khóc đau
thương - Khi đọc kinh hay tụng kinh âm điệu cũng không nên ai oán bi
thương.
4) Cần nhớ
rằng: trong thời gian 49 ngày kể từ khi mất, vong linh hay linh hồn (theo
Phật giáo thì giai đoạn này là Thân Trung ấm) người mới mất ấy còn trong
tình trạng hoang mang, mơ hồ, phân vân trước những cõi giới không biết vào
đâu - thời gian này cần thân nhân hổ trợ bằng lời cầu nguvên - cầu hồn,
cầu siêu... nhất là bằng sự bố thí giúp người, ăn chay hay in ấn kinh sách
phổ biến hoặc nhờ nhà thờ, chùa làm lễ cầu nguyện cho linh hồn người mới
mất được siêu thoát. Những việc làm vừa kể rất quan trọng và rất có hiệu
quả vì giai đoạn 49 ngày là giai đoạn rất đáng quan tâm, rất đáng lo cho
người mới qua đời - thân nhân cần phải nhớ điều đó để giúp người thân mới
mất được ra đi trong an lạc tốt lành. Hãy chú tâm vào những điều vừa kể
hơn là chú tâm vào nghi lễ phiền toái linh đình, đám cho to, giỗ cúng cho
lớn mời cha, thầy tới cho đông, thết đãi, xe cộ xênh xang chỉ là bề mặt và
cho người sống có hư danh - còn người chết thì vong linh, dật dờ, lênh
đênh, vô định... mà việc ta làm lúc này là để giúp người mất chớ đâu cho
người đang sống?
5) Người
sắp mất ra đi với tâm trạng lo buồn, đau khổ. Vì họ còn rất nhiều việc
chưa hoàn tất, nhiều ước nguyện chưa thành, còn nhiều tình cảm quyến luyến
- Do đó phút lâm chung, người thân phải hiểu rõ điều đó, cố động viên họ,
làm cho họ an tâm tuyệt đối đừng khơi dậy những nổi đau mà họ đã hay đang
trải qua lúc còn sống, tránh nhắc lại những thứ ấy - Hãy bảo rằng: "..cứ
yên tâm, mọi việc đều ổn thỏa, gia đình sẽ lo chu đáo, không có gì phải lo
cả..". Có người lúc lâm chung, họ luôn nhớ lại những gì xảy ra nhất là
quá khứ - có người nhớ là họ còn nợ ai số tiền chưa trả chẳng hạn - họ
muốn ra đi được thanh thản.. nếu thân nhân nghe họ phàn nàn lo âu điều đó
thì nếu có thể tìm cách nói làm sao để họ an vui. Nếu có thể nên thanh
toán nợ nếu đủ sức thì đó quả là một việc phúc đức đáng làm. Nói tóm lại
Ta hãy cố tạo sự thuận lợi an ổn cho người sắp ra đi, để họ khỏi bận tân,
nuối tiếc, dùng dằng... nếu là người bệnh sắp mất, thân nhân hãy chờ lúc
họ tỉnh táo hãy hỏi họ cặn kẻ những gì họ mong muốn, những gì họ căn dặn
và hứa sẽ làm cho họ yên lòng - Dĩ nhiên lời hứa phải thành thật không
gian dối dù sau đó vì quá sức mình không chu toàn được... Làm được vậy là
giúp người sắp mất thanh thản ra đi một cách nhẹ nhàng - Nhờ đó mà vong
linh sẽ sáng suốt, không bận tâm, không u buồn nên khỏi phải đi vào đường
lầm mêcủa Lục đạo.
6)
Trước mặt người sấp mất hãy làm những điều tốt lành như những người trong
gia đình mấy lâu xung khắc gây gổ, tránh mặt nhau thì khi đó hãy đứng bên
nhau hoà đồng vui vẻ để người sắp mất vui lòng. Tránh gây gỗ tranh cải
nhau. Người sắp lìa đời nằm đó nhưng tai nghe rõ hết, ngay cả khi họ nhắm
mắt xuôi tay, thần trí họ vẫn còn hoạt động - Phải nhớ kỹ điều đó.
7) Tránh
khuyên răn người sắp mất tin theo một tôn giáo nào đó khác với tôn giáo mà
họ đã theo – làm như vậy tạo nên hoang mang tâm thức họ khi đang đứng ở
ngưỡng cửa của sự chết khiến họ không biết bước vào cõi giới nào lúc đó.
Chỉ ngoại trừ người sắp mất tự nguyện hay đề nghị mà thôi. Việc rước lễ,
đọc kinh hay tụng kinh cũng nên theo ý muốn của người sắp mất, đừng ép
uổng họ. Có người tới lúc cận kề sự chết họ mới mở tâm khai ngộ - vì thế
lúc ấy họ tin điều gì, mong ước gì là nên để họ tự ý, không nên tự mình
đưa họ vào hoàn cảnh hay niềm tin mà họ không muốn.
8) Những bà
con bè bạn tới thăm muốn gặp thì nhớ nhắc nhở họ đừng tỏ vẻ lo sợ về cái
chết sắp đến đừng nói lời tiếc thương u buồn mà tỏ ra tự nhiên xem cái
chết là điều bình thường vì ai cũng trải qua cả - Đừng làm cho họ sợ, chán
nản, lo lắng...
9) Vấn đề
dùng thuốc an thần: chỉ nên dùng khi bệnh nhân đang ở tình trạng đau bệnh
nhưng chưa đi vào giai đoạn hấp hối. Dùng thuốc an thần để giúp giảm cơn
đau đớn cho người bệnh những lúc đó mà thôi- Tuy nhiên, khi họ đi
vào giai đoạn sắp thở hơi cuối cùng thì tốt nhất là không nên. Bác sĩ
Paul Perry, bác sĩ Melvin Morse cho biết rằng, hiện nay tại các bệnh viện,
nhất là ở các nước Âu Mỹ 90 phần trăm bệnh nhân quá đời đều đã dùng nhiều
thuốc an thần - Nhất là khi thấy người đang hấp hối tỏ vẻ lo sợ, kêu hay
nói hoặc mô tả những hình ảnh mà họ đã thấy lúc đó thì các y bác sĩ cho là
họ đang bị mê sảng nên trấn an bằng cách cho họ uống thuốc an thần - Họ
không biết lúc ấy người sắp mất đang ở biên giới của tử sinh nơi giới hạn
của cõi giới họ đang sống (thế gian) với cõi giới khác - mà cõi giới khác
thì có biết bao hình ảnh kỳ bí lạ lùng có khi đáng sợ mà người sắp lìa đời
thấy được trong khi những người đang sống (y, bác sĩ, thân nhân người hấp
hối không thể thấy...
Bác sĩ
Melvin Morse cho hay là có lần một em bé tên John 11 tuổi đang kề cận với
cái chết trong bệnh viện mà ông có nhiệm vụ theo dõi bệnh trạng. Em này
bị bướu giác tính ở hạch Bạch huyết Lymphoma - Vì trường hợp của bé John
đặc biệt, không thể dùng thuốc an thần - Do đó theo bác sĩ Melvin Morse,
em bé này đã ra đi thật an bình - Trước khi thở hơi cuối cùng, bé mở mắt
nói với người thân đang vây quanh giường: "Ba má và các anh chị hãy cầu
nguyện cho con - Chúa đang ở trong phòng, trước mặt con đó! " Nói xong
bé nhắm mắt và mất một các an bình tự tại. Theo bác sĩ Melvin, người
chuyên nghiên cứu những gì bên kia cõi chết thì trường hợp đặc biệt của bé
John đã xảy ra trước mắt của nhiều y tá và bác sĩ trong bệnh viện. Bé ra
đi một cách thanh thản tự nhiên - điều mà tất cả mọi người có mặt hôm đó
hiếm khi thấy - Thắc mắc nêu ra lúc bấy giờ đã được bác sĩ Melvin Morse
trả lời dứt khoát rằng: "..đó là do bé John lúc cận kề cái chết, may mắn
đã không dùng thuốc an thần!”. Theo các Lạt Ma Tây Tạng thì giờ phút hấp
hối rất quan trọng, nếu trí óc thần trí u lối, mê mờ, hoang mang vô định
thì rất dễ lạc vào cõi giới tối tăm khốn khổ - Dùng thuốc an thần lúc hấp
hối chính là khiến thần trí người đó mê mờ như kẻ mộng du, say rượu. Giây
phút ra đi, tâm trí cần phải an bình, sáng suốt mới nhận thức được đâu là
nơi đáng tới, nơi không nên vào. Vì theo Phật giáo, khi chết bất cứ ai
cũng phải vào một trong 6 cõi giới gọi là Lục đạo - chỉ ngoại trừ những
bậc tu hành đắc đạo, thanh cao là không bị đưa vào đó theo nghiệp báo của
họ gây ra khi còn sống mà thôi.
10) Tại các
bệnh viện thường có dụng cụ giật điện giúp hồi sinh cho người bị kích
ngất. Cũng theo bác sĩ Melvin Morse thì vấn đề sử dụng loại giật điện giúp
hồi sinh này cần phải cẩn thận - nên dùng như trường hợp đứng tim chẳng
hạn. Còn trường hợp chết vì ung thư hay bệnh không thể chữa khỏi thì
không dùng là hơn. Nếu vì lý do thân nhân yêu cầu thì cũng nên hạn chế.
Có khi vì muốn thấy mặt lần cuối hay nghe lời trăn trối sau cùng mà phải
dùng tới dụng cụ giật điện giúp người mới chết hồi sinh chốc lát thì quả
là sai lầm. Sai lầm thứ nhất là làm người sắp qua đời phải chịu đau đớn
khủng khiếp - nếu chỉ vài phút hồi sinh rồi mất thì tâm trí người ấy đâu
còn minh mẫn an bình nữa? Sai lầm thứ hai: người ra đi phải đúng giờ giấc,
không dùng dằng hay bị níu kẻo - giờ phút quan trọng đã tới mà lại làm họ
"trễ chuyến đi" cũng như gây hoang mang nghiệt ngả tâm hồn thì quả thật là
vô cùng tai hại... Chết trong khi được cầu nguyện là điều vạn hạnh. Những
bậc tu chứng thường cho rằng: một người đang chú tâm cầu nguyện, đọc kinh,
tụng kinh mà tự nhiên bị chết thì tâm linh người ấy đã được trong sáng, đã
đi vào trong lời cầu nguyện nên họ chết trong an lạc. Các bậc thầy kinh
nghiệm về tu tập cho biết rằng: lúc sắp qua đời nếu người sấp mất ấy cầu
nguyện được tái sinh làm người với mục đích giúp đỡ kẻ khác - họ chú tâm
cầu nguyện mãi như thế cho tới khi nhắm mắt xuôi tay thì phần lớn người ấy
sẽ tái sinh vào một kiếp người đầy hạnh phúc an vui. Do đó khi còn sống,
hằng ngày ta cũng nên tâm niệm như thế, ngay cả khi đang đi, nằm, ngồi hay
làm việc - Tập quen như thế rồi thì khi sắp lâm chung ta sẽ quen với tâm
niệm tốt lành ấy.
Nhiều vị
Lạt Ma Tây Tạng khuyên thân nhân người chết để ý điều này: Nếu người qua
đời để lại một số của cải hoặc người đó mất đi thân nhân sẽ hưởng một số
tiền nào đó như đền bù vì tai nạn, bảo hiểm, chết trận vân vân - Thân nhân
không nên tiêu dùng hết số tiền đó mà nên trích ra một ích cho hội từ
thiện hay đích thân đi làm việc thiện, cứu giúp người nghèo vừa giúp lòng
tâm mình bớt áy náy vừa làm vui lòng vong linh người đã khuất.
Người Việt
Nam cũng vậy, lúc có người thân mất phần lớn họ không nhận tiền phúng điếu
(chỉ ngoại trừ gia đình người qua đời quá nghèo túng không mua nổi áo quan
hay chi phí lễ tang ma... thì nhận nhưng cũng giới hạn).
Kinh nghiệm
cổ xưa của một số nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam và nhất là Tây
Tạng thì thời gian 3 ngày là thời gian cần thiết không hơn không kém để
giữ thân xác người mới qua đời cẩn thận trước khi chôn cất hay thiêu xác.
Trong 3
ngày ấy, không nên đụng tới thân xác nhất là không nên thoa xức, hay tiêm
chích vào cơ thể người mới mất bất cứ thứ gì.
Theo các vị
Lạt Ma Tây Tạng thì khi chết, Thần thức rời khỏi Thân xác qua một huyệt
đạo nào đó trên thân xác nhất là ở đỉnh đầu. Nhưng nếu ta đụng chạm
hay tiêm, chích vào da thịt lúc ấy thì Thần thức có thể bị động nên có thể
thoát ra từ một nơi nào gần nhất chớ không từ đỉnh đầu - mà Thần thức một
khi thoát ra bất ngờ và không đúng vị trí như vậy sẽ mang lại sự rủi ro,
bất lợi cho lúc tái sanh. Vì thế, khi đã biết chắc rằng người bệnh không
thể nào qua khỏi thì nên yêu cầu bác sĩ gở bỏ những thứ y cụ trên người
bệnh nhân nhất là các kim chích ra khỏi cơ thể.
Đại Đức
Sogal Rinpoche đã từng thuyết giảng rằng "Muốn vơi đi thật nhiều nổi
đau thương về người thân mất thì không gì hơn là hãy tiếp tục thực hiện
những gì mà khi sống người ấy mong ước hay còn dang dở. chưa xong”
Ngay cả những lầm lỗi mà lúc sống họ đã gây ra ta cũng nên tha thứ... cũng
như những gì mình làm họ khổ đau thiệt thại thì cũng phải ăn năn.
Đối với
người Tây Tạng, họ đã nghe các vị Lạt Ma giảng giải từ tấm bé rằng thân
xác của mỗi con người là vật tạm bợ như bộ áo quần để mặt mà thôi - khi
chết giống như là cởi bỏ bộ áo quần cũ đi đầu thai chuyển vào một sinh
mệnh mới như mặc bộ đồ mới khác. Chỉ cần quan sát xác thân một người chết
bên bờ bịu không ai thừa nhận lâu ngày tan rã tỏa mùi hôi hám thì sẽ thấy
rõ cái xác thân chỉ là cái tạm thời. Do đó khi chết người Tây Tạng thường
hỏa táng xác chết - Cái thây người chết được xem như biểu tượng của tất cả
nghiệp ác - Nên khi thân xác bị lửa thiêu cháy thì những nghiệp ác tiêu
tan và đồng thời phát ra ánh sáng rực rỡ. Câu Thần chú giúp xóa tan ác
nghiệp của người qua đời đang rực cháy trong lửa là OM VAJRA SATTIVA HUM
(ý nghĩa của câu chú là mong mỏi Thần Kim cương tát đõa chuyển hóa Ác
Nghiệp..). Ngoài ra có một câu chú khác giúp người chết không bị mê mờ u
tối lạc vào 6 nẻo luân hồi – Câu chú đó là A A HA SHA SA MA.
Theo niềm
tin của phần lớn người Đông phương thì khi chết phần lớn người chết vẫn
còn mơ hồ chưa biết là mình đã chết - Vì thế họ thường quay trở lại nhà và
sống như lúc đang còn sống mặc dù người thân chẳng thấy chẳng biết có họ
hiện diện. Có khi họ mượn tạm xác thân đã chết để hiện ra trong chốc lát
mà người sống khi thấy hoảng sợ và gọi là Ma. Kinh nghiệm dân gian cho
thấy ở những nơi xảy ra tai nạn chết người "hồn" người chết thường hiện ra
với bộ quần áo họ mặc lúc bị tai nạn. Vì lý do đó mà khi chết nên thiêu
xác để người chết không thể mượn xác thân của mình để hiện ra nữa hoặc
không còn quyến luyến cái thân xác cũ nữa...
Một số vị
đại sư còn cho rằng: khi chết thân xác sẽ dần dần tan rã, dù đem chôn thì
lâu ngày xác thân cũng bị các loài vi sinh vật đục khoét biến dạng rất ghê
rợn - Do đó chỉ có thiêu xác là tránh được nhiều điều không hay.
Người Âu Mỹ
trước đây không nghĩ tới vấn đề thiêu xác khi chết, những ngày nay nhiều
người đã nhận thấy ít nhất là về mặt vệ sinh, thực tế thì việc thiêu xác
tốt lành thuận lợi hơn chôn cất xác chết rất nhiều - việc duy trì bảo quản
hoặc phải di chuyển cũng dễ dàng, ít tốn kém... Mới đây, trong năm 1999
John F Kennedy Jr, vợ và chị vợ bị chết vì tai nạn phi cơ đã hỏa thiêu
theo truyền thống Phật giáo và công chúa Margaret cũng yêu cầu được thiêu
xác mình chớ không chôn khi bà mất vào năm 71 tuổi.
Dù người
thân qua đời ta thương quý đến mấy cũng không thể chôn cất trong vườn nhà
để được gần gũi. Nếu là tro cốt của họ, ta cũng không đặt thờ trong
nhà. Tốt nhất là đem thờ ở Chùa hay nhà Thờ hoặc chôn cất làm mộ chí như
bình thường. Khoảng 5 năm sau tro cất được thờ nên đem rãi trên biển là
tốt nhất.
Người giàu
có, sống trên của cải nhưng khi họ chết đi, hai tay buông xuôi thì họ trở
thành tay trắng vì không mang theo được dù một chút của cải vật chất nào.
Sự kiện thực tế ấy từ lúc con người xuất hiện trên quả đất cho đến nay đều
thấy rõ, không ai chối cải, vậy mà từ xưa tới nay có biết bao người quyết
chí làm giàu, lúc nào cũng mong tiền bạc đến với mình không dứt. Họ sống
vì tiền, vui thú vì lo thu nhặt tiền bạc vào cho đầy túi nhưng không bao
giờ chấm dứt được cái ham muốn ấy vì lòng tham quá mức. Đến khi xuôi tay
thì tất cả tiền bạc của cải ấy đều để lại thế gian còn họ thì nằm dưới
lòng đất lạnh.
Người giàu
Cũng như người nghèo, khi chết hai tay buông xuôi, không mang theo được gì
- Cái mang theo thật sự là cái Nghiệp - Vì thế đôi khi sau khi chết người
giàu có không chắc gì sung sướng hơn người nghèo hèn -Lý do là có người
lúc sống nghèo nàn vì họ sống với thiện tâm không làm sai quấy, gây điều
tội lỗi. Có người lúc sống rất giàu có nhưng gian ác bất lương thì Nghiệp
dữ đó sẽ làm họ khổ sở ở đời sau.
Có biết bao
nhà triệu phú, tỷ phú sống trên của cải, có người hằng chục tỷ mỹ Kim, khi
chết không mang theo được một câu nhỏ. Ngay khi đang làm giàu họ luôn
luôn phải phấn đấu, tranh dành, mưu lược để chống chọi lại với những gì
bất lợi đến với mình. Do đó lâm hồn những người giàu có thường bất an,
hồi hộp, lo lắng, mệt trí vì tính toán không những thế họ thường keo kiệt
không dám giúp đỡ ai vì sợ số tiền có được của mình hao hụt đi. Có người,
ngay chính bản thân họ cũng không dám ăn tiêu huống hồ là nói đến chuyện
giúp đỡ kẻ khác. Ngày nay càng có nhiều đại phú gia, nhiều người giàu có,
tất cả đều bị như thế, nhưng không biết mình như thế. Đôi khi họ
còn chê cười phê bình chỉ trích người khác keo kiệt hà tiện. Cái mê mờ u
tối ấy đã từng bao phủ biết bao người khiến họ không thoát ra được để thấy
cái ánh sáng vi diệu của sự giúp đỡ bố thí kẻ khác.
Phần đông
những người càng giàu có họ lại càng có cái Tâm Tiếc Rẽ. Lý do là vì lòng
tham con người quá lớn, có rồi muốn có thêm nữa vì thế nếu đem cho, giúp
đỡ bố thí thì tiền của sẽ hao hụt, làm sao lợi nhuận tăng thêm? Nhiều
người lại nghĩ sai khi cho rằng bố thí là việc làm của kẻ giàu có. Họ bảo
" tôi đâu phải là người giàu, tiền bạc ít ỏi, làm sao tôi có đủ để bố thí
giúp đỡ ai?".. Nghĩ như vậy là sai. Bố thí không phải bắt buộc phải
nhiều. "Của ít lòng nhiều ... là câu nói của cổ nhân ta từ lâu nhắc nhở
cho thấy của cho quan trọng ở tấm lòng.
Những
người hay gây hấn hay làm phiền kẻ khác luôn luôn bất an, không những lúc
thức mà có khi ngũ và nằm mộng. Trái lại nếu bạn sống an hòa vui vẻ với
mọi người thì bạn sẽ thảnh thơi hạnh phúc suốt đời... (Đức Đạt
Lai Lạt Ma đời thứ 14).
(Sơ lược một số tài liệu tham khảo
chính)
-
Huyền học đạo Phật và Thiên Chúa - D.T Suzuki - Như Hạnh
dịch – Kinh Thi xuất bản Sài gòn – 1974.
-
Cơ sở Mật giáo Tây Tạng - Lama anagarika Govinda- Như Pháp
Quân Trần Ngọc Anh dịch - nhà xụất bản Thế giới – 1995 - Hoa Kỳ.
-
Bí ẩn sau cõi Chết - Đoàn văn Thông - Nguồn sống Xuất bản
–1994 - USA
-
Siêu hình – Tình Yêu - Siêu hình sự Chết – Schopenhauer -
Hoàng Thiên Nguyễn dịch- Kinh Thi xuất bản – 1974.
- Tạng Thư Sống Chết (The
Tibetan Book of Living and dying)- Sogyal Rinpoche - Xuất Thu ấn hành -
xuất bản - 1996.
- Sống và Chết - Thích Chánh
Lạc - Phú lâu Na Tùng thư VI - 1987 – Hoa Kỳ
- Biên giới Tử Sanh - Đoàn
văn Thông - Hải Ngoai xuất bản – 2000 - USA.
- Bí ẩn về tiền kiếp, Hậu
kiếp - Đoàn văn Thông- Nguồn sống xuất bản- in lần thứ 5- năm 2000
-Hoa Kỳ
- Vãng Sanh quan yếu - Dịch
giả Viên Thông - Chúng Liên Trì ấn tống – 1988 – Hoa Kỳ
- How to be Born Again -
Billy Graham - world Books Publisher - 1977- USA.
- Life After Death -
Elizabeth Hanley - New York- 1977- USA.
- Le livre des Morts des anciens
Egyptiens - Pierre Barguet- Paris - 1967.
- Death and Immortality -
Phillips, D.Z. 1970
- The Future of the Body -
Michael Murphy - Jeremy P. Tarcher Inc. Los Angeles- 1992 - USA.
- Death and After life -
David.T - 1989.
- Les Morts nous parlent -
Brune, Francois - 1988.
- Out of the body Experiences
- Robert Crookall (A citadel Press Book Published by Canh, Publising Group
– 1992 - USA.
- One hundred cases for survival
after Death - Baird, A.T. – 1943 - London.
- The next World - and the Next
- R. Crookall- 1966 - Lodon.
- The mystical Life -
J.H.M: Whiteman - 1961- USA.
-
Sống Hạnh phúc - chết Bình an - The Joy of living - Dying in
peace - Đạt Lai Lạt Ma thứ 14- Chân Huyền dịch - Làng Cây Phong xuất bản -
2003-USA.
Hết.
---o0o---
Vi tính: Diệu Khánh.
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật: 6-2007