KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ÐƯỢC GÌ
ÐOÀN VĂN THÔNG
Kính thưa quý vị độc giả
Cuốn Khi Chết Không mang theo được gì do
tảc giả Đoàn văn Thông biên soạn đã được đông đảo người đọc hoan nghênh. Số lượng 1000 cuốn không đủ để cung cấp đến nhiều người - Vì thế nhiều vị
độc giả đã yêu cầu in ấn thêm để phổ biến rộng rãi hơn. Do đó mới có lần
tái bản này với sự giúp đỡ của nhiều vị hảo tâm.
Đây là tập sách tuy mỏng nhưng cô đọng rất
nhiều vấn đề liên quan tới cuộc đời của mỗi người và mọi người. Nội dung
bao gồm vấn đề của sự sống và sự chết, về những việc làm, hành động hay ý
nghĩa của mọi người trong đời và những tác động, ảnh hưởng cũng như hậu
quả trong hiện tại hay ở tương lai.
Ngoài ra tập sách này còn trình bày một số
vấn đề liên quan tới những sự tụ tập của một vài vị chân sư, sự chuyển đổi
của trường Khí vũ trụ ảnh hưởng đến vận mệnh thế giới, thuyết Cửu tinh lên
châu, các thảm họa trên quả đất và vấn đề điềm triệu trong dân gian.
Kính thưa quý vị độc giả,
Nhà xuất bản Thế giới Mới chúng tôi tính
tới nay đả xuất bản được rất nhiều đầu gách của tác giả Đoàn văn Thông -
nguyên là Giảng viên Đại học Khoa học Huế và Đại học Duyên Hải Nha trang
về môn Sinh vật học Biology). Sách do ông Đoàn văn Thông biên soạn bao
gồm nhiều đề tài từ khoa học cho đến vấn đề Tâm linh, Đặc biệt nhất là
nhiều sách viết về vấn đề Tâm linh kỳ bí phát hành, phổ biến rộng rãi tới
các tiểu bang Mỹ quốc có người Việt đã được đông đảo độc giả tìm đọc. Trong chiều hướng đó lần xuất bản này - tập sách nhan đề “Khi Chết không
mang theo được gi” của soạn giả Ðoàn văn Thông ra mắt quý bạn đọc.
Nhà xuất bản xin trân trọng giới thiệu đến
quý vị
NHÀ XUẤT BẢN HẢI NGOẠI 2004
“Tất cả lúa, đậu,
tài sản, vàng bạc châu báu, tiền của, mọi vật sở hửu đều để lại hết khi
người chủ của các thứ ấy chết đi. Người đó không mang theo
được bất cứ thứ gì dù lúc còn sống
người ấy ôm giữ từng giờ từng phút. Chỉ có cái đi theo người ấy lúc chết,
đó là Thân, Khẩu, Ý và những gì người ấy đã làm lúc sống. Tất cả những
thứ ấy đi theo để tạo Nghiệp báo cho đời sau mà thôi. Biết được vậy thì
khi sống ta phải tạo việc lành, phải biết bố thí giúp người...” (Tương Ưng Bộ Kinh)
Bà Dianne Perry, sinh
trưởng tại Anh quốc (người mà sau này trở thành Nữ tu Phật giáo nổi tiếng
thế giới, người đã trải qua 12 năm tu khổ hạnh nơi rặng tuyết sơn của
Hymalaya) lúc mới 12 tuổi đã có lần thấy một người vô gia cư chết bên gầm
cầu. Cảnh sát lục lọi cái xách rách nát của người chết ấy chỉ thấy một cái
bát một cái muống và vài đồng xu. Hôm đó trở về nhà, tuy nhỏ tuổi mà cô
bé Diane Perry đã hỏi mẹ một câu đầy vẻ triết lý:
“Mẹ ơi! Tại sao người
ta chết đi không đem theo được gì cả? Hôm qua con thấy một người chết bên
gầm cầu, người ấy rất nghèo, chỉ có cái bát, cái muống và mấy đồng xu. Chỉ chừng ấy thôi mà khi chết người ấy vẫn để lại không mang theo sao?”
Bà mẹ của Diane ngạc
nhiên vì câu hỏi lạ lùng ấy và đã trả lời con:
“Không con à! Khi
chết không ai đem theo được bất cứ cái gì. Dù Vua chúa, người giàu sang
hay kẻ nghèo hèn... một khi đã chết thì không đem theo của cải vật chất
nào cả.”
Qua câu chuyện trên
ta thấy rõ ràng trong thực tế có vô số người giàu có sống trên của cải
nhưng khi họ chết đi, hai tay buông xuôi thì họ trở thành tay trắng vì
không mang theo được dù một chút của cải vật chất nào. Sự kiện thực tế ấy
từ lúc con người xuất hiện trên quả đất cho đến nay đều thấy rõ không ai
chối cải. Ấy vậy mà từ xưa tới nay có biết bao người quyết chí làm giàu,
lúc nào cũng mong tiền bạc đến với mình không dứt. Họ sống vì tiền, vui
thú vì lo thu nhặt tiền bạc vào cho đầy túi nhưng không bao giờ chấm dứt
được cái ham muốn ấy vì lòng tham quá mức. Đến khi xuôi tay thì tất cả
tiền bạc của cải ấy đều để lại thế gian còn họ thì nằm dưới lòng đất
lạnh. Có biết bao nhà triệu phú, tỷ phú sống trên của cải, có người hằng
chục tỷ mỹ Kim, khi chết không mang theo được một cent nhỏ. Ngay khi đang
làm giàu họ luôn luôn phải phấn đấu tranh dành, mưu lược để chống chọi lại
với những gì bất lợi đến với mình. Do đó tâm hồn những người giàu có
thường bất an hồi hộp, lo lắng mệt trí vì tính toán... không những thế họ
thường keo kiệt không dám giúp đỡ ai vì sợ số tiền có được của mình hao
hụt đi. Có người, ngay chính bản thân họ cũng không dám ăn tiêu huống hồ
là nói đến chuyện giúp đỡ kẻ khác. Ngày nay cũng có nhiều đại phú gia,
nhiều người giàu có, tất cả đều bị như thế nhưng không ai chịu tìm hiểu
xem mình PHẢI LÀM GÌ LÚC ÐANG CÒN SỐNG TRÊN ÐỜI?
Chúng ta có rất nhiều
cách làm, nhiều cách hành động và suy nghĩ tốt lành nhưng vì quá bận rộn
với cuộc sống đầy bon chen, đầy tham lam, đố kỵ mà ta không thực hiện
được. Trước hết là cố gắng bỏ bớt dần “cái Ta” của mình đi. Vì cái Ta mà
mình khổ, mà mình Tự ái, lo toan, ích kỷ, tự phụ, sân si, sầu hận. Cái Ta
càng giảm thì tình thương bao la dễ nẩy nở. Tình thương đây không phải là
tình thương đầy vị kỷ mà rộng rãi hơn, vị tha hơn. Đó là tình thương đồng
loại thương người. Vì mỗi con người “đều là những kẻ đáng thương” - mà có
khi còn đáng thương hơn mình nữa. Kinh Unanda có ghi câu “Ví dầu ai
có đi khắp bốn phương trời cũng không thấy ai là kẻ đáng thương hơn
mình. Ấy vậy là mình thương mình. Mình đã thương mình thì cũng đừng nên
làm phiền người.” Ta không những không làm phiền người mà còn
phải thương người nữa.
Nhờ “tình thương” mà
thân tâm con người được an lạc. Khi ta mang tình thương đến cho người
khác thì chính là tự mình mang “hạnh phúc” đến cho chính mình. Có thể
lúc đầu vì “cái Ta” quá lớn nên ta không thể thực hiện và cảm nhận được
điều đó vì khi cho, khi mang tình thương hổ trợ người khác ta thường hay
nghĩ lại, hay tiếc rẽ, ân hận nên không cảm thấy được sự hạnh phúc vui
sướng đến với mình. Chúng ta hãy theo dõi bài thuyết giảng dưới đây của
Đức Đạt Lai Lạt Ma về Tình Thương:
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thuyết giảng một bài rất thâm
thúy về Tình thương và Con người. Dưới đây là phần dịch thuật của Hòa
Thượng Thích Trí Chơn
Mục đích của đời sống
là gì? Đó là câu hỏi quan trọng mà tôi nghĩ mỗi người trong chúng ta dù
trí thức hay bình dân, giàu nghèo hay sang hèn vẫn thường nghĩ tới. Theo
tôi, sống ở đời ai cũng mong có được hạnh phúc. Từ khi mới lọt lòng mẹ cho
đến lúc già chết, tất cả mọi người đều mơ ước được sống cuộc đời hạnh phúc
và không ai thích gặp khổ đau.
Hiện nay nhân loại
sống trên trái đất này, đang phải đối dầu với một vấn đề nan giải là bằng
cách nào chúng ta có thể xây dựng hạnh phúc cho nhau. Do đó muốn chấm dứt
nổi khổ đau triền miên của kiếp người, chúng ta cần phải tìm hiểu làm sao
con người có thể tạo dựng mang lại hạnh phúc cho nhau.
Trước hết chúng ta
nhận thấy hạnh phúc hay đau khổ đều có hai loại: Thể xác và phần tinh
thần. Trong cả hai loại này tâm của chúng ta vẫn làm chủ, ảnh hưởng
nhiều đến chúng ta. Trừ khi thân thể chúng ta bị đau ốm hoặc quá thiêu
thốn, còn không thì đời sống thể xác vẫn đóng vai trò thứ yếu trong sinh
hoạt hằng ngày của chúng ta. Khi thân thể chúng ta khỏe mạnh và cuộc sống
vật chất tương đối đầy đủ thì chúng ta cảm thấy phần nào có hạnh phúc. Tuy nhiên nếu tinh thần chúng ta bị khủng hoảng, dù ít hay nhiều, việc nhỏ
hay lớn, chúng ta liền cảm thấy rất đau khổ, và trong lúc cuồng trí, không
làm chủ được tinh thần, có thể dẫn chúng ta đến hành động tự sát, hủy hoại
đời mình một cách oan uổng. Do đó, tôi nghĩ việc tìm kiếm một sự sáng
suốt bình an nơi tâm hồn thực hết sức quan trọng. Muốn thân tâm an lạc,
chúng ta cần phải phát triển tình yêu thương và lòng từ bi.
Chúng ta nên nghĩ đến
hạnh húc của kẻ khác, đừng gây đau khổ cho bất cứ ai. Khi chúng ta ban bố
tình thương, cứu giúp tha nhân tức là chúng ta đã tự giúp mình có được
chân hạnh phúc. Thực hành đức tánh khoan dung, tha thứ và mở rộng lòng
yêu thương mọi người, tức khắc tâm hồn của chúng ta sẽ cảm thấy thanh tịnh
và an lạc. Điều này cũng giúp chúng ta tận diệt hết mọi nổi lo âu, bất an
và phiền não. Nó mang lạc cho chúng ta sức mạnh tinh thần, lòng tự tin để
khắc phục, vượt qua những nổi khó khăn, bất như ý mà chúng ta thường gặp
phải trong cuộc đời.
Sống ở thế gian này,
có ai trong chúng ta chỉ gặt hái thành công mà không thất bại, gặp toàn
chuyện may chứ không có điều rủi? Trong mọi hoàn cảnh, mỗi người đều phải
đối phó với những khó khăn riêng. Khi gặp gian truân nếu chúng ta không
cố gắng khắc phục vượt qua, chúng ta sẽ thất bại và đâm ra tuyệt vọng,
chán nản. Muốn thành công, trái lại chúng ta nên nghĩ rằng không riêng
chúng ta mà tất cả mọi người trên thế gian đều gặp phải những điều bất
hạnh. Nhờ ý thức được như vậy mà tâm hồn chúng ta cảm thấy vơi bớt đi
phần nào niềm đau khổ, và tinh thần chúng ta trở nên vững mạnh với quyết
tâm chiến thắng mọi gian lao thử thách để thành tựu sự nghiệp vẻ vang
trong cuộc sống. Khi nhận thức được sự đau khổ của người khác như của
chính mình, chúng sẽ cố gắng tu tập phát triển lòng từ bi thương yêu giúp
đỡ tất cả đồng loại thoát khỏi mọi khổ đau, và do đó tâm hồn chúng ta cảm
thấy an lạc và hạnh phúc.
Tại sau tình thương
mang lại cho con người nguồn hạnh phúc lớn lao nhất? Lý do đơn giản vì bản
chất của chúng ta là hâm mộ, yêu chuộng tình thương và không thích sự ganh
ghét oán thù. Nhân loại cần đến tình thương để tồn tại. Con người cần sự
giúp đỡ nương tựa vào nhau để sống còn. Cá nhân nam hoặc nử, dù có khả
năng tài giỏi đến đâu, nếu bỏ một mình họ cũng không thể tự sống được.
Trong bất cứ hoàn cảnh, tình huống nào giàu sang phú quý hay thiếu thốn
nghèo hèn, khi trẻ trung mạnh khỏe hay già nua đau ốm, con người vẫn phải
sống nhờ vào sự giúp đỡ của kẻ khác.
Cho nên, tinh thần
tương thân tương trợ rất cần thiết cho mọi người trong xã hội. Không
những con người mà ngay cả loài vật vẫn phải sống hợp quần. Tất cả những
cảnh vật ngoại giới, từ hạt bụi nhỏ bé đến quả đất to lớn chúng ta đang
sống, từ sông ngòi biển cả đến núi từng đồng ruộng, từ đám mây trên trời
đến những cành hoa trong vườn đều có tương quan, tương duyên với nhau. Nếu không có sự hổ tương, liên hệ nhân quả, vạn vật sẽ không thể phát sinh
hay tồn tại. Vì con người cần nương vào sự giúp đỡ của kẻ khác để sống
còn, đó là tình thương là chất liệu thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta. Và chúng ta có trách nhiệm trong hành động tạo nên hạnh phúc hoặc gây đau
khổ cho mọi kẻ khác.
Chúng ta nên tìm hiểu
bản chất thực sự của chúng ta là gì? Chúng ta không phải là sản phẩm của
máy móc. Nếu chúng ta là những vật dụng máy móc thì các đồ dùng máy móc
này đã có thể thỏa mãn mọi nhu cầu và dứt trừ được hết những nổi khổ đau
của chúng ta. Bởi lẽ chúng ta không phải là những sinh vật được cấu tạo
thuần túy bằng vật chất cho nên thực là điều sai lầm nếu chúng ta mong tìm
hạnh phúc của mình ở bên ngoài con người, mà trái lại muốn có hạnh phúc
chân thật chúng ta cần thấu hiểu nguổn gốc và bản chất đích thực về con
người để chúng ta có thể khám phá ra điều mà chúng ta ước mong có được.
Chúng ta hãy tạm gác
qua một bên câu hỏi quá phức tạp khó giải đáp về sự diễn tiến cũng như tạo
dựng nên thế giới của chúng ta đang sống, nhưng chúng ta có thể đồng ý với
nhau rằng mỗi chúng ta là chính do cha mẹ của chúng ta sinh ra. Như vậy,
sở dĩ có chúng ta không phải chỉ hoàn toàn do lòng ham muốn thỏa mãn dục
tình mà có bởi cha mẹ của chúng ta thực sự mong muốn có một đứa con. Nói
khác, trước khi sanh con thì cha mẹ đã ý thức rõ trách nhiệm là phải yêu
thương, chăm sóc và dạy dỗ đứa con của mình nên người, chứ không thể bỏ
mặc để cho nó hư hỏng. Cho nên chính do tình thương của cha mẹ đã dẫn đến
sự chào đời của mỗi chúng ta hơn nữa ngay từ lúc còn ở trong bào thai,
chúng ta đã cần đến sự chăm sóc của người mẹ. Và theo các nhà khoa học
thì thai nhi không những chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi thể xác mà còn về
mặt tinh thần của bà mẹ. Nếu trong lúc mang thai, người mẹ gặp những
chuyện phấn khởi vui vẻ hay ho lắng buồn phiền đều gây ảnh hưởng tốt hoặc
xấu đến tinh thần của em bé sắp sinh ra sau này.
Ngay vào lúc mới lọt
lòng, đứa trẻ củng rất cần thiết đến tình thương của bà mẹ. Em bé nhờ
sữa mẹ lúc ban đầu mà lớn lên. Mặc dù ngày nay có sữa bột để nuôi con,
sữa mẹ vẫn và nguồn sống căn bản tự nhiên của các hài nhi. Đứa nhỏ ngậm
vú mẹ lúc sơ sinh nói lên tình mẹ thương con thật lai láng “như nước
trong nguồn chảy ra”. Nếu người mẹ không thực lòng yêu thương con mình
hay nổi cơn giận dữ khi con khóc phá thì dòng sữa mẹ sẽ ảnh hưởng bị tắt
nghẻn không chảy ra bình thường được. Lại nửa, cơ thể và nhất là bộ óc
của em bé trong thời gian từ lúc mới sinh cho đến khi được ba hay bốn tuổi
sự chăm sóc kỹ lưỡng của bà mẹ thực hết sức quan trọng để giúp cho thân
thể đứa trẻ được lớn mạnh và phát triển đầy đủ. Nếu thiếu sự chăm sóc,
yêu thương và nuôi dưỡng của bà mẹ, thân thể của em bé có thể chậm lớn,
nhất là bộ óc của nó không thể phát triển bình thường được: Lý do bởi đứa
trẻ rất khó lớn khôn nếu không có sự chăm sóc của người lớn, cho nên tình
thương của bà mẹ là chất liệu nuôi dưỡng quan trọng nhất. Sức khỏe và
hạnh phúc của các trẻ em hoàn toàn tùy thuộc vào tình yêu thương nuôi nấng
và dạy dỗ tận tình của các bà mẹ.
Trong xã hội Âu Mỹ
ngày nay, có nhiều đứa trẻ đã lớn lên trong những gia đình thiếu hạnh
phúc. Một đứa trẻ thiếu sự chăm sóc hướng dẫn của người lớn, và cha mẹ
không biết yêu thương con cái mình kết quả là chúng sẽ không bao giờ nghĩ
tưởng đến cha mẹ. Từ hành động không biết chăm sóc, thương yêu cha mẹ
những đứa trẻ đó sau này lớn lên vào đời, chúng sẽ không có lòng yêu
thương đồng 1oại. Thực là điều đáng buồn. Trẻ em lớn lên được cha mẹ
gởi đến trường học lúc ấy đứa trẻ cần sự giáo dục hướng dẫn của thầy
giáo. Ngoài sự dạy dỗ kiến thức phố thông, nếu giáo sư biết rèn luyện cho
học sinh có những đức tính tốt như tánh ngay thẳng, tự tin và giúp đỡ
người khốn cùng v...v... thì các học sinh này sẽ biết ơn kính mến và giữ
một ấn tượng tốt lâu dài trong tâm hồn của mình về ông thầy giáo đó. Trái
lại, nếu vị giáo sư tỏ ra không hết lòng yêu thương, chăm sóc dạy dỗ các
em học sinh thì sự mến thương tình cảm giữa chúng với người thầy giáo cùng
chóng phai lạt. Tương tự như thế, nếu một bệnh nhân trong nhà thương được
chăm sóc hết lòng, tận tình chửa trị của Vị bác sĩ thì chính tình thương
này của ông ta sẽ là liều thuốc hữu hiệu nhất giúp cho người bệnh chóng
lành, mặc dù ông không hẳn là một bác sĩ giỏi. Trái lại, cho dù một bác
sĩ có tài, nhưng thiếu đạo đức, không thương yêu tận tụy khi chữa trị cho
bệnh nhân, khiến cho người bệnh buồn phiền tức giận, do đó không thể chóng
bình phục được. Cho nên tình thương, sự hết lòng cứu chữa bệnh nhân của
vị thầy thuốc sẽ góp phần lớn trong việc giúp người đau bệnh chóng lành.
Trong cuộc sống giao
tế hằng ngày, người ta thích nghe lời nói hòa nhã êm dịu cho dù câu chuyện
của ngườn trình bày không hay, ngược lại, một đề tài dù hấp dẫn bao nhiêu
đi nữa mà người phát biếu dùng ngôn từ năng nề, thiếu lễ độ nhã nhặn thì
chẳng ai muốn nghe. Do đó mọi việc ở đời, từ nhỏ đến lớn, lòng thương
yêu, kính mến kẻ khác là điều căn bản tạo nên hạnh phúc cho mỗi chúng ta. Gần đây, tôi gặp một nhóm khoa học gia Hoa Kỳ, họ cho biết rằng hiện nay
có khoảng mười hai phần trăm dân số ở Mỹ đang mắc bệnh tâm thần. Nguyên
nhân chính không phải vì thiếu thốn vật chất mà do bởi cuộc sống giữa con
người với nhau thiếu thông cảm và tình thương. Cho nên, như tôi đã trình
bày ở trên mặc dù quý vị có nhận thức rỏ điều đó hay không, thì vào lúc
chúng ta chào đời tình thương vẫn là chất liệu cần thiết như máu huyết
nuôi dưỡng sự sống của chúng ta. Ngay cả tình thương ấy phát xuất từ nơi
một con vật, hay kẻ thù của chúng ta thì trẻ nhỏ và người lớn vẫn đều cần
đến nó.
Một số người bảo tình
thương và lòng từ bi là những tính cao quý, nhưng rất khó thực hiện. Bởi
lẻ thế giới ngày nay, họ lập luận cho rằng không phải là môi trường thuận
lợi cho chúng phát triển. Mà bãn tính con người vốn thích làm những việc
ác và lòng người chứa đầy sự thù hận và tham sân. Tôi không đồng ý như
vậy.
Nhân loại xuất hiện
trên quả đất hiện nay đã có từ hàng trăm nghìn năm trước. Tôi nghĩ rằng
trong khoảng thời gian này nếu tâm con người hoàn toàn độc ác hung dữ thì
dân số trên thế giới đã giảm sút. Nhưng trái lại, mặc dù xảy ra nhiều
cuộc chiến tranh, ngày nay dân số toàn cầu đã tăng lên rất nhiều. Ðiều
này chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng lòng từ bi và tình thương đã ngự trị
thắng thế trên thế giới.
Tình thương đã mang
lại cho chúng ta nhiều lợn ích tinh thần và lành mạnh thể xác. Điều rõ
ràng ai cũng thấy là khi tâm mình an vui sẽ giúp cơ thể chúng ta khỏe
mạnh. Sự giận dữ, ưu phiền dễ khiến con người sanh ốm đau. Trái lại, tâm
thanh tịnh an lạc giúp chúng ta tránh được nhiều bệnh tật. Muốn có hạnh
phúc chân thật, con người cần trãi lờng yêu thương tất cả, không nuôi
dưỡng tâm ganh ghét, oán thù ai. Chúng ta không chỉ nhận thức tình thương
là đức tính tốt, cao quý mà nên thực hành phát triển nó trong cuộc sống
hàng ngày.
Trước hết, chúng ta
cần hiểu rõ về ý nghĩa đích thực của tình thương. Tình cảm yêu thương lắm
khi pha lẫn dục tình và sự tham đắm. Chẳng hạng cha mẹ thương yêu con cái
là thứ tình cảm vị kỷ đối với người thân của mình, khác hẳn với lòng từ bi
rộng lớn. Trong hôn nhân, sự đắm say tình dục giửa hai vợ chồng hay tình
yêu cuồng nhiệt giữa đôi trai gái hoàn toàn không phải là thứ tình thương
đích thực. Lòng thương nặng tính chất đam mê ái nhiểm khiến chúng ta
thường hay mù quáng nghĩ tưởng rằng người mà ta yêu thương luôn có những
đặc tính tốt, nhưng đôi khi họ lại mang nhiều thói hư tật xấu.
Tình thương nhằm mục
đích lợi kỷ, tình thương khó tồn tại lâu dài và dễ tan biến khi nó không
mang lại ích lợi gì cho con người. Cho nên tình thương chân chính không
xây dựng trên tình cảm so đo toan tính lợi hại cho bản thân mà hoàn toàn
đặt nền tảng trên lòng vị tha quên mình vì hạnh phúc cho chúng sanh. Hẳn
nhiên phát triển lòng từ bi rộng lớn này không phải điều dễ đàng. Muốn
thành tựu, chúng ta cần sáng suốt nhận thức rõ các sự thực sau đây:
Tất cả chúng ta dù
tốt hay xấu, giàu nghèo sang hèn, điều là con người như nhau. Ai cũng
mong sống trong hạnh phúc và không thích khổ đau. Họ có quyền khắc phục
chống lại sự đau khổ để có được hạnh phúc. Khi bạn hiểu rằng mọi người
điều bình đẳng trong ý muốn đi tìm và có quyền đạt tới hạnh phúc, tự nhiên
bạn thấy có thiện cảm và gần gủi với họ. Khi tâm bạn có được tình thương
nhân loại phổ quát, bạn sẽ thấy có trách nhiệm cần giúp đỡ kẻ khốn cùng
vượt qua những khó khăn của họ.
Bạn làm việc cứu khổ
với tâm bình đẳng, không chọn lựa và phân biệt kẻ thân người sơ, thù hay
bạn, sang trọng hay thấp hèn, khi chúng ta biết rằng con người, họ có
những niềm vui và đau khổ như chúng ta; cho nên không thể có sự kỳ thị,
phân chia giữa người này với người kia mà chúng ta cần có lòng từ bi
thương xót cứu độ tất cả.
Muốn thành công việc
phát triển lòng từ bi, chúng ta cần phải trãi qua một thời gian dài kiên
nhẩn tu tập. Khi chúng ta còn nghĩ đến bản ngả nhỏ nhen, cái “ta” tham
lam ích kỷ, đam mê thú vui trần tục, không dám hy sinh quyền lợi cá nhân
cho hạnh phúc của kẻ khác thì rất khó để thực hành tình thương rộng lớn
này. Mặc dù không dễ làm ngay tức khắc, điều đó không có nghĩa là chúng
ta không thể bất đầu luyện tập từ từ để dẫn đến kết quả được.
Trước hết Chúng ta
cần diệt những trở ngại lớn lao cho sự phát triển lòng từ bi là tâm oán
thù và sân hận. Đây là hai ác tính độc hại nhất thường nằm sẵn trong tâm
mọi người, nhưng chúng ta có thể kiểm soát. Chúng ta không những chỉ cần
có lòng từ bi mà còn phải có trí tuệ và hạnh nhẫn nhục. Chúng là những
phương thuốc hữu hiệu nhất có thể chữa trị đoạn diệt lòng sân hận nơi tâm
chúng ta. Nhưng rất tiếc, nhiều người đã nhận thức sai lầm cho rằng thực
hành các đức tánh trên là dấu hiệu của sự yếu hèn và nhu nhược. Trái
lại, tôi vẫn tin nhẫn nhục là điều rất khó làm, đòi hỏi nơi hành giả một ý
chí dũng mảnh. Bản chất của lòng từ bi mặc dù là hiền lành mềm mỏng và dịu
dàng, nhưng nó cũng là một sức mạnh.
Thêm nữa, thiếu nhẫn
nhục con người sẽ sống trong tình trạng lo âu và bất hạnh. Do đó, khi
phát khởi tâm sân hận, theo tôi là dấu hiệu yếu kém. Cho nên khi gặp
chuyện bất hòa, xung đột với ai, bạn nên cố gắng kềm chế sự nóng giận hết
sức bình tĩnh, giải quyết vấn đề với lòng từ bi để tránh sự đổ vỡ. Ngay
trường hợp kẻ có tâm xấu ác muốn làm hại bạn cũng sẽ không thành công mà
kết quả là họ chuốc lấy sự thất bại mà thôi. Cho nên muốn diệt trừ tánh
vị kỷ, đố kỵ
chúng ta
cần phải thực hiện lòng từ bi đế giúp cho người khác tránh được sự đau khổ
do hậu quả gây nên bởi việc làm sân hận của họ. Do đó, nhờ biết thực hành
hạnh nhẫn nhục mà chúng ta tránh được sự lo âu phiền não; có được sự an
lạc và hạnh phúc.
Nếu
chúng ta chỉ nghĩ đến lòng từ bi không thôi thì chưa đủ, mà chúng ta cần
mong gặp hoàn cảnh thuận lợi để thực hiện, phát triển tình thương rộng lớn
đó. Và ai sẽ là người giúp chúng ta tạo cơ hội ấy? không phải bạn mà là
kẻ thù của chúng ta. Chính họ là những người đã gây khó khăn nhiều nhất
cho chúng ta: Do đó, nếu muốn học hỏi, thực hành hạnh từ bi chúng ta
không xem họ như những người bạn mà là thầy của chúng ta. Muốn trãi tình
thương rộng lớn đến mọi chúng sanh, chúng ta nên thực hành đức tánh khoan
dung, từ bi và hỷ xả; do đó, chúng ta cần đến các kẻ thù. Bởi vậy chúng
ta hảy cám ơn những kẻ thù vì họ đã giúp chúng ta giử được cái tâm thanh
tịnh an lạc. Và trong nhiều trường hợp cá nhân, củng như tập thể, khi
chúng ta thay đổi hoàn cảnh sinh sống, kẻ thù có thể trở thành bạn.
Cho nên
tánh nóng quận và lòng sân hận luôn luôn là những ác tính độc hại, và trừ
khi chúng điều phục làm chủ được cái tâm của mình để diệt trừ, còn không
thì chúng sẽ tiếp tục gây phiền não và ngăn chặn mọi nỗ lực tu tập mang lại sự an lạc cho chúng ta. Bởi vậy, sự giận dữ và lòng sân hận chính là
kẻ thù của chúng ta. Chúng là những ác tính chúng ta cần khắc phục và loại
bỏ, không chỉ nhất thời mà phải thường xuyên liên tục trong suốt cả cuộc
đời của chúng ta.
Hẳn
nhiên là tất cả chúng ta ai cũng có nhiều bạn. Và tôi thường nói đùa rằng
nếu bạn ích kỷ muốn thủ lợi riêng cho mình thì nên có lòng vị tha. Bạn
hãy thương yêu kẻ khác, phục vụ và giúp đỡ cho họ. Bạn cần giao hảo, vui
cười và kết thân với mọi người. Được vậy thì khi bạn gặp khó khăn, bạn
sẽ có người giúp đở. Trái lại nếu chúng ta không bao giờ nghĩ đến hạnh
phúc của kẻ khác thì về lâu dài chúng ta sẽ là người bị mất mát và thua
lỗ. Không bao giờ những sự cải vả, giận dử, tranh chấp và đố kỵ có thể
mang lại tình bạn thân hữu giữa con người. Mà chỉ có lòng khoan dung tha
thứ và hỷ xả mới giúp chúng ta kết thân, gần gũi và yêu thương nhau.
Trong xả
hội vật chất ngày nay nếu chúng ta có tiền và quyền lực, chúng ta sẽ có
nhiều bạn. Nhưng chúng không phải là bạn chân thật mà là bạn của tiền bạc
và thế lực của chúng ta. Khi chúng ta nghèo khổ, mất hết địa vị uy quyền
những người bạn đó sẽ bỏ rơi chúng ta. Trong cuộc sống nếu không có biến
cố hay tai nạn gì xảy ra, con người thường nghĩ rằng mình có thể tự lo
được, không cần đến ai; nhưng khi hữu sự gặp khó khăn, thiếu thốn, hay
bệnh tật con người cảm thấy cô đơn và cần phải nhờ đến sự giúp đỡ của kẻ
khác. Do đó, để chuẩn bị cho giờ phút lâm nguy ngặt nghèo sẽ có người chăm
sóc giúp đỡ cho mình thì ngay hôm nay, chúng ta nên kết bạn thân, đối xử
tốt và có lòng vị tha cứu giúp mọi người.
Đôi lúc,
người ta cười chế nhạo khi nghe tôi nói tôi muốn có nhiều bạn thân hơn và
tôi yêu nụ cười của thiên hạ. Cho nên tôi phải biết nghệ thuật sống cách
nào để có thêm bạn bớt thù và làm sao tôi có thể giữ mãi nụ cười trên môi
khi tiếp xúc với mọi người, đặc biệt là nụ cười hỷ xả của tình thương. Trong cuộc sống giao xếp hàng ngày, chúng ta bất gặp nhiều nụ cười khác
nhau của thiên hạ: có nụ cười chua chát, giả đối hay xả giao. Đôi khi nụ
cười bày tỏ sự bất mãn, gây nên nghi ngờ hay sợ hãi cho kẻ khác. Tuy
nhiên củng có những nụ cười mang lại niềm vui của sự an lạc và giải thoát:
đó là nụ cười từ bi hỷ xả của chư Phật và Bồ Tát. Ðây là những nụ cười mà
chúng ta nên cố gắng thực hiện để mang lại hạnh phúc cho mọi người.
Tình thương và Thế giới
Chúng ta
cần chia sẻ tình thương với tất cả mọi người, cho nên bất cứ ai chúng ta
gặp, dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta đều xem họ như những bậc cha mẹ và
anh chị hay em của chúng ta. Chúng ta không quan tâm về khuôn mặt của họ
là mới hay cũ; lạ hay quen - họ mặc y phục như thế nào, đẹp hoặc xấu, rẻ
hay đắc tiền; và tánh tình của họ ra sao, hiền lành hay dữ tợn, chúng ta
vẫn thấy không có gì sẽ khác giữa họ và chúng ta thật là điều sai lầm khi
chúng ta có ốc kỳ thị, phân biệt giữa chúng ta với mọi người; hoặc giữa
người này với người kia, vì như đức Phật đã dạy rằng tất cả mọi người
chúng ta đều có Phật tánh, hay khả năng thành Phật giống nhau.
Sau hết,
toàn thể nhân loại là một và quả đất nhỏ chúng ta đang sống là ngôi nhà
chung của chúng ta. Nếu chúng ta muốn bảo vệ căn nhà nhân loại này, mỗi
chúng ta cần thực hiện tình yêu thương con người trên toàn thế giới. Được
vậy, chúng ta mới có thể diệt trừ hết lòng tham, tánh vị kỷ nơi con người,
nguồn gốc gây ra mọi khổ đau cho nhân loại qua những cuộc xung đột xâm
lăng và chiến tranh vì quyền lợi của con người. Nếu các bạn có một tấm
lòng thành thực và rộng mở, chẳng bao giờ gây oán thù với ai tâm bạn sẽ
bình an không lo sợ bất cứ người nào làm hại đến mình.
Tôi tin
rằng mọi người sống trong xã hội, cho dù ở phạm vi gia đình, bộ tộc, quốc
gia hay quốc tế; chìa khóa hay bí quyết mang lại cho thế giới con người có
đời sống tốt đẹp, an lạc và hạnh phúc hơn hiện nay, là sự áp dụng, thực
hành và phát triển của tình thương. Chúng ta không cần phải theo một tôn
giáo ý thức hệ hay chủ thuyết chính trị nào; điều căn bản là chúng ta nên
tu tập và thực hành các tánh thiện nơi mỗi con người chúng ta, tôi thường
cố gắng đối xử với bất cứ người nào tôi mới gặp họ lần đầu tiên đều
giống như một người bạn cũ tâm tình thân quen. Điều này đã mang lại cho
tôi một nguồn hạnh phúc vô biên. Đó là sự thực hành đức tánh từ bi hỷ xả
của đức Phật.
Điều quan trọng đáng làm, cần
làm là chia sẽ với người qua tình thương yêu, sự an ủi vỗ về, sự giúp đỡ
bằng vật chất hay hành động. Đó gọi chung là bố thí. Bố thí như vậy
thể hiện qua nhiều hình thức. Do đó, bố thí không phải là chỉ có việc đem
tiền bạc phẩm vật cho người khác mà bố thí còn là đem tình thương tới giúp
đỡ mọi người, là lời an ủi, vỗ về, khuyến khích, nâng đở, góp ý... Sự giúp
đỡ ấy tùy vào phương tiện khả năng, chỉ sợ người có của mà lại sợ tốn kém,
người có công sức mà ngại khó khăn thôi.
Trong
các Kinh sách của các tôn giáo đều đề cao sự Bố Thí. Bố thí là hành động
tốt đẹp mang lại hạnh phúc cho người cho lẫn người nhận.
Trong cuốn: Luận Về Nhân Quả, tác giả Chơn Quang khi trình bày về vấn đề
Bố thí đã viết rằng:
“Mọi
sự giàu sang bắt nguồn từ bố thí. Không bố thí, vĩnh viễn không có sự
sung mãn tài vật. Người có lòng Nhân ái sẽ không bỏ qua một chúng sanh
khốn khổ nào dù đó là kẻ tội lỗi.
Bố
thí là biểu hiện chân thật của tình thương: Không thể có tình thương ở
đầu lưỡi mà phải có tình thương nơi đôi bàn tay dâng tặng.
Bố
thí không những đem lại phước báo cụ thể mà nó còn là một phương pháp để
tu tập những đức hạnh khác. Bắt đầu bằng công hạnh bố thí, người này sẽ
buông xả những chấp trước dễ hơn, tâm quảng đại thêm lớn lòng tham mỏng
nhạt dần.
Hãy tập bố thí từng chút và bạn sẽ cảm nghe tâm hồn
mình thay đổi. Đừng
tiêu xài hết những gì mình có, hãy san sẻ với mọi người, dù đó chỉ là
gói bánh ngọt, đĩa trái cây, hoặc to tát như lợi nhuận thu được bởi mồ hôi
nước mắt. Người mới biết tu tức là trích ra 1/10 số tiền kiếm được để san
sẻ với kẻ khác. Người đã thuần phục trong công hạnh bố thí sẽ san sẻ nhiều
hơn nữa. Tài vật vô thường tạm bợ không chắc ở lại lâu với mình. Một cuộc thay đổi thời thế, một cơn hỏa hoạn, ngập lụt, một lần bị trộm
cướp đều có thể lấy đi những gì đã được tích lũy từ lâu. Khi không còn
tài sản mà muốn bố thí cúng dường cũng không có cơ hội đễ làm. Chi bằng,
trong từng giờ phút hiện tại vừa được lợi nhuận, hãy chia xớt ngay cho
người, đừng để cơ hội trôi qua. Người tin hiểu Nhân Quả sẽ khao khát
bố thí như người mù khao khát mắt sáng... người sống vị tha thì luôn luôn
nghĩ đến nhu cầu của người chung quanh để giải quyết”
Như vậy Bố thí là điều quan
trọng. Bố thí giúp ta vui sướng tự tin và được nhiều phước quả. Bố thí
quả thật là việc nên làm. Tuy nhiên một khi bố thí, giúp người, giúp đời
thì ta không nên tiếc rẽ. Bố thí phải từ lòng nhân ái vị tha, không vì
cầu được phước hay vì muốn có phước lành mà bố thí. Vì từ tâm mà bố thí
nên không đắn do cân nhấc, so sánh lựa chọn thiệt hơn khi bố thí.
Bố thí
mà lòng tiếc rẽ tức là không muốn người mình cho được hưởng tiền hay vật
mà mình cho. Cho mà còn tiếc rẽ Thì chẳng khác nào đau khổ không vui khi
cho. Tiếc rẽ là chứng tỏ mình còn phân vân, so sánh cân nhắc khi cho,
chứng tỏ cho vì áy náy, bị ép buộc hay không thích cho mà phải cho.
Trên đời
chúng ta đã từng biết bao người hà tiện keo kiệt, bủn xẻn với bạn bè,
người thân. Có người keo kiệt với cả cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh em và
ân nhân mình. Khi người ấy sa cơ lỡ vận nếu may mắn được người giúp thì
khi đó mới nhớ lại rằng trước đây mình quá sai lầm. Tuy nhiên vẫn có khối
người bỏn xẻn keo kiệt mà không biết mình như thế. Đôi khi họ còn chê
cười phê bình chỉ trích người khác keo kiệt hà tiện. Cái mê mờ u tối ấy đã
từng bao phủ biết bao người khiến họ không thoát ra được để thấy cái ánh
sáng vi diệu của sự giúp đỡ bố thí kẻ khác.
Phần
đông những người càng giàu có họ lại càng có cái Tâm Tiếc Rẽ. Lý do là vì
lòng tham con người quá lớn, có rồi muốn có thêm nữa. Vì thế nếu đem cho,
giúp đỡ, bố thí thì tiền của sẽ hao hụt, làm sao lợi nhuận tăng thêm?
Nhiều
người lại nghĩ sai khi cho rằng bố thí là việc làm của kẻ giàu có: Họ bảo
“tôi đâu phải là người giàu, tiền bạc ít ỏi làm sao tôi có đủ để bố
thí giúp đở ai”... Nghĩ như vậy là sai. Bố thí không phải bắt buộc phải
nhiều. “Của ít lòng nhiều” là câu nói của cổ nhân ta từ lâu nhắc nhở cho
thấy của cho quan trọng ở tấm lòng. Bạn có ít thì cho ít, giúp ít, bố
thí ít . Bạn có nhiều thì cho nhiều. Chính cái tấm lòng thương người cảm
thông nổi khổ về người mình cho mới là cao cả và đáng giá. Do đó đừng cho
rằng bố thí là việc của người giàu. Không có người giàu nào lại nghĩ rằng
họ giàu có, họ đầy đủ, vì tâm họ luôn luôn cho rằng họ còn nghèo hơn kẻ
khác.
Những
người ấn Độ giàu có từ ngàn xưa đã biết rõ vấn đề bố thí quan trọng như
thế nào nên hết lòng bố thí khi sản nghiệp họ ngày càng tăng. Ngoài ra họ
còn cố tập tành thế nào để khi bố thí dứt hết lòng tiếc nuối về tiền của
phải mất ấy. Lý do là trong Kinh có đoạn nói về hậu quả của kẻ bố thí mà
lòng còn tiếc của. “Kẻ nào khi bố thí mà còn đau xót, tiếc nuối thì
đời sau nếu kẻ đó giàu có vạn ức thì cũng ngồi trên của cải mà không dám
ăn tiêu suốt đời vất vả vì đã trở thành kẻ nô lệ của tiền bạc, của
cải cho tới chết”. Điều quan trọng khác nữa trong sự Bố thí là thái
độ và tư tưởng của người cho. Nếu ta bố thí, giúp đỡ người khác với tấm
lòng kiêu ngạo, khinh bỉ, kẻ cả thì cái Cho ấy mất hết ý nghĩa của sự Bố
thí. Bởi lý do hai chữ Bố thí bao hàm sự cho với lòng thông cảm, thiện
tâm, an ủi cầu mong cho người mình cho được đầy đủ hạnh phúc.
Nếu ta cho kèm theo lời trách
móc, chỉ trích hất hủi, chỉ dạy kẻ cả, miệt thị cùng với cách cho bất lịch
sự thì sự giúp đỡ cứu giúp đó trở thành sự khổ đau tủ nhục mà người nhận
phải lấy. Chúng ta đã từng thấy lại quê nhà nhiều người trước khi ban
phát cho người ăn xin vài nắm gạo hay vài đồng bạc đã xỉ vả chửi rủa, mạt
sát họ thậm tệ khiến kẻ đã khổ đau càng thêm khổ đau.
“...Những bậc Thánh giải thoát thường dấu mình trong một hình thức tầm
thường giản dị. Trong những người tầm thưởng giản đi mà chúng ta đã gặp
gỡ bố thí, biết đâu cũng có người phi phàm vượt thế. Chỉ một lần dâng
tặng đến người như thế, phúc lạc chờ đợi chúng ta là vô hạn ở mai sau ...”(Luận
về Nhân Quả - Chơn Quang,)
Trở lại
vấn đề Khi Chết không mang theo được gì, nhiều người đã nhận thức rõ điều
ấy, và đó là một sự thật hiển nhiên mà từ cổ đại tới nay, mọi người trên
quả đất đều thấy và biết.
Tuy
nhiên, đối với Phật giáo thì Khi chết mỗi người đều có mang theo “cái” mà
không ai thấy hay biết “cái” mang theo đó là “Cái Nghiệp” của chính họ.
Cho đến
nay, sự kiện gọi là Nghiệp quả hay Nghiệp báo vẫn còn gây nhiều thắc mắc
khó hiểu mặc dù số lượng người tin vào Nghiệp (Karma) và nhất là tin vào
vấn đề có sự tái sinh ở kiếp sau ngày càng gia tăng thấy rõ tại các nước
Âu Mỹ.
Tái sinh
vào kiếp sau tức là sau khi chết sẽ lại hóa sanh trở lại qua một kiếp đời
khác.
Như vậy khi một người nào đó chết đi thì thật sự người
đó không chết, vì chỉ cái thân xác tan rã mà thôi còn cái tinh anh vi diệu
của người ấy (con ngươi, thường gọi là Hồn hay Linh hồn) lại chuyển qua
một đời sống mới qua một thân xác mới.
Sự luân
chuyển từ kiếp nầy qua kiếp khác gọi là sự luân hồi. Mỗi giai đoạn sống
trong sự chuyển hoá luân hồi ấy gọi là mỗi Kiếp.
Mỗi Kiếp người đều phải chịu hậu
quả của những hành động gây ra từ kiếp trước - tạo ra các nguyên nhân hay
có thể gọi là cái nghiệp. Đó là luật Karma hay còn gọi là luật Quả Báo
hoặc Nghiệp báo. Sự luân chuyển từ kiếp này qua kiếp khác gọi là Luân
hồi.
Để hiểu
rõ giai đoạn này, ta hãy bất đầu khi một người chết đi, họ trở thành bất
động. Sở dĩ xác thân khi chết bất động vì thật ra nó chỉ là một khối vật
chất bình thường trong tự nhiên mà thôi. Nó như cái áo mặc, khi chết
chính là lúc trút bỏ cái áo ấy. Khi sống, xác thân cử động được là nhờ có
sự hổ trợ hợp đồng của các giác quan như thấy, nghe, nhận biết, ngửi, nếm,
suy nghĩ tính toán... Khi chết, thân xác bất động thì các giác quan âý
cũng mất luôn. Tuy nhiên có 2 thể vật chất đặc biệt không bị mất đi, vẫn
còn tồn tại. Hai thể này có tên gọi là Mạt Na Thức và A Lại Da Thức
mà kinh Phật giáo gọi là hai thức. Hai thức này sẽ là cầu nối giữa cái
xác thân đã chết vớì các xác Thân sanh trở lại của kiếp kế tiếp.
Mạt Na
Thức có nhiệm vụ sao chép lại bao quát về cá tánh, bản năng, năng khiếu,
cảm xúc, sự hiểu biết và ký ức, hành vi cử chỉ lẫn tư tưởng của con người
mà nó liên hệ lúc còn sống. Tất cả những ghi nhận, sao chép này từ Mạt Na
Thức sẽ truyền hết cho A lại Da thức lưu trữ. Như vậy có thể hiểu A lại
Da Thức như là một cái thư viện lưu trữ các tài liệu sách vở của một người
lúc còn sống. Tài liệu ấy bao gồm các đặc tính, bản năng, thói hư tật xấu
và cả tánh tốt của người đó. Tuy nhiên tùy theo sự dồn nén tập trung tư
tưởng, tình cảm nào đó quá nhiều như uất hận, căm thù, đau khổ, sợ hãi,
nuối tiếc... thì những tư tưởng tình cảm ấy sẽ là đầu mối cho đời sống kế
tiếp mang nặng tất cả những gì đã bị kích động dồn nén ấy. Do đó mà các
vị chân tu thấy rõ điều đó đã căn dặn mọi người rằng; lúc sắp qua đời phải
cố giữ tâm yên bình không nên nuối tiếc, đau buồn hay căm giận. Đặc biệt
sự căm thù, lòng tức giận là mối nguy ghê sợ nhất nếu phát sinh lúc lâm
chung thì lúc tái sanh sẽ rơi vào vòng đau khổ cùng cực. Ðó cũng là lý do
tại sao lúc người vừa mới chết, mọi người có mặt nên đọc kinh cầu nguyện,
nhắc nhở tâm linh người chết nên sáng suốt, vui vẻ hầu tránh sự mê mờ u
tối, lầm lạc khiến dễ sa vào chốn địa ngục.
Đây là câu hỏi mà nhiều người đã thường đặt ra khi đứng
trước xác thân một người vừa mới qua đời.
Nhiều người thắc mắc cho rằng một khi đã chết thì làm
sao người chết nghe thấy, nhận biết những gì xung quanh nữa? như vậy tụng
Kinh, đọc Kinh, nhắc nơở
những điều tốt lành bên cạnh họ có ích gì nữa đâu?
Phật
Thích Ca bậc đã đắc đạo, giác ngộ, nên thấy biết hết những nguyên lý thâm
sâu vi diệu trong vũ trụ. Theo Phật thì: khi một người chết thì cái xác
thân của người đó trở nên bất động và không còn các tiếp nhận qua các giác
quan liên hệ về thấy, nghe, ngửi, sờ, nhận thức nữa vì các giác quan ấy
cũng không còn. Tuy nhiên nhờ hai thức còn lại là Mạt Na Thức và A Lại Da
Thức mà người chết vẫn còn hiểu biết mặc dù tim đã ngừng đập, không còn
thở, không còn cử động nữa mà thôi.
Các kinh
sách Phật giáo đều cho biết là thời gian ấy là 49 ngày. Một thời gian vô
cùng quan trọng đối với người chết. Vì người ấy tuy đã chết rồi nhưng nhờ
hai thức quan trọng là Mạt Na Thức và A Lại Da Thức còn tồn tại nên người
chết vẫn còn hiểu biết rất rõ những sự việc chung quanh. Khi sắp chết,
tim đập yếu dần, nhiệt lượng cơ thể giảm. Trong khi các giác quan bình
thường sắp sửa biến mất thì hai thức Mạt Na và A Lại Da lại đảm trách công
việc vào lúc này. Ta có thể nhận biết điều này khi thấy phần nhiều những
người chết rất tỉnh táo vào giờ phút cuối cùng sắp từ giả cõi đời. Có
người chuẩn bị tắm rửa sạch sẽ trước khi chết hay dặn dò vợ con điều này
điều kia. Âý là do thức Mạt Na của người ấy phát động vào lúc người ấy
sắp lìa đời. Thức Mạt Na là phần ghi nhận tất cả những gì liên quan tới
cảm nghĩ, nhận thức hành động của người ấy nên thức này khi mở ra chẳng
khác nào mở cuốn tự điển của cuộc đời nên không quên bất cứ điều gì trước
đây dù xa xưa tới mấy. Cái nhớ, biết rõ ràng như thế nên trước khi lìa
đời người chết nói năng rất tỉnh táo sáng suốt. Trong khoảng thời gian
49 ngày, thức A Lợi Da trước đây im lìm khi người còn sống thì nay hoạt
động . Vì là nơi tích trữ các dữ kiện về tâm thức hành động bản năng, tư
tưởng, tình cảm, ý muốn của người ấy lúc còn sống do Mạt Na Thức chuyển
tới nên vào giai đoạn này, nếu vì lý do nào đó mà A Lợi D2a Thức bị kích
động mạnh bởi những tác động ảnh hưởng bên ngoài như sự kêu gào thãm
thương, đau đớn của thân nhân người chết hay bản thân người sắp chết căm
hờn, tức tối, oán thù thì những tác động âý sẽ khiến người chết không
nguôi và ảnh hưởng tới cuộc đời kế tiếp khi tái sanh khó mà vào được hoàn
cảnh thanh lành.
Như vậy
khi một người chết, ta nên nghĩ là người ấy chết về phần xác thân mà thôi
còn một phần thuộc tâm linh vẫn còn ràng buộc với thân xác, chưa hẳn rời
ra ngay nên người chết ấy chưa hẳn là đã chết một cách tuyệt đối. Tình
trạng này có khi lâu đến mấy ngày. Trong thời gian đó phần cảm nhận mà
người chết có được là nhờ thức gọi là Thần Thức. Chính Thần Thức này là do
Mạt Na Thức và A Lại Da Thức kết hợp lại mà thành.
Khi chết Mạt Na Thức và A Lại Da
Thức liên kết nhau tạo nên một thân mới khác, nhưng thân mới này không có
hình hài gọi là Thân Trung ấm. Mặc dầu Thân Trung ấm vô hình vô tướng
nhưng lại có sự thông hiểu tinh tường hơn cả người sống. Thân Trung ấm
chính là cái thân chuẩn bị của tương lai khi xác thân cũ sẽ tan rã, hủy
hoại. Khi chuyển biến từ kiếp này qua kiếp khác, thức A Lại Da đóng vai
trò quan trọng vì nó chứa đựng một năng lực vô song.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Gia Cát khi tìm hiểu về Thần Thức
và Năng lực bảo vệ đã có những ghi nhận như sau:
Khi con
người trút hơi thở cuối cùng thì cơ thể vẫn còn có một nơi tập trung hơi
nóng ấm, đó là Thần Thức.
Thần
Thức là tất cả những hành động của quá khứ tập trung lại tạo nên một sức
mạnh vô hình, mầu nhiệm chuyển dẫn người chết lại đầu thai vào xác thân
khác để chịu Quả Báo. Sức mạnh đó là sức mạnh của Nghiệp lực. Cái mà nhiều
người gọi là Hồn thật ra là Thần Thức chớ không gì khác.
Thần
thức lưu giữ tất cả mọi cá tính, bản năng, hành động, hoàn cảnh... của
người đã chết đầy đủ, không thiếu sót (Chính vì lẽ đó mà không ai có thể
che dấu những gì mình đã làm, vì Thần thức đã giữ bản sao của đời người đó
từng chi tiết rồi) Vì thế cho nên dù người đó đã qua đời, thân xác đã tan
rửa nhưng vẫn còn phần quan trọng là Thần thức là bản sao chép về đời
người đó vẫn còn và tạo ra một năng lực gọi là Nghiệp lực. Nghiệp lực ấy
sẽ chuyển dần người chết đầu thai vào một thân xác mới khác để chịu quả
báo.
Trong
dân gian ta thường nghe nói: người chết thì Hồn ra khỏi xác. Chữ Hồn ấy
chính là Thần Thức. Khi một người chết đi thì trong một thời gian nào đó
mặt dầu người đó đã chết nhưng vẫn còn hiểu biết và sự hiểu biết ấy còn
linh diệu hơn khi người đó còn sống. Âý là do sự hiện hữu và hoạt động
của Thần Thức. Nhưng Thần Thức cũng sẽ rời khỏi xác thân sau một thời
gian.
Thần Thức sẽ thoát ra hỏi thân xác người chết ở những
vị trí khác nhau tùy vào Nghiệp lực.
Nếu nghiệp lực nặng nề thì Thần thức sẽ thoát ra từ
phần dưới của cơ thể người chết như từ bàn chân từ bụng hay đầu gối.
Nếu Nghiệp lực thanh cao tốt lành thì Thần thức sẽ
thoát ra từ trán, mặt hay ngực.
Nhiều
tài liệu Kinh điển cổ xưa cho hay rằng có thể quan sát sắc thái, tình
trạng, cảm giác thể hiện nên gương mặt của người sắp chết mà suy đoán vị
trí thoát ra của Thần Thức như sau:
Khi thấy gương mặt người chết nhăn nhó, mặt xám đen,
quằn quại thì biết ngay là Thần Thức thoát ra từ bàn chân.
Nếu
người sắp chết đòi ăn, đòi uống, tiếc nuối, than vãn, khổ sở, đau đớn thì
Thần Thức chuyển từ bụng xuống đầu gối và thoát đi.
Nếu
người chết bình tỉnh, sáng suốt, dặn dò người thân mọi điều và giả từ ra
đi hay từ từ nhắm mất trong an bình tự tại thì Thần Thức sẽ thoát ra từ
ngực hay trán hoặc mặt.
Nếu phân
chia theo chi tiết thì có rất nhiều loại Nghiệp khác nhau. Tuy nhiên để
hiểu khái quát, chúng ta chỉ nên nhớ mấy loại Nghiệp chính sau đây:
1)
Nghiệp hiện tại: Tạo ác và bị quả báo ngay trong đời. Ví dụ
anh A giết người và mấy năm sau anh ta bị tai nạn qua đời.
2)
Nghiệp đời
sau: Do tạo nghiệp
đời này và đời sau (kiếp sau) mới bị quả báo. Có khi đến mấy kiếp sau mới
bị quả báo.
3)
Nghiệp bất định:
Quả
báo đến không nhất định về thời gian có thể mau hay chậm.
4)
Nghiệp tích
lũy: Nhiều nghiệp quả từ nhiều đời tích tụ
lại.
5) Tập quán nghiêp: Nghiệp tạo ra theo tập quán . Ví dụ người làm nghề giết mổ heo gà vịt
hành nghề lâu thành lập quán không bỏ.
6) Nghiệp Cận tử: Nghiệp tạo ra vào lúc gần lâm chung. Ví dụ một người lúc gần chết dùng vũ
khí giết người vì căm tức hay để trả thù.
Khi một người làm việc ác cùng với sự hăng say thích
thú trong lúc hành động thì quả báo đến với họ gia tăng. Nhưng nếu một
người làm điều ác theo lệnh cấp trên, bị bó buộc, bị sai khiến, thúc hối
phải làm nhưng trong lòng không muốn, cảm thấy đau khổ xót xa vì biết là
mình làm điều ác thì nghiệp quả vẫn tạo ta nhưng không lớn lao như người
vừa mô tả trước. Vậy các nguyên nhân giữ vai trò quan trọng trong luật
quả báo. Anh A làm điều ác, quả báo phản hồi về hành động ác ấy tùy vào
nguyên nhân nào đã khiến anh ta hành động. Nguyên nhân ấy có thể do lòng
gian ác hung bạo hận thù hay có thể là do bị bắt buộc nếu không làm thì
anh ta phải chịu chết. Như thế nguyên nhân gây hành động tàn ác khác nhau
nên hậu quả do quả báo đem lại khác nhau. Khi bàn về sự kiện này có người
đã dựa vào lý luận để bào chữa cho hành động sai quấy của mình như người
ăn trộm nghĩ rằng: Vì đói vì muốn cho vợ con hạnh phúc nên anh ta phải đi
ăn trộm nên theo anh ta thì nguyên nhân ấy chắc sẽ không nhận quả báo quá
nặng nề! Nếu lý luận theo cách đó thì rõ ràng anh ta chưa hiểu thế nào là
thiện tâm là đạo đức là quả báo. Nếu cứ nghĩ sai lạc như thế thì kẻ giết
người cũng sẽ bảo rằng: nếu tôi không giết người đó thì người đó sẽ tố
cáo tôi - vì tôi sợ nên tôi phải giết thôi. Lý luận ấy cũng hồ đồ như có
một kẻ sát nhân đã bảo: Tôi phải giết người ấy để lấy tiền bạc vì gia đình
tôi đang túng thiếu!
Làm việc thiện không phải lớn lao mới tạo phước đức.
Đôi khi việc nhỏ mà hành động với Tâm lành thì phước đức lại rất lớn lao. Nhiều người nói ta toàn chuyện phước thiện lớn lao ý nghĩ to lớn nhưng
thực tế thì chẳng có gì cả. Đã có biết bao người thường nói: “Cầu cho
tôi được trúng số tôi sẽ xây mấy cảnh chùa nhà thờ! Tôi sẽ... Tôi sẽ...
“Chuyện trúng số thì biết bao giờ mới trúng, nên chi cứ nói mà không thấy
trong khi có người lở đường xin chút tiền mua cơm ăn lại không cho, nghe
đồng bào bị bảo lụt đói lạnh không dám bỏ vài đồng đóng góp. Thực tế
trước mắt không thực hiện, chỉ thực hiện ở đầu môi chót lưỡi mà thôi. Thế
gian có vô số người như thế.
Theo các kinh sách và lời giảng của các bậc tu hành thì
trong cuộc đời dù ta làm việc Thiện nhỏ nhoi tới mấy đi nữa thì đó cũng là
gieo mầm phúc thiện. Cứ mỗi ngày mỗi giờ mỗi phút ta suy nghĩ những điều
tốt lành làm những việc hướng Thiện thì dù nhỏ tới mấy nhưng cứ một
ít, một ít dồn chứa tích tụ lại và cuối cùng đời ta cũng sẽ tạo được phước
lành nếu không có ngay trong đời này thì cũng sẽ ở đời sau.
Mình muốn được mọi người thương mến mình thì cách hay
nhất là mình phải thương mến mọi người hay ít nhất là đừng ghét họ. Vậy
cái nguyên nhân tạo nên mối thiện cảm tốt lành chính là Tình thương. Do
đó Kinh Phật có câu: “Đem yêu thương xóa bỏ hận thù”.
Theo thuyết luân hồi thì mọi thứ trên thế gian khi có
sự gặp gỡ hội tụ liên kết nhau là do ở nhân duyên, nghiệp lực làm phát
sinh. Tại sao cô con gái nhà đó lại làm con dâu nhà tôi? Tạo sao ông bà
ấy lại là cha mẹ chồng của tôi? Tại sao chúng tôi lại sống cạnh nhau?
Phải chăng là do có nghiệp báo luân hồi với nhau? Phải chăng chúng ta có
Nợ với nhau? Như vậy, nếu có thì chúng tôi phải sống với nhau như thế nào
cho tốt?
Chúa đã dậy rằng:
“Đừng Mắc Nợ ai chi hết,
Chỉ mắc nợ yêu Thương mà thôi!”
Hay
“Ngươi phải yêu kẽ lân cận mình như mình yêu mình vậy.”
Như vậy thì rõ ràng khi người mẹ chồng đối xử tốt với
con dâu thì khó mà có người con dâu nào ăn ở không biết điều với cha mẹ
chồng. Cũng vậy, một khi người con dâu xem cha mẹ chồng như cha mẹ mình
thì khó có người cha mẹ chồng nào lại đem lòng ghét bỏ con dâu. Trong
Kinh Thánh có đoạn ghi như sau: “Các ngươi muốn người ta làm cho mình như
thế nào thì hãy làm cho người như thế ấy”
Trên đây chỉ là một số tội lỗi thường thấy trong đời
sống của con người. Thật ra còn vô số sự kiện mà từ đó phát sinh nghiệp
quả chồng chất ngày càng lớn lao như tội lừa dối (lừa dối chồng vợ, con
cái, bè bạn người khác hăm dọa như nặc danh hăm dọa bằng lời nói...), xúi
giục (xúc người khác làm điều xấu, hại người), chế diểu (cười cợt khi thấy
kẻ khác gặp điều không may), ganh ghét (thấy kẻ khác hơn mình thì sanh
lòng tức giận), ích kỷ (chỉ muốn tốt lợi cho mình mà không muốn tốt hay
lợi cho người), sang đoạt, (lấy nhà cửa của cải người), gạt gẩm, giả mạo,
bày mưu tính kế (chuyên làm giấy tờ giả mạo, sản xuất giả mạo - hàng giả,
chế thuốc giả mạo, pha chế thức ăn giả mạo bằng những chất có hại cho cơ
thể người tiêu dùng, bày mưu tính kế lừa gạt người hay làm hại người..)
..vân vân . Những sự kiện vừa kể đã thường xảy ra từ muôn nơi và muôn
thuở. Tuy nhiên những người phạm vào các vấn đề trên hiếm người cảm nhận
được rằng mình làm điều sai quấy để rồi ân hận hối lỗi mà bỏ qua. Trái
lại rất nhiều người biết việc mình làm sai nhưng vẫn cho là không ác hại
gì và cứ thế mà tiếp tục. Hậu quả là ác nghiệp tạo thành ngày càng chồng
chất khiến tội lỗi ngày càng nặng nề thêm và dĩ nhiên họ phải nhận lãnh
quả báo không may sớm hoặc muộn mà thôi.
Muốn nghiệp báo đừng tạo thêm và giảm thiểu thì nhớ lời
dạy của Phật:
Ý nghĩ và hành động tốt lành (Thiện) thì nên nghĩ tới
và tiến hành. Nếu việc Thiện đã tiến hành rồi thì nên phát triển việc
thiện ấy ngày càng lớn thêm.
Ý nghĩ và hành động xấu xa, tàn ác hung dữ thì nên diệt
ngay trong ý nghĩ, không cho phát sinh. Nếu lỡ đã tiến hành thì nên ngừng
lại và dứt bỏ không làm nữa.
Con người sinh ra và sống trên cõi đời không ai là
không khổ. Từ vua quan cho tới kẻ cùng dân, ai cũng đều có cái “Khổ”
riêng cả. Cư sĩ Tâm Quang đã nêu một vài cái Khổ trong bài viết “Thân thể
con người”
“Cái chết là một cái Khổ trong 8 thứ Khổ của con người:
Khổ vì bị Sanh ta, Khổ vì bị Già, khổ vì bị Bệnh, Khổ
vì bị Chết, Khổ vì bị gần với những thứ mình không ưa, Khổ vì bị xa với
những thứ mình ưa thích, Khổ vì muốn mà không được, Khổ vì có quá nhiều
sức khỏe và Ngũ ấm.
(Ngũ Ấm
gồm năm thứ:
1) Sắc: chỉ cho các
hình danh sắc tưởng.
2) Thọ chỉ những cảm giác
3)
Tưởng chỉ những sự tưởng tưởng, suy nghĩ
4)
Hành chỉ cho các hành động tạo tác
5)
Thức chỉ cho các cái biết của “Ý”
Cư sĩ
Tâm Quang – thân thể con người – Báo Viên Giác - số 113, tháng 10-1999 Ðức
Quốc)
Còn có
cái Khổ khác nữa do mỗi con người tự tạo ta đó chính là Các Tâm của mỗi
người. Cái Tâm đó thường tham lam, thường mơ mộng, tưởng tượng những thứ
không có thật mà cứ tưởng là có Thật. Cái Tâm cũng là nguyên nhân tạo ta
những hậu quả. Kinh Phật giáo thường cho rằng: “Mọi sự tại Tâm” đã nói
lên điều đó.
Ngoài
cái Tâm ta còn có Cái Thân. Cái Thân xác mà ta cho là sự “Của Ta” hay
“chính là Ta” Vì cái Thân ấy mà Ta phải Khổ. Có Thân thì có ham muốn vì
đó chỉ là các thân vật chất thật sư. Có ham muốn là có chiếm hữu, sinh ra
ích kỷ chỉ muốn lợi cho thân mình mà không muốn cho ai được lợi cả. Như
thế càng ham sống là càng gây ra nhiều nghiệp quả để rồi nhận lấy quả báo
luân hồi đau khổ.
Nếu biết
Các Xác Thân chỉ như các áo ta mặc thì sự khổ đau, bệnh hoạn chỉ như cái
áo bị rách cũ mà thôi. Cái xác thân ta đẹp đẽ hay xấu xí thì cũng như cái
áo ấy màu sắc đẹp đẻ hoặc không được sáng sủa hấp dẫn. Khi chết chính là
lúc cái áo ấy bị thay bỏ không mặc nữa và rồi ta sẽ mặc vào cái áo khác.
Khi
sống, ta cử động nhúc nhích, đi lại thì cái thân xác ta cử động, nói năng,
nhận biết, cảm xúc nhưng thật ra các hổ trợ đó không phải phát xuất từ cái
xác thân mà từ nhiều thứ như ý nghĩ, cảm giác, thấy nghe, nếm
ngửi...vân...vân. bộc lộ qua tai, mắt, mủi, miệng, lưởi...Khi chết những
thứ đó đều mất đi.
Vậy mà
chúng ta, ai cũng nghĩ về Cái Thân Xác mình mang và cho đó là
Chính Mình. Thật sự thì cái Thân xác ấy chỉ là những vật chất cơ bản
tạo nên và sau một thời gian cũng quay về với các bụi mà thôi. Để chứng
minh cái Thân xác ấy có phải của Ta không thì ta hãy nhớ lại là Cái
Thân ấy có hoàn toàn theo ý ta không? Ta thì luôn luôn muốn khỏe mạnh,
nhưng xác thân muốn đau yếu, bệnh hoạn muốn chết khi nào là tùy ý nó. Ta
không muốn uống nước nhưng cái xác thân lại Khát và ta phải chìu ý nó.
Ta cố rán sức thức nhưng cái Xác Thân cứ muốn ngủ không theo ý ta. Có khi
ta quyết nhịn ăn, nhưng cái Xác lại đòi ăn. Rõ ràng là các Thân làm ta
Khổ.
Ngay cả
Cái Tâm mà chúng ta nghĩ ngợi, phân tích, suy tính thiệt hơn ta
cũng tưởng là “của Mình” luôn. Nhưng cũng chính Cái Tâm làm mình
khổ.
Tạo sao
Cái Tâm thật sự không phải là Ta?. Nếu Tâm là Ta thì chỉ có mỗi một thứ
Tâm thôi, cớ sao lại hai thứ như Tâm Thiện và Tâm ác? Vậy đã là Cái Ta thì
tại sao lại là hai được?
Còn Cái
Tâm làm cho ta đau Khổ thì thật quá nhiều. Ví dụ như khi Ta muốn điều gì
tức là Tâm ta muốn nhưng đâu có phải muốn là đạt được. Ví dụ lúc ta có
Thiện Tâm, ta muốn người bị bệnh được lành hay người nghèo có được tiền
bạc, nhưng điều mình muốn hay Tâm mình muốn như thế đâu có phải hoàn toàn
được như ý. Thế là ta Đau khổ vì không đạt ý nguyện. Đôi khi vì lòng ghen
tức căm ghét một người nào đó nên ta muốn kẻ ấy phải bị khổ đau nhưng kẻ
ấy vẫn bình yên an lành. Như thế là Tâm muốn mà không được cũng khiến ta
đau khổ.
Vậy
chính Cái Thân và Cái Tâm làm mình ham muốn, tự cao tự đại, tự ái phân
biệt, ích kỷ, tham lam, ganh ghét, giận hờn. Tức tối... Nghĩa là vì Cái
Thân và Các Tâm mà càng ngày mình càng phát triển Tham Sân Si, lòng thù
hận nhiều lên nhất là khi mình cứ nghĩ là Cái Thân chính là của mình, Cái
Tâm chính là mình.
Chính vì sự nhầm lẫn mê mờ u tối
trong nhận thức về cái xác thân và cái Tâm như thế nên hằng phút, hằng
ngày, hằng giờ... mỗi người đều tự tạo cho mình biết bao hành động, ý
nghĩ sai lầm tội lỗi khiến tạo ra biết bao nghiệp báo chồng chất không bao
giờ vơi mà mình không biết.
Nhiều
người đã nêu thắc mắc rằng: mỗi người tạo ra Nghiệp và sẽ phải nhận lấy
quả báo. Nếu nghiệp tốt thì quả lành, nghiệp ác thì quả dữ. Như vậy
trường hợp một số đông người cùng bị đoạ đày đau khổ hay cùng bị chết một
lượt như bị động đất núi 1ửa, bom đạn vân vân thì thế nào?
Câu hỏi
rất chi ly và rất hữu lý. Thật vậy, tại sao trên đời ai cũng có lần nghe
hay thấy vô số người bị tai nạn hay chết. Như cả chuyến máy bay chở mấy
trăm người bị rơi khiến không một hành khách nào sống sót. Trong chiến
tranh, nhiều cuộc dội bom khiến hàng trăm người chết hay trận động đất lớn
làm hàng vạn người bị chôn vùi ...vân vân. Theo thuyết luân hồi nhân quả,
nghiệp báo thì những trường hợp cùng chết hàng loạt như vậy gọi là Cộng
Nghiệp (các Nghiệp cùng liên kết lại). Nhà biên khảo về luật quả báo
là Gina Cerminara giải thích rằng trong vũ trụ tự nhiên có những nhóm linh
hồn đầu thai hàng loạt trở lại quả đất để sống vì họ có cùng nghiệp lực
tương đồng nhau. Sau đó, theo thời gian đã định phù hợp và hoàn cảnh thời
đại thuận hợp để trả quả tương ứng đối với những người ấy thì họ sẽ lại
gặp nhau tại một vùng đất nào đó, vị trí nào đó để cùng chịu quả báo một
lượt. Để dễ hiểu hơn về vấn đề gọi là Cộng Nghiệp ta thử nêu thí dụ về
một chuyến vượt biên khủng khiếp tại Việt Nam vào năm 1978 khiến hàng trăm
người bị chìm ghe chết đồng loạt. Những người này ở từ nhiều nơi như
người ở Huế, kẻ ở Quảng Nam, Đà Lạt, Sài gòn, Buôn mê thuột. Thế rồi họ
cùng gặp nhau, lên cùng một chiếc ghe cuối cùng ghe chìm và tất cả đều
chết. Theo lý giải về hiện tượng Cộng nghiệp thì những người này ở kiếp
trước hay chính trong kiếp mà họ đang sống đã tạo ra một nghiệp nặng liên
quan tới nước như làm cho kẻ khác chết chìm, xô người xuống nước hay trấn
nước, nhận nước tới chết người nào đó. Khi hoàn cảnh thuận lợi đến (thời
điểm phát sinh những cuộc vượt biên) những người tạo nghiệp tương tự sẽ
cùng nhau đi vào nghiệp quả bằng cách quyết định đi chiếc ghe đó
để cùng nhận lấy quả báo bằng cùng một hình thức như vừa kể
trên.
Quả báo là một định luật, rõ ràng, minh bạch, công bằng
và khoa học vô cùng - Cũng giống như ta ném cái banh vào tường trái banh
sẽ dội ngược lại.
Luật quả
báo không phân biệt một ai, nó như là định luật tự nhiên, như định luật
phản chiếu của gương trong Vật Lý: Có tia tới thì có tia phản chiếu, cân
phân rõ ràng không hơn không kém: góc tới bằng góc phản chiếu; nếu gây
nhân tốt thì gặp quả tốt gây nhân xấu thì nhận quả xấu. Nhân xấu gây
nhiều thì sẽ nhận quả xấu nhiều và trái lại. Do đó mới có câu:
Nhân nào quả ấy hoặc Ai gieo giống chi thì sẽ phải gặt lấy giống ấy. Hoặc
Kẻ nào sử dụng gươm đao, kẻ ấy sẽ bị chết vì gươm đao (thiên Apocalypse -
chương 13). Như vậy kẻ nào giết người thì kẻ đó sẽ phải bị giết. Lưới
Trời lồng lộng, thưa mà khó lọt, bởi luật Quả báo thật công bằng.
Những kẻ
sát nhân dù có trốn tránh, đánh lạc hướng thế nào đi nữa thì cuối cùng
cũng bị bắt và bị đền tội. Có điều kỳ diệu là ngay trong bản thể của mỗi
con người còn có một “năng lực” liên hợp với luật quả báo trong tự nhiên.
Cái Năng lực lạ lùng đó chính là Lương tâm. Có kẻ sát nhân đã trốn tránh
và qua mặt pháp 1uật nhưng một thời gian sau tự nhiên ra nộp mình. Chính
các năng lực vô hình vừa kể đã thôi thúc y tuân theo luật quả báo một cách
tự nhiên. Cái năng lực vừa kể đó đã ảnh hướng mạnh mẽ lên một năng lực
khác ẩn tàng trong mỗi con người đó là các Thiện Tâm, cái Ân hận hay sự
Sám hối. Năng lực này khi phát tỏa ra nơi mỗi người sẽ tạo nên một sức
mạnh vô song có khả năng làm giảm bớt rất nhiều những hậu quả của luật Quả
báo.
Acoka
Vardhan, bạo chúa lừng danh Ấn Độ thường ra lệnh xây dựng nhà tù lớn để
giam cầm vô số tù nhân và đặc ra những hình phạt dã man để tra tấn họ như
thả vào chảo dầu sôi. Về sau bạo chúa tự nhiên ra lệnh dẹp bỏ các hình
phạt và trở thành một ông vua đạo hạnh. Tuy nhiên chính nhà vua cũng biết
những hành động tàn ác của mình đã làm trước đây không thể nào hoàn toàn
gột rửa sạch tất cả, có chăng là sự ân hận sám hối và sống nhân đức sẽ
giúp giảm đi cái quả báo nặng nề mà ông sẽ phải chịu. Thế là nhà vua bình
thản chờ đợi. Quả nhiên về sau, người cháu nội của nhà vua đã cùng với
các quan lại trong triều bắt giam nhà vua vào ngục và hạn chế phần ăn hằng
ngày. Ấý vậy mà nhà vua lại thường bảo cai ngục rằng nếu có tù nhân nào
đói khát không có ăn thì lấy phần cơm của ông cho ho. Cai ngục lấy làm lạ
có lần hỏi nguyên do thì vua Acoka bảo ”Tội của ta trước đây to lớn vô
cùng, đáng ra phải bị quả báo rất nặng, thể xác ta ngày nay không phải
chịu như những người vô tội ngày xưa bị ta ra lệnh liêng vào vạt dầu sôi!”
.
Rất
nhiều người có ý nghĩ sai lầm rằng giết người mới có tội. Nhưng họ không
hiểu là có những tội lỗi tích lũy ngày này qua ngày khác, tháng này qua
tháng khác, năm này qua năm khác mà không ai hay. Những tội tích lũy như
dưới đây nhiều người đã phạm phải, tuy không phải là ghê gớm khủng khiếp,
nhưng lâu dần tội ấy chất chồng khiến ngày càng nặng nề hơn và khi trả quả
cũng sẽ nặng hơn:
Nhiều
người con bất hiếu, bất mục, xem cha mẹ như người dưng nước lã. Có kẻ
mắng nhiếc cha mẹ thậm tệ. Nơi xứ Tây phương, phong tục tập quán khác xứ
Đông phương, người ta vịn vào 2 chữ Tự do nên thường đi quá trớn trong
cách hành xử trong gia đình, giữa cha mẹ con cái hay vợ chồng. Tuy nhiên
nơi trời Tây cũng hiếm có con cái xấc láo với cha mẹ. Thật ra chữ Tự Do
vẫn có giới hạn của nó vì ta nên hiểu hai chữ Tự Do không có nghĩa là
“Muốn làm gì thì làm”. Tự Do không có nghĩa là xem thường thầy cô dạy học
mình, không kính trọng thầy cô mình. Tự Do không có nghĩa là cải tay đôi
với cha mẹ.
Người
già ở đây là cha mẹ già hay ông bà nội ngoại già lão. Những người này
sống gần đất xa trời, trong lòng luôn luôn lo buồn, nuối tiếc nên thường
hay gắt gỏng bực bội. Những người này sức khỏe suy yếu nên không thể làm
việc nặng. Những điều đó thường biến họ thành kẽ sống thừa trong xã hội,
lời nói và ý kiến của họ đôi khi không còn được ai nghe. Con cháu cũng từ
đó mà coi thường và đôi khi có lời nói hành động bất nhã, hỗn xược khiến
những người già lão ấy vô cùng tủi thân và đau khổ. Có những gia đình mà
cả cha mẹ lẫn con cái đều có thái độ hất hủi đối với ông bà nội ngoại sống
cùng trong một nhà. Cảnh tượng này xãy ra thường ngày ở nhiều gia đình
tại Việt Nam, chúng ta. Riêng đối với những gia đình người Việt sinh sống
ở xứ người thì hình ảnh vừa kể cũng không hiếm. Những người già lão vừa
nêu trên đây là những người thân thuộc trong gia đình, vậy mà đôi khi họ
còn bị sự đối xử tàn tệ của con cháu huống hồ những người già lão cô đơn
không kẻ thân thích nương nhờ thì cuộc sống của họ sẽ ta sao? Chắc chắn là
còn đau khổ hơn nữa. Do đó, ta còn sống trên cõi thế gian này thì phãi
nhớ rằng có ngày ta cũng trở thành già lão. Cho nên cần giúp đỡ an ủi
người già bất kể họ là cha mẹ, ông bà mình hay họ là người hàng xóm hoặc
khách qua đường hay người hành khất... Bởi lẽ họ là các hình ảnh tương lai
của mình đó!
Việc đối
xử tàn tệ đối với kẻ ăn người ở trong nhà thường rất phổ biến tại Việt Nam
chúng ta. Nhiều người hàng ngày siêng năng tới nhà thờ hay chùa cầu
nguyện. Ðứng trước tượng Phật hay Chúa, họ xít xoa, rên rỉ, van lạy khẩn
cầu vô cùng thiết tha, cung kính lễ bái tu hành... Nhưng khi bước chân về
đến nhà là họ quát tháo người tôi tớ om sòm, mỗi lần không hợp ý điều gì
về người làm là họ chụp ngay một vật trước mặt, bất kể là vật gì, cái
chổi, cây cuốc, khúc cây, thậm chí con dao họ cũng vung vẩy rượt đuỗi
người ở để trừng trị họ. Nhiều chủ nhà dùng lửa bếp đốt da thịt người giúp
việc, kẻ tôi tớ trong nhà vì nghi họ ăn vụng trong bếp hay có khi sẩy tay
làm bể cái chén hoặc giặt cái áo của chủ không sạch vân... vân...
Năm
1950, tại cố đô Huế đồng bào trong vùng đã chứng kiến cảnh tượng rất dã
man một người chủ nhà nổi tiếng tàn ác đã trói người tôi ở của ông ta vào
gốc cây nhãn và hành hạ đánh đập người ấy đến ngất xỉu vì nghi họ
là kẻ đã ăn cắp tiền của ông: Năm ngày sau người ấy uống thuốc rầy tự vận
vì quá uất ức. Nhà chức trách theo lời tố cáo của đồng bào đã mỡ cuộc
điều tra và biết được số tiền bị mất chính là do người con trai của chủ
nhà lấy: Người chủ nhà bị bắt giam nhưng sau trở thành như ngây dại nên
cho về nhà. Riêng người con trai của ông ta trước đó học trường Khải
Định, bỏ học đã theo bè bạn ăn chơi lêu lỗng và còn liên hệ tới một vụ
trộm tại một cửa tiệm ở đường Trần Hưng Đạo Huế. Bỏ xử tù giam,
trong tù anh ta dùng mảnh chai cắt mạch máu ở cổ tay tự vẫn. Người cha từ
đó như điên dại, rượu chè be bét và một hôm người nhà thấy ông nằm chết
bên gốc cây nhãn, nơi mà trước đó mấy năm ông đã tra tấn hành hạ người tôi
tớ của ông đến nổi nạn nhân uất ức phải tự tử.
Những
người giúp việc, làm tôi tớ trong nhà luôn luôn là nạn nhân của sự bóc lột
sức lao động không thương tiếc của chủ nhà và con cái chủ nhà. Nhiều
người làm kẻ giúp việc cho một gia đình có đến 6, 7 người: hai vợ chồng
chủ nhà và 5 người con. Nếu những người trong gia đình này không có lòng
nhân thì đó là điều bất hạnh cho kẻ vào giúp việc. Người ấy sẽ trở thành
kẻ nô lệ cho từng thành viên trong gia đình này. Mỗi ngày người ấy phải
lo chu toàn hàng khối công việc nào nấu ăn, giặt rửa, lau nhà quét dọn, ủi
áo quần, giữ con, công việc liên tục không ngưng nghỉ. Vậy mà người ấy
còn bị mắng nhiếc la rầy, đánh đập vô cùng khốn khổ. Chúng ta vẫn tưởng
rằng thời đại văn minh này không còn hình ảnh sự việc khổ đau ấy nữa,
nhưng không tại đất nước quê hương mình tình trạng ấy vẫn xảy ra. Bao lâu những người nghèo khổ nơi nông thôn lên tỉnh còn nhiều, chỉ mong
có miếng ăn đủ nuôi sống mình qua ngày thì những người đi ở đợ ấy vẫn còn
nhiều. Bao lâu mà những kẽ có tiền bạc nhưng không có lòng nhân còn nhan
nhãn trong đời thì dưới mắt họ những kẻ tôi tớ trong nhà chỉ là những dụng
cụ để họ sử đụng như cái máy chớ không có tình người. Bao lâu mà chúng ta
còn tới chùa, nhà thờ cầu nguyện thì ta cũng đừng quên cầu nguyện cho
những kẻ khốn cùng này mau thoát khỏi những gia đình hung ác và gặp được
những gia đình đầy mối thiện tâm.
Trong
cuốn Quốc văn giáo khoa thư ngày xưa có một bài học thuộc lòng rất hay về
một ông quan nhân từ: Một hôm gần tới giờ vào triều, ông quan áo mão chỉnh
tề chờ người giúp việc bưng tô cháo lên để ăn sáng. Vì sợ chậm trể nên
người giúp việc hối hả khiến tô cháo nóng đổ lên áo quan. Ông quan thay
vì tức giận quát mắng người ấy thì ông lại nhẹ nhàng hỏi: “này Con có bị
phỏng hay không?”.
Cho đến
nay, vấn đề mẹ chồng con dâu vẫn còn là đề tài gay cấn. Nhiều người tự
cho mình là hiền đức nhưng lại không xem con dâu như con mình mà vẫn
thường tìm những sai sót của con dâu để bắt bẻ, hạch xách, nói xấu và tạo
mối ác cảm ngày một gia tăng. Dĩ nhiên trên thế gian này vẫn không hiếm
những người con dâu ngổ nghịch, hỗn láo, xấc xược. Nếu người đó hiểu
được luật Nhân Quả thì có lẽ người ấy đã không có thái độ sai trái đối với
cha mẹ chồng vì tương lai người ấy cũng sẽ có dâu con!
Như thế
luật Nhân quả không phân biệt Mẹ chồng hay nàng Dâu. Nếu Mẹ chồng ác
nghiệt với Dâu thì mẹ chồng sẽ nhận quả báo tương xứng.
Nếu
người con dâu sống không phải với mẹ chồng thì luật Nhân quả sẽ khiến quả
báo dội ngược về phía người con dâu, không sai lệch vào đâu được.
Về
chuyện những người đàn bà đối xử ác nghiệt với con dâu trong thế gian
nhiều vô kể. Ta đã từng nghe có những người đàn bà gian ác muốn tạo xấu
cho con dâu đã không từ nan những hành động ác độc ném đá dấu tay từ nhỏ
nhoi đến to lớn như lén bỏ muối vào thức ăn mà con dâu đang nấu hay độc ác
hơn, bỏ chất độc vào thức ăn để hô hoán lên là con dâu hãm hại cha mẹ
chồng. Ngày xưa có nhiều bà mẹ chồng tàn ác và ghét con dâu nên tìm cách
cưới thêm vợ lẽ cho con trai để người con dâu đau khổ. Ngày nay sự việc ấy
khó xảy ra nhưng những người đàn bà có bản tánh xấu xa độc hiểm với con
dâu thì họ thường có vô số mưu lược, ý đồ để làm hại con dâu.
Thế gian
cũng có những đứa con dâu gian ác, tàn nhẫn đối với mẹ chồng. Có người sợ
mẹ chồng lấy tiền bạc của chồng đi hay sợ phải nuôi nấng cưu mang cha mẹ
chồng. Có người còn hung hãn hơn như trường hợp tại San Francisco, đã có
trường hợp một người con dâu có lời qua tiếng lại với cha chồng và đã rút
súng ra chỉa về phía cha chồng hăm dọa: Nếu ông còn bước tới tôi sẽ bắn!
Tuy
nhiên trên cõi đời này không phải tất cả các bà gia, các bà mẹ chồng đều
ghét con dâu. Cũng như không phải tất cả các con dâu đều ghét và coi
thường cha mẹ chồng. Có những người con dâu thương yêu quý trọng cha mẹ
chồng như cha mẹ mình. Cũng có những cha mẹ chồng thương quý con dâu có
khi còn hơn cả con ruột mình. Bất cứ điều gì cũng đều có nguyên nhân của
nó.
Kinh
Phật giáo và trong Thánh Kinh đều thường nhắc đi nhắc lại những câu tương
tự về vấn đề Ân Oán như:
-
Chớ lấy ác trả ác cho ai!
-
Lấy Oán báo Oán; Oán chất chồng
-
Lấy Đức báo Oán; Oán tiêu tan
-
Đừng lấy ác đá Ác, đừng lấy rủa sả trả rủa sả...
Trên thế
giới, tội Ác xảy ra liên tục khắp nơi, từng ngày, từng giờ, từng phút,
từng giây không ngưng nghỉ. Theo lý giải của thuyết Phật giáo thì nguyên
nhân là do bởi “Nghiệp lực” và “Quả báo” mà ra, và tiếp diễn bởi sự kiện:
lấy oán báo oán cứ mãi chất chồng. Cuộc hành quyết xảy ra tại thành phố
Kabul ở Afganistan trong năm 2000 đã là một thí dụ.
Một kẻ
sát nhân hung bạo tên là Mohammed Daoud phạm tội giết hai người đàn ông. Luật Hồi giáo cho phép người trong gia đình nạn nhân đứng ra tự tay hành
quyết kẻ đã giết thân nhân mình. Trong trường hợp này, người em trai của
nạn nhân tên là Maulvi Mohasil đã đứng ra đảm trách việc trả thù. Kẻ phạm
tội bị một tiểu đội lính Taliban dẫn ra pháp trường, đó là một sân vận
động chứa hàng nghìn người tới chứng kiến. Tội nhân bị bịt mắt, trói tay
và được phép cầu nguyện trong 10 phút. Trong thời gian đó, chánh án tòa
án quân sự Haibatullah Akhund đưa ra lời yêu cầu tha thứ cho tội nhân. Khán giả cũng có thể đưa ra lời đề nghị. Nhưng toàn thể gia đình nạn nhân
đang có mặt đều quyết trả thù, không thể tha thứ cho kẻ đã giết người thân
của họ. Tội nhân cúi đầu xuống và bắt đầu tỏ dấu kinh sợ. Người em của
nạn nhân đại diện cho gia đình rút mạnh con dao sắc lẻm bên hông ra và nói
to: “Tôi và gia đình không bao giờ tha thứ cho kẻ đã làm tan nát tâm can
cả đại gia đình chúng tôi! Máu phải trả bằng máu!” Sau lời nói đó, anh ta
bước ra sau lưng tội nhân đưa dao cắt đứt cổ họng của tội nhân. Tiếng
thét vang của tội nhân làm hàng nghìn người nghìn nơi vận động trường đang
huyên náo bõng im bặt. Lúc tội nhân còn đang quằn quại chưa chết thì bà
vợ của người bị kẻ tội phạm giết chết nhào tới đưa hai tay ra hứng lấy
máu phun ra từ cổ tội nhân phả vào mặt bà. Trong khi sự việc diễn ra thì
gia đình thân nhân của kẻ tội phạm cũng có mặt trong đám đông. Phần lớn
trong số những người này lại dấy lên lòng thù hận và họ lại nuối mối căm
hờn quyết chờ có ngày sẽ trả nợ máu. . .
Quả báo
chất chồng còn thấy rõ qua lịch sử thế giới điển hình là lịch sử Việt Nam
khi nhà Tây Sơn chiến thắng vinh quang thay vì dĩ hòa vi quý, đem tình
phương xóa bỏ hận thù, đối xử với kẻ thù bằng mối thiện tâm thì nhà Tây
sơn lại lấy oán báo oán. Lúc bấy giờ, theo sử liệu Đại Nam nhất thống chí
và sử liệu của nhà biên soạn lịch sử Phạm văn Sơn thì:
“Quân
Tây sơn đã ra lệnh khai quật lăng tẩm của các tiên chúa họ Nguyễn từ cháu
nội ông Nguyễn Kim đến ông thân sinh ra Chúa là Nguyễn Phúc Luân”
Chính vì
những hành động quá ư nghiệt ngã như thế nên khi nhà Nguyễn đại thắng quân
Tây sơn, mối thù cũ ấy Chúa Nguyễn không bao giờ quên nên tháng 7 năm Nhâm
Tuất (1802) đã tận dụng các hình phạt dã man ghê rợn và tàn bạo nhất để xử
tội những người của triều Tây sơn bị bắt. Người thì bi voi chà cho nát
thây như bà Bùi Thị Xuân và người con gái của bà. Người thì bị cột chân
tay vào chân các con voi để voi di chuyển xác họ bị xé ra nhiều mảnh như
vua Quang Toản... Ngoài ra Chúa Nguyễn còn ra lệnh đào mộ của Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Huệ lấy xương nghiền nát và cho quân lệnh tiểu tiện vào trước
sự chứng kiến của anh em vua Cảnh Thịnh. Riêng hai các sọ của Nhạc và Huệ
thì xiềng lại và giam trong ngục tối.
Thời vua Minh Mệnh có một nịnh
thần tên là Bạch Xuân Nguyên được nhà vua giao trọng trách ngầm canh chừng
mọi việc làm của Lê văn Duyệt một đại công thần, nhưng vì vua không ưa nên
muốn tìm cớ buộc tội. Bạch xuân Nguyên rình rập toàn gia Lê văn Duyệt rồi
dâng báo cáo đủ điều lên vua và xin hạch tội Lê văn Duyệt cùng chém đầu 16
thân nhân. Sau đó còn bắt Lê văn Khôi, con nuôi Lê văn Duyệt. Trong tù
Khôi liên kết với các tù nhân can tội bạo loạn ở Bắc Kỳ.
Phá ngục
và kéo tới dinh Bố Chánh bắt được Bạch Xuân Nguyên và Án sát Nguyễn Chương
Đạt, Nguyễn văn Quế. Khôi ra lệnh trói cả ba lại rồi thiêu sống họ như
cây đuốc trước Từ đường Tả Quân để làm lễ Tế cáo.
Không lâu sau đó, Lê văn Khôi bị đầu độc chết một
cách tức tưởi. Ba người con trai của Khôi thì bị giết khi tấn công thành
Phiên An. Người con út mới 8 tuổi bị quân triều đình bắt một lần với Cố
Du (tức P. Marchand) đem về kinh đô trị tội. Mặc dù mới 8 tuổi, con út
của Khôi cũng vẫn bị triều đình ra lệnh xử tội Lăng Trì (tức là xẻo từng
miếng thịt theo tiếng trống lệnh). Riêng Lê văn Khôi, mặc dầu đã chết và
chôn dưới lòng đất lạnh nhưng cũng bị triều đình ra lệnh đào mộ lấy đầu
cấm trên cây tre bêu ngoài chợ 3 ngày. Xong nghiền nát đổ xuống sông. Còn vợ con thân thuộc của Khôi và các tướng tá của Khôi đều bì giết cắt
tai đem về đều báo tiệp (theo A.Schreine-Abrégé de l'histoire d'Annam).
NẾU LẦY OÁN BÁO
OÁN THÌ OÁN SẼ CHẤT CHỒNG
Kinh
Phật giáo và trong Thánh kinh đều thường nhắc đi nhắc lại những câu tương
tự nhau như:
Chớ lấy Ác trả Ác cho ai!
Lấy oán báo oán, oán chất
chồng
Lấy Đức báo Oán, Oán tiêu tan
Ðừng lấy Ác trả Ác, đừng lấy
rủa sả trả rủa sả
Đem Tình thương xóa bỏ Hận
Thù
Ngươi phải yêu kẻ lân cận
mình như mình yêu mình vậy
Nếu
thật sự có Kiếp trước, như vậy thì tại sao từ xưa tới nay, không ai nhớ
tới Kiếp trước của mình, cũng như chẳng có ai thương nhớ nuối tiếc người
thân yêu của mình lúc ấy cả?
Đây là
câu hỏi thường được nhiều người nêu ra nhất, vì nó thực tế và rõ ràng nhất
đối với vấn đề tái sinh luân hồi. Nếu chúng ta không hấp tấp vội vàng, cứ
một mực cho rằng tái sinh luân hồi là điều không thể có ngay trong ý nghĩ
mình thì khó mà giải quyết, làm sáng tỏ vấn đề. Bằng sự vô tư và khách
quan, ta bình tỉnh tìm các chứng liệu thu thập được qua các nhà nghiên cứu
đáng tin cậy về vấn đế nhớ lại tiền kiếp như thế nào?
Thật ra từ cổ đại tới nay đã có vô số tài liệu ghi lại
những sự kiện vừa kể. Các nhà nghiên cứu tìm hiểu vấn đề không phải là
những nhà tôn giáo mà phần lớn là những nhà khoa học những nhà sử học,
những Y Bác sĩ, những nhà khảo cổ nổi tiếng vân vân.
Các
nghiên cứu tìm hiểu ấy được thực hiện qua các phương pháp có tính khoa học
như ghi chép lại từng chi tiết của sự việc, quây phim, chụp hình, thu âm
điều tra, phỏng vấn những nhân vật liên quan tới sư kiện cũng như thăm dò
quan sát, đối chiếu và kiểm chứng cẩn thận những gì đã xảy ra. Qua những
tư liệu thu nhặt được từ những khám phá mới đây với những tài liệu cổ xưa
về vấn đề Tái sanh, nhớ lại Tiền kiếp ta mới thấy rằng quả thật xưa nay đã
có những người đã nhớ lại kiếp trước của họ chớ không phải là chẳng có ai
nhớ lại kiếp trước của họ cả.
Trong
thời đại khoa học hiện nay thế giới lại ngạc nhiên lần nữa về sự nghiên
cứu và khám phá của một Bác sĩ người Mỹ đó là Giáo sư Bác sĩ lan
Stevenson, ông chuyên tìm hiểu về các hiện tượng liên quan tới Tiền kiếp
hay Kiếp trước. Ông đã thiết lập một số lớn hồ sơ dày ghi lại chi tiết
những trường hợp của một số người nhớ lại kiếp trướccủa họ. Để được kết
quả trung thực, chính bác sĩ Stevenson đã đích thân tới tận nơi gặp gở,
tiếp xúc, phỏng vấn những người đã nhớ lại tiền kiếp của chính họ chớ
không nghe qua lời kể lại của người khác.
Trước
bác sĩ Stevenson tại Hoa Kỳ cũng đã một thời dân chúng xôn xao về sự kiện
cũng một người Mỹ tên là Edgar Cayce, ông này không có khái niệm gì về tái
sinh luân hồi cả nhưng lại có khả năng tìm nguồn gốc xa xăm của căn bệnh
nan y một người nào đó qua giấc ngủ thôi miên.
Chính
bản thân ông Cayce lúc thực hiện phương pháp chữa bệnh đi vào tiền kiếp
của người bệnh qua giấc ngủ thôi miên cũng cảm thấy nghi ngờ vì ông xuất
thân từ một gia đình Cơ Đốc giáo chính thống. Ông không hiểu là thật sự có
kiếp trước hay không? Nhưng điều làm ông phân vân thắc mắc là tại sao
trong giấc ngủ thôi miên khi chữa cho bệnh nhân thì ông lại thường hay
thốt ra câu: “Thửa xa xưa, ông ta, hay bà ta là...” Nhất là có lần
ông định bệnh cho một người đàn ông trong khi đang chìm vào giấc ngủ thôi
miên, ông lại thốt ra câu: “Thuở xưa ông ta lả một nhà giáo”
Vậy chữ thuở xa xưa ấy là lúc nào? Chắc chẩn không phải là trong đời hiện
tại của ông ấy vì hiện tại ông ta không phải là nhà giáo mà là một thương
gia. Như thế thì phải chăng chữ thuở xa xưa chính là cái đời trước hay
kiếp trước.
Càng
ngày ông Edgar Cayce càng chiêm nghiệm thấy rằng ông đang khám phá ra một
chân trời mới mà từ lâu nhiều người không biết tới. Trong thời
gian chữa bệnh, nhiều bệnh nhân được ông tìm ra nguồn gốc bệnh và được
lành, nhưng một số người cũng không vì thế mà tin hoàn toàn vào những gì
gọi là kiếp trước, kiếp sau hay luân hồi. Họ cũng thắc mắc hỏi ông là
tại sao bản thân họ có kiếp trước như thế mà chính họ lại không biết mà
ông lại biết? Ông Cayce đã trả lời rằng:”mỗi con người đều trải qua
một thời gian dài đăng đẳng qua sự tiến hóa, do đó trong trí óc mỗi người
đều tích chứa biết bao ký ức từ buổi xa xăm. Ta có thể thấy rõ điều đó
qua phần khám phá của thuyết tiến hóa Charles Darwin mà một thời bị nhiều
người phê bình phản bác. Đơn giản hơn cả là ta thấy con người sống trong
thời đại văn minh ngày nay vẫn còn có người thỉnh thoảng bộc lộ bản năng
thú tính man dã của thời đại tiền sử xa xưa. Về thắc mắc tại sao phần lớn
con người không nhớ lại được kiếp trước của mình, ông Caye cho rằng: Đừng
nói tới chụyện kiếp trước, ngay trong đời hiện tại của chúng ta đây mà đôi
khi cũng có nhiều việc ta không nhớ. Có khi vừa mới nghĩ ra một việc thì
rồi lại quên ngay. Như thế trí nhớ của con người rất hạn chế. Điều quan
trọng là khi ta không nhớ những gì ta đã làm, những gì đã xảy ra trong
giai đoạn thời gian nào đó của đời ta thì không có nghĩa là không có bất
cứ điều gì xảy ra vào thời gian đó. Như vậy là vì do ta quên mà thôi chớ
chính ta đã trãi qua nhiều việc trong đời, đời hiện tại không nhớ hết thì
đời trước hay kiếp trước nếu có thì làm sao ta nhớ lại được?
Còn về
thắc mắc: Tại sao ông Cayce lại biết được kiếp trước của người ông đang
tìm nguồn gốc bệnh thì ông cho rằng: Khi chìm vào trạng thái thôi
miên, ông như được làm trống bộ não khiến cho những hình ảnh đời sống hiện
tại biến mất chỉ còn chờ tiếp nhận những hình ảnh khác mà thôi. Theo ông Cayce thì lúc ấy ông tiếp nhận được hình ảnh, sự việc từ
trạng thái vô thức của người mà ông đang truy tầm căn nguyên bệnh chứng. Chính trạng thái vô thức của người đó đã lưu trữ những kinh nghiệm, những
gì đã trải qua trong những kiếp đời người ấy, Theo ông Cayce thì
trong trạng thái thôi miên ông bắt gặp được ký ức của người mà ông đang
lưu tâm tới một cách dễ dàng nhờ tiềm thức chớ không phải bằng ý thức. Lý
do là khi ông tỉnh thức thì sẽ khó khăn về lúc tỉnh ông chỉ dùng ý thức mà
thôi. Nhưng ý thức thì khó thăm dò tìm hiểu được tiềm thức của kẻ khác. Ngoài ra ông Cayce còn cho biết một sự kiện mà cho đến ngày nay khoa học
chưa khám phá ra. Theo ông thì trong vũ trụ có một chất rất đặc biệt
giống như phim ảnh ghi nhận lại tất cả những gì đã xảy ra trong vũ trụ bất
luận lớn nhỏ, xấu tốt, rõ ràng hay ẩn dấu... Do đó, mỗi kiếp đời mỗi
người với mọi tình huống đều được ghi lại đầy đủ từng chi tiết, giống như
trong thư viện muốn tìm đề tài, sự kiện gì thì cứ việc giở ra xem mà thôi.
Cũng theo ông Cayce thì mỗi người chúng ta đều có khả năng đọc được những
gì đã ẩn tàng trong vũ trụ, tuy nhiên có người thu nhận dễ, nhưng cũng có
vô số người không cảm thụ được. Những người bắt được nguồn thụ cảm đọc
được các hình ảnh vừa kể thường được gọi là những người có khả năng thấu
thi hay thần nhãn hoặc con mắt thứ ba hoặc huệ nhãn.
Nhiều
thắc mắc về vấn đề nhớ lại kiếp trước của mình cũng đã được nhiều người Âu
Mỹ nêu ra với giáo sư Bác sĩ lan Stevenson, nhà nghiên cứu nổi tiếng Hoa
Kỳ về vấn đề tiền kiếp và luân hồi. Theo bác sĩ Stevenson thì ông may mắn
đã trực tiếp với vô số người có khả năng nhớ lại kiếp nước của họ. Chính
ông cũng bị ray rức bởi câu hỏi vừa nêu nên ông đã áp dụng phương pháp
thống kê khoa học để phân loại các hồ sơ có kết quả như sau: Phần đông
những người nhớ lại kiếp trước của họ đều kể rằng họ chết lúc còn bé. Như
thế phần lớn những trẻ con chết sớm khi tái sinh sẽ nhớ lại tiền kiếp của
chúng rất rõ, một số rất nhiều trường hợp trong hồ sơ kể về kiếp trước
phần lớn do những trẻ con tường thuật lại. Ngoài ra những người chết bất
ngờ về tai nạn, bị giết, hay những người tự tử chết khi tái sinh thường
nhớ rõ tiền kiếp mình. Bác sĩ Stevenson còn đưa ra vài nhận xét qua kinh
nghiệm nghiên cứu vấn đề nhớ lại Tiền kiếp như sau: “Những người có
trí nhớ tốt, những người quá ham sống mà phải lìa đời, những người có quá
nhiều hoài bảo, nhiều việc cần làm nhưng bị dở dang vì chết bất ngờ, có
người chết khi con còn nhỏ dại, mới cưới vợ hay mới lấy chồng thì bị chết
tức tưởi vân vân khi tái sinh thường nhớ rõ tiền kiếp mình”. Về vấn
đề nhớ nhiều hay nhớ ìt hoặc không còn nhớ chút gì về tiền kiếp thì bác sĩ
Stevenson cũng dựa vào xác xuất thống kê qua các hồ sơ ông nghiên cứu để
phác họa một sơ đồ về khả năng nhớ lại tiền kiếp như sau:
-
Từ 2 tới 5 tuổi, trẻ nhớ rõ tiền kiếp hơn cả.
-
Từ 6 tuổi tới 12 tuổi, sự nhớ về kiếp nước thường không liên tục.
-
Từ 20 tuổi trở lên sự nhớ lại tiền kiếp mù mờ rồi không còn nhớ
nữa.
Một số nhà nghiên cứu vấn đề Tiền kiếp còn cho biết
rằng: Từ 20 tuổi trở về sau đôi khi bất chợt nhớ lại kiếp trước qua một số
hình ảnh, âm thanh, màu sắc hay câu chuyện nghe thấy hoặc đọc qua... Ví dụ
có người tới một nơi mà họ tự nhiên ngờ ngợ rằng: “Hình như nơi đây mình đã có lần sinh sống hay
đặt chân đến rồi”. Sự kiện này thường xảy ra ở nhiều người đó là sự
khơi đậy tiền kiếp qua hình ảnh nơi chốn. Cũng có khi sự khơi dậy chỉ phát
sinh qua giấc mộng mà thôi như: mơ thấy bị rượt đuổi, đi trể giờ, bị ngạt
thở hay đói khát, thấy nước mênh mông hoặc tới một vùng âm u rừng rậm. Các
nhà tâm sinh lý cho rằng đó là do có vấn đề liên quan bệnh tim mạch. Nhưng
đối với nhà nghiên cứu về luân hồi thì đó là một trong những sự cố đã xảy
ra trong tiền kiếp mà người ấy đã nhớ lại qua giấc mộng chớ không qua trí
nhớ bình thường.
Trong cuốn: Bạn tin có tái sánh của Đại Đức K.Sri Dhammananda - Minh Tuệ dịch
thuật - nhà xuất bản Hoa Sen -sàigòn 1974) Đại đức K.Sri Dhammananda còn
cho biết những hạng người với những tình huống nào khiến cho sự nhớ về
tiền kiếp khó khăn. Dưới đây là một đoạn giải thích vấn đề này như sau
(xin được trích dẫn nguyên văn):
Phần đông loài người không hề
nhớ rõ những gì trong ấu thời của mình và cũng chẳng biết đến ngày chào
đời nữa. Người ta cho rằng, đối với những hạng chúng sinh dưới đây khó có
thể nhớ lại tiền kiếp mình, nếu và khi người ấy được sanh lên làm người:
1 Mà
người ấy chết yểu.
2 Mà
người ấy chết già.
3 Mà
người ấý bị nghiện nặng về thuốc hay rượu.
4 Mà mẹ
người ấy, trong thời kỳ thai nghén, hay ốm đau hoặc phải lao động
vất vả, hoặc thường bất cẩn hay đần độn trong khi mang thai.
5 Mà
người ấy khi còn thai nhi đã bị bấn loạn và kinh dị mất cả sự ý thức về
tiền kiếp của mình.
Bác sĩ
Ian Stevenson đã nghiên cứu hàng ngàn trường hợp liên hệ tới vấn đề nhớ
lại kiếp trước. Bác sĩ phân tích trong 300 trường hợp mà ông đã tiếp xúc
trực tiếp với chính các nhân chứng. Sau khi phân tích đầy đủ các mặt, bác
sĩ đã đi đến một nhận định sơ khởi như sau:
Khi đứa
bé chào đời, trí óc nó trong cuộc đời mới đặt chân vào như một tờ giấy
trắng. Vì thế quá khứ của nó thì gần gũi với nó hơn là hiện tại. Do đó
nó dễ dàng nhớ về quá khứ. Càng ngày đứa bé càng lớn lên dĩ nhiên nó tiếp
xúc nhiều hơn với môi trường, cuộc sống và những người chung quanh. Thế là
những hình ảnh của quá khứ hay kiếp trước của nó bị các hình ảnh thực tại
chồng chất dần lên làm cho hình ảnh có trước bị mờ dần đi. Đó là chưa nói
tới ảnh hưởng của những sự dạy dổ của cha mẹ, trường đời, tập quán. Tuy
nhiên ký ức cũ vẫn dễ dàng khơi động lại khi bất ngờ đứa bé bắt gặp hình
ảnh, âm thanh, tình huống chung quanh xảy ra trường hợp với những gì đã
xảy ra trong kiếp trước của nó.
Theo Bác
sĩ Stevenson thì hình ảnh quá khứ hay tiền kiếp phai mờ dần khi tuổi đời
mỗi người tăng lên là do môi trường sống, cuộc sống, hoàn cảnh trong đời
hiện tại xâm chiếm tâm trí làm cho hình ảnh xa xưa bị dồn ép vào tận cùng
sâu thẳm của ký ức...
Cũng
theo bác sĩ Stevenson thì dù chưa tìm ra cội nguồn của sự quên về kiếp
trước, nhưng dù sao thì sự quên quá khứ hay tiền kiếp cũng có cái hữu ích
của nó, vì giúp mỗi con người yên tâm với cuộc sống mới cuộc đời mới. Nhớ
lại đời trước hay kiếp nước cho thêm ngậm ngùi chớ chẳng ích gì. Nếu nhớ
lại kẻ đã hãm hại mình kiếp trước thì càng làm cho căm giận buồn khổ mà
thôi chớ có lợi gì đâu. Trãi qua bao kiếp đời là bao cuộc xáo trộn đảo
điên diễn ra. Trong cuốn Luân Hồi của soạn giả Chánh trí Võ Văn Ðạt (Nhà
xuất bản Thế giới - USA 1995) có viết như sau: “..nêú không quên đi quá
khứ làm sao đóng trọn được vai trò để giải quyết cho xong những mắc míu ân
đền oán trả vốn đã ràng buộc với nhau từ trong một quá khứ nào đó...”
Tuy nhiên nếu nhớ được hay biết được tiền kiếp thì
những gì xảy ra từ tiền kiếp sẽ là những bài học kinh nghiệm để kiếp sống
này và kiếp kế tiếp được tốt lành hơn vì quả thật luân hồi là một chuổi
tiến hóa tiếp diễn.
NHỮNG DẤU TÍCH
TÁI SINH XUẤT HIỆN TRÊN CƠ THỂ
Sự kiện
Tái sinh Luân hồi đã được nhắc tới từ lâu. Tuy nhiên ngày nay vẫn có
người còn nghi ngờ cho rằng đó là vấn đề viễn vông mơ hồ không thực tế. Lý do là khó nhận biết được hiện tượng tái sinh luân hồi.
Trên thế giới, thỉnh thoảng mới xuất hiện hiện tượng tái sinh này với khá
nhiều chi tiết chứng minh rõ ràng, nhưng số người chứng kiến lài cục bộ ở
một nơi xa xôi có khi rất hẻo lánh, nhà báo chí lại hiếm hoi nên thông tin
không phổ biến rộng rãi.
Ngày nay
nhiều nhà nghiên cứu hiện tượng tái sinh phần lớn lại là người Âu Mỹ trong
đó có nhiều bác sĩ như bác sĩ Mills, bác sĩ Melvin Morse, bác sĩ Stevenson
... Chính những nhà nghiên cứu này đã lưu ýđến những chứng tích từ những
người trãi qua hiện tượng tái sinh để làm bằng chứng. Đó chính là những
dấu tích hiển hiện nên cơ thể mà danh từ Y khoa gọi là dấu bẩm sinh -
nghĩa là những đấu tích xuất hiện ngay khi đứa bé chào đời hay nói rõ hơn
là có ngay từ bào thai. Đối với hiện tượng tái sinh luân hồi thì đây là
bằng chứng cho sự kiện này. Nên được gọi là những dấu tích luân hồi.
Từ ngàn xưa người ta đã
trông thấy thỉnh thoảng có những trẻ mới chào đời đã mang những dị tật bẩm
sinh, cơ thể có những dị dạng hay
đôi khi có những vết chàm, vết bớt trên da. Nhiều người cho rằng
những dấu tích ấy là dấu ấn của thời quá vãng hay nói cách khác là những
di tích từ kiếp trước của đứa bé còn sót lại. Cũng có người cho đứa bé
sinh ra có dị tật là bằng chứng trước kia hay kiếp trước nó phạm tội nên
nay bị Trời phạt vân vân.
Đối với Y khoa thì cho đến nay, quả thật
chưa có giải đáp thỏa đáng về sự xuất hiện của các dấu tích nhất là vết
chàm (gọi là Birthmark hay còn được gọi là Nevus) là dấu màu sắc xuất hiện
trên da hài nhi. Y khoa còn gọi là Angle Bite (Vết cắn của Thiên Thần).
Vết bớt có khi màu chàm, có khi màu đỏ rượu chát (Port-wine marks) có khi
đỏ tươi như trái dâu tây (gọi là Strawbeny marks). Một số giải thích từ
khoa học về dấu vết vừa kể như do từ cơ thể mẹ ảnh hưởng lên thai nhi vẫn
chưa có bằng chứng rõ ràng.
Đối với giáo sư bác sĩ
lan Stevenson, Giáo sư Tiến sĩ Gina Cerminara, bác sĩ Melvin Morse, giáo
sư Rabbi Yonassan Gershom, nhà nghiên cứu hiện tượng tái sanh John Van
Auken vân vân là những người nghiên cứu từng chi tiết về các trường hợp
gọi là tái sinh, luân hồi thì lại cho rằng những dấu tích xuất hiện trên
cơ thể hài nhi mới chào đời là bằng chứng về tái sinh và còn là chứng tích
của những gì đã xảy ra từ kiếp trước của đứa bé ấy.
Giáo sư Bác sĩ Stevenson đã nghiên cứu
10.623 trường hợp về hiện tượng tái sinh luân hồi và đã chú ý tới các dấu
vết bẩm sinh trên cơ thể. Bác sĩ Stevenson đã thu thập được rất nhiều dữ
kiện do một số lớn người có dấu vết bẩm sinh nhớ lại tiền kiếp của họ. Các tư liệu sưu tập về hình ảnh các dấu vết bẩm sinh cũng đã được bác sĩ
Mil1s sưu tầm và lưu trữ cùng với các dữ kiện liên quan. Đây cũng là
những hồ sơ quan trọng hổ trợ nhiều mặt cho những nhà nghiên cứu như giáo
sư bác sĩ Stevenson.
Trên thế giới đã có biết bao
hài nhi khi lọt lòng mẹ có những khuyết tật, những dấu tích lạ xuất hiện
trên cơ thể nhưng hiếm khi được giới y khoa quan tâm. Vì thế trải qua một
thời gian dài, nhiều sự kiên liên hệ
tới vấn đề này không được ghi chú cẩn thận
hoặc lưu lại trong các hồ sơ y học được nhiều. Từ thập niên 60 tới nay,
vấn đề những dấu vết bẩm sinh trên cơ thể hài nhi đã được các y bác sĩ
quan tâm vì giúp mang lại những yếu tố quan trọng về lịch sử bệnh lý giúp
truy ra những tiền đề cho sức khoẻ, bệnh tật của hài nhi trong tương lai. Tuy nhiên, điều hấp dẫn nhất cho vấn đề lục lại hồ sơ các dấu vết bẩm sinh
trên cơ thể là vấn đề chứng minh cho thuyết tái sinh luân hồi từ mỗi con
người.
Bác sĩ A.J Davis tuy không nghiên cứu các
hiện tượng tái sinh như bác sĩ Stevenson nhưng ông cũng rất lưu tâm tới
các dấu vết bẩn sinh trên cơ thể hài nhi nên đã cho rằng:
"có rất nhiều trường hợp bị bỏ qua không khích lệ dẫn dụ
cho các đứa bé ấy nói về những gì chúng có thể nhớ lại trước đó, nếu không
muốn nói là tiền kiếp của chúng."
Trường hợp điển
hình nhất mà báo India Today của ấn Độ
đăng tải làm xôn xao dư luận một thời: cháu bé Titu lúc sinh ra có cái bớt
nổi cộm màu đen nơi thái dương. Khi bé tròn 5 tuổi tự nhiên kể lại rằng
xưa kia bé là một chủ tiệm bán máy thu thanh tại phố Agra và bị cướp bắn
vào đầu. Bé chỉ rõ nơi bé sinh sống lúc đó cũng như nhận ra bà chủ tiệm
là vợ và chỉ cho nhân viên điều tra nơi chôn cất mình. Điều kỳ lạ là khi
chánh quyền quyết định khai quật ngôi mộ để điều tra thì thấy xác chết mà
Titu nhận là xác mình lại có dấu vết đạn bắn ở thái dương, trùng hợp với
dấu vết bẩm sinh trên trán bé Titu. Sự kiện này đã được các giáo sư
Eminde ở Đại học Virginia Hoa Kỳ và Tiến sĩ Narender Chadha tại Đại học
Delhi tới tận nơi theo dõi từ đầu tới cuối.
Bác sĩ Stevenson có ghi đầy đủ sự kiện
cháu bé Winnie Easland bị xe cán chết năm 1961. Ba năm sau, mẹ của cô bé
lại sinh một bé gái, đứa bé này có một dấu vết như vết mổ ở bên hông.
Năm bé lên 6, tự nhiên nó nói với người mẹ rằng nó chính là Winnie. Nó kể là đã bị xe cán chết như thế nào, vào bệnh viện mổ ra sao khiến cả
nhà vô cùng kinh ngạc. Khi thấy tấm ảnh Winnie trên tường bé liền bảo:
"con đây này!". Bác sĩ Stevenson đã quan sát và theo dõi sự việc và đã ghi
chú mọi tình huống vào trong tập hồ sơ của ông. Theo bác sĩ Stevenson thì
dấu vết bên hông của bé là dấu tích vết mổ của Winnie Easland.
Còn vô số hồ sơ ghi lại những sự kiện có
thật xảy ra về những đứa bé khi sinh ra đời có dấu vết bẩm sinh đã nhớ lại
kiếp trước mình và nhất là những sự cố xảy ra như bị đâm, bị bắn, bị chém
ở đâu trên cơ thể luôn luôn tương hợp với đấu vết xuất hiện trên cơ thể
khi tái sinh.
Bác sĩ Stevenson đã lưu ý tới 210 trường
hợp tương hợp và rất chính xác trong các hồ sơ lưu trữ của mình. Nhiều
tài liệu mô tả bác sĩ đều kèm theo hình ảnh để làm bằng chứng như trường
hợp một đứa bé TháiLan khi mới chào đời trên ót của nó có dấu vết bẩm sinh
rất lạ. Khi lớn lên nó cho biết rằng: "Kiếp trước con đã bị một rưỡi dao
bay trúng vào sau đầu”.
Bác sĩ Stevenson cũng chụp ảnh dấu vết bẩm
sinh trên thái dương một đứa bé người Thái. Chính đứa bé này đã nhớ lại
tiền kiếp của nó và kể rằng: " Kiếp trước con đã bị bọn cướp xông vô nhà
lấy tiền bạccủa cải và bắn vào thái dương.
Phần lớn những người còn nhỏ
có thể lại tiền kiếp và mô tả những
gì xảy ra cho họ (bị bắn, bị chém, bị đâm chém, bị đáng đập, bằng búa...
như trường hợp một bé gái người Miến Điện (Burma) lúc sinh ra bị cụt phần
dưới của cẳng chân. Ngoài ra có dấu vết như rách nát nứt vở phần da thịt
trên đầugối cô gái này kể rằng: kiếp trước khi cô đang là một người con
gái trẻ trung thì qua đời vì không may bị xe lửa cán gảy lìa chân phải.
Bác sĩ Stevenson đã có dịp tiếp xúc với
một cô gái Miến Điện khi sinh ra bàn tay mặt bị cụt cả 5 ngón. Cô gái này
đã nhớ rõ tiền kiếp mình: "lúc ấy cháu là một người đàn ông đã gây đau khổ
nhiều cho vợ khiến người vợ phải tự vẫn. Mẹ cô gái căm thù nên đã thuê
một kẻ giết mướn đâm chết người con rễ và chặt đứt lìa 5 ngón tay của kẻ
bị giết. Hình ảnh 5 ngón tay bị đứt ra xem như là dấu tích luân hồi. Khi
hỏi cảm tưởng thì cô gái cho biết là cô không căm giận người mẹ vợ ấy,
trái lại cô muốn sống một cuộc đời hiền lương trọn kiếp này để chuộc những
tội lỗi đã gây ra từ kiếp trước.
Nhiều đứa bé khi sinh ra cơ
thể dị dạng. Sự dị dạng này có nhiều cấp độ như
ngón tay, ngón chân bị thiếu hoặc thừa,
sứt môi, cơ thể bất cân xứng, cấp độ cao hơn nữa là chân phồng to như chân
voi, cụt chân tay, lỗ tai xoắn nhỏ lại, gương mặt thiếu cằm và cuối cùng
là những kiểu dị dạng như mặt mày, thân mình có lông như loài thú, trán có
sừng, có gạc, gương mặt kinh dị như mặt voi, tay chân thì có tới 3, 4 chân
hay tay, người có nhiều vú vân vân...
Trên thế giới nhiều người đã
có sự nhận xét giống nhau về một vấn đề: đó là sự tương quan về nhân dáng
diện mạo giữa chồng và vợ. Phần
lớn một cặp vợ chồng thường có những nét giống nhau về gương mặt và đôi
khi cả lánh tình. Có nhiều vợ chồng thoạt mới nhìn qua ai cũng tưởng đó
là hai anh em. Nếu xét về mặt tánh tình thì có thể bảo rằng vì sống gần
nhau họ sẽ chịu ảnh hưởng về cá tính của nhau. Nhưng trên thế giới, thật
sự những người có tánh tình tương tự nhau mới hợp được nhau, mới khiến họ
tìm đến nhau và dễ tiến tới hôn nhân (đồng thanh tương ứng, đồng chí tương
cầu là vậy). Nếu xét về diện mạo thì khó mà giải thích theo lập luận
nào. Vì quả thật vợ chồng không đồng chung huyết thống, mỗi người thuộc
một dòng dõi riêng. Vậy mà như đã trình bày ở trên, có lắm cặp vợ chồng
có gương mặt tương tự nhau và ai trong chúng ta cũng có lần thấy rõ điều
đó. Nguyên nhân nào đã khiến những người này liên hệ, kết hợp với nhau để
thành vợ chồng? Theo các nhà tâm lý học thì một trong những nguyên nhân
đáng kể là sự "gặp lại hình ảnh của chính mình". Những cặp vợ chồng ấy
trước đây sống riêng lẽ, khi mới gặp nhau, quen biết nhau, họ đối mặt nhau
và mỗi người tự cảm nhận một hình ảnh thân thuộc lạ lùng từ người kia mà
họ chưa định rõ là gì. Cái hình ảnh thân thuộc ấy chính là những nét
giống họ về gương mặt mà thường ngày họ bắt gặp trong lúc soi gương... Tuy
nhiên, điều cần lưu ý là không phải cặp vợ chồng nào cũng đều có gương mặt
tương tợ nhau mà trái lại có những cặp vợ chồng lại khác nhau một trời một
vực về diện mạo và cả tánh tình. Những nhà nghiên cứu về các hiện tượng
siêu linh đã đưa vào một vài thuyết tôn giáo,
trong đó có thuyết luân hồi để giải thích và làm sáng tỏ phần nào vấn đề
này.
Hôn nhân có nguồn gốc từ tiền kiếp. Ở
kiếp này khi hai người nam nữ cùng nhau đi đến hôn nhân vợ chồng, quyết
định sống bên nhau trọn đời thì thật ra điều đó không có nghĩa là điều mới
được quyết định. theo thuyết luân hồi, chính nhân duyên từ kiếp trước đã
là quyết định thế nào họ cũng gặp nhau vì nhân duyên (nhân duyên được hiểu
đơn giản là Nhân cái này mà sinh ra cái kia (quả) như nhân có hạt giống mà
sinh ra quả. Nhân duyên có 12 thứ: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục
nhập, xúc, thọ, thủ, hữu, sinh, lão và tử - xem ý nghĩa 12 nhân duyên -
Duyên giữa trai gái để trở thành vợ chồng)
Nguyễn Du có câu thơ: Có nhân duyên, có vợ chồng).
Chính sợi dây duyên nghiệp sẽ nối kết trói
buộc hai người lại với nhau. Khi hai người nam nữ gặp nhau, cảm tình với
nhau, mong ước được cùng nhau sống hạnh phúc dưới một mái nhà, họ vẫn
tưởng họ là hai người xa lạ không quen biết nhau và chỉ gặp nhau qua sự
giới thiệu hoặc sự tình cờ nhưng thật sự họ ÐÃ QUEN BIẾT NHAU TỪ KIẾP
TRƯỚC, hay nói khác đi là họ đã có duyên nghiệp với nhau từ kiếp trước. Duyên nghiệp gồm có nghiệp và duyên theo nhau để tạo nên quả báo. Có thể
trước đây người này đã gây đau khổ cho người kia (về khía cạnh nào đó) và
trái lại. Hoặc trước đây hai người vẫn còn mối liên hệ ràng buộc nào đó
chưa dứt cần phải có thêm thời gian nữa mới mong trả hết cho nhau.v.v...
Vì thế mà họ phải gặp lại nhau ở kiếp kế tiếp. Có thể trước đó họ là anh
em trong một nhà, hay cùng một giòng giõi, thân thuộc. Do đó không lạ gì
khi có những cặp vợ chồng có gương mặt thường giống nhau như hai anh em.
Ngoài ra tùy theo duyên nghiệp mà cặp vợ chồng sống với nhau thuận hòa
hạnh phúc hay lại xung đột, cải vả, bất hòa khổ đau, chán chường để rồi đi
đến ly hôn, ly dị, đôi khi còn coi nhau như kẻ thù. Có những cặp vợ chồng
mới cưới nhau một thời gian ngắn đã vội lìa nhau. Thời gian chung sống
với nhau ấy tùy thuộc vào nghiệp quả (Giống nghiệp báo chỉ sự báo ứng. của
những gì mà trước đó người này đã tác động lên người kia nhiều hay ít, dữ
hay lành...)
Nhiều người ở tiền kiếp đã có nhiều nghiệp
duyên với người khác và nếu chưa trả hết thì đến kiếp này họ phải trả. Vì
thế có nhiều người đã phải trải qua nhiều cuộc hôn nhân mà không được
hưởng hạnh phúc của một vợ một chồng. Theo những nhà nghiên cứu và thực
hành phương pháp tìm về quá khứ hay tiền kiếp của con người như nhà vật lý
học Pháp P.Drouot, Morris Nettherton, Cayce, N.Kchan... thì có nhiều người
trong những thời gian của những tiền kiếp khác nhau đã là vợ chồng của
nhau nên bị cái hấp lực mạnh của nhau tác động vào vì thế đến kiếp
này họ vẫn còn liên hệ ràng buộc với nhau theo kiểu tự nguyện. Dĩ nhiên
phần lớn những trường hợp này họ dễ hòa thuận với nhau hơn là xung khắc vì
họ đã biết nhau nhiều hơn qua nhiều kiếp và chắc chắn họ sẽ dễ đạt thành
công trên đường đời. Có nhiều trường hợp ở tiền kiếp người này vì có
nghiệp duyên với người kia quá nặng nên đến kiếp này họ tự nhiên bị ám ảnh
bởi một sự hối thúc tìm gặp người kia và đôi khi người kia chẳng biết.
Ðối với trường hợp cha mẹ anh em cũng vậy,
đã có những sự liên hệ nhân quả nào đó giữa cha, mẹ, anh em,con cái với
nhau ở tiền kiếp. Cha mẹ dĩ nhiên có liên quan với con cái không phải xét
về mặt di truyền và tình cảm ruột thịt mà xét về mặt luân hồi. Con cái và
cha mẹ có những sợi dây liên hệ ràng buộc nhau. có thể kiếp trước người
cha, người mẹ, những người con có nghiệp căn nào đó và kiếp này gặp lại
nhau để tiếp tục hoàn tất những gì theo nghiệp quả báo ứng. Chuyện cái cân
thủy ngân là câu chuyện giả tưởng trong dân gian một phần nào đã nói lên
hình thức báo ứng của cha mẹ và con cái. Ngoài ra cũng phải hiểu thêm
rằng để có cơ hội gần gũi sâu xa hơn, những đứa con đã mượn chỗ đầu thai ở
cõi trần của kiếp này qua phương tiện là cha mẹ. Sự liên hệ của người con
không phải luôn cả với cha và mẹ mà có thể người con chỉ có sự liên hệ
nghiệp quả ràng buộc với người mẹ mà không phải người cha hoặc có khi trái
lại. Vì thế thường có trường hợp có sự bất hợp ý hay dửng dưng, tẻ nhạt
hoặc thương yêu, gắn bó mặt thiết giữa mẹ con hay cha con tùy theo duyên
nghiệp phát sinh từ tiền kiếp.Trong dân gian thường cho rằng: cha mẹ, con
cái, vợ chồng thật ra đều là oan trái nghiệp quả của nhau cả. Những kẻ
cùng sống chung một nhà hay tranh cãi, xung khắc, bất hòa chán ghét nhau
cũng đều có nguyên nhân từ tiền kiếp, có thể họ đã gây đau khổ cho nhau
nên mới phải trả quả đã gây ra.
Thuyết luân hồi
nhân quả còn cho rằng "có thể nhìn cuộc
sống của con cái và cha mẹ với nhau trong một gia đình, cách đối xử, nuôi
nấng, chăm sóc, tình phụ tử, mẫu tử nồng nàn hay tẻ lạnh của họ mà đoán
được sự liên hệ ràng buộc của những con người ấy với nhau ở tiền kiếp”. Ở
kiếp trước có thể họ là anh em, là chị em, là cha con là mẹ con, là bạn bè
với nhau và đã tạo ra những nghiệp quả nào đó nên kiếp này vẫn phải còn
liên hệ ràng buộc để hoàn tất những gì chưa giải quyết hết. Riêng về anh,
chị em trong gia đình cũng như thương yêu, ganh ghét, hay đôi khi xung
khắc căm thù nhau đều là nhũng dấu vết biểu hiện của luân hồi. Có thể ở
kiếp trước họ là những người khác nhau về chí hướng, chủng tộc hoặc có sự
tranh chấp đố kỵ nhau, hay cũng có thể ở kiếp trước họ là hai vợ chồng
hoặc là hai người bạn thân v.v...
Câu chuyện có thật sau đây
xảy ra tại Hoa Kỳ và đã được báo
chí ở Hoa Kỳ đăng tải vào năm 1991. Bà Gilllian sống ở tiểu bang
Colorado, năm 1986 bà sinh hạ được một cháu bé kháu khỉnh đặt tên là
Mandy. Nhưng không may cho bà Gillian, cháu bé chỉ sống được bốn tháng
thì qua đời. Bà Gillian vô cùng đau khổ, bà khóc than vật vã bên mộ
huyệt, bà đã té xỉu và khi tỉnh dậy lại muốn nhào xuống huyệt theo con...
Một thời gian sau, bà Gillian có chuyện bất hòa với chồng, họ li dị nhau
và sau đó bà Gillian có thai với người chồng thứ hai. Lần này bà cũng sinh
hạ được một cháu bé kháu khỉnh và bà lại đặt lên là Mandy để nhớ lại đứa
con gái bất hạnh của mình trước đây.
Năm Mandy lên 4 tuổi, bà Gillian đưa cháu
đến nghĩa trang để thăm mộ Mandy, chị gái cháu bé. Khi vừa đến gần mộ
chí, bé Mandy bỗng nhiên nói to lên có vẻ thích thú: " Má, Má? đây là nơi
mà ngày xưa má đã đặt con xuống dưới cái hố sâu trong đất. Lúc đó má khóc
nhiều lắm, và má đã suýt rơi xuống cái hố đất ấy rồi, má có còn nhớ không
?..."
Bà Giiiian vừa ngạc
nhiên vừa kinh hãi. Bà không ngờ con bà mới bốn tuổi mà đã nói lên câu nói
lạ lùng và trôi chảy như người lớn. Điều kỳ dị là bà chưa bao giờ kể
chuyện bé Mandy, con gái đầu lòng của bà chết ra sao và an táng thế nào
cho bé Mandy, đứa con thứ hai của bà nghe cả.
Vậy phải chăng bé Mandy con bà hiện đang
sống với bà chính là bé Mandy ngày trước và đã lìa đời ? phải chăng bé
Mandy, đứa con thứ hai của bà là hậu thân của đứa con gái thứ nhất của bà?
từ đó bà Gillian cảm thấy sung sướng yêu đời bà thường ôm Mandy vào lòng
và nói: “tôi cảm thấy có được tất cả và con tôi là tất cả..." Câu chuyện
có thật ấy là một chứng cớ điển hình về những gì thuộc về tiền kiếp và hậu
kiếp. Thời gian chuyển đổi từ kiếp này qua kiếp khác đôi khi rất xa hay
đôi khi rất gần. Ngoài ra người thân thuộc trong một gia đình có khi lìa
đời rồi vẫn có thể quay trở lại, đầu thai làm con hay cháu trong gia đình.
Trong vòng mấy mươi năm qua,
vấn đề con trẻ nhớ lại những gì gọi là tiền kiếp đã được xem như là vấn đề
có cơ sở khoa học chớ không còn là
chuyện mê tín huyền hoặc nữa. Tuy nhiên có lẽ vấn đề khó giải thích và
khó chứng minh nên chưa có ai, nhất là giới khoa học đứng ra nghiên cứu và
cổ xướng. Mãi về sau mới có một vài nhân vật nổi danh như bác sĩ Melvin
Morse, nữ giáo sư Diane Komp và đáng lưu ý hơn cả là giáo sư, bác sĩ lan
Stevenson thuộc đại học Virginia (Hoa kỳ), là người đã bỏ ra một thời gian
dài để nghiên cứu về các trường hợp thuộc hiện tượng luân hồi tái sinh,
(Reincarnation) từ các con trẻ.
Có hơn 2500 trẻ con đã nhớ lại những gì
của thời quá vãng, cái thời mà với lứa tuổi hiện tại của chúng (có trẻ chỉ
mới 4, 5 tuổi) người ta không thể cho là ở trước đó một vài năm mà rất xa,
có nghĩa rằng phải dùng tới chữ Kiếp Trước của chúng. Hơn nữa những gì mà
các em bé này nhớ, kể lại, mô tả lại hoàn toàn không ăn nhập gì với hoàn
cảnh và thời gian mà chúng đang sống ở hiện tại. Theo bác sĩ Stevenson thì
các em này thường mở đầu bằng hai chữ “lúc đó”,
hồi đó".
Đặc biệt là bác sĩ Stevenson đã luôn luôn
để ý cân nhắc, gạt bỏ những gì có tính cách không đúng đắn với sự mô tả
hoặc có sự liên hệ chỉ bảo của người lớn.
Theo bác sĩ
Stevenson thì nghiên cứu ở con trẻ có được
lợi điểm hơn ở người lớn vì chúng có nhiều dữ kiện còn tồn tại trong lúc
đang sống và thường dễ tìm kiếm, kiểm tra được những sự việc hay gia đình
nào đó có liên hệ với vấn đề. Thường thì trong các báo cáo hoặc khi tiếp
xúc với gia đình có hiện tượng nhớ lại tiền kiếp mà cháu bé là vai chính,
bác sĩ Stevenson ghi nhận rằng: thường thì cháu bé nói với người mẹ ruột
rằng: "Mẹ không phải là mẹ của con. Con muốn đến nhà mẹ ruột của con...".
Và sau sự kinh ngạc của gia đình vấn đề cứ tiếp diễn mãi để rồi gia đình
người mẹ có đứa con thường phát biểu khó hiểu ấy phải tìm cho ra sự thật
và sự thật lại rất phù hợp với những gì mà cháu bé đã mô tả. Có lần bác
sĩ Stevenson nghe một người đàn bà kể chuyện về người con của bà ta mới
lên năm tuổi. Một hôm bà chuẩn bị đi chợ (chợ đi rất xa) thì cháu bé nói
một cách tự nhiên: "Ồ! Mẹ phải lấy xe đi chớ! Con có xe mà. Mẹ không cần
phải đi bộ tới chợ xa xôi. Chỗ con ở có xe, tài xế sẽ chở mẹ tới chợ...".
Cũng theo bác. sĩ Stevenson thì đôi khi
những con trẻ này lại có những thái độ, cử chỉ, lời nói hay sự lo lắng rất
đặc biệt. Sự kiện này có liên quan đến người đã được nhắc đến ở quá khứ
hay tiền kiếp. Người ấy không ai khác hơn là cháu bé hiện tại. Nếu người
ấy đã chết vì tai nạn sông nước hay những gì liên quan tới nước cháu bé
này sẽ rất sợ nước. Nếu người đó bị hắn chết thì cháu bé rất sợ tiếng súng
nổ hay trông thấy súng là hoảng sợ. Nếu người ấy trước đây chết vì bị rắn
cắn thì hiện tại cháu bé lại sợ rắn vì bị ám ảnh về những gì đầy ghê sợ từ
tiền kiếp do rắn gây
ra. Đôi khi đứa bé lại rất ham thích một loại thức ăn đặc biệt nào đó,
hoặc màu sắc nào đó hay loại quần áo nào đó. Một trường hợp điển hình đã
xảy ra tại Miến Điện. Một em bé đã kể lại tiền kiếp của mình. Lúc đó chỉ
là một quân nhân Nhật Bản và đã bị giết trong trận thế chiến thứ hai. Điều kỳ lạ là em rất thích uống trà đậm và ăn thức ăn có nhiều cá, rau và
rong biển, đấy là những thức uống và thức ăn thường ngày của người Nhật
mặc dầu lúc này em là người Miến Điện, mà người Miến thì
lại thích nước trà loãng. Theo sự nghiên
cứu và phân tích tỉ mỉ của bác sĩ Stevenson thì có nhiều bé gái nhớ lại
tiền kiếp của mình là trai và cũng có trường hợp có nhiều bé trai nhớ lại
tiền kiếp của mình là gái và cũng từ đó mà chúng thích ăn mặt cũng như có
cử chỉ dáng điệu phù hợp với phái tính trước đó. Nhiều người đã hỏi bác
sĩ Stevenson rằng: trường hợp những người thuộc về Homo-Sexuality (thuộc
tính dục đồng giới tính, đồng tình luyến ái) có phải là do từ bản thân
tiền kiếp có giới tính khác biệt hay không thì bác sĩ Stevenson đã trả lời
rằng: "tôi nghĩ điều đó có thể có và cũng có một số biệt lệ, như vấn đề
khác biệt nhau về phương diện sinh vật học..."
Trở lại vấn đề con trẻ
có khả năng nhớ lại tiền kiếp thì
bác sĩ Stcvenson đã nêu ra trường hợp các trẻ con khi có khả năng ấy,
thường hay mô tả rõ ràng chi tiết về cái chết của chính mình ở kiếp
trước. Sự kiện này thường xảy ra nhiều và có từ 60đến 70 phần trăm trường
hợp như vậy. Đặc biệt nếu cái chết xảy ra quá khủng khiếp hay do tự sát
thì lại càng dễ đem lại sự hồi tưởng về cái chết và cách chết ở kiếp sau
nơi đứa trẻ hơn. Khi đứa trẻ tái sinh thì lần này những ký ức khổ đau
rùng rợn ấy sẽ làm nhớ lại và thôi thúc chúng tìm đến cội nguồn của kiếp
trước và dường như muốn thấy lại những gì mà chúng đã làm hay đã trải
qua."
Khi nghiên cứu các hiện tượng luân hồi tái
sinh qua con trẻ, các nhà nghiên cứu còn lưu ý đến một hiện tượng đặc biệt
có liên quan đến vấn đề trên, đó là những dấu vết bẩm sinh. Người phát
hiện và quan tâm nhất chính là tiến sĩ lan Stevenson. Theo ông, các dấu
vết bẩm sinh có thể xem như là những bằng chứng về luân hồi Và ông đã thu
thập được gần 11.000 trường hợp.
Trong khoảng 11.000 trường hợp về dấu vết
bẩm sinh có khoảng 5OO trường hợp đặc biệt nhất có thể dùng để kiểm
nghiệm, xác định qua những dấu vết bẩm sinh trên cơ thề. Nhờ những dấu vết
đó mà việc xác định những gì mà đứa bé đã mô tả sẽ rất thuận lợi. Bác sĩ
Duncan Mac Dougal, tiến sĩ Robert Crookall, Geddes Mac Gregor, giáo sư
Carol Zaleski, bác sĩ Raymond Moody, nữ giáo sư bác sĩ Diane Komp, tiến sĩ
vật lý Patrick Drouot, bác sĩ Edith Fiore, tiến sĩ Robert Almeder, bác sĩ
George Ritchie, bác sĩ Donald G. Francy... đều là những người quan tâm đến
dấu vết luân hồi. Từ lâu, không riêng gì các nhà khoa học, những nhà
nghiên cứu có tính cách tài tử, nghiệp dư và ngay cả những người bình dân
cũng đều có một lý luận khá giống nhau, đó là: Nếu luân hồi tái sinh có
thật thì ít ra trên những chặng đường chuyển hoá từ kiếp này đến kiếp khác
cũng sẽ có những gì gọi là bằng chứng, những gì còn rơi rớt lại hay còn
sót lại không nhiều thì ít. Cũng giống như trong lịch trình tiến hoá của
sinh vật nói chung và con người nói riêng, có nhiều dấu tích còn lại trên
cơ thể và nhờ sự kiện ấy mà các nhà sinh vật học, nhất là các nhà Cổ Sinh
Vật học (paleontology) đã suy đoán được những gì đã xảy ra trong quá khứ
xa xăm....
Theo tiến sĩ Stevenson thì dấu tích luân
hồi hay tái sanh là những gì khả dĩ giúp chứng minh sự kiện luân hồi, nhân
quả là có thật hay ít ra cũng là hình ảnh, dấu ấn của một thời quá vãng
nào đó ở con người.
Những dấu tích ấy thể
hiện qua những vết chàm, vết bớt trên da trẻ sơ sinh ngoài vết bớt là
những dấu vết thường đem lại nhiều khám phá lý thú lạ kỳ về hiện tượng tái
sinh, còn có các dấu tích khác đặc biệt hơn như hài nhi có đuôi, có sừng,
có gạc, người có nhiều vú, người có lông phủ đầy cơ thể hay mặt mũi...
Qua các dấu tích nêu trên, con người từ cổ
đại đến nay đã đưa ra nhiều nghi vấn: chắc chắn phải có nguyên nhân nào đó
làm phát sinh những dạng thể kỳ lạ bẩm sinh ấy. Các nhà khoa học bảo rằng
tất cả đều do những xáo trộn trong sự chuyển biến của cơ thể lúc còn là
bào thai, hay do sự lệch lạc vì cấu tạo, thành lập của tế bào và nhiễm
thể. Họ chỉ đưa ra thường thì các nguyên nhân hoặc là do bệnh lý, do cha
hay mẹ, do hiện tượng di truyền, do tác dụng của thuốc men hay do các chất
hoá học nào đó v. v... Tuy nhiên thắc mắc vẫn duy trì rằng do đâu mà cơ
thể người này bị tác động ảnh hưởng, còn người khác lại không ? Đôi khi
cha mẹ vẫn lành lặn, nhiễm thể các tế bào không có lệch lạc nhưng dị tật
bẩm sinh vẫn xuất hiện. Điều đó đã khiến nhiều người nghĩ đến những
nguyên nhân nào đó còn sâu xa và dĩ nhiên trong đó có một số lý luận cho
rằng có thể do kiếp trước...
Bà Alexandra một nhà nghiên cứu về các
hiện tượng huyền bí ở Tây Tạng có lần hỏi vị Sư trưởng của một thiền viện
về vấn đề liên quan đến dấu tích luân hồi thì được vị này trả lời như sau:
"Đôi khi trong sự luân hồi chuyển kiếp vẫn còn có sự liên hệ gần gũi nào
đó rất chặt chẽ, vì thế có nhiều sự kiện ở kiếp này sẽ lưu lại và tiếp nối
ở kiếp kế tiếp bằng hình ảnh, dấu vết không những qua những vật sờ nắm
được mà đôi khi còn bằng dáng dấp, cử chỉ, bệnh tật nhất là bệnh nan y.
Ngoài ra dấu tích luân hồi còn biểu hiện
qua cá tánh, năng khiếu. Cá tánh mỗi người tốt hay xấu cũng do một phần
ảnh hưởng về cuộc sống, về bệnh lý nhưng cũng còn do nguyên nhân sâu xa
hơn là từ tiền kiếp. Tài năng và bệnh lý cũng vậy. Nhiều cháu bé có
những khả năng lạ lùng như làm thơ rất cao siêu, tính toán rất nhanh , hay
giỏi âm nhạc vượt bực đến độ các nhà tâm sinh lý học không thể giải thích
được nguyên nhân. Điều này đã khiến các nhà nghiên cứu hiện tượng siêu
hình nghĩ đến nguyên nhân sâu xa về tài năng mà con trẻ có được ấy là từ ở
kiếp trước chớ không thể nào với tuổi nhỏ mà chúng lại có thể có khả năng
vượt bực về những lãnh vực mà ngay cả người lớn cũng phải mất nhiều năm để
trau dồi học tập, huấn luyện.
Đối với người lớn thì theo tiến sĩ
Stevenson, vấn đề nhớ lại tiền kiếp thường ít hơn con trẻ. Nguyên nhân
về sinh lý học cơ thể thì do trí nhớ được giữ lại trong các phân tử
protein của tế bào não, Tế bào não sẽ tùy theo tuổi tác càng ngày càng có
sự suy thoái hay biến chuyển về thành phần cấu trúc các phân tử, do đó mà
ký ứckhông còn được rõ nét nữa. Tuy nhiên đối với người lớn, có thể khêu
gợi lại ký ức xa xăm ấy bằng nhiều phương cách. Nhưng hiện nay phương
cách hay nhất là dùng phương pháp thôi miền. Người ta nhận thấy rằng
người lớn có tâm tư vững mạnh thì tiềm thức sẽ như nhường bước để tâm trí
hoạt động linh hoạt. Chỉ khi nào tâm trí con người suy yếu đi thì tiềm
thức mới có cơ phát triển trở lại nghĩa là được sống dậy mạnh mẽ mà không
còn tiềm tàng ẩn kín nữa. Như vậy khi một người bị thôi miên thì tâm trí
người bị thôi miên sẽ suy giảm và tiềm thức sẽ được dẫn dụ, sai khiến hoạt
động bằng cách làm lộ rõ những ký ức mấy lâu như bị chôn vùi... Nhờ đó mà
người bị thôi miên dần đần sẽ kể lại những gì đã xảy ra trong thời dĩ vãng
xa xăm của giai đoạn nào đó ở tiền kiếp.
George Fild là một cậu bé Hoa Kỳ. Năm 15
tuổi, Fild bắt đầu có những cảm giác và hình ảnh lạ lùng chợt ẩn chợt hiện
trong trí và luôn luôn cậu tỏ ra áy náy, thắc mắc, băn khoăn về những gì
giống như mình đang rơi vào mộng ảo. Lúc bấy giờ có nhà thôi miên nổi
danh tên là Williams. Ông này yêu cầu được giúp George Fild khơi dậy các
hình ảnh từ tiền kiếp. Qua giấc ngủ thôi miên,
George Fild đã kể lại rất
rành rọt những gì của tiền kiếp mình như sau:
- Lúc bấy giờ tôi là một
người dân vùng Bắc Carolina, tôi là một nhà nông bận rộn đủ thứ việc đồng
áng. Tên tôi lúc đó là Jonathan Powell. cuộc sống thật buồn bã vô vị. Tôi sống lẻ loi cô độc như kẻ lạc vào chốn hoang vu. Tôi nhớ rõ mình sinh
vào năm 1832 tại thị trấn Jefferson và
31 năm sau tức là vào năm 1863 trong cuộc
nội chiến, tôi vào quân ngủ và bị giết chết khi một đám lính nổi loạn tôi
nhớ mãi những nơi tôi đã đi qua và nhất là vùng đồng cỏ ở Bắc Carolina hiu
quạnh.
Nhà thôi miên Williams đã kiểm tra lại các
tài liệu, hồ sơ, giấy tờ ở các thư viện, các văn khố, các vùng liên quan
đến Jonathan Powell và biết được rằng những gì cậu bé mô tả đều đúng cả. Để kiểm chứng lại rõ hơn, nhà thôi miên đã cùng George Fild đến ngay thị
trấn Jefferson tại đây, trước sự hiện diện của nhà Địa phương chí trong
thị trấn, cậu bé George Fild lại được nhà thôi miên đưa vào giấc ngủ thôi
miên lần nữa và lần này cậu còn nêu tên cả những địa danh trong thị trấn
cùng những người có tiếng ở đó đặc biệt, cậu bé còn mô tả quang cảnh và
nhà cửa đường sá của thị trấn rất rõ ràng.
Jimmy là cháu của bà Emma Michell 82 tuổi
sống ở British Columbia. Bà này đã kể lại cho nhà nghiên cứu về sự chết
là Jeffrey Iverson câu chuyện dị kỳ có thật sau đây:
Một hôm, Jimmy đang
ngồi chơi trong nhà thì bỗng nhiên nghe tiếng chuông nhà thờ rung. Bé hỏi
bà rằng: Tại sao không có gì mà tự nhiên chuông nhà thờ đổ thì bà cho
biết: Hôm nay có đám ma của một người địa phương đã qua đời. Bé Jimmy
bỗng đứng dậy nhìn qua cửa sổ và nói:
- Bà biết không? chính người chết ấy đã
thuê người đánh đập con và liệng xác con xuống sông đó? Bà Emma ngạc nhiên
về câu nói của đứa cháu gái, nên hỏi:
- Tại sao con lại thốt lên những lời kỳ dị
ấy? Bé Jimmy ngồi lên ghế rồi nói như phân trần:
- Để con kể cho bà nghe về chuyện một
người cậu, ông cậu này là người đã bị người ta đánh đập dữ dội đến chết và
thân xác ông đã được tìm thấy ở sông Bulkeley. Khi người này bị đánh chết
và bị liệng xuống sông thì lúc đó con chưa ra đời. Nhưng giờ đây con biết
được mọi chuyện là do bởi con chính là người cậu ấy.
Bà Emma nghe Jimmy nói thì vô cùng kinh
ngạc và run sợ vì bà nghĩ là cháu bà bị ma nhập. Hơn nữa, quả thật trong
gia đình bà có người đã bị kẻ lạ mặt nào đó đánh chết liệng xác xuống sông
và lúc đó, đúng như lời cháu bà nói thì Jimmy chưa chào đời.
Đây là một trường hợp tái sinh khá lạ
lùng. Câu chuyện có thật này do bác sĩ Pasricha thuật lại như sau:
Manju Shanna là một cô gái Ấn Độ, sinh ra
và lớn lên tại thành phố của Brindevan (phía Bắc Ấn Độ). Manju thường nhớ
lại quá khứ. Nhưng ở đây, Manju không phải nhớ lại quá khứ của đời mình mà
là những gì đã xảy ra ở kiếp trước Manju kể như sau:
"Tôi cứ nhớ hoài hình ảnh mình bị rơi
xuống giếng nước tại làng Chaumula. Lúc tôi vừa đúng 10 tuổi hồi đó tôi
tên là Krishna chớ không phải là Manju Shamla như bây giờ. Tôi đã tái sinh
trở lại.
Tôi đã gặp chú tôi, người chú của tiền
kiếp tên là Tanji. Tôi nhận ra người chú ấy ngay và đã nói chuyện rất lâu
với chú ấy mặc dầu chú Tanji không nhận ra tôi là cháu của chú trước đây. Khi tôi nhắc đến Krishna thì chú nhớ và tỏ dấu tiếc thương vô cùng. Tuy
không tin chuyện tôi là Krishna tái sinh nhưng chú tôi đã đồng ý để người
mẹ tiền kiếp của tôi đến gặp tôi. Bà ta đến, tôi ngồi bên bà và kể lại
những nổi bất hạnh đã đến trong đời tôi cho bà nghe. Bà xoa đầu tôi và tỏ
vẻ thương yêu tôi nhiều khi nghe tôi nhắc đến tên Krishna. Tôi ngỏ ý muốn
theo bà, người mà tôi khẳng định là mẹ tiền kiếp của tôi. Ý muốn của tôi
được thỏa mãn và tôi đã trải qua 10 năm sống với ba má tiền kiếp tôi. Về
phần ông bà thì sẵn lòng đón tôi về sống chung vì hai người luôn luôn nhìn
tôi qua hình ảnh của đứa con thân yêu bị chết sớm.
Bác sĩ Pasricha và một số nhà khoa học Ấn
đã đến gặp Manju lúc đó Manju đã là một người đàn bà có chồng và đã có 2
con. Khi hỏi người cha tiền kiếp về cảm tưởng của ông đối với Manju ra
sao thì ông này cho biết như sau:- Chúng tôi gọi Manju là Krishna Devi.
Chúng tôi tin tưởng rằng đó là con gái của chúng tôi. Các con của Manju
gọi tôi là ông ngoại và vợ tôi là bà ngoại. Chúng tôi sống với nhau rất
hòa thuận.
Theo bác sĩ Pasricha thì Manju là con gái
trong một gia đình người Bà La Môn (Brahmin) là một đẳng cấp rất cao đối
với người Hindu. Đây là một tập cấp ở Ấn Độ đã một thời vượt lên
trên các tập cấp khác (theo Will Durant) trong xã hội Ân. Nhưng Manju lại
chịu đến sống với gia đình thuộc đẳng cấp thấp hơn rất nhiều. Như vậy
không thể nào nghĩ rằng trường hợp Manju là trường hợp tạo dựng ra sự kiện
luân hồi tái sinh để mưu cầu lợi nhuận hay sung sướng cho đời mình được.
Nếu phát sinh nhanh thì đó là quả báo nhãn
tiền. Trong đời sống hàng ngày ai trong chúng ta cũng đều đã hơn một lần
chứng kiến rõ ràng sự kiện này. Vô số thí dụ có thật đã xảy ra chứng minh
điều đó. Năm 1964, báo SàiGòn có đăng tin vặt về một em bé bị điện giật
chết. Nguyên nhân xảy ra tai nạn chết người này như sau:
Vườn nhà của gia đình
em nàycó một cây ổi xá lị rất nhiều trái nhưng thường bị trẻ em lối xóm
hằng đêm đến hái ăn. Người cha trong gia đình thấy vậy đã giăng ngầm dây
điện cao thế vào cây ổi quyết trừng trị các trẻ em trong xóm ban đêm đột
nhập vào hái trái: Nhưng rủi thay, một hôm trong nhà quên rút dây điện
khỏi ổ cắm điện.
Câu chuyện có thật trên nếu được liệt vào
trường hợp quả báo tức thì là nhờ có hoàn cảnh, điều kiện thuận tiện để
quả báo phát sinh. Nhưng đôi khi nghiệp quả đã tạo xong mà điều kiện chưa
có thì vẩn chưa xuất hiện quả báo được. Điều này giải thích vì san có
những ngườilàm ác nhưng vẫn không bị quả báo nào cả. Có khi phải đợi một
thời gian rất lâu đương sự mới bị hậu quả của những gì đã làm trước đó
trong dân gian có câu "trời có mắt" hay "thiên bất dung gian" hoặc "ngậm
máu phun người, trước dơ miệng mình" hoặc "ác giả ác báo"...đều ám chỉ về
quả báo nhãn tiền thấy ngay trước mất. Còn quả báo chờ đợi mà thời gian
rất lâu có khi hết một đời người, qua kiếp khác mới trả hay có khi phải
qua nhiều kiếp.
Lấy thí dụ bạo chúa nào đó. Tại sao người
ấy lại được làm vua? Phải chăng - nếu xét về mặt lý thuyết luân hồi tái
sinh nghiệp quả - là do tiền kiếp người ấy đã tạo được nghiệp lành, đã có
vô số hành động tốt lành và nhờ đó mà y thừa hưởng được ân huệ tối cao là
làm vua?
Nhưng trong thời gian làm vua, thụ hưởng
được mọi lạc thú trong cuộc sống, thay vì y tạo thêm nhân đức, tạo nghiệp
lành tiếp tục thì y lại có những hành động tàn ác của kẻ có quyền uy.
Tuy nhiên hoàn cảnh, điều kiện và thời gian để y bị quả báo chưa đến. Luật
luân hồi nghiệp quả vô cùng công bằng và chi li, có thể thời hạn được
hưởng nghiệp quả tốt lành của y chưa hết hạn kỳ nên y vẫn còn tại vị. Ở
đây, có thể trong lúc tại vị, y cũng đồng thời bị một nghiệp quả xấu tức
thì song song. Tuy nhiên đó là trường hợp tội ác hiện tại mà y gây ra
không lớn thì sự kiện có thể xảy ra nhưng ở đây vì trong kiếp hiện tại, y
tạo nghiệp ác quá lớn như trường hợp bạo chúa Tần Thủy Hoàng đốt sách,
chôn học trò, đày đọa hàng vạn người xây Vạn Lý Trường Thành, hoặc trường
hợp Hitler, một quỷ vương Đức Quốc Xã đã tiêu diệt mấy triệu người vô
tội... vì thế có thể chưa có những cơ hội tương xứng với những tội lỗi tầy
trời của chúng và hơn nữa nghiệp lành từ kiếp trước của chúng vẫn còn
nhiều. Có thể sau khi những kẻ ác này chết đi, kiếp sau khi đầu thai trở
lại chúng vẫn còn hưởng tiếp tục nghiệp lành từ những kiếp trước đó nữa. Lại có những kẻ mà lúc còn sống chúng
hành động rất tàn ác, dã man
và khi chết đi hoặc do bị xử tội hay chết sớm, chúng vẫn nuôi trong tâm
thức sự tiếc nuối căm hờn không nguôi về những gì chúng đã làm chưa trọn
vẹn và chúng thề nguyền với lòng là sẽ tiếp tục những hành động dã man tàn
ác ở kiếp lai sinh. Cái nghiệp thức và nghiệp lực ấy là động cơ khiến
chúng tha hồ làm điều tàn nhẫn không gớm tay khi được tái sinh trở lại Nhà
triết học Schopen hauer đã có lần ghi lại một sự kiện tương tự, ở đây là
ýchí phục thù và ý chí phục thù ấy sẽ thể hiện ở kiếp sau khi ông kể rằng
trong một bài báo Anh (báo The Times) phát hành ngày 29 tháng giêng năm
1841 mô tả một cuộc xử bắn hai người đàn ông úc Châu về tội giết người:
"Hai kẻ sát nhân một già một trẻ mỗi người một phong cách và ý chí biểu lộ
trên nét mặtvà cử chỉ. Tên sát nhân trẻ tuổi với gương mặt lầm lì, mắt
trắng dã với những đường gân thớ thịt hằn lên ở mang tai, răng nghiến lại.
Cứ nhìn nét mặt hắn bộc lộ lúc đó (bài báo viết) thì "người ta sẽ thấy rõ
rằng hắn sẽ tái sinh trở lại là một thanh niên da trắng và điều đó làm nó
cương quyết. Cái cương quyết sẽ thành kẻ sát nhân man dã hơn nữa ở kiếp
sắp tới. . . ". Cách đây hơn năm thế kỷ, một ác quỷ đã xuất hiện giữa thế
gian ngay tại nước Pháp. Tên của hắn là Gilles de Rais với chức vụ Thống
chế. Hắn giết người không gớm tay, giết người với hăng say thích thú cùng
với sự thèm khát lạ lùng khi trông thấy máu và nhúng tay vào máu. Lúc bị
đưa lên giàn hỏa "con quỷ dữ" đã gào lên khủng khiếp cùng với lời nguyền:
"Ta sẽ trở lại thế gian này 500 năm sau..."
Một buổi Sáng , trên đường phố Hoa Kỳ bỗng
nhiên xuất hiện hai nhà sư trẻ người Âu Mỹ mặc áo vàng bước đi chậm rãi,
hai tay chắp trước ngực. Hai nhà sư cứ đi đúng ba nước thì lại quỳ lạy
khiến người đi bộ và người lái xe qua lại đều ngỡ ngàng nhìn với vẻ ngạc
nhiên...
Tính ra , hai nhà sư
trẻ này đã đi như vậy trong suốt hai năm chín tháng . Nhưng khi tới gần
chùa Vạn Phật Hòa thượng Tuyên Hóa ra tận cổng Tam quan để đón hai đệ tử
thì hai người này lại phát nguyện xin tiếp tục đi bộ quanh chùa theo cách
đi ba bước lại quỳ lễ Phật để có dịp tiếp xúcvà giảng giải giáo lý đạo
Phật cho dân chúng vì hai nhà sư đi tới đâu thì người hiếu kỳ kéo tới đông
đến đó.
Kết quả sau cùng là sau ba năm chín tháng,
hai nhà sư trẻ đã đi qua một đoạn đường rất dài theo cách ba bước lại quỳ
lạy. Trên đoạn đường dài đó, họ đã giúp cho vô số người dân tại tiểu
bang California biết rõ hơn về giáo lý của Đạo Phật, một tôn giáo mà đối
với người dân Mỹ đôi khi còn mơ hồ, xa lạ. Hai nhà sư trẻ đó là
Christopher (sinh viên Đại Học, cầu thủ nổi danh về Dã cầu, đệ tử của Hòa
thượng Tuyên Hoá tại Kim Sơn tự - San Francisco) và bạn của Christopher.
Vì say mê giáo lý Đạo Phật và muốn được làm đệ tử nên Christopher đã
quyết tâm thực hiện một thử thách mà HòaThượng Tuyên Hóa đã đưa ra.
Christopher là tên của một thanh niên sinh
năm 1949 tại Toledo (thuộc tiểu bang Ohio). Tuy sinh trưởng trong một gia
đình Thiên Chúa giáo nhưng Christopher lại thích nghiên cứu tìm hiểu về
Phật giáo. Khi vào Đại học, anh theo ngành ngôn ngữ học và Văn minh Trung
Hoa . Câu chuyện có thật sau đây về Christopher đã được bác sĩ Nguyễn
Thanh Giảng ghi lại trong một bài viết nhan đề: Công nghiệp của hai thầy
Thích Hằng Thiệt và Thích Hằng Triều - (Việt Nam Nhật báo số 2521 tháng 6
- 1996) Xin được tóm tắt các ý chính của sự kiện như sau:
Người
mà Christopher gặp đầu tiên khi bắt đầu
nghiên cứu và tìm hiểu về Phật giáo là Hoà thượng Tuyên Hóa (người Trung
Hoa ) ở Kim Sơn tự tại San Francisco. Cuộc gặp gỡ như là một duyên hạnh
ngộ, Christopher bắt đầu say mê về giáo lý Phật giáo và đã ngỏ lời xin
được làm đệ tử. Hoà thượng Tuyên Hóa tỏ ra ngần ngại vì Christopher là
một sinh viên tài giỏi không những về văn hóa mà còn là thể thao (cầu thủ
nổi danh về Dã Cầu Baseball) danh vọng ngày càng tràn ngập người thanh
niên này, khó mà thực hành trọn vẹn được điều mà anh ta vừa nêu ra – mà có
thể đó chỉ là một phút hăng hái nhất thời mà thôi - Tuy nhiên sự quyết tâm
của Christopher rất mãnh liệt, bộc lộ rõ nét ngay trong ánh mắt và lời nói
đã khiến sư phân vân: Cuối cùng Hoà thượng Tuyên Hóa phải đưa ra một thử
thách để có một quyết định dứt khoát. Thử thách đó là: sau khi thọ giới
tỳ kheo xong, Christopher phải tự mình thực hiện một cuộc hành trình dài
khoảng 1200 cây số từ nơi mình cư trú (thành phố Pasadena (Nam Califomia )
tới chùa Tên Thousand Budhas - ChùaVạn Phật ở thị trấn Ubah - Bắc
Califomia) bằng đi bộ. Khi đi đúng ba bước phải lễ Phật một lần (tam bộ
nhất bái) để cầu nguyện cho hòa bình thế giới .
Christopher đã hân hoan nhận thực hiện thử
thách mà Hòa thượng Tuyên Hóa đã đưa ra . Khi đó một người bạn của
Christopher (người Mỹ gốc Âu - rất am tường về Phật pháp) cũng xin được
cùng đi trong cuộc hành trình đó. Hoà thượng liền đặt cho
Christopher pháp danh là là Heng Sure - Thích Hằng Thiệt Và người bạn kia
la Heng Chau – Thích Hằng Triều .
Thế là trên đường phố Hoa
Kỳ, xuất hiện hai nhà sư trẻ người
âu Mỹ mặc áo vàng bước đi chậm rãi , hai tay chắp trước ngực. Cứ
đúng 3 bước lại quỳ lạy khiến người đi bộ và lái xe qua lại đều ngỡ ngàng
nhìn hai người này với vẻ ngạc nhiên. Nhiều người tò mò đến hỏi
han về nhiều vấn đề và đã dược nhà sư trẻ giải đáp rõ ràng qua giáo lý nhà
Phật. Tính ra, hai nhà sư trẻ đã đi như vậy trong thời gian 2 năm
9 tháng: Nhưng khi gần tới ngôi chùa Vạn Phật, khi Hòa thượng Tuyên Hóa ra
tận cổng tam quan chùa để đón 2 đệ tử thì 2 người này lại phát nguyện xin
tiếp tục đi bộ quanh chùa theo cách ba bước lại lễ Phật để có dịp tiếp xúc
và giảng giải giáo lý đạo Phật cho dân chúng vì khi 2 thầy đi tới đâu thì
người hiếu kỳ kéo tới đông đến đó và phần lớn đều nêu nhiều thắc mắc về
tôn giáo và đời sống mà họ đã trải qua ...
Kết quả sau cùng là sau 3 năm 9 tháng, hai
nhà sư trẻ đã đi một đoạn đường rất dài và qua đó, họ đã giúp cho vô số
người dân tại tiểu bang Califomia biết rõ hơn về Phật giáo, một tôn giáo
mà đối với một số người dân Mỹ đôi khi rất là mơ hồ, xa lạ ...
Hòa thượng Tuyên Hoá là đệ tử của cố Đại
sư Hư Vân. Ngài là vị chân tu nổi tiếng tại chùa Vạn Phật San Francisco
Hoa Kỳ, nơi mà nhiều người Âu Mỹ thường lui tới chiêm ngưởng và tìm hiểu
Phật pháp. NgàiTuyên Hóa là người đã thực hành việc tu tập đúng theo
phương thức tu hành mà Đại sư Hư Vân đã trải qua. Có lẽ nhờ vậy mà ngài
có khả năng thông linh bén nhạy, thấy trước, biết trước những tình huống
của tương lai sắp tới và đã cho mọi người biết qua những buổi thuyết
giảng. Ví dụ như ngài đã báo trước tình trạng sẽ xảy ra không riêng gì tại
San Francisco, tại Mỹ mà sẽ lan tràn khắp thế giới về hiện tượng Đồng tính
luyến ái,nạn phá thai tự do và cả dịch bệnh khủng khiếp... báo hiệu trước
những tình huống suy đồi, âm nhu, sai lạc của nhân loại vào thời hạ nguyên
nhất là từ năm 2004 trở đi. Trong một bài giảng tại Vạn Phật thành ngày
14 tháng 8 năm 1992, ngài nói:
".. Điều kinh khiếp nhất trong thế giới
loài người hiện nay là tính Đồng Tính Luyến Ái - Đồng tính
luyến ái là một hành vi nghịch lại sinh lý của Trời Đất, đi ngược lại sự
tạo hóa của âm Dương và vi phạm quốc pháp.
Hành vi này làm cho vong quốc, diệt chủng
- Nếu quốc gia tiêu vong thì không còn là quốc gia nữa và nhân loại cũng
từ đó mà đoạn diệt - Dù những kẻ Đồng tính luyến ái có mê cuồng nhau đến
độ nào chăng nữa, họ cũng không thể sinh sản được - Cho nên hạt giống của
nhân loại sẽ mất đi. Muốn trồng bắp thì phải có hột bắp. Muốn trồng dưa
thì phải có hột giống dưa. Muốn trồng đậu thì phải có hột giống đậu. Chẳng những bắp và đậu có hạt giống. Loài người cũng có hạt giống người. Nếu "hạt giống người" bị tiêu hoại thì nhân loại sẽ diệt mất...
“
Điều này Hòa thượng
Tuyên Hóa giảng năm 1992 tại San Francisco và 12 năm sau (năm 2004) cũng
tại nơi đây, phong trào Đồng tính luyến ái bùng lên và những cuộc kết hôn
cùng phái tính làn tỏa ra các tiểu bang khác. Tiếp đó là những cuộc biểu
tình đòi tự do phá thai với số lượng người tham gia gần nửa triệu tại
Washington... Hòa thượng Tuyên Hóa còn báo trước cho mọi người biết về
những thứ bệnh lạ sẽ xuất hiện và gây chết chóc đau thương khủng khiếp cho
loài người như sau:
“...
Hiện nay vẫn có người nghiên cứu AIDS và
cố tìm phương thức chửa bệnh này. Ô hô! Thật giống như biết rằng không
thể làm mà vẫn cố làm. Họ cưỡng chữa bệnh này, chẳng những đã thất bại,
lại còn tạo ra một thứ AIDS khác, đó là BỆNH VIÊM PHỔI. Bệnh viêm phổi
này lại còn ghê gớm hơn bệnh AIDS nữa. Loại bệnh này còn nguy hại hơn cả
bom nguyên tử hay cả bom khinh khí
Không phải tôi cố ý nói điều này để hù họa
quý vị. Đã đến lúc tôi không thể không lên tiếng: thời đại này không phải
là thơ đại hòa bình, đây là thời đại vô cùng nguy ngập. Tôi không thể
không thống thiết lớn tiếng với các vị rằng: sáng dậy không chắc gì ta yên
đặng tới tối; vì rằng tai họa này đến trong khoảnh khắc, không ai có thể
ngờ.. "
Qua nội dung bài
thuyết giảng lúc bấy giờ nhiều người vẫn tưởng ngài nói tới bệnh Aids chớ
không ai biết là sẽ có thêm bệnh lạ giết hàng loạt người qua sự lây lan
nhanh khủng khiếp là bệnh Sars, loại bệnh mà ngài đã biết trước 11 năm
(bệnh Sars xuất hiện lan tràn mạnh mẽ nhất là vào năm 2004). Theo nhà sư
trẻ Christopher thì năng lực của con người là vô biên và năng lực ấy phát
triển mạnh mẽ qua niềm tin và ý chí của mình. Năng lực ấy đã từng thể
hiện rõ ràng qua cuộc đời của những vị Đại sư lừng danh thế giới.
Hòa Thượng Hư Vân thuộc dòng dõi vua Lương
Võ Đế (Trung Hoa) từ nhỏ đã có tâm tu, năm 13 tuổi đã tìm thầy tu học và
từ đó đi qua nhiều nơi bất kể đường sá xa xôi nguy hiểm mong gặp được chân
sư... Năm 43 tuổi, từ am Pháp Hoa, Hòa thượng bắt đầu thực hiện
điều mình phát nguyện: đó là cuộc hành trình Tam bộ Nhất bái (đi 3 bước,
lạy một lạy) đến Ngũ Đài sơn . Cuộc hành trình đầy gian khổ kéo dài trong
nhiều năm qua các vùng lam sơn chướng khí, gió mưa sương tuyết lạnh lùng .
Ngày đi đêm nghĩ đói khát, mệt nhọc đau ốm không có cơm ăn thuốc uống
nhưng với quyết tâm và ý chí sắt đá, luôn luôn nhất tâm chánh niệm nên Hòa
thượng đã vượt qua được trở ngại. Sau chuyến hành trình dài dằng đặc,
ngài nhận được rằng hễ gặp gian khổ bao nhiêu thì tâm càng an lạc bấy
nhiêu và càng dễ chứng bồ đề. Hơn nữa, người xưa đã nói: đọc xong mười
ngàn cuốn sách, phải đi mười ngàn dặm. Năm 1900 mặc dầu đã 61 tuổi nhưng
Hòa thượng vẫn muốn thực hiện những cuộc vân du hoá đạo. Lúc đầu ngài tới
núi Chung Nam lập am tu hành. Tại đây Hòa thượng đổi tên hiệu là Hư Vân
rồi sau đó cất bước hành đạo, hầu như khắp cả Trung Hoa, ngài qua.. Nam
Dương, Miến Điện,Thái Lan, Mã Lai... Tới bất cứ nơi đâu, Hòa thượng cũng
đều rao giảng đạo pháp kinh điển Phật giáo cho vô số cư dân nơi đó. Nhiều
nơi vua chúa và các đại quan nghe tiếng ngài đều đến lễ bái và chiêm
ngưởng. Vua Xiêm đích thân mời hòa thượng về Hoàng cung để nhà vua xin
quy y tam bảo. Năm Dân quốc thứ 40, hòa thượng lúc bấy giờ đã 112 tuổi
nhưng tướng mạo vẫn bình thường như người còn trẻ. Ngài tổ chức một buổi
lễ truyền giới lớn tại Vân Môn. Trong khi hành lễ, ngài bị quân đội chánh
quyền bắt giam và lục soát chùa vì nghi là chùa có tàn trữ vũ khí, vàng
bạc. Ngài bị tra tấn đánh đập dã man nhưng ngài vẫn một mực cho họ biết là
chùa không làn trữ những thứ như đã bị nghi ngờ. Ngài bị đánh đập liên tục
trong suốt mười ngày và nằm rũ như một cây khô. Mọi người đều nghĩ là hòa
thượng đã qua đời. Không ai có thể tưởng tượng được rằng một người tu hành
với tuổi 112 lại bị tra tấn đánh đập dã man trong suốt 10 ngày bởi hàng
chục người to lớn mạnh khỏe mà lại vẫn sống. Khi thấy hòa thượng thì thào
nói được vài ba tiếng thì những kẻ tra tấn ngài đều kinh hải . Bị áp lực
từ nhiều phía thúc hối nên chánh phủ trung ương ra lệnh điều tra để bắt,
trị tội những kẻ đã đánh đập ngài . Vậy mà khi những kẻ hung bạo đã từng
tra tấn ngài bị dẫn tới trước mặt để ngài nhận diện thì ngài đều yên lặng
không khai báo ai cả.
Sư Hư Vân viên tịch
lúc ngài vừa 120 tuổi. Trong tro cốt của ngài có đến 100 hạt xá Lợi.
Việt Nam không hiếm những vị chân tu với
cuộc đời đạo hạnh tu trì kỳ diệu cao siêu từ lúc sống cũng như khi qua
đời. Ngày nay các nước Âu Mỹ khi đếnViệt Nam đã không ích khỏi ngạc nhiên
khi đứng trước những bức tượng của những nhà tu hành đã viên tịch từ lâu
đời.
Những bức tượng ấy có khi
chính là nhục thân của chính những nhà tu chớ
không phải bằng đá
hay
bằng gỗ như những pho tượng
thông thường xưa nay.
Các nhà khoa học Nga có lần không tin đó
là cơ thể thật sự của nhà tu hành nhưng khi chiếu quang tuyến họ mới thấy
rõ bộ xương người. Ví dụ điển hình ở ngôi chùa Đậu tại Hà Tây phía nam Hà
nội) thuộc huyện Thường Tín là một ngôi chùa rất cổ xưa, nơi đây là chổ tu
hành của những nhà tu nổi tiếng. Cách đây hơn ba trăm năm, tại ngôi chùa
này có hai Thiền sư đã đắc đạo một cách kỳ diệu. Đó là sư Đạo Chân Vũ
Khắc Minh và sư Đạo Tâm Vũ Khắc Trường. Hai sư đều biết trước ngày giờ
mình sẽ lìa trần nên dặn các đệ tử trong chùa khi thấy họ ngồi Thiền lâu
hơn thường lệ thì cứ giữ yên tư thế, không vọng động hốt hoảng và không
đem chôn cất hay thiêu xác mà cử để như vậy. Quả nhiên khi các sư mất,
tình trạng các sư đều ở tư thế đang tọa Thiền, thân xác vẫn được để yên từ
đó tới nay, chỉ có phủ bên ngoài một lớp sơn mỏng của vùng địa phương mà
thôi. Trải qua mấy trăm năm mà thân xác hai Thiền sư vẫn không hề hư thối
tan rã...
Trần Huyền Trang sinh năm 596 sau Công
nguyên (Trung Hoa). Mới 8 tuổi đã ham đọc sách. Năm 17 tuổi đã là nhà sư
nổi tiếng thông suốt Kinh điển. Khoảng năm 33 tuổi, sư quyết tâm vượt
đường xa đến Ấn Độ để mong học hỏi nhiều hơn về kinh Phật giáo. Từ Trung
khoa đến Ấn Độ đường xa vạn dặm nhưng với quyết tâm và ý chí vững mạnh, sư
Huyền Trang đã không lùi bước trước bao hiểm nguy trên bước đường học đạo:
nắng mưa, bão tố, rét buốt hay sa mạc nóng cháy, khô cằn, một mình một
ngựa với chút lương khô, trèo đèo vượt suối, nhấm hướng Ấn Độ mà tiến . Trên đường tới Ấn , sư đã vượt qua rất nhiều xứ và nhờ đó đã học hỏi thêm
nhiều về Phật pháp. Đến Ấn sư Huyền Trang được vua quan và các bậc chân
tu xứ này tiếp đón. Sư lưu lại đây 13 năm, chu du nhiều tiểu quốc ở Ấn,
dịch kinh sách, giảng giáo lý Đại thừa. Năm 643 sau Công nguyên, sư Huyền
Trang lên đường về nước mang theo 657 bộ Kinh và những tư liệu, bảo vật
quý giá . Năm đó sư đã 48 tuổi. Tính ra từ ngày sư Huyền Trang lên
đường Tây Du , sư đã vượt hơn 50.000 dặm đường dài đầy gian khổ trong suốt
17 năm trường và ngài đã đi qua 228 quốc gia. Khi về Trung Hoa, sư Huyền
Trang bắt đầu tổ chức nhóm phiên dịch Kinh sách mới mang về nước. Công
việc đầy trách nhiệm . Mỗi ngày sư chỉ ngủ được vài ba tiếng . Quá lao
tâm lao lực nên sư Huyền Trang qua đời vào nắm 69 tuổi. Trong gần 50 năm,
ngài đã phiên dịch khoảng 1335 cuốn Kinh. Có một sự kiện mà hình như ít
người biết tới đó là khoảng 500 năm trước, khi ngài Huyền Trang được vua
nhà Đường phái qua Thiên Trúc thỉnh kinh thì cũng đã có một sự kiện tương
tự: đó là Hán Minh Đế Lưu Trang một hôm nằm mộng thấy một pho tượng Kim
Thần phát hào quang trên đầu bay lượn trong cung . Khi thức dậy, nhà vua
hỏi vị đại thần Truyền Nghị, người có tài đoán mộng vê giấc mộng lạ của
mình thì vị đại thần này tâu rằng: Muôn tâu bệ hạ, giấc mộng ấy chính là
chiếu ứng của bậc Đại Thánh nhân sinh ra ở Tây Trúc có tôn hiệu là Phật để
cứu độ chúng sanh. Giấc mộng ấy là điềm triệu báo trước Phật pháp sẽ
truyền vào Trung nguyên. "Hán Minh Đế liền ra lệnh cử mười hai người có
tâm hạnh tốt mà trưởng đoàn là Tần Cảnh và Thái Bội thực hiện một chuyến
đi qua vùng Đại Nguyệt Thị (nay chính là vùng Afghanistan). Tại đây họ
gặp hai nhà sư Tây Trúc (Sư Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan) đang thuyết
giảng về giáo lý Đạo Phật. Phái đoàn liền tìm cách yêu cầu hai vị sư này
hãy đến truyền bá Phật pháp tại Trung quốc là nơi đất rộng người đông. Hai vị sư nghe lời mời đầy khẩn thiết nên đã đồng ý. Thế là phái đoàn cùng
hai nhà sư lên đường sau khi đã tìm mua một con ngựa trắng rất mạnh khỏe
để chở một số lớn kinh sách, tranh và tượng Phật về Lạc Dương (l).
Hán Minh
Đế được tin rất đổi vui mừng. Nhà vua đã
dành nhiều sự tôn trọng, ưu đãi thuận lợi cho hai nhà sư nước ngoài này
trong việc nghiên cứu, biên dịch kinh sách và thuyết giảng về đạo Phật
đồng thời ra lệnh xây cất một ngôi chùa tháp đặt tên là Bạch Mã Tự để kỷ
niệm công lao mà con ngựa trắng đã nhọc công sức chuyên chở những sách vở
giáo lý của Phật từ Tây Trúc về Trung quốc để truyền bá. Chùa này được
xem là nơi phát nguồn việc truyền bá Đạo Phật đầu tiên tại Trung quốc. Hai nhà sư Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đã sống suốt đời tại ngôi chùa
này để truyền đạo và viết Kinh. Những kinh sách do hai vị soạn và dịch
đều rất có giá trị được vua Minh Đế cho lưu trữ tại Lan Đài Thạch thất là
thư viện của vua. Cũng chính nhờ hai vị sư này mà sự giao lưu văn hóa
giữa Ấn Độ và Trung quốc được phát triển: Ngôi chùa tháp cổ xưa mà hai vị
sư tu hành trong đó vẫn còn tồn tại tới ngày nay cùng với tượng, bia của
hai vị. Một phần bên ngoài ngôi chùa được những rừng Bách già che chở.
Ngày nay du khách khắp năm châu bốn biển tới tham quan chùa thường mong ở
lại một đêm để đợi tới lúc canh khuya thanh vắng lắng nghe những tiếng mỏ
và cả tiếng tụng kinh của hai nhà sư Trúc Pháp Lan và Nhiếp Ma Đằng mà lời
đồn đại là có thật)... ( Tài liệu này được tóm lược lại trong cuốn: Bí
mật Phong thủy của các Hoàng cung Trung quốc - Trần Thanh biên dịch. Nhà
xuất bản Đại Nam - U.S.A. 2003)
(I) Ghi chú về Lạc
Dương - Trung quốc có cái hãnh diện lớn về một vùng đất, một cố đô kỳ cựu
có chiều dài lịch sử hơn 3000 năm - Lạc Dương chính là lịch sử phát triển
của Trung quốc qua nhiều thời đại: từ đời Hạ, Thương, Đông Chu, Đông Hán,
Tào ngụy, Bắc ngụy, Đường... là kinh đô của 9 triều đại. Lạc Dương là nơi
đã từng chứng kiến sự thịnh suy, thanh bình, máu lửa của bao thời đại -
Lạc Dương còn là Kinh đô của Phật giáo. Theo tạp chí du lịch Hồng Kông
thì Lạc Dương là vùng đất trù phú nổi tiếng của Trung quốc từ cổ đại tới
nay. Lạc Dương là vùng đất Phật. Chính nơi đây, đạo Phật xâm nhập đầu
tiên. Tới đời Hiếu Văn Đế thứ 18 (năm 495 trước Công nguyên) triều Bắc
Ngụy đến nay, qua bao đổi thay của cuộc thế, Lạc Dương vẫn còn 2.100 hang
động với đền thờ, tượng phật bên trong. Nhiều tượng Phật cao 17 mét. Những phật động nổi tiếng nhất là Phật động Long môn, Phụng Thiên, động
Thiên vương.
Nhân nói về
những động đá có khắc tượng phật tưởng
cũng nên nói qua về những hang động, những tượng Phật bằng đá lại
Afghanistan tức là A Phú Hãn - Theo các tài liệu lịch sử thì khoảng đầu
thế kỷ 12, 13, các đoàn lữ hành, những thương nhân băng qua những quảng
đường dài từ Âu sang á hay ngược lại thường ngang qua một thị trấn của xứ
Afghanistan mà thời ấy gọi là Xứ phật. Đó là Bamiyan. Sử liệu cho hay
nơi đây là địa điểm mà ngày xưa nhiều sắc dân qua lại, vì nó là vị trí
liên hệ tới con đường Tơ Lụa nổi tiếng. Chính tại nơi đây thời đó khách
qua lại đều thấy các nhà tu sinh sống và tu tập trong các động đá, vô số
đền thờ chùa và tượng Phật lớn nhỏ lộ thiên hay trong các hang động. Đặc
biệt nhất là hai tượng Phật khổng lồ cao 55 thước và 38 thước tạc trong
hốc đá cao sừng sửng. Thời đó và trước đó nữa, nơi đây là giao hội của
nhiều màu sắc tôn giáo muôn phương, nhưng chỉ có Phật giáo là phát triền
mạnh nhất mà thôi. Vào thế kỷ thứ 7 quân Hồi giáo như thác lũ tràn quân
tới Trung đông và Âu châu, chính con đường Tơ Lụa là nơi quân Hồi giáo
tiến qua. Khi vào Afghanistan, quân Hồi ra tay tàn sát và phá hủy mọi
thứ. Chỉ có hai pho tượng Phật lớn bằng đá là họ không thể phá hủy được
nhưng bị sức vở hư hại một vài nơi. Về sau quân Taliban ở Kabul tiếp tục
tàn phá các di tích Phật giáo tại đây, họ dùng chất nổ phá hoại quyết phải
triệt hạ cho bằng được hai pho tượng.
Cả thế giới lên án và yêu cầu họ đừng làm như thế
để bảo tồn các di tích lịch sử. Ngay cả Liên Hiệp Quốc cũng can ngăn, có
quốc gia còn ngỏ ý muốn mua lại hai pho tượng. Nhưng người Taliban thuộc
nhóm Sunni quyết phá hủy tượng Phật. Hiện nay các chuyên gia về trùng tu,
tái thiết cũng như các nghệ nhân nổi tiếng thế giới hy vọng rằng trong
tương lai họ có thể tái tạo lại hai pho tượng Phật khổng lồ ấy. Mới đây
nhiều phát hiện cho biết có ít nhất là một pho tượng Phật khổng lồ đang bị
chôn vùi dưới đất mà quân Taliban không biết. Tài liệu cổ xưa cho hay
chính nhà sư Huyền Trang khi qua Tây Trúc thỉnh kinh đã thấy nơi đây có 3
pho tượng Phật bằng đá khổng lồ - Chính sư Huyền Trang đã ghi lại điều đó
trong tập bút ký của mình. Tài liệu của nhà khảo cổ Mohammed Rasuli lại
cho hay rằng chính quyền Taliban có biết là có một pho tượng Phật thứ ba
dưới đất, nhưng vì chính quyền Taliban thiếu hụt tiền bạc nên họ không thể
tiến hành việc khai quật nếu không họ cũng phá hủy pho tượng này rồi.
ÐIỀM TRIỆU TRONG DÂN GIAN – HÌNH TƯ TƯỞNG
ÐIỀM TRIỆU LÀ GÌ?[^]
Điềm
là gì? Theo các từ điển Việt Nam thì Điềm
là dấu hiệu báo trước việc bất thường sẽ xảy ra -
Triệu là cái điềm lộ
ra trước, dấu hiệu lộ ra trước. Trong dần gian từ cổ đại tới nay
rất nhiều người thường tin rằng có những dấu hiệu báo trước những sự kiện
xấu tốt sẽ xảy ra - nhiều người cho rằng Điềm hay Triệu là cái rất tự
nhiên và rất khoa học như trời mưa hay bão tố thường được báo trước bằng
mây đen u ám, sấm giật, gió mạnh, người sắp bị bệnh cũng thường phát lộ ra
trước tiên bằng những dấu hiệu nào đó từ gương mặt, tiếng nói vân...
vân...
Từ ngàn xưa cố
nhân Đông phương đã nhắc tới một loại hình
ảnh đặc biệt gọi là hình tư tưởng. Trong lý thuyết của khoa Phong thủy
xuất hiện cách đây khoảng 3000 năm gồm có hai pháp môn chính là Lý pháp
môn và Hình pháp môn. Hình dạng địa thế của căn nhà, đất đai khu vườn
cũng có tác động ảnh hưởng rất quan trọng.
Ngày nay khoa nghiên cứu
Thần giao cách cảm đã chú trọng tới
các hình tượng và các dấu hiệu. Từ biểu tượng, thông qua bộ não, dễ
chuyển thành hình ảnh phát sinh trong tư tưởng. Như vậy thường thì hình
ảnh phát sinh từ tư tưởng khi gặp biểu tượng. Trong thực tế, các nhà làm
quảng cáo đã tận dụng tính chất thâm sâu vi diệu của hình tư tưởng để tác
động lên tư tưởng người thấy qua các hình ảnh mà họ dùng làm quảng cáo. Biểu tượng thường tác động vào trí óc.
Những năng lực phát
sinh từ biểu tượng, từ hình tư tưởng, tuy liềm ẩn nhưng lâu dài thì sẽ trở
thành mạnh mẽ và tác động ngay trên những gì mà chúng trực chiếu hay ảnh
hưởng vào. Trong dân gian đôi khi những hình ảnh cấu trúc nào đó cũng
thường ảnh hưởng tới tư tưởng của người trông thấy như trong Phong thủy
cái nóc nhà hay cái đòn dông bên kia đường chĩa thông qua nhà đối diện là
hình ảnh của sự xung xát, xung chiếu.
Người xưa tin những
hình ảnh biểu tượng xuất hiện một cách tự nhiên bất ngờ luôn luôn có ý
nghĩa thâm sâu tàng ẩn bên trong. Vì thế đôi khi một hình ảnh, cấu trúc
nào đó được dùng để xây dựng, trang trí cho một nơi nào đó có thể là dấu
chỉ về sự cố sẽ xảy ra ở tương lai. Sự kiện vừa nêu đã thấy tác động ảnh
hưởng lên niềm tin của con người không những ở Đông phương mà còn thấy ở
Tây phương.
Ngày xưa trong các trại quân, khi cây cờ
lệnh bị gảy là điềm báo có thể bị địch đột kích, đánh úp bất ngờ. Cờ gảy
còn là điềm báo nguy cho quốc gia, cho đơn vị hay sinh mệnh tướng quân lâm
nguy. Ngay cả thú vật xuất hiện vào lúc nào đó người xưa cũng quan tâm và
đôi khi quy vào điềm, triệu - ba chữ
Triệu Bất Tường
nói lên hình ảnh báo trước sự kiện không
may, thất bại, ngăn cản sẽ xảy ra - thí dụ người sống gần biển, đi đánh cá
hay khai trương việc gì mà gặp con Kỳ Đà nằm trướcmặt tức là Bị
Cản Mũi Kỳ Đà
rồi - khó mà thành công. Kinh
nghiệm người xưa không thích Mèo vô nhà nhưng lại muốn Chó tới nhà -
Chóvào 7
Trong đời sống thường
ngày ta hay gặp những sự kiện lạ lùng mà đôi khi rất khó giải đoán - Ví dụ
có người đang ngồi trong nhà tự nhiên có con chim bay vào trong nhà rồi
lại bay vụt ra cửa - mấy ngày sau có người thân từ xa tìm tới thăm. Cũng
sự kiện con chim bay vô nhà nọ, bị tông vào cửa kính rơi xuống chết, mấy
hôm sau nhà ấy nhận được tin người thân mất. Trong dân gian Việt Nam ta
cũng thường nghe thấy những từ như điềm, triệu... Ví dụ điềm xấu, điềm gỡ,
điềm lành, triệu bất tường... như khi bắt đầu một việc làm quan trọng tư
nhiên bị té ngả hay đánh vỡ cái ly thì đó là điềm không hay, khó thành
công ví dụ như năm 2002, trong chuyến công du của Tổng Thống Mỹ thăm Trung
Quốc, một điều khó có thể xảy ra nhưng đã xảy ra đó là xe đặc biệt đưa
rước Tổng Thống Bush được mang từ Mỹ qua bỗng nhiên bị nổ bánh xe. Dưới
mắt nhà khoa học thì đó là sự tình cờ
ngẫu nhiên mà thôi; nhưng đối với một số lớn người Đông phương tin vào cái
gọi là "Điềm" thì đó không phải là điều tốt. Người dân Trung Hoa, Việt
Nam, Nhật Bản còn tin vào hình tư tưởng phát sinh từ thiên nhiên mà họ
thường gọi là Điềm Trời. Tại Việt Nam từ ngày đầu Xuân đã thấy xuất hiện
nhiều điềm lạ. Ví dụ trong mấy ngày Xuân năm Nhâm Ngọ 2002, tự nhiên có
một đàn Sếu Đầu Đỏ xuất hiện ở ấp Kiên Bình tỉnh Kiên Giang. Đàn Sếu này
xuất phát từ vùng Bảy Núi (An Giang) vùng mà từ lâu dân miền Nam cho là
vùng Địa linh. Dân chúng cho đó là Điềm báo: “Xuất Thánh Linh”. Cũng
trong tháng giêng năm 2002, tại Hà Tĩnh vào ngày 25 từ lòng đất của huyện
Kỳ Anh và Cẩm Xuyên tự nhiên có tiếng nổ lớn rồi đất đai, nhà của rung
chuyển. Những kỳ lão trong vùng cho hay là chưa bao giờ nơi đây có tiếng
động lạ dưới lòng đất như vậy còn dân chúng thì cho đó là điềm đất gầm báo
điều không hay. Trong khi đó tại Hồ Gươm bỗng nhiên nổi lên một con rùa
có tuổi thọ cả trăm năm, đây là rùa hiếm nhất thế giới có đốm sáng trắng
trên đầu. Dân Hà Nội tin là rùa thiêng nổi lên ở Hồ gươm là sắp có sự cố
xảy ra trong nước: Cách đó mấy chục năm, dân chúng Sài Gòn còn nhớ, trước
năm 1975, ngay trước tòa nhà Quốc hội tự nhiên chính quyền cho xây tượng
đài hai người lính đang chĩa súng ngay vào tòa nhà quốc hội. Hình tượng
lạ lùng đó đã báo trước sự suy sụp của chính quyền miền Nam và miền Nam sẽ
bị tấn công. Có một thời tại Phan Rang tự nhiên có đàn sâu di chuyển về
hướng biển. Phải chăng đó là hình ảnh, là điềm báo trước về cuộc di tản
đại quy mô của dân chúng vượt biển? Một hình ảnh khác mà người dân miền
Nam đã từng bàn tán xôn xao đó là đồng xu dưới thời Tổng Thống Ngô Đình
Diệm một mặt có khắc hình Tổng Thống còn mặt kia là bụi Trúc. Dân chúng
miền Nam thời đó cho hình ảnh ấy là triệu bất tường là điềm báo chính phủ
của Tổng Thống họ Ngô sẽ bị đổ. Lý do là khi ật phía hình Tổng Thống qua
mặt sau của đồng xu thì bụi trúc nằm ngược. Đó là hình tư tưởng không hay,
là hình ảnh của sự lật đổ Ngay chữ Trúc hiểu theo tiếng Việt là rơi, đổ
nhào xuống.
Khoảng thập niên 60
tại Nam Việt Nam, có phong trào các cô gái đều mang trên đầu một giải
băng vải gọi là Bandeau - Các cụ thời đó đã lo sợ bảo rằng: đó là điềm
xấu báo trước những tai ương, chết chóc tang thương sẽ đến - Không biết
nhận định đó đúng hay sai nhưng quả thật mấy năm sau đó, chiến tranh ngày
càng khốc liệt, biết bao người trai trẻ gục ngả trên chiến trường và biết
bao quả phụ mang khăn tang trên đầu.
Rồi, sau năm 1975, hầu
như mỗi người dân nam cũng như nữ đi đâu cũng có bên mình một cái túi
xách, cái bao hay cái bị. - Thời đó, trong dân gian truyền miệng nhau là
điềm báo đói khát sẽ đến, quả nhiên dân chúng từ Bắc chí Nam trong thập
niên 80 phần lớn đều thiếu ăn, ngay cả nhà nước nhiều tỉnh cũng thiếu hụt
lương thực trầm trọng. Mới đây, báo chí tại Việt Nam toàn tin: nước
Hồ Hoàn Kiếm ngàycàng cạn dần - Theo tính toán thì cứ một
tháng nước hồ bị cạn mất 1 tấc. Ngay cả con Rùa sống lâu năm dưới
hồ mỗi khi di chuyển người đứng trên bờ cũng đều thấy rõ. Một hiện tượng
lạ khác tại một ngôi làng ở miền Trung tự
nhiên con đường chính trong làng bị nước lũ tràn ngập biến thành một con
sông rộng, dân chúng đi lại trên đường nay phải dùng bè. Đó phải
chăng là điềm triệu báo sự đổi thay, tang điền thương hải?
Năm 1994, người dân
khi đi ngang qua quảng trường Ba Đình ở Hà nội thấy giăng một biểu ngữ
quảng cáo về Coca Cola và 2 chai Coca Cola lớn, cao 9 thước dựng ở đây thì
họ chỉ ngạc nhiên khi thấy sản phẩm của Tư bản xuất hiện mà thôi - Nhưng
có người lại thấy đó là một điềm báo về một sự đổi mới. "Hai chai nước”
được hiểu qua trí óc đầy tưởng tượng và suy diễn là "hai đất nước", hai
quốc gia chớ không phải hiểu là 2 chai nước ngọt bình thường. Nước trong
chai là ngọt chớ không đắng - như vậy là sự ngọt ngào của 2 nước sẽ dẫn
đến sự tương hợp. Dân Hà Nội thời đó kháo nhau là Việt Nam và Mỹ sẽ hòa
với nhau nay mai - Lúc đó là năm 1994. Gần 10 năm sau, sự kiện đó đã
thành sự thật. Tuy nhiên, đối với những người nghiên cứu về Kinh Dịch âm
Dương đắp đổi thì lại cẩn thận gieo quẻ từ hình tượng hiếm có này để suy
đoán tương lai đất nước ra sao. Theo họ thì con số ở hình tượng này rất
quan trọng. Số 2 (hai chai nước ngọt) ứng với quẻ Đoài (Trạch). Còn số 3
(Ba đình) ứng với quẻ Ly- Hỏa. Như vậy sẽ tạo nên một quẻ kép gọi là quẻ
Trạch Hỏa Cách - ý nghĩa của quẻ Cách là sự thay đổi lớn lao - việt Nam sẽ
có thay đổi rất lớn về nhiều mặt. Sự đổi thay còn thấy rất rõ qua những
điềm triệu báo trước ngay ở thủ đô Hà Nội, đó là nước Hồ Gươm ngày càng
cạn - như đã trình bày ở trên.
Trong thập niên 80, ai
đã từng sống vào giai đoạn này thường nghe một số người dân Hà Nội cũng
như Sài Gòn trong những lúc trà dư tửu hậu, ngồi tán dốc với nhau nơi vỉa
hè đã xì xào trao đổi những “điểm báo trước” rất lý thú - Họ không
phải là những học giả, những bậc trí thức đại tài, cũng không phải là nhà
bói toán chiêm tinh nhưng với đầu óc bình dị họ có những suy nghĩ tưởng
tượng rất ư là bình dân, đó là chuyện xưa nay tại nước mình, người ta làm
quen, làm lành, làm thân với nhau thường khởi đầu bằng "Trà Nước”
trước cái đã rồi sau đó mới tâm đầu ý hợp. Việt Nam và Mỹ đã và đang "
Trà Nước qua lại với nhau thì chắc chắn tương lai tình hữu nghị sẽ thắm
đượm vô cùng. Sự kiện đã rõ ràng, - năm 1994 Mỹ mang Nước Ngọt (Coca Cola)
qua Việt Nam và 9 năm sau (năm 2003 Tướng Trà Việt Nam) qua thăm nước Mỹ -
Trà Nước đã trao qua đổi lại rồi - Nay chỉ còn là
thời gian chờ đợi sự thuận thảo hòa hợp Việt Mỹ mà thôi.
Người dân Việt Nam
cũng thường hay "nói lái" là cách nói đổi ngược - Ví dụ Cá Đối là Cối đá. Điềm Triệu hiện ra đôi khi rất chi li bí hiểm khó lý giải - Cách đây
khoảng trên 20 năm, sau khi miền Nam Việt Nam bị sụp đổ, hai chữ Ma quỷ
được gán cho Mỹ. Nhưng rồi lịch sử lại sang trang, tháng 11 năm 2003,
chiến hạm USS Vandegrift của Hải quân Mỹ ghé bến Sài Gòn, rồi những chàng
Hải quân Mỹ hào hoa đi lại trên đường phố, trong các hộp đêm lấp lành ánh
đèn lôi kéo thời gian và kỷ niệm về với bao người dân Sài gòn. Trên đường
phố nhiều người thì thầm ...' Mỹ qua, Mỹ qua.. "" Vậy Mỹ qua
phải chăng là đảo ngược của hai chữ Ma quỷ? Trước đó khoảng
một tuần, chính tướng Phạm văn Trà đã qua thăm nước Mỹ - dân chúng Việt
Nam nghe tin này đều tin chắc là Việt Nam đã bước vào vận hội mới, có bạn
mới và thế trận mới - Nước Mỹ sẽ đóng vai trò quan trọng tại Thái Bình
Dương - thật ra chuyện "Mỹ qua" đã được dân chúng Việt Nam đồn đãi nhiều
nhất từ năm 2002 là năm Mậu Ngọ. Dân trong Nam, nhất là dân Chợ
Lớn kháo nhau rằng: Năm Ngọ lại về, tức là Mã Quy (Mã là ngựa, quy là về)
mà Mã Quy tức là Mỹ Qua!...
Tại Texas người ta
phát giác có tờ 1 đồng Đô la có những dấu hiệu rất kỳ lạ trùng hợp với sự
kiện Tổng Thống Kennedy bị ám sát chết cũng tại Texas. Điềm triệu nổi bậc
trên tờ giấy bạc là hình ảnh chữ K nằm ngay trong cái vòng tròn - Suy ra
là chữ Kennedy nằm ngay trong họng súng. Tờ bạc có chữ K đầu và chữ A
cuối - Phải chăng chữ K là Kennedy và chữ A là chữ ám sát
(chữAssassination). Số 11trên tờ giấy bạc và serie 1963 thì rõ ràng là
dấu hiệu báo trước Tổng Thống Kennedy sẽ bi ám sát chết vào tháng 11
năm 1963?.
Cách đây khoảng 30
năm, một nhà Phong Thủy Hồng Kông chuyên về trường phái màu sắc và hình
tượng đã cho rằng Toà Bạch Ốc (white House) tức Tòa Nhà Trắng tại
thủ đô nước Mỹ sơn mầu trắng toát là biểu tượng không hay, là điềm chẳng
lành vì người Đông phương xem màu trắng là màu tang tóc - chắc chắn một số
Tổng ThốngMỹ sẽ gặp nhiều tai họa nếu sinh sống ngay trong toà nhà màu
trắng đó Tin hay không là tuỳ mỗi người nhưng sự thật rõ ràng là tính từ
năm 1841 đến nay đã có 7 vị Tổng Thống Mỹ bị chết bất ngờ khi sống trong
ngôi nhà sơn màu trắng toát.
Vấn đề điềm triệu báo
trước cũng được chứng minh qua sự kiện lịch sử Pháp khi Vua Louis thứ
14 của nước Pháp một hôm tới xem một cái đồng hồ quả lắc chạm
trổ tuyệt trần từ tay một nhà điêu khắc lừng danh là Christiana Huygens -
Khi vua ra về thì tối hôm sau tự nhiên đồng hồ ngưng chạy - Khi đó kim
đồng hồ đứng tại vị trí 7giờ 45phút - lại là giờ báo trước cái chết sau đó
của vua Louis 14 cũng đúng vào 7 giờ 45 phút tối.
Lịch sự thế giới có
nhắc tới vấn đề vua Charles luôn luôn nấm trong tay cây gậy
biểu tượng của quyền uy, năng lực của mình – Nhưng một hôm, cây gậy nhà
vua đang cầm ở tay bỗng rơi xuống đất - Sau đó ông bị phe nhóm của Nghị
viện chống đối và bị chém đầu.
Điềm triệu sau đây
lịch sử thâm cung nước Pháp ghi lại còn ghê rợn hơn nữa - Đó là sự kiện
Vua Louis 16, con người chuyên chế tàn ác đã tự tay phát họa vẽ kiểu
lưỡi dao của máy chém dùng chém đầu các tội nhân. Hôm xem lại mẫu vẽ,
chính vua Louis 16 và cả Hoàng Hậu Marie Antoinette đều chăm chú
xem và ngọn đèn hất bóng của nhà vua và Hoàng Hậu vào hình lưỡi dao của
máy chém - Một cận thần phải đốt thêm một ngọn đèn phía trước để được sáng
hơn. Không ngờ hình ảnh hai cái bóng của vua và Hoàng hậu ngả vào lưỡi
dao lại là điềm báo trước là chính cả vua và Hoàng hậu đều bị chém đầu
trong cuộc cách mạnh Pháp năm 1789.
Sự kiện được xem là Điềm triệu cũng xảy ra ở
nước Đức - Nhà sưu tầm nghiên cứu chuyện lạ thế giới là Robert Ripley
kể rằng: tại thành phố Munich của nước Đức có một cái dụng cụ khổng lồ để
tính giờ bằng cách đo bóng mặt trời - Nhưng bao giờ nó cũng chỉ con số
tương ứng 2giờ 30 phút. Theo một nhà sử học Đức thì đó là dấu hiệu báo
trước giờ Hitler chết - Quả nhiên, nhà độc tài Đức quốc Xã đã tự sát đúng
vào 2 giờ 30 phút chiều. Phải chăng cái Nhật Khuê đã đưa ra Điềm triệu
báo trước về giờ chết của nhà độc tài sắt máu Hitler cho người dân Đức
biết mà không ai hiểu?
Người Philippine thường tin vào cái mà họ gọi là
Unlucky Symbols (những Điềm gở) Ngay cả Tổng Thống Phi Fidel Ramos cũng
vậy, năm 1993, báo Reuters cho hay là TổngThống không muốn 3 cây cổ thụ
quá lớn án ngữ ngay trước dinh Tổng Thống vì đó là hình ảnh xấu về sự che
khuất làm lu mờ người lãnh đạo. Do đó ông đã ra lệnh đốn bỏ. Ngay cả
quốc huy có hình biểu tượng không trong sáng nhất là những ngôi sao màu
xám đầy vẻ lu mờ là điềm xấu báo trước. Đồng thời tờ giấy bạc 500 nếu quan
sát 2 mặt sẽ thấy các biểu hiệu đều quy vào số 13 như những dãy 13 ngôi
sao, hình ảnh 13 người (2 mặt) con số 500 có tất cả 13 lần.. Những biểu
hiệu xấu đó báo trước Philippine sẽ gặp nhiều rắc rối xáo trộn trong tương
lai. Quả nhiên từ năm 1996 tới nay, Philippine đã trãi qua biết bao sóng
gió và trong những năm 1999 đến 2002, đất nước này còn phải đương đầu với
quân khủng bố ly khai trong nước.
Ngân hàng nổi tiếng á Châu có cấu trúc các cửa sổ
trông giống những quan tài, ai cũng ái ngại. Quả nhiên sau đó, ông giám
đốc Ngân hàng chết cùng với một số nhân viên phi hành vì phi cơ bị rớt...
Tại thành phố Cao Hùng có một công trình xây cất nhà máy rất lớn. Dân
chúng ở đây rất lo lắng vì họ nghe loan truyền về một điềm gỡ: Đó là một
cột ống khói to lớn vươn lên giữa thành phố trông xa giống một bó đuốc dẫn
đường trong đám ma. Nổi lo sợ đó quả đã xảy ra: năm 1985, trong
vừng xảy ra một cuộc thảm sát hết sức rùng rợn khiến máy chục người bị
chương và nhiều trẻ con bị giết. Sau đó thành phố chứng kiến một đám ma
khổng lồ với hàng ngàn người tiễn đưa. Tại Hoa Kỳ, khi một cây xanh mọc
trước tòa đại sứ Đài Loan bị đốn ngả, một số viên chức Đài Loan không biết
để kịp ngăn cản việc đốn cây ấy và họ rất lo sợ vì đó là biểu tượng bất
lợi - Theo người Đài Loan thì cây bị đốn ngả trước tòa đại sứ của họ như
thế là điềm gở Quả nhiên không lâu sau đó, Hoa Kỳ đã thỏa thuận theo đề
nghị của TrungQuốc là chỉ công nhận một nước Trung quốc mà thôi. Một hình tư tưởng khác mà tác giả biên soạn sách này đã được biết và thấy
khi xem Phong thủy cho một cơ sở bỏ trống ở bên xa lộ 101 Ngay bên kia xa
lộ đối diện với cơ sở này có một công trình quảng cáo đồ sộ về đàn Piano. Đó là hình ảnh một cái hộp chữ nhật to lớn phủ vải đen và trên đó có vẽ
chữ piano màu trắng. Đứng bên cơ sở này trông sang giống như một cái quan
tài lớn. Khi chúng tôi tới quan sát cơ sở để trống này, quan sát cảnh
quang chung quanhvà cả hình ảnh quảng cáo vừa nói cùng nêu thắc mắc tại
sao cơ sở này bỏ trống thì người muốn thuê lại cơ sở này cho biết: sở dĩ
cơ sở bỏ trống là vì cách đó một năm, người chủ cũ cùng với một số nhân
viên của cơ sở này đi công tác trên một chuyến máy bay thì máy bay bị rơi
khiến tất cả đều chết. Câu chuyện có thật đã rõ ràng chứng minh cho vấn
đề đã nêu về hình tư tưởng đáng sợ như thế nào cái quan tài to lớn đồ sộ
phủ vải đen ngay trước cơ sở ấy phải chăng là hình tư tưởng, là điềm gở,
là triệu bất tường khủng khiếp báo trước cho cơ sở đó mà không ai hay
biết? Chúng tôi còn nhớ vào năm 1999 anh V và chị N.H có mướn một cơ sở
còn bỏ trống để làm tòa soạn. Từ phía trước mặt cơ sở, chúng tôi thấy
ngay bên kia đường có một bảng quảng cáo rất lớn, trên đó là hình ảnh một
cô gái hai mắt bịt kín bởi một băng vải, lúc đó chúng tôi không để ý là
người ta muốn quảng cáo vấn đề gì. Tuy nhiên điều quan trọng là hình tư
tưởng đang ở ngay trước mặt cơ sở mà anh chị N.H dự định thuê mướn làm tòa
soạn - Nếu làm báo viết báo mà người ta bịt mắt lại thì làm sao xem báo,
đọc báo? Quả nhiên chỉ một thời gian ngắn anh chị N.H. rời bỏ cơ sở này để
chuyển tới một nơi khác.
Hình tư tưởng hiện hữu khắp nơi và tác động ảnh
hưởng của nó rất lạ lùng. Trong cuộc sống mỗi người chúng ta cũng đôi khi
bắt gặp những hình tư tưởng báo trước sự cố hay báo trước kết quả nhưng
chúng ta hoặc không để ý hay không tin.
Những nhà nghiên cứu về các biểu tượng, hình tư
tưởng còn cho rằng: ngay trong chữ ký của
mỗi người cũng có ẩn tàng các biểu tượng về tương lai cuộc đời. Như
trường hợp chữ ký của người vũ nữ lừng danh Mata-Hary có những đường nét
lạ kỳ. Theo Bory, nhà nghiên cứu về chữ ký thì khoảng hở trong chữ ký của
người vũ nữ này là giai đoạn đứt gánh nửa chừng của đời nàng và 2 nét
ngang phía trên là dấu hiệu của tai bay vạ gió hiểm nguy. Quả nhiên
Mata-Hary bị bắt vì bị chính phủ Pháp tố cáo là điệp viên và bị xử tử. Hai viên đạn ghim vào tim phải chăng là dấu hiệu rõ nét trong chữ ký của
nàng.
Tại Trung quốc, sau cái chết của Ðặng tiểu Bình
dân chúng đã truyền tai nhau câu chuyện liên quan về Điềm triệu, đó là:
sau vụ đàn áp cuộc nổi đậy đòi Dân chủ của sinh viên Trung quốc tại quảng
trường Thiên An Môn, không hiểu nhờ ai bày vẻ mà sinh viên Đại
học Bắc Kinh đi lùng mua những bình sành và đợi ngày kỷ niệm vụ nổi
dậy, họ đồng loạt đưa bình ra cửa sổ cư xá sinh viên và đập vở bình - Hành
động lạ lùng này xảy ra nhanh chóng và được báo cáo ngay đến Đặng tiểu
Bình. Sự kiện xem ra không có gì quan trọng nhưng đối với họ Đặng thì đầy
là điều rất đáng sợ - Lý do là lúc mới sinh ra, cha mẹ ông muốn con về sau
được bình an nên mới đặt tên ông là Đặng tiểu Bình - Ngày nay Bình đã vỡ,
đó là điềm báo trước đời ông sắp tàn - Quả nhiên Đặng tiểu Bình qua đời
năm sau đó.
Theo Huyền Không Phong Thủy, cứ 500 năm là 1 Đại
nguyên, 180 năm là 1 Chính nguyên - 180 năm là chu kỳ hội họp của 9 hành
tinh ... Đặc biệt nhất vào giai đoạn này các hành tinh tự nhiên sắp xếp
thành đường thẳng hàng. Đó là hiện tượng mà cổ nhân gọi là Chu kỳ Cửu
tinh liên châu - nếu phân 180 năm này ra làm 3 thì mỗi 60 năm là một
Nguyên. Ba Nguyên ấy là Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Mỗi
Nguyên gồm có 3 thời kỳ - mỗi thời kỳ gọi là một Vận. Như thế 180 năm có
9 Vận tất cả. Hiện nay chúng ta đang sống trong vận 8 Hạ nguyên và cũng
chính vào giai đoạn thời gian này, các hành tinh trong Thái dương hệ của
quả đất chúng ta sẽ trở thành Cửu tinh liên châu như đã nói trên.
Hiện tượng các hành tinh sắp xếp cùng trên một
đường thẳng rất quan trọng, đó là một báo động lớn cho nhân loại kể từ năm
2004. Cổ nhân Đông phương qua bao kinh nghiệm từ hàng nghìn năm trước đã
cho biết trước rằng: một khi loài người bước vào giai đoạn Hạ nguyên thì
sự nguy hiểm, khổ đau, tai họa sẽ phát sinh rất nhiều. Chính vì lẽ đó mà
ta thường nghe nói đến thời mạt pháp, suy đồi hay có khi còn dùng hai chữ
rất đáng sợ là thời tận thế, tận diệt, mạt thế, mạt pháp – Kinh Thánh bảo:
đó là thời đại Phán xét...
Xét về mặt khoa học tự nhiên thì vào thời Hạ
nguyên, các hành tinh xếp theo cùng một đường thẳng sẽ tạo ra một sức hút
rất mãnh liệt tác động ảnh hưởng ngay trên quả đất mà con người đang sinh
sống. Dĩ nhiên sự tác động lớn lao khủng khiếp này sẽ gây nên những rung
động, xuyên phá ghê gớm mà ảnh hưởng dữ đội nhất là làm cho những đường
nứt có sẵn từ địa cầu sẽ làm bùng nổ ra những trận động đất, những cuộc
phun lửa của Hỏa sơn, những sóng Thần hung hãn, gây nên những tai họa
khủng khiếp... Thuyết Cửu tinh liên châu lúc đầu các nhà khoa học đã đánh
giá là quan niệm cổ xưa thiếu tính cách khoa học vì được nêu ra từ mấy
nghìn năm trước tại Trung Hoa. Nhưng ngày nay, chính các nhà thiên văn
nổi tiếng của Hoa Kỳ, Đức, Anh, Pháp, Ấn đều công nhận là vô cùng chính
xác và hoàn toàn khoa học. Theo thuyết Tam nguyên vận Khí thì vào năm 2004
là năm khởi đầu của gia iđoạn Hạ nguyên - vận 8, sẽ là giai đoạn của hiện
tượng 9 hành tinh sắp xếp theo một đường thẳng. Điều này đã trùng khớp
với khám phá của các nhà Thiên văn học lừng đanh thế giới về sự kiện các
hành tinh nằm thẳng hàng với nhau. Báo chí Âu Mỹ trong tháng 4 năm 2004
đều đăng tải những hàng tít lớn nói lên hiện tượng đáng sợ này. Theo giáo
sư Tiến sĩ khoa học môi sinh Lisa Grant thuộc Đại học UC Irvine và tuyển
sinh Tiến sĩ Eldon Gath thì có nguy cơ sẽ xẩy ra một trận động đất lớn có
số đo tới 6,7 độ tại Northridge nơi mà năm 1994 đã xảy ra trận động đất ở
quận Los Angeles. Cũng theo hai nhà khoa học này thì qua hơn 10 năm nhiều
lằn nứt tương tự như thế đã xuất hiện ở quận Cam Orange County. Hai nhà
khoa học đã mong chính phủ lưu tâm đến sự kiện này hầu giảm bớt phần nào
nguy cơ bị thiệt hại khi sự kiện xảy ra - mà vấn đề thời gian quả là khẩn
cấp vì theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì họ khẳng định là sẽ xảy ra
vào ngày 5 tháng 9 năm nay tức năm 2004, nặng nề nhất là tại sa mạc nam
California. Các nghiên cứu và khảo sát của các nhà Địa chất này đã đưa
vào việc khảo sát vùng đồi quận Cam - Puente Hills, San ta Ana mountains
và cả San Joaquin Hills nữa. Báo Desert Sun đăng tải tiên đoán về một
trận địa chấn lớn sẽ xảy ra trong một vùng rộng tới 12.000 dặm vuông ở Nam
Cali. Nhà tiên đoán là Khoa học gia Nga Vladimir Keilis thuộc Đại học
UCLA. Nhà khoa học này đã dùng toán học và dựa vào các dữ kiện từ những
trận địa chấn trong quá khứ để từ đó phát hiện ra trận động đất sẽ xảy ra
ở khoảng 6.4 độ. Một nhà khoa học khác, giáo sư Tiến Sĩ thuộc Đại học
Oregon là Ray Weldon - (người đã từng theo dõi các biến chuyển hoạt động
về đường nứt San Andreas trong suốt 18 năm qua) cùng với cộng sự cho hay
rằng Nam Cali là nơi cần lưu ý vì đường nứt San Andreas (nằm đọc nam Cali,
kéo dài từ Palmdale tới tận Salton Sea) này đang ở vào giai đoạn chấn động
thường xuyên. Nay thì sức ép và đường nứt sắp đi tới giai đoạn chấn động
mạnh để gây trận động đất lớn tại vùng này. Vì các nghiên cứu được đưa ra
từ những nhà khoa học nổi tiếng đã từng đoán đúng các trận động đất trong
quá khứ nên đã không khỏi lo lắng. Tuy nhiên không phải chỉ riêng tại Hoa
Kỳ hay cục bộ tại Nam Cali mà nhiều nơi có thể có những chấn động của quả
đất gây ra hỏa sơn, sóng thần, động đất - Lý do là khi các hành tinh sắp
theo một đường thẳng thì sức tác động lên quả đất của chúng ta sẽ rất lớn
lao khủng khiếp.
Đó là Sa Di Tan Wei Wen 8 tuổi người
Singapore, đã thọ giới Sa di cùng với người anh ruột. Cả 2
học rất giỏi và thích tu hành. Bước đầu họ vào trung tâm Phật giáo
tại Singapore để được thử thách, vì tu không phải là trò đùa mà toàn là
khó nhọc, nếu người không có ý chí và quyết tâm thì sẽ rất dễ bỏ cuộc nửa
chừng.
Cổ nhân Đông phương coi trọng tới các chu kỳ, thời
gian vận hành, đắp đổi. Lý do là các chu kỳ thời gian đã luôn luôn ảnh
hưởng tới quả đất và đời sống của nhân loại. Theo họ thì quả đất cũng có
thời kỳ phát sinh phát triển suy vong, hủy diệt. Đời mỗi người cũng có
những lúc vui lúc buồn, lúc vinh, lúc nhục, lúc giàu, lúc nghèo. Mỗi năm
cũng có chu kỳ khí hậu đổi thay. Tuy nhiên điều mà cổ nhân Đông phương
lưu ý nhất là chu kỳ 60 năm mà họ thường gọi là Lục thập hoa giáp.
Năm 2004 chính là năm khởi đầu cho một chu kỳ 60
năm mới, đó là một khởi đầu của một lục thập hoa giáp lịch sử thường chứng
minh rất rõ ràng về chu kỳ 60 năm. Theo kinh nghiệm của người xưa thì cứ
60 năm trên thế giới sẽ có những đổi thay to lớn lạ lùng xảy ra ở nhiều
nơi, nhiều quốc gia.
Các sự kiện lớn lao xảy ra tại mỗi quốc gia hay
chung cho cả thế giới đã tạo thành lịch sử của mỗi dân tộc hoặc rộng lớn
hơn là lịch sử thế giới. Có điều cần biết thêm là những sự cố trọng đại
xảy ra thường là những sự lập lại theo một chu kỳ thời gian. Mặc dầu chưa
ai có thể giải thích rõ ràng nguyên nhân phát sinh những sự cố theo đúng
chu kỳ như đã thấy nhưng sự kiện vẫn đều đặn xảy ra. Lần qua các trang sử
thế giới cũng như lịch sử mỗi quốc gia từ cổ đại tới nay, ta thấy sự lập
lại các biến cố theo chu kỳ thời gian như là một nhịp điệu sinh học rất lạ
lùng.
Trong Khoa bói toán cổ xưa của Trung Hoa có nói tới
chu kỳ thời gian này. Chu kỳ vận hành thấy rõ nhất của sự lập lại những
biến cố như đã từng xảy ra trong quá khứ thường phải trải qua 60 năm,
thường gọi là 60 năm Giáp Tý.
Ðối với khoa Phong Thủy thì lời giải thích chu kỳ
60 năm này phát sinh chính là thời gian để 3 hành tinh Mộc tinh, Thổ tinh
và Thủy tinh hội tụ lại trên một đường thẳng. Khi 3 hành tinh cùng nằm
thành một hàng như thế thì lực hấp dẫn của chúng gia tăng ảnh hưởng tới
quả đất mà con người đang sinh sống. Khi đó trên quả đất sẽ có thiên tai,
dịch họa, chiến tranh xảy ra. Nhà Phong Thủy nổi danh của Trung quốc hiện
nay là Trương Huệ Dân khi nghiên cứu vấn đề này đã ghi nhận rằng chu kỳ
lập lại những biến cố xảy ra trên quả đất đúng 60 năm thấy rõ nhất là các
thiên tai. Ví dụ như năm 1906 ở Tân Cương (Trung Hoa xảy ra trận động đất
dữ dội làm nhà cửa sụp đổ, nhiều người chết. Rồi 60 năm sau tức là vào
năm 1966 tại Hà Bắc cũng xảy ra một trận động đất lớn không thua gì trận
địa chấn 60 năm trước đó. Xem tài liệu ghi trong lịch sử địa chấn thấy
năm 1917 tại Cát Lâm xảy ra trận động đất mạnh gần cấp 8. Đến 60 năm sau,
tức là vào năm 1976 ở Đường sơn Hà Bắc lại xảy ra một trận động đất rất dữ
dội. Nếu khảo sát rộng hơn, nghĩa là quan sát toàn khắp thế giới thì ta
cũng thấy biến cố xảy ra... nếu xét theo các chu kỳ thời gian ta cũng thấy
chu kỳ thời gian 60 năm là rất quan trọng, chu kỳ ấy như là một giai đoạn
của sự đổi thay lớn lao, một sự biến đổi giống như thuyết âm Dương biến
đổi trong Kinh Dịch vậy. Ðể dễ thấy, dễ hiểu, không gì hơn là ta thử xem
qua đất nước Liên Sô trải qua 60 năm dài vững mạnh của một chế độ Cộng Sản
chuyên chính tưởng không có thế lực nào có thể thay đổi được. Ấý vậy mà
qua chu kỳ sáu mươi năm, đất nước này tự biến chuyển một cách lạ lùng về
chính sách và chính thể không ai có thể ngờ được.
Năm 2001, một biến cố khủng khiếp đã xảy ra trên
đất Mỹ kéo theo những hệ lụy lớn lao nếu không khéo sẽ nổ ra những trận
chiến tranh lan rộng khắp thế giới. Biến cố ấy chính là cuộc đại khủng bố
xảy ra ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại New
York và Washington D.C như mọi người đã biết.
Điều lạ lùng là nếu trở lại 60 năm trước đây tức là vào năm 1941, xét về
những biến cố trọng đại đã xảy ra trên thế giới thì ta cũng thấy sự kiện y
hệt đã diễn ra tại nước Mỹ. Qua tài liệu ghi chép những biến cố xảy ra
theo thời gian từ cổ đại tới nay trong cuốn The Timetables of history do
Bernard Giun biên soạn thì vào năm 1941, nghĩa là trước khi xảy ra sự kiện
kiện khủng bố 11 tháng 9 năm 2001 đúng 60 năm, nước Mỹ cũng bị máy bay tấn
công bất ngờ như vụ tấn công vào New-york và Ngũ Giác Đài Vụ tấn công chớp
nhoáng này do phi đội cảm tử Nhật thực hiện tấn công bất ngờ vào Trân Châu
cảng. Hai cuộc tấn công ở 2 thời điểm cách nhau đến 60 năm nhưng lại
giống nhau về ýđồ về vũ khí sử dụng. Hai cuộc tấn công đều sử dụng máy
bay bằng máy bay và kẻ lái máy bay một lòng quyết tử. Ngoài ra tài liệu
này còn cho biết là năm 1941, FBI Mỹ cũng bắt được những kẻ khủng bố đột
nhập vào New-york và Florida tương tự như trường hợp FBI bắt một số kẻ
khủng bố như vậy trên đất Mỹ vào năm 2001. Có một điều hơi lạ lùng trùng
hợp về danh từ nổi bậc của 2 cuộc tấn công cách nhau tới 60 năm, đó là
cuộc tấn công Trân Châu Cảng của quân Nhật được mang tên là Tora Tora. Sáu mươi năm sau, khi quân Mỹ tấn công vào Afghanistan, trận đánh được xem
là cuối cùng và dữ dội nhất nhắm vào mục tiêu quan trọng có tên là Tora
Bora, hai danh từ này chỉ khác nhau có một chữ mà thôi, đó là Tora thành
Bora.
Tại ấn Độ, một nhân vật danh hiệu Prakblat Ranjon
được các tín đồ Hindu xem là bậc Thánh nhân xuất thế. Ông này đã cho
rằng: "Sự sinh, diệt, sống chết, chiến tranh, hòa bình... đều tuân theo
quy luật chu kỳ xoay chuyển của vũ trụ. Chu kỳ ấy vận chuyển và biến đổi
trong khoảng 60 năm. Ngay cả lãnh vực kinh tế cũng tuân theo luật chuyển
vận chu kỳ. ông cho rằng kinh tế thế giới phát triển hay suy thoái tùy
theo chu kỳ thời gian.
Hiện nay chúng ta đang sống trong giai đoạn của Hạ
Nguyên vận 8: bắt đầu từ năm 2004 đến năm 2023, trường Khí tốt là Đông
Bắc. Lúc này Nhật là nước trỗi dậy mạnh nhất, kế đến là các nước như
Trung quốc, Bắc Hàn, Nam Hàn, Đài Loan.
Lý do là các quốc gia này định vị ở vùng Đông Bắc
địa cầu. Khi vũ trụ hình thành, một sự bùng nổ như hiện tượng Big Bang -
mà giới khoa học ngày nay công nhận - đã phát sinh ra một năng lượng cực
kỳ lớn trong vũ trụ mà cổ nhân Đông phương gọi là Đại trường Khí - Loại
Khí mang lại những năng lực sinh động, Khí của sự sống hay còn gọi là Sinh
Khí. Khí này luân lưu vận hành, trong vũ trụ và thường chuyển đổi hướng từ
năm 2004, đất nước nào định vị ở vùng Đông Bắc thì đất nước đó hưởng được
trường Khí tốt - nghĩa là phương Đông Bắc Khí mạnh, Khí ở Đông Bắc lúc đó
là tốt -Quý vị độc giả có thể xem qua bản đồ thế giới sẽ thấy rõ ràng là
Bắc Hàn, Nam Hàn, Nhật Bản, Trung quốc, Đài Loan định vị ở hướng Đông
Bắc... cho nên - nếu theo thuyết Tam Nguyên Vận Khí vừa kể trên thì từ năm
Giáp Thân 2004 này, thế giới sẽ thấy rõ sự bùng phát mạnh mẽ của những
quốc gia vừa kể trên về nhiều lãnh vực nhất là lãnh vực Kinh tế và Quân sự
- Chính những sự lớn mạnh của các nướcấy mà thế giới sẽ có những biến
chuyển quan trọng - nói khác đi là ảnh hưởng tới Vận mệnh của thế giới. Các nước vừa nêu trên nhờ có thêm lợi thế là được biển cả, đại dương bao
bọc hay kề cận nên được hưởng nhiều Khí tốt - vì theo Phong thủy thì:
Có nước tức có Khí Chỉ có điều là được Khí Đông Bắc tốt lành vào vận 8
nhưng vì trường khí hướng Đông Nam không thuộc Hạ nguyên đương Vận thì lẽ
dĩ nhiên Khí chưa tốt mà phía này lại thấp nên bị Khí bất lợi tràn tới. Chính vì lẽ đó thay vì những quốc gia này phát triển về những mặt hòa
bình, công ích cho cả thế giới, xã hội thì lại hăng hái phô trương hung
hãn trong vấn đề chế tạo, sản xuất, mua thêm vũ khí, gia tăng quân số tạo
nên hiềm khích hay tái võ trang... khiến trong vùng trở nên bất ổn.
Từ lý luận Vận Khí Phong Thủy, các nhà nghiên cứu
vấn đề này đều quả quyết rằng từ năm 2004, Nhật Bản chắc chắn , thật sự
bắt tay vào việc tái Võ trang vì Khí hướng Đông Bắc đã chuyển tới nước
Nhật một cách thuận lợi nên năng lực của trường Khí ấy đã kích động chÍnh
phủ và toàn dân Nhật trở nên hăng hái mạnh mẽ quyết tâm phát triển quân
sự, phô trương lực lượng - mà không một lực nào trên thế giới có thể cản
nổi. Tuy nhiên về mặt kinh tế thì: theo tài liệu suy đoán của Huyền không
học thì nước Nhật bước vào năm 2004 là năm Giáp Thân tức là bắt đầu đi vào
Vận 8 thì kinh tế lúc đầu tưởng là tấn phát, nhưng không ngờ lại yếu - Lý
do là thủ đô Tokyo bị vận Sát Khí. Cũng chính vì tình hình đó mà Nhật gia
tăng, phát triển quốc phòng mạnh mẽ. Nếu chính phủ Nhật Bản quyết định
chuyển kinh đô thì mới mong tránh được sự sút giảm về kinh tế. Về mặt Địa
lý Phong Thủy thì Nhật Bản là vùng đất tụ Ngũ Hành nhờ có 5 đảo lớn và bốn
nghìn đảo nhỏ. Hình dáng nước Nhật là vùng đất chuyển từ Đông Bắc xuống
Tây Nam giống con rồng đang quẩy mình trên biển mà phần cơ thể ở Đông Bắc
tràn đầy trường Khí tốt.
Ðối với Bắc Hàn thì từ năm 2004, khi đại trường Khí
vũ trụ chuyển vào Đông Bắc thì nước này như được thêm sức. Tuy nhiên vì
những đất đai núi đồi của Nhật Bản án ngữ phần Đông Bắc nên trường Khí vào
được Bắc Hàn bị hạn chế - Nếu không nước này sẽ gia tăng sự hăng hái cuồng
say khiến phát sinh những hành động cực kỳ nguy hiểm như phát động cuộc
chiến tranh nguyên tử chẳng hạn - Phải chăng đó là điều may mắn. Trong
khi đó Nam Hàn là vùng đất gắn liền Bắc Hàn nhưng lại ở phía dưới được
giáp 3 mặt biển dương nên nhận trường Khi tốt nhiều hơn, trở nên sáng
suốt, tự chế hơn - và sức mạnh quân sự cũng như kinh tế gia tăng. Do đó
Bắc Hàn bị kẹp giữa 3 thế lực: Trung quốc, Nhật Bản, Nam Hàn - cả 3 thế
lực này đều nhận đủ trường Khí tốt của Đông Bắc nên chung cuộc vấn đề Bắc
Hàn sẽ được giải quyết. Mặc dầu Bắc Hàn luôn luôn tỏ ra hung hãn, sẵn sàng
tuyên chiến với cả nước Mỹ nhưng Mỹ yên lặng, không trả đũa, không động
binh ào ạt - tại sao? Tại Đại trường Khí đang chuyển về Đông Bấc. Phải
chăng Mỹ cũng có quân sư tiết lộ vận Khí đầy năng lực này? Đọc tới đây
nhiều độc giả sẽ mỉm cười vì là chuyện giả tưởng khó tin. Nhưng nếu chịu
khó lục tài liệu thì sẽ thấy trong Vận 1, Khí của phương Tây rất mạnh -
hậu quả là Liên Sô tan rã, điều làm thế giới bàng hoàng, rồi cuộc chiến
vùng vịnh nổ ra, Mỹ vào Iraq như thế chẻ tre vậy mà tại Đại Hội Đồng Liên
Hiệp quốc, Trung quốc không bỏ phiếu phản đối mà chỉ bỏ phiếu trắng. Tại
sao? Theo nhà nghiên cứu Trường Khí xoáy Trương Huệ Dân (người Trung quốc)
thì Chính quyền Trung quốc trong phiên họp mặt với các quân sư lỗi lạc đã
chịu lắng nghe và đã hiểu rõ luật Vũ trụ khó xoay chuyển nên đã có quyết
định ấy . Cũng vậy, Trung quốc phải đợi tới gần cuối năm 2003, lúc trường
Khí vũ trụ chuyển dần về Đông Bắc, Trung quốc mới quyết định phóng tàu vũ
trụ có người điều khiển bay vòng quanh trái đất và đã thành công. Chúng
ta thử nhớ lại: vào năm 2008 sẽ là năm Trung Quốc đứng ra Tổ chức Thế Vận
Hội, tại saoThế vận Hội trước đó không lọt vào tay Trung quốc mà phải
2008? - Phải chăng là vì giai đoạn của Vận 2 trường Khí có lợi ở Đông Bắc,
nơi Trung quốc định vị?
Trong Vận 7, trường Khí vũ trụ từ hướng Tây nên các
nước Tây Âu và Mỹ mới phát triển mọi mặt. Lúc đó Trung quốc vẫn còn yếu
kém - Lý do là phía hướng Tây của Trung quốc quá nhiều núi non án ngữ
khiến cản trở trường Khí tốt ấy không vào được Trung quốc. Nhưng khi vào
Vận 8, trường Khí chuyển vào Đông Bắc thì Trung quốc hầu như nhận được
toàn bộ trường Khí này. Vì thế mà Trung quốc phát triển vượt bực không
những về Kinh tế, quân sự, ngoại giao mà cả về mặt nghiên cứu vũ trụ Không
gian để trở thành siêu cường sánh vai với Nga, Mỹ... Với sự thành công ấy
kết hợp với trường Khí tốt kéo dài trong 20 năm từ 2003 đến 2023, nếu
Trung quốc phát triển theo chiều hướng hòa bình, chú trọng về kinh tế hơn
là tăng cường quân sự thì đất nước Trưng quốc càng phát triển mạnh mẽ
không thể tưởng tượng. Tuy nhiên vì trường Khí mạnh lại thêm quá tự cao,
tự mãn đã hun đúc quốc gia này trở nên một mối nguy đối với các nước quanh
vùng và cũng là cái đích mà Mỹ phải lưu tâm. Nhất là khi T.T. Ôn Gia Bảo
tuyên bố thẳng thừng với báo Washington Post rằng: Trung quốc có dân số
1,3 tỷ sẽ đè bẹp tất cả và đủ sức kết thúc vấn đề lớn - Lời tuyên bố đầy
thách thức đã làm thế giới kinhn ngạc và lo sợ không ít - Đó chính là mầm
mống của sự sinh sát, thù địch nảy sinh hai đối thủ mạnh trên thế giới sẽ
quyết tâm triệt hạ nhau. Năm 2004 là năm khởi đầu của những sự cố sẽ xảy
ra cho các năm kế tiếp. Chính năm này, trường Khí Đông Bắc theo Sơ Đồ Bác
quái chính là cung hướng của Kiến thức của sự hiểu biết, học vấn, tư
duy... nên từ năm này Trung quốc sẽ nâng cao ,đổi mới về giáo dục từ hình
thức lẫn nội dung - Cũng từ đó mà dân trí ngày càng nâng cao, người dân
nhận thức được thế giới bên ngoài rất rõ tầm phát huy tinh thần dân chủ,
tự do dẫn tới những đòi hỏi về nhân quyền, dân sinh khắp cả nước. Biến cố
này sẽ làm thay hẳn bộ mặt Trung quốc nhất là về thể chế chính trị một
cách kỳ diệu lạ lùng chớ không đẫm máu như sự kiện Thiên An Môn. Ngoài ra
cần phải nói thêm về một vùng đất phát vượng, đó là Hồng Kông -
vùng đất này phát về Kinh tế, chỉ chao đảo vào năm 2003 thuộc vận 7 vì
chưa có Khí Đông Bắc - lúc đó phát sinh dịch bệnh Sars rất tai hại cho
Kinh tế Hồng Kông - Nhưng từ năm 2004 trở đi, Hồng Kông sẽ nhờ trường Khí
tốt của Vận 8 Hạ nguyên mà phát triển hưng vượng vượt mức không những về
kinh tế mà còn về vấn đề thể chế chính trị - Trung quốc kiểm soát Hồng
Kông nhưng rất khó điều khiển, ép buộc Hồng Kông theo đúng thể chế của
Trung quốc được...
Riêng với đảo quốc Đài Loan, hòn đảo này có
đủ núi non thuận hợp lại thêm Tứ Thủy triều quy - Nước chầu hầu bốn mặt
lại thêm trường Khí tốt đang chuyển về hướng Đông Bắc nên không lạ gì khi
thấy dân chúng lẫn chính quyền nơi đây năng động, phấn chấn, hăng say, sôi
nổi trong vấn đề muốn vùng đất mình trở thành một quốc gia riêng biệt. Tuy vậy, vị trí của Đài Loan so với các nước vừa kể thì hơi xa dần hướng
Đông Bắc, lại nữa, trường Khí chuyển từ Đông Bắc tới Đài Loan lại bị ngăn
cản bởi Nam Hàn, Nhật Bản nên sự tiếp thu Khí tốt không hoàn toàn - Do đó
chung cuộc Đài Loan vẫn không thể trở thành một quốc gia riêng biệt vì áp
lực của Trung quốc và kể luôn cả Hoa Kỳ quá mạnh.
Ðối với đất nước việt Nam thì vì định vị ở miền
Đông Nam châu á - với một dãi đất đài hình cong chữ S như cái bao lơn quay
mặt ra biển đông nên tuy không phải ở ngay vùng Đông Bắc nhưng lại dễ dàng
nhận cát Khí từ Đông Bắc tới dù không trực diện - Vì thế mà khởi từ năm
2003, Việt Nam đã dần dần phát triển về nhiều mặt nhất là Kinh tế. Qua
năm 2004 (bắt đầu vô Vận 8) là năm Giáp Thân hành Thủy luân lưu, chuyển
động nên Việt Nam càng tiến nhanh hơn không những về mặt giao hảo với các
nước, phát triển giao thương kinh tế và phát triển rộng lớn về hàng không
Về mặt chính trị, xã hội sẽ thay đổi, cởi mở tự do hơn - Đặc biệt về mặt
trao đổi E-mail, internet và truyền thông báo chí cũng mở rộng cửa hơn. Tiếc rằng sự thay đổi có hơi muộn màng, nếu Việt Nam ở vào tọa độ cao hơn,
ngang tầm với Đài Loan hay giữa Đài Loan và Nhật Bản nhận hoàn toàn trường
Khí Đông Bắc thì sự đổi mới của Việt Nam sẽ hoàn toàn vào giữa năm 2003
chớ không phải chậm chạp như hiện nay. Ngoài ra nếu Việt Nam không bị dãy
trường sơn che chắn ở hướng Tây thì Việt Nam đã hoàn toàn đổi mới vào
những năm của Vận 7 Hạ nguyên tức là từ năm 1984 –2003, thời gian đó
trường khí tốt vận hành từ hướng Tây. Nay từ năm Giáp Thân (2004) thế
giới đi vào vận 8, Việt Nam nhờ vùng đến nhô ra biển Đông (từ Thừa Thiên
Huế tới Khánh Hòa,Nha trang) đã phần nào nhận được trường Khí từ Đông Bắc
tới nên chính những vùng đất này sẽ đẩy nhanh tiến trình đổi mới nhanh
chóng đến độ ít ai ngờ -Chúng ta cũng đừng quên là chính Trạng Trình
Nguyễn Bình Khiêm, nhà tiên tri lỗi lạc của Việt Nam đã từng tiên đoán sự
kiện này cách đây 500 năm qua câu Sấm:
...Thân
Dậu niên lai kiến thái bình
Nếu xét về thời gian thì rõ ràng vào năm 2004 là
năm khởi đầu của vận II (từ 2004 đến 2023) - Theo trên thì trong Vận I (từ
năm 1984 đến 2003) Đại trường Khí của vũ trụ ở hướng Tây. Nhưng qua Vận
II thì Khí ấy đổi hướng chuyển về Đông Bắc. Như thế quốc gia nào nằm ở
hướng Đông Bắc sẽ được thuận lợi phát triển - Từ gần cuối năm 2003, khí
vận này đã chuyển dần về Ðông Bắc nên chúng ta không lạ khi thấy Bắc Hàn,
Trung quốc, Nhật bản... những quốc gia nằm ở hướng Ðông Bắc tự nhiên hùng
mạnh như Bắc Hàn tuy nghèo đói vẫn tự mãn, tự cường thách thức cả thế giới
và cho biết mình sở hữu vũ khí nguyên tử - Nam Hàn gia tăng, phát triển về
mặt quân sự. Trung quốc thì thành công về cả Kinh tế lẫn chinh phục vũ
trụ không gian – Ðài Loan thì thay vì chịu nhún nhường, lệ thuộc Trung
quốc thì lại quyết tâm biến thành một nước Cộng Hòa độc lập Tự chủ - Còn
Nhật bản thì quyết tâm đòi tái võ trang... Những sức mạnh ý chí, hành động
bộc lộ mạnh mẽ như thế là do Ðại trường Khí vũ trụ đã và đang chuyển vào
làm gia tăng năng lực. Do đó, từ năm 2004, thế giới sẽ thấy sự vùng lên
của những quốc gia nằm ở hướng Ðông Bắc. Ngoài ra theo các nhà Phong thuỷ
thì cơ sở làm ăn hay nhà nào quay cửa chánh về hướng Ðông Bắc thì từ năm
2004-2023 sẽ được phát đạt thuận lợi.
Chu kỳ những năm từ Mão tới Dậu mà năm Thân
nằm trong đó - thì thế giới luôn luôn có xáo trộn và dễ bùng nổ chiến
tranh. Những năm này thiên tai dịch bệnh gia tăng dữ dội. Ðặc biệt hơn
cả là chu kỳ từ năm 1999 (Kỷ Mão) năm giáp cuối của thế kỷ thứ 20 qua tới
năm 2001 là năm khởi đầu của thiên niên kỷ mới – năm mà từ thời đại xa xưa
nhân loại hồi hộp trông chờ - vì là năm được xem là Tận thế. Giai đoạn
này được mở đầu bằng cuộc Ðại khủng bố 9-11 - từ đó cho tới năm 2003 nổ ra
cuộc chiến tranh - phía Hồi giáo quá khích phát động cuộc chiến khủng
bố chống lại các nhóm phương Tây, nhất là Hoa Kỳ. Theo
các tiên tri thì phải tới sau năm 2005 tình hình thế giới mới
có hy vọng ổn định, an bình trở lại.
Quân khủng bố Al Qaeda trở nên mạnh mẽ sau
những năm tạm ẩn mình hầu chấn chỉnh nội bộ và kết hợp thêm nhân sự. Khi
Irag bị sụp đổ thì Al Qaeda lại càng được bổ sung thêm thành viên do những
kẻ đào thoát từ Irag qua.
Từ giữa năm 2003 cho tới năm 2004, quân Khủng bố sẽ
ra tay tấn công nhiều quốc gia Tây phương lẫn á châu, nhất là những nơi có
người Âu mỹ đi lại hay trú ngụ. Khủng bố tấn công luôn cả Ai Cập, Jordan,
Saudi Arabia và nhất là tại Hoa Kỳ tạo ra mối kinh hoàng về khủng bố không
nguôi và lịch sử thế giới sau này sẽ gọi thời kỳ này là thời kỳ củqa khủng
bố. ( nhiều báo cáo cho hay quân số Al Qaeda nay lên tới 18.000 và sẽ gia
tăng gấp bội – Ðáng sợ nhất là số người đông đảo này lại là những người
sẵn sàng ôm bom chịu chết.
Từ gần cuối năm 2003 trở đi đến 2004 sẽ có nguy cơ
quân khủng bố quay lại tấn công hoàng gia Ả rập Saudi Arabia và gây cuộc
đảo chánh bất thành - Kết cuộc Saudi Arabia hoàn toàn ngả về phe Hoa Kỳ và
tạo một nước ả Rập cởi mở. .
Hoa Kỳ sẽ chịu nhiều cuộc khủng bố xảy ra - New York rất dễ bị khủng bố
tấn công một lần nữa sau biến cố 9-11 của năm 2001.
Riêng Âu châu cũng bị khủng bố tấn công và nhất là
Anh quốc vào các năm 2003, 2004.
Ờ vùng Đông Nam á vào năm 2004 sẽ có ít nhất là 2
quốc gia bị nạn khủng bố hăm dọa nặng nề.
Iran sẽ có thay đổi lớn như một cuộc cách mạng mặc
dầu trước đó đã quyết tâm không liên kết với Mỹ.
Bắc Hàn dần dần đi vào quỹ đạo của thế giới tư bản,
tự do sau một số thất bại của Kim Chánh Nhất. Một cuộc đảo chánh hay nổi
loạn ngay tại Bắc Hàn là điều khó xảy ra - Ngoại trừ trường hợp Bắc Hàn bị
đói trầm trọng. Nếu Bắc Hàn không được các nước viện trợ thực phẩm thì
một trận chết đói sẽ xảy ra chưa từng thấy tại đây - Điều đó dễ dẫn tới sự
"một hành động liều mạng" khó lường nếu Kim chánh Nhất còn cầm quyền. Trong Sấm Ký Nostradamus có hai câu thơ mà cho tới nay các nhà suy đoán
tương lai còn phân vân chưa biết nhà tiên từ mô tả hình ảnh sẽ xảy ra tại
đất nước nào - Nếu là tại Bắc Hàn thì quả thật rất nguy hiểm:
Sự trả thù tức khắc phát sinh,
Từ hàng trăm bàn tay,
Lúc ấy sao chổi vút qua,
Kéo theo đói và khát...
Hình ảnh sao chổi vút qua phải chăng là loại Hỏa
tiễn có đầu đạn nguyên tử của Bắc Hàn?
Nếu Bắc Hàn hành động liều lĩnh thì hậu quả sẽ rất
khủng khiếp: Nostradamus đã cất tiếng than qua đoạn sấm ký:
Hận thù kéo theo hận thù.
Bởi sự hận thù dâng cao.
Làm tiêu diệt kẻ hận thù
và người bị hận thù...
Có lẽ vì điều đó mà thế giới không muốn Bắc Hàn bị đói - đó là điều kỳ
diệu - Tại sao Bắc Hàn là một xứ nghèo đói mà lại hùng hổ dương cao sức
mạnh? Chỉ có vấn đề Bắc Hàn định vị ở Đông Bắc, nơi thuộc Đại trường Khí
Vũ trụ hiện diện từ năm 2004 mới giải thích tại sao một nơi đầy hung hãn,
bất trị như thế mà vẫn tồn tại và được cung cấp viện trợ mà thôi.
Từ cuối năm 2003 tới năm 2004, Đài Loan luôn
luôn quyết tâm muốn trở thành một Nước Cộng hòa khác với Nước Trung quốc -
TổngThống Trần Thủy Biển sẽ là một cha già của dân tộc Đài Loan vào năm
2004 - Nhưng cuối cùng thì không phải vậy.- Chỉ ngoại trừ có một biến động
nào đó do quyền lợi tối thượng mà ông bị ám sát hay bị lật đổ hạ bệ vì một
cuộc đảo chánh do bàn tay của một thế lực siêu cường.- còn không, ông sẽ
là một ngôi sao sáng tại Đài Loan. Vào năm đầy biến động 2004 nơi xứ sở
nhỏ bé này. Cần lưu ý rằng Đài Loancũng định vị ở trục, hướng Đông Bắc -
nơi Đại Trường Khí Vũ trụ chuyển tới khởi từ năm 2004.
Đối với Trung Quốc thì quốc gia khổng lồ này
sau trận dịch Sars lan tràn gần như toàn bộ những thành phố lớn của Trung
quốc và ngay cả Hồng Kông vào năm 2003 đã là một trong những mũi nhọn kích
thích sự đổi mới. Trận dịch quái ác đã làm phe bảo thủ tại Trung quốc ngỡ
ngàng, nếu không nói là bỉ mặt về sự trì trệ quan liêu bá quyền và cổ hủ
về chính sách điều hành, cai trị. Nền kinh tế Trung quốc mặc dầu phát
triển vào năm 2003 nhưng là "phát triển trong cái yếu kém" - Những hình
ảnh của cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Iraq đã làm Trung quốc thức tỉnh - Năm
2004 sẽ là năm mà khách hàng mua sắm vũ khí hiện đại cao cấp sẽ nườm nượp
ra vào nước Mỹ và nước Mỹ sẽ lời to từ cuộc chiến tranh Iraq - Điều mà
giới tài phiệt đều biết rõ. Cũng nhờ đó mà Phe đổi mới tại Trung quốc
ngày càng mạnh. Năm 2004 sẽ đánh dấu một khúc quanh lịch sử về kinh tế,
chính trị và quân sự tại Trung quốc - nhất là sau khi Trung quốc thành
công trong vấn đề TàuVũ trụ có người lái của họ bay vòng quanh trái đất 64
lần - Trung quốc như con tằm lột xác, như người ngủ mê bừng tỉnh dậy vươn
vai rồi làm việc hết mình và sửa chữa những sai lầm cả về ý thức hệ lẫn
chính sách và hành động sai lạc từ hằng chục năm qua để biến Trung quốc
thành một siêu cường thực sự. Trung quốc từ năm 2004 nhất là khi Đại
trường Khí vũ trụ chuyển đến Đông Bắc, nơi Trung quốc định vị - sẽ là quốc
gia quyết tâm hiện đại hóa quân lực mãnh mẽ nhất và là quốc gia mua nhiều
vũ khí và nhấm vào những kỷ thuật cao của Mỹ nhất – Cũng từ đó, Trung
quốc sẽ có những bước nhảy vọt về tự do dân chủ nhất là lãnh vực kinh tế,
truyền thông và giáo dục - Năm 2004 là năm mở đầu cho những cải cách này
vì đây là năm Giáp Thân, biểu tượng bởi con Khỉ tinh Khôn, khác xa con Dê
đầy mơ mộng, ảo tưởng của năm 2003 Quý Mùi.
Thế giới trong thế kỷ thứ 20 phân ra Tư bản và Cộng
sản. Nhưng qua thế kỷ 21, thế giới còn phân ra nhiều mặt như Hồi giáo đối
nghịch với Tây phương, Hoa kỳ đối nghịch với các nước Đức, Pháp, Trung
quốc và Nga - Tuy nhiên Nga lại nhiều khi đứng giữa.
Tiên tri của chiêm tinh gia Ấn Độ J.M.Lal
Mahadjan cho hay rằng trong tương lai không xa, Nga sẽ xích gần lại
với Hoa Kỳ tạo liên minh nên Hoa Kỳ sẽ không lo sợ Nga chống đối - Sở dĩ
như vậy là nhờ 2 quốc gia này cùng chung ảnh hưởng tác động của hành tinh
Mercury (Thủy Tinh). Về mặt khoa học thì theo kết quả khám phá
trong năm 2003 của các nhà thiên văn học thì Thủy tinh Mercury, hành tinh
gần mặt trời nhất trong hệ thống Thái Dương của chúng ta đang tiến dần vào
vùng giữa mặt trời và quả đất trong tháng 5 Dương lịch của năm 2003. Sự
vận hành này rất hiếm khi xảy ra. Theo nhà tiên tri Ấn thì đây là giai
đoạn hi hữu hổ trợ năng lực cho 2 quốc gia Nga và Mỹ liên kết giúp đỡ nhau
- Nếu có xảy ra những bất đồng thì đó cũng chỉ là vì một số chính sách
ngoại giao quốc tế thông thường mà thôi, nhưng trong bề sâu của quyền lợi
2 nước thì lại khác và họ sẽ hổ trợ nhau nhất là khi nước Nga đang còn yếu
kém thua Mỹ về nhiều mặt.
Đối với các nước Âu châu thì năm 2004, thế
giới sẽ có một liên minh mới mà một số lớn chư hầu của Nga Sô trước đây
như Tiệp khắc, Ba Lan, Hung Gia Lợi, Georgia, Ukraine... đều theo Mỹ nên
quân Mỹ trong tương lai gần sẽ trải rộng khắp thế giới hơn cả ngày nay. Trong khi đó một số nước có vai vế ở Âu Châu như Pháp Đức kéo theo Bỉ và
một vài nước khác tạo thành một liên minh quân sự không chịu sự ảnh hưởng
của Anh và Mỹ hay nói khác đi là muốn loại Mỹ ra khỏi Âu Châu. ương lai
thế giới lại có cơ xảy ra những hục hặc lớn từ các nước mà trước đây là
đồng minh với nhau.
Từ năm 2004 trở đi vấn đề tiêu thụ và tích trữ để
dành dầu hỏa trên thế giới lại càng gia tăng khủng khiếp - nhất là Hoa Kỳ
và các quốc gia như Nga, Pháp, Đức và cả Trung quốc. Chỉ xét riêng nước
Mỹ không thì mỗi ngày đã phải dùng tới trên một tỷ lít dầu lửa chỉ riêng
cho xe cộ chạy mà thôi thì cũng biết là chi phí về dầu lửa lớn như thế
nào. Nhưng cũng chính dầu lửa sẽ gây chia rẽ giữa Hoa Kỳ và các nước thuộc
khối NATO.
Cũng từ vấn đề dầu lửa và Việt Nam được Hoa Kỳ để ý
và "ưu ái” không rời.
Đức sẽ là quốc gia hùng mạnh kể từ năm 2009
bỏ xa Pháp, vượt cả Nga để chuẩn bị trở lại thời bá chu của thập niên 39,
40...
Về phần Đông Nam á châu thì Nhật Bản
sẽ tái võ trang và tiếp tục liên minh với Mỹ - Từ năm 2004 trở đi tới năm
2008 Nhật Bản trở lại vị thế siêu cường về cả kinh tế lẫn quân sự - Nhật
Bản sẽ trở thành lá chắn quan trọng ngăn cản Trung quốc lẫn Bắc Hàn...
Indonesia dần dần hòa nhập với thế giới phương Tây và từ 2004 bắt đã
đi vào quỹ đạo của Mỹ. Phi luật Tân trở thành Đồng Minh của Mỹ chặt
chẻ còn hơn trước năm 1975. Mã Lai á chống Mỹ mạnh mẽ nhưng
một cuộc đảo chánh làm thay đổi cục diện chính sách. Lào sẽ trở thành tư
bản và nhất là Cambodia lại đi với Mỹ rõ ràng nhất. Riêng Việt Nam
thì năm 2004 mạnh dạn đổi mới để sau năm 2005 thì chính sách xem như hoàn
toàn khác hẳn thời xưa cũ.
Hướng qua đảo quốc Cuba thì nơi đây chính quyền
Castro cố sức vượt qua nạn thiếu thốn thực phẩm - nhưng càng ngày đất nước
này càng suy sụp - dân chúng đói khổ lầm than nhất là khi Hoa Kỳ gần cuối
năm 2003 đẩy mạnh vấn đề trừng phạt kinh tế đối với đất nước bé nhỏ này -
Năm 2004, Cuba bắt đầu lung lay! - Dân chúng giảm niềm tin rất lớn vào
chính quyền - Chủ tịch Fidel Castro sẽ qua đời hay thất sủng từ năm
2006,2007.
Tổng Thống Mỹ George W. Bush rất dễ bị ám
sát, nhất là vào năm 2003 là năm mà Tử vi Đông phương cho rằng ông bị sao
Thái Bạch tác động và lại gặp hạn Toán tận rất nguy hiểm tính mệnh. Qua
năm 2004 lại gặp nạn Thiên La coi chừng đau bệnh, bị hại ngầm, bị hệ pháp
luật, tranh chấp, chống đối - nhưng may mắn có sao Thái Dương chiếu nên
nếu tranh cử nhiệm kỳ hai thì dù cho bị đủ thứ diềm pha, trở ngại, khó
khăn nhưng chung cuộc trong 10 phần thì thắng 6 đến 7 phần - Tuy nhiên năm
nay Âm dễ thắng Dương nên nếu có một nhân vật Nữ ra tranh cử Tổng Thống
thì đó là địch thủ đáng gờm nhất đối với ông Bush.
Năm 2004 sẽ có thế lực đằng sau muốn thay thế Giáo
Hoàng - Nhưng dù đau yếu, ngài vẫn can đảm, kiên trì - Đối với ngài thì
còn nhiều việc mà ngài chưa hoàn tất - Năm này (2004) sức khỏe của Đức
Giáo Hoàng suy yếu, bệnh ảnh hưởng tới máu huyết nhiều hơn. Trong khi đó
thì Sấm ký Nostradamus lại có khổ thơ về ngài như sau:
Ngài được bầu lên làm
Giáo Hoàng,
Nhưng có nhiều thế lực
ganh ghét Ngài.
Con người Thánh thiện
và quả cảm ấy,
Bị chết bất ngờ trong
đêm!
Năm 2004 là năm sẽ xảy ra nhiều biến cố về chống
đối, phản kháng cũng như trấn áp - Tuy nhiên chính năm này cũng sẽ khởi
đầu những thay đổi nhảy vọt, lớn lao về kinh tế, chính trị và quân sự - Về
truyền thông sẽ có nhiều thông tin có tính cách tự do không bưng bít - đó
là giai đoạn khởi sự cho trào lưu tư tưởng tự do. Những năm kế tiếp nhất
là những năm có 3 tháng đủ liền như năm2007, 2015, 2017, 2020, 2025, 2026,
2028 thì ngay tại Việt Nam sẽ có những sự cố lớn lao liên quan tới thiên
tai (bão tố, lụt lội, động đất...), dịch bệnh hay chiến tranh. Nhưng đồng
thời từ năm 2006 tới 2007, Việt Nam sẽ có Thánh nhân (nhân vật tài ba lỗi
lạc, hiền lương..) xuất hiện đồng thời khi đó Việt Nam sẽ bang giao kết
hợp rộng rãi với nhiều quốc gia trên thế giới và nhất là với các nước Âu
Mỹ, phát triển mạnh về giáo dục kinh tế hơn cả Đài Loan Trung quốc, riêng
trong năm 2003, 2004 sẽ có sự thay thế nhân sự trong nội bộ Đảng - Nhiều
cải cách sẽ diễn ra - nhất là sau chuyến công du nước Mỹ của tướng Phạm
văn Trà. Phe bảo thủ ngày càng yếu trong khi phe cải cách, nhìn xa thấy
rộng nguy cơ tương lai rất dễ bị khống chế toàn bộ bởi Trung quốc nếu
không tìm một cường quốc mạnh để đi giây hay nương tựa - Nước Mỹ chính là
cường quốc số một mà sức mạnh đã được “quảng cáo” rất rõ ràng qua truyền
hình trong 2 trận chiến với Iraq. Chuyến đi Mỹ của Tướng Trà tuy không
quảng bá rầm rộ trên ti vi và báo chí thế giới nhưng lại là chuyến đi quan
trọng, chuyến đi của sự bàn thảo sự đối mới, và nhất là để chuẩn bị cho
việc hiện đại hóa vũ khí và quân đội – vì sức mạnh quân sự của Trung quốc
gia tăng quá mãnh liệt - Ngay cả những quốc gia trước đây run sợ trước
Việt Nam như Mã lai, Phi luật Tân, Tân gia Ba, Thái Lan mà nay quân đội
của họ phát triển gia tốc tới độ nếu có đụng độ giữa họ và Việt Nam thì
Việt Nam được ví như trứng chọi đá - quả thật là quá nguy hiểm - Chuyến đi
của tướng Trà còn khởi đầu cho tiến trình kế tiếp bàn về khai thác dầu và
các mỏ quý hiếm tại Việt Nam. Từ năm 2004, Hoa Kỳ sẽ bắt đầu tính tới vấn
đề dầu lửa tại Việt Nam - Các đại công ty dầu khí và các mạch mỏ của Hoa
Kỳ cho đến nay vẫn là những công ty đứng đầu thế giới về khả năng khai
thác tài nguyên, dầu khí đang nhắm và chờ đợi Hoa Kỳ bật đèn xanh là đổ
máy móc chuyên viên vào Việt Nam khai thác dầu khí ở vùng biển Việt Nam
(vùng biển Côn Sơn và cả ở vịnh Thái Lan - qua các tài liệu về tài nguyên
địa chất thế giới thì trữ lượng dầu khí, các mạch mỏ dưới lòng đất vùng
biển tại Việt Nam được xem là lớn nhất vùng Đông Nam á châu. Suốt mấy
chục năm qua, sau khi Mỹ rút khỏi Việt Nam, máy móc dụng cụ điện toán siêu
đẳng của các vệ tinh Mỹ vẫn không ngừng theo dõi và khám phá đất đai biển
cả Việt Nam - do đó những gì nằm khuất lấp dưới các tầng lớp địa tằng dưới
núi non của dãy trường sơn đều hiện rõ và ngày nay các chuyên gia Mỹ đã
biết chắc những nơi thâm sâu ấy tích chứa vô số các quặng mỏ quý hiếm nên
đối với Mỹ, Việt Nam vẫn là nước không thể rời. Còn về phía Việt Nam thì
nay đã mở rộng tầm mắt và đã biết rõ là khó có ai khai thác tài nguyên cho
mình thành công và có lợi một cách đàng hoàng bằng nước Mỹ cả.
Hết.
---o0o---
Vi tính: Diệu Khánh.
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật: 10-2007