Mùi Hương Trầm
Nguyễn Tường Bách
---o0o---
Phần thứ hai: Ấn
Độ, suối nguồn thiêng liêng
1
BIHAR,
VÙNG ĐẤT THÁNH
^
Ngày nay Ấn Độ là một quốc gia thống
nhất với 25 tiểu bang và 800 triệu dân. Trong số các tiểu bang thì Bihar
là một vùng đất đặc biệt nằm phía Đông Bắc Ấn Độ với thủ phủ là Patna.
Bihar rộng khoảng nửa nước Việt Nam và với một số dân khoảng 90 triệu
người, tiểu bang này có mật độ dân cư rất cao.
Bihar được xem là vùng đất thánh của
Ấn Độ không phải chỉ vì có sông Hằng chảy qua. Đó là một vùng đất lạ lùng
vì nó là nơi sản sinh và hoạt động của nhiều thánh nhân vĩ đại của Ấn Độ.
Cách đây hơn 25 thế kỷ, đây là cũng là vùng hoạt động chính của Phật
Thích-ca. Tại Bihar ngày xưa trong thế kỷ thứ hai sau công nguyên đã thành
hình viện Phật học Na-lan-đà. Đây là nơi các vị luận sư nổi tiếng như Long
Thụ, Trần Na giảng dạy, là nơi các vị tổ thiền Ấn độ lưu trú, là chỗ đón
tiếp những khách hành hương đến học tập như Pháp Hiển, Huyền Trang. Bihar
cũng là quê hương của rất nhiều vị Đại thành tựu giả,
đó là những vị có chung một đặc điểm là trong một đời người mà giác ngộ
giải thoát sau khi trải qua nhiều cuộc khủng hoảng. Những vị đó là những
thánh nhân kỳ dị mới đầu mang đầy ô nhiễm của thế nhân, nhưng cuối cùng
lại biến dục lạc thành phương tiện giác ngộ. Đó là những du già sư xuất
hiện cuối cùng trước khi đạo Phật diệt vong tại Ấn Độ. Trong các vị này
có một kẻ mang tên Ti-lô-pa, đây là vị tổ đầu tiên của phái Ca-nhĩ-cư của
Tây Tạng.
Ngày nay người ta còn nhắc tới Tan-tê-pa, người mê đánh bạc, chỉ cần quán
“thế giới cũng rỗng như túi tiền của mình“ mà ngộ Tính Không. Hay
Kan-ka-ri-pa, kẻ say đắm nữ sắc, người được dạy hãy quán nữ nhân của mình
là thần Không hành nữ
và nhận ra “mọi sắc thể đều do tự tính
biến hiện“. Họ làm ta nhớ đến Từ Đạo Hạnh của Việt Nam trong thế kỷ 12,
trong một đời mà từ bỏ hắc đạo để “làm Phật làm tiên“
Vì thế Bihar có một lịch sử của hai
ngàn năm trăm năm. Ngày Phật còn tại thế thì phía nam sông Hằng của vùng
này là một tiểu quốc tên gọi là Ma-kiệt-đà, tại phía bắc là nước
Kiều-tát-la.
Thời đó vua của Ma-kiệt-đà là Tần-bà-sa-la và kinh thành của ông là Vương
Xá, thị trấn này ngày nay có tên là Rajgir. Như đã nói trong phần trước,
ông chẳng may có người con trai ngỗ nghịch là A-xà-thế. A-xà-thế giam cha
mẹ vào ngục, bỏ đói đến chết, giành ngôi vua và dời đô lên phía bắc Vương
Xá, đến Hoa Thị Thành,
nằm trên bờ nam sông Hằng. Hoa Thị Thành phồn vinh suốt cả ngàn năm, ngày
nay có tên là Patna. Patna chính là thủ phủ của tiểu bang Bihar, có sân
bay nội địa.
Trở lại chuyện ngày xưa thì sau đời
A-xà-thế là một triều đại phồn vinh có tên là Maurya
lên ngôi, với sự lãnh đạo của nhà vua Chandragupta. Ông lấy Hoa Thị Thành
làm kinh đô, thống nhất các vương hầu làm thành một thế lực hùng mạnh. Hồi
đó là thế kỷ thứ ba trước công nguyên mà Chandragupta đã bắt đầu liên lạc
với các nhà vua Hy lạp. Thế nhưng lúc đó cũng chưa phải là giai đoạn vàng
son vì lịch sử phải đợi đến một người cháu của Chandragupta tên gọi là
A-dục (Ashoka) mới lên đến tột đỉnh. A-dục trị nước từ năm 269-232 trước
công nguyên và vương quốc của ông hùng hậu chưa từng thấy, trải dài từ
Kashmir phía bắc đến Mysore miền nam, từ Bangladesh đến Afganistan ngày
nay, hầu như toàn bộ nước Ấn Độ mênh mông bây giờ. Nhưng quyền lực bao giờ
cũng phải được trả giá bằng xương máu, nhất là thời phong kiến của A-dục.
Ngày nọ trên một bãi chiến trường đẫm máu, ông động tâm sâu sắc, thề không
nhúng tay vào chinh chiến nữa. Ông tìm nơi Phật Thích-ca là người thầy của
mình, cho xây dựng trong vương quốc của mình khoảng 30 trụ đá’,
18 tấm thạch bích ghi lại những lời giáo hóa và tán thán về đức Phật mà
ngày nay người ta còn tìm thấy tại Bihar, Orissa, Delhi, Sarnath.
A-dục cho nhiều sứ giả mang kinh
sách, tranh tương đi khắp nơi các vùng Đông Á để truyền bá đạo Phật. Huyền
sử chép rằng ông có làm quà cho Trung Quốc một bức tượng của Phật
Thích-ca, bức tượng đó ngày nay được thờ tại Lhasa Tây Tạng, bức tượng
« biết nói », được xem như thiêng liêng nhất của Tây Tạng.
Con trai của A-dục là Mahendra về sau thành tăng sĩ, người đã mang giáo
pháp qua Tích Lan. Tiện đường, Mahendra cũng mang một nhánh con của cây
Bồ-đề, chỗ Phật thành đạo qua Tích Lan trồng và ngày nay còn xanh tốt. Trụ
đá mang đầu sư tử của A-dục cho xây dựng ngày nay là quốc huy của nước Ấn
Độ.
Sau khi vua A-dục chết năm 232, vương
triều Maurya sớm suy tàn, nước Ấn Độ lại chia năm xẻ bảy ra nhiều tiểu
quốc và suốt 2000 năm sau đó, cho tới lúc người Anh chiếm nước này làm
thuộc địa, không có một vương quốc nào trên bán đảo này mà sự hùng mạnh có
thể so sánh với thời kỳ A-dục. Khoảng sáu trăm năm sau A-dục, tức trong
thế kỷ thứ 4 sau công nguyên là thời đại Gupta. Gupta cũng là một triều
đại rực rỡ của Ấn Độ về văn hóa, triết học và toán học. Thế nhưng triều
đại Gupta không kéo dài hơn 200 năm. Khoảng thế kỷ thứ 7, một tôn giáo
khác ra đời, đó là Hồi giáo. Sau khi nhà sáng lập Hồi giáo là Mohammed
chết năm 632, đạo Hồi lan đến Ấn Độ năm 712 và bắt rễ tại đây, đồng thời
mối tranh chấp giữa Hồi giáo và Ấn Độ giáo bắt đầu nảy sinh. Trong những
cuộc thánh chiến giữa Hồi giáo và Ấn Độ giáo sau đó, đạo Phật cũng bị suy
yếu nặng nề, thế lực của Hồi giáo cũng lan tràn đến Bihar và vùng đất
thiêng liêng này là kẻ chứng kiến biết bao thảm họa do lòng tin tôn giáo
mù quáng gây ra. Ngày nay trên bán đảo Ấn Độ mênh mông, đạo Phật xem như
đã diệt vong, chỉ còn Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Giữa hai tôn giáo đó là một
sự tranh chấp sâu xa, khi âm ỉ, khi bùng nổ, nhưng nó luôn luôn hiện diện
từ những bình diện chính trị cao nhất đến đời sống bình thường của nhân
dân.
Tuy có một quá khứ huy hoàng nhưng
Bihar ngày nay là một tiểu bang nghèo. Hoa Thị Thành hay Patna là cố đô
của một thời chói lọi, lại là điểm xuất phát để đi thăm nhiều thánh tích.
Vì thế tôi lấy máy bay từ Delhi đi Patna.
2
ĐI DỌC
SÔNG HẰNG ^
Hãy ra khỏi Delhi, rời bỏ các lâu đài
tráng lệ, các vùng nghỉ mát danh tiếng để tìm hiểu kỹ hơn nước Ấn Độ. Tôi
đã đi nhiều nơi trên thế giới, giàu nghèo khác nhau nhưng chưa thấy nước
nào kỳ lạ, đầy những ấn tượng trái ngược như Ấn Độ. Ta không thể nào hiểu
được nước này, không thể mô tả nó. Nhà văn Mỹ Mark Twain, người có nhiều
nhận xét sâu sắc hóm hỉnh, thăm Ấn Độ năm 1896, viết về xứ này như sau:
“Mỗi khi bạn nghĩ là mình đã tìm hiểu hết những tính cách lạ lùng của nước
này và muốn cho nó một danh hiệu nào đó...xứ sở của dịch hạch, xứ sở của
nghèo đói, xứ sở của những ảo giác khủng khiếp, xứ sở của những ngọn núi
ngất trời...vân vân, thì lại sớm hiện ra những tính cách mới và bạn thấy
cần những danh hiệu mới“. Cuối cùng Mark Twain thấy hay nhất là vứt bỏ mọi
danh hiệu và đặt tên Ấn Độ là “xứ sở của sự kỳ diệu“.
Đây là nơi mà ta phải ngắm Taj Mahal
lúc nửa đêm, nhìn cái nghèo đói lúc ban ngày, nếm cái bụi bặm của những
làng quê buồn tẻ, đi lạc trong màu sắc rực rỡ và tiếng ồn ào của các
basar, nhìn những đàn bò và khỉ sống chung với con người, xem những
đám rước tôn giáo mê say quên mình. Đây là nơi mà thiên nhiên cho dấu ấn
một cách sắc nét nhất với những con sông, những ngọn núi, với sức nóng tàn
khốc và những cơn bão kinh người.
Đây là một quốc gia thuộc về 15 nước
công nghiệp hàng đầu trên thế giới nhưng 70% dân chúng vẫn cày cấy với
dụng cụ thô sơ của cha ông để lại và sống bên bờ của sự thiếu ăn. Tại Ấn
Độ, trong một nhà máy có thể người ta đang sản xuất bom nguyên tử và tên
lửa liên lục địa nhưng ngoài nhà máy vẫn là nơi sửa xe bò theo cách của
thời A-dục vương để lại. Trí thức Ấn Độ có thể là những triết gia nhất nhì
thế giới, là các nhà khoa học xuất sắc được nhiều nước tranh nhau mời về
nghiên cứu, họ sống bên cạnh 60% dân chúng mù chữ. Phú gia Ấn Độ rất nhiều
và cũng rất giàu có, của cải của họ không ai biết hết được, dưới mái hiên
cung điện của họ là những tu sĩ thiếu cả áo quần che thân ngồi đợi mặt
trời mọc để hành trì phép du-già.
Tiểu bang Bihar là một vùng có nhiều
tu sĩ như thế. Patna, thủ phủ của Bihar, cách Delhi khoảng 800km đường
chim bay về hướng đông nam. Máy bay hầu như bay dọc theo dòng chảy của
sông Hằng trên địa phận tiểu bang Uttar Pradesh.
Uttar Pradesh là một dãy bình nguyên
nằm kề sát chân Hy-mã lạp sơn. Đây là một vùng thấp nhưng ít nước khó canh
tác, chỉ một phần ba đất trồng trọt có các hệ thống tưới tiêu lấy nước từ
sông Hằng. Vì thế từ xưa đến nay Uttar Pradesh là một vùng nghèo. Thế
nhưng đây là đường trực tiếp nhất đi từ vùng rẻo cao Simla về Bihar nên
chính vùng này là đường mà ngày xưa Huyền Trang đã đi hành hương. Đây là
dịp đọc lại
và tìm hiểu lộ trình của ông trong thế kỷ
thứ 7.
Máy bay đi qua địa phận của hạt
Bijnor nằm trên tả ngạn sông Hằng, đó là nơi mà Huyền Trang lưu lại trong
mùa xuân và hè năm 635 để nghiên cứu kinh sách của phái tiểu thừa Nhất
thiết hữu bộ,
một bằng chứng về tính bác học của ông, mặc dù hồi đó lòng ông đã hướng
hẳn về phía đại thừa. Đi thêm một đoạn sông Hằng nữa là thủ phủ Kannauj mà
ngày Huyền Trang đến là một thành phố hết sức phồn vinh, là kinh thành của
một nhà vua rất mộ đạo Phật tên gọi là Harsavardhana, trị vì từ năm 606
đến 647. Cũng trong vùng trung lưu sông Hằng này, Huyền Trang đến tiểu
quốc Ayodhya, quê hương của hai nhà sáng lập phái Duy thức là anh em Vô
Trước
và Thế Thân,
sống trước ông khoảng hai trăm năm. Huyền sử chép rằng Ayodhya là nơi mà
Vô Trước mời Bồ-tát Di-lặc hạ giới giáo hóa. Suốt bốn tháng liền, Vô Trước
cứ ban đêm thì nghe Di-lặc giảng, ban ngày thì giảng lại cho đại chúng.
Di-lặc được xem là tác giả của bộ « Du già sư địa », bộ luận mà Huyền
Trang là người dịch ra chữ Hán. Huyền Trang đến thăm lại tu viện nằm trong
một vườn xoài, nơi mà Vô Trước giảng cho em là Thế Thân ngộ lý Duy thức.
Sau khi đại ngộ, Thế Thân định rút dao cắt lưỡi vì từ xưa đến nay ông luôn
luôn phát biểu chống Duy thức nhưng lại Vô Trước lại là người cứu em khỏi
câm. Ayodhya là quê hương tâm linh của Huyền Trang vì ông chính là người
đem phái Duy thức về Trung Quốc dưới tên Pháp tướng tông.
Sau một giờ bay, máy bay ở khoảng vị
trí Allahabad, chỗ giao lưu của sông Hằng và sông Yamugar, đó cũng là nơi
Huyền Trang thoát chết một cách huyền bí. Ông bị một nhóm giặc cướp bắt và
bị lấy hết hành lý. Thế nhưng chẳng may cho ông là nhóm giặc này đang tìm
giết một chàng trai khôi ngô tuấn tú để tế cho nữ thần Durga mà Huyền
Trang thì quá đẹp trai. Ở đây xem ra chuyện Tây Du ký của Ngô Thừa Ân nói
về Đường Tăng bị yêu quái mê mẫn không phải hoàn toàn bịa đặt. Sau khi
thuyết phục giặc cướp không xong và thấy chúng đang mài dao kiếm, Huyền
Trang thấy mình đã tới số, ông ung dung xin họ chút thời gian để cầu đức
Di-lặc đưa mình về trời Đâu-suất nghe pháp. Lúc linh ảnh của Di-lặc xuất
hiện trong tâm của Huyền Trang thì cũng là lúc đá chạy cát bay. Giặc cướp
hoảng hồn hỏi gia nhân ông về tung tích nhà sư này. Gia nhân kể cho họ
nghe ông là một tu sĩ Trung Quốc qua Ấn Độ hành hương và thỉnh kinh. Và
khi Huyền Trang mở mắt ra chịu chết thì giặc cướp đã phủ phục dưới chân
ông.
Sau Allahabad, lẽ ra Huyền Trang phải
thuận đường thủy tiếp tục đi theo sông Hằng về hướng đông đến Lộc Uyển,
chỗ đức Phật chuyển pháp luân nhưng không hiểu tại sao ông đổi hướng, đi
ngược lên hướng bắc tìm đến quê hương của Ngài. Có lẽ qua biến cố vừa rồi,
ông thấy chuyến đi quá hiểm nguy, phải đến đảnh lễ chỗ Phật đản sinh tại
Lâm-tì-ni để phòng trước đời mình có ngắn ngủi. Lúc đó Huyền Trang không
biết rằng mình còn sống 30 năm nữa.
Còn tôi, kẻ hậu sinh sống thêm mấy
đời cũng không làm nổi học trò ông, thì ngồi máy bay đi tiếp về Hoa Thị
Thành. Ôi, xấu hổ làm sao khi thấy nghị lực và trí tuệ của người xưa. Ngày
nay người đi hành hương quá dễ, quá khỏe, quá tiện nghi. Nếu ngày xưa con
người phải đổi mạng để lấy kinh sách và để được cảm khái đến gần dấu chân
thánh nhân thì ngày nay chỉ cần một cú điện thoại là có chỗ mà ở, có xe mà
đi. Ngày nay chỉ cần bấm một cái nút là kinh sách hiện lên trên màn hình,
thêm một cái nút nữa là in ra hàng loạt. Nhớ lại ngày xưa, có người cả đời
chỉ khắc được một câu kinh, còn nay ai muốn có thiên kinh vạn quyển đều
được. Thế nhưng ngày nay xem ra không mấy ai minh triết hơn người thời xưa
vì con người hình như không còn ai muốn đọc, muốn suy ngẫm về kinh sách
ngày xưa. Khó hơn thế nữa, trong tâm thức tôn giáo, dù có biết nhiều hiểu
rộng, biết tán tụng suy luận, chúng cũng không mang lại gì cả trên đường
tìm kiếm. Chúng đều là những ngọn gió tri thức chỉ tạo thêm mây mù che ánh
sáng của giác ngộ. Điều mà hành giả cần có phải chăng là “bồ-đề tâm“, điều
mà Phật giáo Tây Tạng vô cùng coi trọng. Có bồ-đề tâm thì một câu kinh
cũng đủ, không có thì thiên kinh vạn quyển cũng vô ích. Tìm hiểu bước
đường lữ khách của Huyền Trang không phải là tò mò xem ông đi đến đâu mà
để cảm khái tâm bồ-đề kiên cố của ông. Và nhờ thế mà ta biết mừng vui cho
những người đem cả đời ra để tạc một bức tượng, khắc một câu kinh. Những
tác phẩm đó đều là gỗ đá nhưng chúng là phương tiện để bồ-đề tâm được thể
hiện.
3 .HOA THỊ THÀNH^
Ra khỏi máy bay cảm giác đầu tiên của
tôi là thấy hơi nóng khủng khiếp tràn đến. Tôi nhủ thầm: “Đức Phật ngày
xưa phải chịu cái nóng này sao“. Sân bay Patna làm tôi nhớ đến sân bay Qui
Nhơn, nó có cái nhỏ của loại sân bay làng, hành khách đi bộ dưới cánh máy
bay vào ga lãnh hành lý. Trên đường đi bộ tôi cũng đi ngang những đoạn sân
bê-tông có lót loại lưới sắt của quân Mỹ hồi xưa như ở sân bay Qui Nhơn mà
lúc tôi đến vẫn còn. Patna là nơi đầu tiên tôi đến sau Delhi, dù đoán
trước, tôi cũng phải ngỡ ngàng về sự nghèo nàn và luộm thuộm của xứ Ấn Độ.
Tới đây tôi mới nếm cái nóng Ấn Độ, Delhi là miền ôn đới nằm phía bắc gần
Hy-mã lạp sơn thì khác hẳn. Ra khỏi sân bay Patna, quang cảnh hiện ra với
tôi đúng là miền nhiệt đới châu Á, với các loại cây như cây me, liễu,
chuối hay cau của chúng ta.
Patna hay Hoa Thị Thành là đây, đây
là nơi A-dục vương triệu tập hội nghị kết tập lần thứ ba khi ông đã trị vì
toàn nước Ấn Độ. Thấy Patna, tôi thất vọng tự nhủ, cố đô của A-dục vương
ngày nay như thế này sao ? Không thể được !
Đó là một thành phố nằm trên bờ nam
sông Hằng, dơ bẩn và buồn tẻ. Tôi ngẩn ngơ đi xích lô trong thành phố, để
cho ấn tượng tự kéo đến, ấn tượng của kinh thành nhà vua A-dục mà tôi yêu
mến. Tới đây tôi mới biết Delhi là quá sang trọng, quá sạch sẽ. Sông Hằng
gần Delhi cũng sang trọng hơn sông Hằng của Patna. Những người giàu có
kiêu ngạo họ sống ở Delhi hay những nơi nghỉ mát như Simla cả, họ đâu cần
đến đây xây cất nhà cửa. Còn nhà nước Ấn Độ xem ra quá tải với những vấn
đề của dân số đặt ra, họ đâu có kinh phí để sửa chữa xây dựng. Khi tôi
đến, trời đã về chiều, thành phố với một triệu rưỡi dân này gây một cảm
giác buồn bã. Thật ra qui mô thủ phủ này rất lớn, xứng đáng là kinh thành
của Ma-kiệt-đà một thời hiển hách, đô thị có một bề dài chừng 10 cây số.
Ngày nay ánh sáng vương giả đã tắt.
Nhưng Hoa Thị Thành, nơi đây bao
nhiêu thánh nhân đã sống, là kinh đô của triều đại Maurya và Gupta, tại
sao hiếm có những di tích văn hóa ? A-dục vương cho xây cất biết bao công
trình trên toàn xứ Ấn Độ nhưng ngày nay Hoa Thị Thành sao chỉ có những di
tích tầm thường như một cái tháp bán cầu tên là Golghar cao 30 mét chứa
thóc gạo phòng đói kém của một người Anh tên là John Garstin xây năm 1786
mà người ta giới thiệu với du khách ?
Tôi nhớ rằng, trước công nguyên xứ sở
hùng mạnh của nhà vua Chandragupta của nước Ma-kiệt-đà này đã từng liên hệ
với “phương tây”. Phương tây ở đây tức là Hy Lạp mà đại sứ nước này tại Ấn
Độ là một vị tên gọi là Megathenes. Magathenes kể lại nhiều giai thoại về
thư từ qua lại giữa Ấn Độ và Hy Lạp thuở đó. Theo đó, vua Ấn Độ Bindusara
(con của Chandragupta) yêu cầu vua Hy Lạp gửi rượu ngon và nho khô, đồng
thời một ít sách vở về “triết học”. Hy Lạp cũng là một quê hương vĩ đại về
triết học của loài người. Vua Hy Lạp Antiochus trả lời là rượu và nho thì
đang gửi nhưng triết lý thì không ai “cho không biếu không”. Chúng ta biết
thời đó tại Ấn Độ, triết học và văn hóa rất phát triển tại Hoa Thị Thành
và hẳn Bindusara muốn so sánh học thuật nước mình với nước ngoài. Người kế
vị Bindusara chính là vua A-dục và vị này, sau một thời kỳ chinh chiến,
lấy triết lý Phật giáo làm chủ đạo, nhưng đồng thời hết sức tôn trọng các
tôn giáo khác. Đó là một điều rất mới lạ trong lịch sử tôn giáo Ấn Độ.
Megathenes cũng viết về Hoa Thị Thành
trong tác phẩm “Indika”, rằng đây là một thành phố phồn vinh với 570 tháp
và 64 cổng thành. Tất cả những công trình đó nay ở đâu ? Người ta kể tôi
nghe rằng năm 750 có một đại hồng thủy và tất cả đều bị hủy diệt, nay chỉ
còn nền đá. Thì ra Hằng hà đã nổi giận thật sự và có lẽ biến cố đó đã làm
dịu con sông thiêng. Ngày nay ra bến sông Hằng ta thấy nó êm dịu như mặt
hồ.
Thực tế lịch sử chưa hẳn như vậy.
Huyền Trang đã đến đây khoảng năm 639 và theo lời kể của ông thì lúc đó
thành phố này đã suy tàn. Sau A-dục vương thì Hoa Thị Thành còn là cố đô
Ấn Độ cho đến thế kỷ thứ tư dưới triều đại Gupta
và sau đó chìm vào bóng tối. Khi Huyền Trang đến thì ông chỉ còn tìm thấy
hai ba tu viện của hàng trăm ngôi đền ngày trước. Nơi đây Huyền Trang đến
bờ sông Hằng, thăm lại một tảng đá cũ, đây là nơi Phật Thích-ca lúc đó đã
tám mươi tuổi nhìn lại kinh thành lần cuối trước khi qua bờ bắc để về
Câu-thi-na, nơi Ngài nhập diệt. Huyền Trang viết: ”Ở bờ nam con sông, đứng
trên một tảng đá lớn hình vuông, Ngài nhìn A-nan một cách trìu mến và nói:
‘Đây là lần cuối mà ta nhìn ngắm ngai vàng và kinh thành’”.
Tôi đi tìm lại tảng đá nhưng ngày nay
không còn ai biết đến nó. Bờ nam sông Hằng giờ đây lầy lội bùn đen và vẫn
là chỗ thiêu xác như mấy ngàn năm trước. Nếu phải tìm một thành phố cổ,
ngày xưa là một kinh đô cường thịnh, ngày nay đã rơi vào bóng tối của
nghèo nàn và quên lãng, biểu tượng cho tính vô thường của mọi sự thì đó
phải là Hoa Thị Thành.
Điều gì làm Hoa Thị Thành sớm bị hủy
diệt, khác với các trung tâm văn hóa nằm gần đó, cũng trong tiểu bang
Bihar ? Tôi cho rằng Hoa Thị Thành là kinh thành vua chúa, nó có đặc trưng
của một kinh đô chính trị của A-xà-thế dựng nên, khác hẳn với những công
trình văn hóa. Và không có gì chóng tàn bằng những chế độ chính trị vì
chúng là đối tượng của sự hủy diệt. Chỉ năm mươi năm sau khi vua A-dục
chết, triều đại hùng hậu này đã suy tận. Chính trị có cái đặc biệt dễ làm
say lòng người là khi nó cường thịnh thì ai cũng tưởng nó thiên thu vĩnh
viễn, thế nhưng nó ngầm chứa cái mầm bội phản của phe phái và khi hết thời
thì nó suy tàn rất nhanh, như nhà xây trên cát. Lịch sử thế giới, kể cả
lịch sử mười năm trở lại đây, luôn luôn nhắc lại điều này nhưng con người
vốn chóng quên và dễ say mê, họ luôn luôn lao vào chính trị và học lại cái
bài học đó. Và cũng đừng nghĩ là chính trị chỉ nằm trong chính trường, nó
cũng có thể nằm trong các tu viện mà vì lẽ đó Tây Tạng ngày nay đang chịu
thảm họa. Vì là thuần túy kinh đô chính trị, Hoa Thị Thành ngày nay không
còn gì. Nếu không bị thiên tai năm 750 thì nó cũng sẽ bị tín đồ Hồi giáo
phá hoại vài thế kỷ sau đó.
Tôi ngồi xích lô cho xe chạy quanh
thành phố, từ những ngõ ngách trong nội thành đến bờ sông Hằng, nơi cúng
tế và thiêu xác. Một niềm hoài vọng tràn ngập tâm tôi. Những con đường nhỏ
hẹp này hẳn đã ghi dấu biết bao nhiêu người của mấy trăm thế hệ. Nó là nơi
trị vì của vua chúa cũng như chỗ lui tới của những thánh nhân. Trên bước
đường đi trong đô thị này với số tuổi khả kính của hơn 2500 năm, ta có thể
nghĩ ngày xưa biết đâu đây là nơi mà Phật và đoàn tăng già đã đi qua, các
vị du già sư ngồi thiền định, các vị đại thành tựu giả làm nghề thợ may,
thợ giày, thợ giặt… như sách vở kể lại. Ngoài những điều đó ra thì Hoa Thị
Thành ngày nay chỉ là trạm nghỉ chân cho khách hành hương đi thăm những
thánh địa gần đó và là điểm xuất phát đường bộ cho lữ khách đi Kathmandu,
thủ đô Nepal.
4. NA-LAN-ĐÀ, ĐẠI HỌC PHẬT GIÁO ĐẦU TIÊN
^
Na-lan-đà cách Patna 70 cây số về
hướng đông nam. Tôi từ Hoa Thị Thành, còn mang nặng ấn tượng của thành phố
đó, đến Na-lan-đà một buổi sáng trời đẹp và bất ngờ thay, đây là một vùng
đất xinh đẹp, cỏ cây tươi nhuận. Tại cổng vào Na-lan-đà có một biển đá đen
trình bày tổng thể khu vực và viện đại học Phật giáo đầu tiên này được gọi
là “phế tích” vì ngày nay tất cả hầu như chỉ còn nền đá.
Đây là viện Phật học đầu tiên của thế
giới được xây dựng trong thế kỷ thứ hai sau công nguyên. Dưới triều đại
Gupta thế kỷ thứ tư, Na-lan-đà trở thành một viện đại học thật sự. Liên
tục 700 năm nơi đây được mở rộng và tu bổ mà mạnh nhất là trong thời nhà
vua Harsa (606-647) và triều đại Pala (từ 750). Suốt một thời kỳ khoảng
1000 năm, đây là nơi sản sinh hàng trăm luận sư danh tiếng nhất của Phật
giáo. Trong thời kỳ cực thịnh có đến 10.000 tỉ-kheo tu học tại đây. Khoảng
cuối thế kỷ thứ 12 Na-lan-đà bắt đầu bị tín đồ Hồi giáo tàn phá và năm
1235 hai tu viện cuối cùng bị hủy diệt và đó cũng là thời kỳ Phật giáo suy
tàn tại Ấn Độ.
Lòng tôi hân hoan không tả được khi
thăm viếng phế tích này. Đó là một tổng thể những công trình xây dựng dài
khoảng 500 mét theo trục nam-bắc. Bên mặt của trục chính là khoảng 10 tinh
xá, ngày xưa đó là giảng đường và cũng là cư xá của các giảng sư hay lưu
học sinh. Trong các giảng đường ta còn có thể nhận ra được bục giảng của
giảng sư, sinh viên ngồi xung quanh dưới đất. Bên trái trục chính là nền
đá của bốn ngôi đền lớn, ngày xưa được dùng làm thư viện và tháp thờ. Ngày
nay tất cả đều chỉ là nền đá trơ trọi thế nhưng chúng gây biết bao lòng
cảm khái và khâm phục cho người thăm. Bất ngờ và cũng đáng trân trọng
thay, một xứ nghèo như Ấn Độ, nơi mà đạo Phật đã suy tàn gần mười thế kỷ
mà một phế tích như Na-lan-đà lại được chăm sóc chu đáo. Ngày tôi đến, ở
đây có một màu nắng êm dịu và và màu cỏ xanh nhắc tôi dường như đây vẫn
còn sức sống.
Nói Na-lan-đà được xây dựng trong thế
kỷ thứ hai là nói viện Phật học chứ thực ra trong thời Phật tại thế khu
vực này đã là vùng đất thiêng. Nó chỉ cách Vương Xá 11 cây số về phía bắc
và mỗi lần Phật rời kinh thành này của vua Tần-bà-sa-la đi lên miền bắc,
Ngài thường nghỉ trong vườn xoài Pavarika ở đây. Đây cũng là quê hương của
Xá-lợi-phất, vị đệ tử có “đại trí tuệ” và cũng là nơi ông chết. Đến thời
A-dục vương, nhà vua đã cho xây một ngôi chùa tại đó và ba trăm năm sau,
một nhà vua nước Ma-kiệt-đà tên là Sankraditya mới thành lập nơi đây viện
Phật học. Viện này không phải đợi lâu vì cũng trong thế kỷ thứ hai đó đã
có một nhân vật kiệt xuất tên là Long Thụ
ra đời, đến Na-lan-đà tu học và về sau trở thành viện trưởng. Long Thụ là
một trong những luận sư xuất chúng nhất của Phật giáo, Ngài được xem là
đức Phật thứ hai, sự xuất hiện của Ngài là lần chuyển pháp luân thứ hai.
Ngài là người chịu suy luận nhất của lịch sử Phật giáo, là người sáng lập
Trung quán tông
,
đồng thời lại là vị tổ thiền thứ 14 của Thiền tông Ấn Độ truyền từ đức
Thích-ca xuống.
Tiếp nối truyền thống, sau Long Thụ
là những thế hệ của giảng sư và luận sư danh tiếng như Thánh Thiên, Vô
Trước, Thế Thân, Hộ Pháp, Trần Na, Giới Hiền giảng dạy. Thời đó Na-lan-đà
đã là mẫu
mực của tính khoa học cầu thị. Nơi
đây 18 trường phái Phật giáo của thời kỳ đó đều được giảng dạy, từ vệ-đà,
tiểu thừa, Duy thức, nhân minh cho đến các ngành khác như toán học, y học.
Cả “giáo sư nước ngoài” cũng được mời dạy mà người nổi tiếng nhất lại là
Huyền Trang. Ông tới đây học Duy thức với Giới Hiền
,
lúc đó vị thầy viện trưởng này đã 106 tuổi. Kẻ hành hương Trung Quốc này
mô tả kiến trúc của các tinh xá và giảng đường với một lòng yêu mến và sự
chính xác mà về sau các nhà khảo cổ phải thừa nhận là hoàn hảo
.
Đó là năm 637, khi Huyền Trang đến
Na-lan-đà và thưa với Giới Hiền: “Con từ Trung Quốc đến và xin Ngài chỉ
dạy triết lý Duy thức”. Giới Hiền khóc vì mừng rỡ và kể Huyền Trang nghe
cách đây không lâu ông đã bị bệnh tưởng mình sắp chết. Đêm nọ ông nằm mơ
thấy ba vị bồ-tát hiện đến, mặc ba màu áo khác nhau, vị mặc áo vàng, vị áo
xanh thẩm, vị kia áo trắng. Đó là ba vị Văn-thù, Quán Thế Âm và Di-lặc và
chỉ thị cho Giới Hiền phải sống tiếp và đợi một người từ Trung Quốc tới mà
giảng dạy. Nơi đây Huyền Trang đã được truyền thừa trực tiếp triết học Duy
thức, đã truyền từ Vô Trước, Thế Thân đến cho Trần Na
, Hộ Pháp
và học trò của Hộ Pháp chính là Giới Hiền. Huyền Trang ở lại đây 15 tháng
để học tập và hoàn thành bộ Thành duy thức luận
,
tổng kết mười vị đại luận sư
của Duy thức tông mà nói như Grousset là “tổng kết 700 năm tư tưởng Ấn
Độ”.
Ôi, thì ra Na-lan-đà là quê hương của
hai trường phái vĩ đại của Phật giáo là Trung quán tông và Duy thức tông,
một nói về tánh, một về tướng. Chẳng đâu khác, đó chính là nguồn gốc của
triết học Phật giáo đại thừa mà ngày nay nó đã lan tỏa khắp thế giới, mà
Việt Nam cũng đã tiếp thu.
Tôi nhìn quanh một vùng đất vắng vẻ,
hôm nay không ai đến tham quan. Cảm động thay được đến nơi đây. Đây là nơi
hàng chục ngàn người đã cầu nguyện và học tập, hàng chục thế hệ của thánh
nhân đã giáo hóa, ánh sáng minh triết Phật giáo đã từ đây chiếu khắp bốn
phương. Biết bao phép lạ đã xảy ra nơi đây, hỡi các cành cây ngọn cỏ đang
rung rinh trong gió.
Tôi bỗng nhớ tới Tịch Thiên
.
Ông là một cao tăng thuộc phái Trung Luận sống khoảng thế kỷ thứ 7, 8.
Tương truyền ông là một vương tử nhưng thụ giới tỉ-kheo và đến Na-lan-đà
học tập. Thế nhưng khi đồng môn chăm chỉ học hành thì ông chỉ biết ngủ.
Na-lan-đà hồi đó là một học viện rất nghiêm khắc, đúng như Huyền trang kể:
“…cả ngày các vị đều luôn luôn biện luận. Những ai không thể biện luận về
kinh điển đều không được kính trọng và phải lẫn tránh vì xấu hổ…”. Thế
nhưng Tịch Thiên cũng chẳng chịu lẫn tránh và đồng môn dự định sẽ bêu xấu
ông là “lười biếng” để ông phải bỏ viện ra đi. Tới ngày bị thử thách, ông
lên giảng đường, tuyên bố sẽ giảng một bộ luận mới và sau đó tụng đọc tập
Nhập bồ-đề hành luận
.
Đến chương thứ chín, người ông bắt đầu bay lên khỏi ghế, lơ lửng trên
không và qua chương cuối thì đồng môn chỉ còn nghe tiếng ông nói, thân ông
biến mất. Về sau Tịch Thiên từ chối chức viện trưởng để vào rừng làm thợ
săn. Bị chê trách phạm lỗi sát sanh, ông dùng thần thông cho thú vật sống
lại và nói bài kệ:
Con nai trên bàn ăn,
chưa hề sống hề chết,
chẳng bao giờ vắng bóng.
Đã không gì là Ngã,
sao lại có thợ săn,
hay thịt của thú rừng?
Ôi người đời đáng thương,
mà các ngươi lại gọi,
ta là kẻ “lười biếng”.
Ngày nay, Nhập bồ-đề hành luận
là kinh sách giáo khoa của Phật giáo Tây Tạng và cách hành xử của Tịch
Thiên được dân chúng nơi đó yêu thích truyền tụng.
Sau Tịch Thiên vài trăm năm, cuối thế
kỷ thứ 12, Na-lan-đà bị xóa tên trên xứ Ấn Độ. Có một đạo quân mang tên
một giáo phái đã đến đây hủy diệt Na-lan-đà và cả xứ Ma-kiệt-đà. Mọi sự
vật khi lên đến đỉnh cao của nó đều trở về với sự suy tận, đó là qui luật
bất di bất dịch, Na-lan-đà cũng không tránh khỏi. Thế nhưng nơi đây ta có
thể tự hỏi phải chăng một trong những nguyên nhân của sự suy tàn quá sớm
của đạo Phật tại Ấn Độ là sự tập trung cao độ tại Na-lan-đà, sự tập hợp có
tổ chức của tôn giáo thành những định chế có tính cách tăng lữ, nhất là
lại được các vương triều ra sức hỗ trợ. Đó là những nhân tố làm Phật giáo
vướng vào quyền lực và chính trị, chúng là mầm mống của mọi tranh chấp và
thảm họa. Tôi nhớ đến lịch sử Phật giáo Trung Quốc hay Tây Tạng thường bị
bức hại sau một thời kỳ được các vương triều biệt đãi. Và trong thời đại
ngày nay chế độ tăng lữ của Phật giáo Tây Tạng đang lâm tai họa lại thêm
một lần nữa minh chứng cho suy nghĩ này. Hãy làm theo Tịch Thiên vào rừng
làm thợ săn hay như Gampopa, bỏ tu viện cao quí đi tìm Milarepa nơi chỗ
độc cư hẻo lánh. Lời Lão Tử vang vọng lại với tôi ngày hôm đó tại
Na-lan-đà “Vật mạnh lớn ắt già, Ấy là trái Đạo, Trái Đạo mất sớm”
.
5.
“VUI ĐẸP THAY THÀNH VƯƠNG XÁ”
^
Từ Na-lan-đà đi về phía nam khoảng 11
km là đến Vương Xá, tức Rajagaha, ngày nay tên là Rajgir. Đến Vương Xá
không mấy ai ngờ ngày xưa đây là kinh đô của nhà vua Tần-bà sa la, nơi mà
đức Phật thường đi khất thực. Ngày nay Vương Xá là một thị trấn nhỏ đầy
bụi bặm như mọi nơi tại Ấn Độ, cách xa thị trấn vài cây số đã là đồng
không mông quạnh.
Đây là Vương Xá sao, nơi mà đức Phật
từng gọi là “vui đẹp”? Ngày xưa nó là kinh đô của Ma-kiệt-đà, là nơi mà
Phật Âm
mô tả là có 32 cửa chính và 64 cửa phụ. Từ trước công nguyên, sau khi
A-xà-thế dời đô đi Hoa Thị thành thì Vương Xá đã suy tàn.
Kinh thành Vương Xá của nhà vua ngày
xưa được xây một cách hiểm yếu, xung quanh là ba núi vây bọc. Dọc trên các
đỉnh núi đó nhà vua còn cho xây các trường thành mini, tương tự như
vạn lý trường thành Trung Quốc để chống ngoại xâm. Người thực hiện các
trường thành đó không ai khác hơn là A-xà-thế, lúc ông chưa phản lại vua
cha. Chắc là quá ngán ngẫm chuyện xây 40 cây số trường thành, về sau
A-xà-thế bỏ Vương Xá, dời đô đi Hoa Thị Thành. Ngày nay khách đến Vương Xá
thì sẽ thấy phía bắc của Vương Xá cũ có một thị trấn nhỏ với một ga xe
lửa, còn thành Vương Xá thuở xưa ngày nay không còn ai ở. Tôi đi theo sườn
núi với lòng u hoài, đúng như tâm sự của Huyền Trang vì lúc ông đến đây
thì Vương Xá cũng đã đổ nát. Chỗ mà ngày xưa Phật đi khất thực bây giờ là
một con đường chạy giữa hai vách núi, thưa thớt những bụi cây con và đầy
cỏ dại.
Ngày xưa người du sĩ mang tên Cồ-đàm,
lúc chưa đắc đạo đã từng đi ngang Vương Xá. Nhà vua Tần-bà-sa-la, người
trẻ hơn Phật năm tuổi biết du sĩ này có dòng dõi vương tước, có phẩm cách
cao quí mới đề nghị nhường một phần đất Ma-kiệt-đà để cùng trị vì. Thật là
chuyện đời xưa mới có ! Dĩ nhiên là người du sĩ Cồ-đàm từ chối. Dù đó là
chuyện hiếm hoi nhưng có lý vì không lẽ kẻ du sĩ đã bỏ ngai vàng tại nước
mình đi khoảng hơn sáu trăm cây số để nhận một ngai vàng khác. Nhớ rằng
ngày xưa sáu trăm cây số đi cả vài tháng mới tới.
Nghe vậy, Tần-bà-sa-la mới thỉnh cầu
Cồ-đàm sau khi đắc đạo hãy trở về thăm ông. Đức Phật nhận lời và về sau
Ngài tới Vương Xá rất thường xuyên và nhà vua cũng tặng Ngài một ngôi vườn
trồng toàn tre tên là Trúc Lâm (Veluvana), chỗ này có rất nhiều sóc. Vườn
Trúc Lâm tại Vương Xá là chỗ ở thân thiết của Phật nên ta hay gặp trong
các tập Bộ kinh đoạn sau đây: “Một thời đức Thế Tôn ở tại Vương Xá, trong
vườn tre Veluvana, chỗ nuôi dưỡng sóc…”.
Phật giảng nhiều bài kinh tại đây,
thường là trong buổi sáng sớm. Trong các tập Bộ kinh thỉnh thoảng ta còn
thấy câu: “Đức Thế Tôn thấy quá sớm để vào thành Vương Xá khất thực nên…”.
Hình như kinh thành vương giả quen dậy muộn, Phật thấy ra đi khất thực
“quá sớm” nên thỉnh thoảng Ngài dành thì giờ đi thuyết giảng cho kẻ tầm
đạo mà ngày nay người ta tìm thấy nội dung trong các bài kinh.
Tôi tìm đến vườn tre Trúc Lâm nằm
phía bắc của Vương Xá, ngày nay khu vườn được nhà nước Ấn Độ cho rào bọc
cẩn thận. Trong vườn hiện còn một hồ nước trong xanh, hồ này được Huyền
Trang ghi trong ký sự cách đây 13 thế kỷ. Hồ này chính là hồ Kalandaka,
nơi đức Phật thường tắm. Trong vườn, đường lối ngay ngắn, hoa lá xinh đẹp
và tôi chợt thấy lòng mình an bình vô hạn. Tại một nơi trong vườn hiện còn
một số bụi tre lớn nửa xanh nửa vàng, mang lá dày đặc.
Theo Schumann
nơi

H 4: Sơ đồ Vương Xá: Phía bắc là thị trấn Vương Xá mới,
phía trên bên trái là vườn tre Veluvana, ở giữa là kinh thành Vương Xá cũ,
phía nam kinh thành là điện giam vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara’s Jail), bên
mặt của điện là vườn Jivaka, phía đông bắc là tháp hòa bình thế giới
(Shanti Stupa) trên núi Bảo sơn và cuối cùng bên mặt chỗ có ô vuông là
đỉnh Linh Thứu (Gijjhakuta)
mà đoạn....là đường đi bộ.
đây người ta tìm thấy di tích của một
số tháp xây trong thế kỷ thứ 10, kỷ niệm chòi tranh ngày xưa Phật lưu trú.
Thời đó vua Tần-bà-sa-la có một vị
ngự y tên là Jivaka, vị bác sĩ này được nhà vua chỉ thị chăm nom sức khỏe
cho tăng đoàn và JIvaka cũng tặng cho Phật một vườn xoài mang tên
Jivakambavana. Vườn xoài của Jivaka kiên cố hơn vườn tre vì ngày nay tôi
còn tìm thấy nền đá. Tuy gọi là “vườn xoài” nhưng đây phải là một công
trình xây dựng to lớn và kiên cố gồm nhiều hành lang dài và hẹp mà ngày
nay ta thấy những nền đá với bề ngang gần một mét. Theo Schumann thì ngày
xưa, trên những hành lang hẹp đó là mái bằng đất hình vòm nằm trên những
thân tre uốn vòng.
Theo tương truyền nhà y sĩ Jivaka mới
đầu rất dè dặt với đức Phật. Phải chăng đó là cái bệnh của người trí thức
xưa nay đối với các vị đạo sư tâm linh, nhưng không bao lâu sau, ông là
một cư sĩ hết sức nhiệt thành. Trong Trung bộ kinh, tôi bắt gặp kinh
Jivaka với câu mở đầu: “Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú tại Vương
Xá, tại vườn xoài của Jivaka Komarabhacca…”. Người đến hỏi chuyện lần đó
không ai khác hơn là nhà y sĩ của chúng ta. Đúng nghiệp vụ của mình, ông
hỏi Phật lúc nào thì được ăn thịt. Sau khi nghe giảng pháp, nội dung thâm
sâu hơn hẳn chuyện ăn uống, ông phấn khởi xin Phật nhận làm cư sĩ và “từ
nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng”. Hay thay đặc tính của
người trí thức xưa nay, chưa hiểu thì dè dặt, hiểu rồi thì có nhiệt tâm.
Người ta cho rằng chính tại vườn xoài này mà Jivaka đã chữa bệnh cho các
tỉ-kheo và một số toa thuốc của ông đã được ghi lại trong kinh tạng Pali.
Jivaka cũng cho bệnh nhân tắm suối nước nóng nằm ngay tại Vương Xá. Trong
ký sự, Huyền Trang viết lúc ông đến thì còn khoảng mười suối nước còn
nóng. Sau 25 thế kỷ, ngày nay nước vẫn còn nóng, lúc tôi đến thì còn thấy
biển quảng cáo tân thời mời du khách tắm nước nóng.
Xúc động nhất cho tôi tại Vương Xá là
lúc đến thăm nền cũ của cung điện Tần-bà-sa-la. Nhà vua là người tặng Phật
nửa nước nhưng Ngài không lấy, còn khi ông tặng con A-xà-thế cả ngai vàng
thì A-xà-thế vẫn chưa an tâm, giam cha mẹ vào ngục tối. Từ cung điện này,
may thay Tần-bà-sa-la vẫn thấy được núi Linh Thứu cách đó không xa. Trong
những ngày cuối đời của ông, tương truyền rằng Phật Thích-ca đã dùng thần
thông vào ngục giảng pháp cho vua và hoàng hậu. Là một người nhiệt tâm và
đã trải qua nhiều thăng trầm cay đắng, hẳn ông thấm đượm giáo pháp của
Ngài dễ như “tấm vải sạch sẵn sàng ăn thuốc nhuộm”
và huyền sử kể rằng sau khi chết, ông sinh ngay vào trời Tứ Đại Thiên
vương.
Vương Xá là nơi Phật gặp gỡ những đệ
tử quan trọng nhất của tăng già, đó làø Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Đây
là hai vị đại đệ tử, Xá-lợi-phất được xem là trí huệ đệ nhất, vị kia là
thần thông đệ nhất. Hai vị này là bạn thân với nhau, cùng xuất thân từ
giòng dõi Bà La môn và cùng gia nhập tăng già. Vị trí huệ đệ nhất
Xá-lợi-phất vốn là người rất hay nghi kỵ các giáo pháp. Trước khi gặp Phật
xin qui y, Xá-lợi-phất gặp một tỉ-kheo tên là A-thuyết-thị
và ngạc nhiên trước phong độ của vị này. Xá-lợi-phất hỏi thầy của
A-thuyết-thị là ai, đó là cách hỏi thông thường thời đó. A-thuyết-thị trả
lời bằng bốn câu kệ:
Các pháp nhân duyên sinh
Cũng theo nhân duyên diệt
Nhân duyên sinh diệt này
Phật đại sa môn thuyết.
Vốn là người từng suy tư về pháp,
Xá-lợi-phất trực ngộ lí “có sinh có diệt” này của bốn câu “Duyên khởi kệ”
và rủ Mục-kiền-liên xin gặp ngay vị “đại sa môn”. Chuyện đó diễn ra tại
Vương Xá. Về sau cả Xá-lợi-phất lẫn Mục-kiền-liên đều mất trước Phật và hi
hữu thay hai vị đều chết tại Vương Xá cả. Trong nhiều chùa có khi ta thấy
tượng Phật với tả hữu hai bên là hai vị tôn giả này.
Đức Phật cũng gặp nhiều vị cư sĩ
nhiệt thành tại Vương Xá, trong số đó ta đã biết Tần-bà-sa-la. Một vị khác
rất quan trọng là Cấp Cô Độc
mà trong một chương sau sẽ được nói rõ hơn. Thế nhưng Phật không chỉ gặp
những người yêu mến Ngài, Phật cũng có kẻ thù mà sự việc cũng xảy ra tại
Vương Xá. Người đó là Đề-bà đạt-đa.
Ông là em họ của Phật, gia nhập tăng già và trở thành một thành viên quan
trọng. Khoảng 8 năm trước khi Phật nhập diệt, ông muốn thống lãnh tăng già
nhưng Phật không chấp nhận. Ông tìm cách giết Phật nhưng không thành. Hãy
đọc lại ký sự của Huyền Trang lúc đến thăm Vương Xá, kể về những nơi chốn
lịch sử này: “Ngoài cửa thành Vương Xá về phía bắc có một ngọn tháp. Chính
chỗ này Đề-bà đạt-đa và vua A-xà-thế sau khi giao hữu với nhau đã thả con
voi say để hại đức Phật…Phía đông ngôi chùa
là một tảng đá rất to, chính chỗ này Đề-bà đạt-đa xô đá hại Phật…”.
Tôi đến đây và thấy lại tảng đá này !
Ôi thời gian đã trôi đi 25 thế kỷ nhưng những điều tưởng chừng như huyền
thoại vẫn còn. Bao nhiêu điều đã xảy ra trong thị trấn bé nhỏ này. Suốt
một thời gian hơn 50 năm, từ lúc vị du sĩ Cồ-đàm đi ngang đây cho đến ngày
triệu tập hội nghị kết tập lần thứ nhất, tất cả những điều đó đều xảy ra
cũng tại nơi đây. Ngày nay có thể có khách đi ngang đây mà không hề biết
lịch sử của nó vì Vương Xá chỉ là một con đường nhựa nhỏ chạy giữa hai
sườn núi trơ trọi. Vương Xá cũng đã theo “nhân duyên” mà diệt.
6. TRÊN ĐỈNH LINH THỨU
^
Đỉnh Linh Thứu đối với tôi gần như
hoang đường, tôi không bao giờ dám nghĩ đời mình sẽ có ngày đến Linh Thứu.
Hôm nay tôi chỉ còn cách Linh Thứu vài cây số, đã thấy đỉnh núi huyền
thoại này từ xa, từ điện của Tần-bà sa la.
Trong số du khách đến Ấn Độ mà nếu có
ai đến Vương Xá là chỉ để thăm Linh Thứu. Người Ấn gọi Linh Thứu là
Griddhaguta, nó là một đỉnh đồi nằm phía đông kinh thành Vương Xá. Do Linh
Thứu thu hút khách nước ngoài nên tại thị trấn Vương Xá mới xây sau này
cũng có một vài khách sạn hiện đại, đón khách hành hương từ Nhật hay Âu Mỹ
quen tiện nghi. Chúng tôi vào ăn trưa ở một khách sạn mang tên Lotus (Hoa
sen) và mới hay nơi thị trấn hẻo lánh này mà cũng có khách sạn trang bị
đầy đủ máy lạnh nước nóng. Vào sảnh đường khách sạn tôi thấy ngay một bức
tranh lớn vẽ đỉnh Linh Thứu. Lòng tôi toát ra lòng biết ơn cuộc đời và cảm
nhận một niềm rộn rã vô hạn. Khách sạn này chỉ mở cửa sáu tháng mùa đông,
còn mùa hè thì du khách không có ai đến vì quá nóng.
Sau bữa ăn trưa, nhân viên khách sạn
chỉ đường cho chúng tôi đi Linh Thứu, họ nói với anh tài xế bằng tiếng
Hindu cách đi đường thế nào thuận tiện nhất. Và khi đến nơi, chúng tôi mới
hay Linh Thứu không hề là một vùng hoang vu như Vương Xá mà là một nơi
được nhiều người đến chiêm bái.
Theo dòng khách hành hương chúng tôi
đến một trạm đi xe cáp, đó là phương tiện di chuyển thông thường
trong các vùng núi non. Từ dưới thấp nhìn lên chúng tôi thấy một bảo tháp
trắng toát. Thế nhưng đỉnh Linh Thứu đâu ?
Xe cáp dần dần đưa chúng tôi
lên núi, thì ra đó là núi Bảo sơn,
nằm phía tây bắc của Linh Thứu. Trên đỉnh núi này, năm 1969 người Nhật xây
một bảo tháp cực lớn mang tên Shanti Stupa (tháp hòa bình thế giới). Khi
đến nơi tôi mới thấy quả thật đây là một bảo tháp tuyệt đẹp với bốn tượng
Phật hoàn hảo nhìn ra bốn phía. Thông thường thì tôi có thể bỏ cả nửa buổi
để nhìn ngắm tháp này nhưng tôi đến đây vì Linh Thứu, đỉnh núi thiêng
liêng này đang chiếm lấy tâm tôi. Tôi chạy ra sân của công trình bảo tháp
nhìn xuống, thì dưới kia là Linh Thứu ! Linh Thứu là đó sao, một đỉnh đồi
với một chiếc sân nhỏ bằng đá hình vuông vuông, đó thật là nơi cách đây 25
thế kỷ Phật đã giảng những bộ kinh quan trọng hay sao?
Thì ra xe cáp đã kéo chúng tôi
lên rất cao, tới đỉnh Bảo sơn nơi xây bảo tháp. Cách đi là khách thăm Bảo
sơn trước, sau đó đi bộ xuống núi để đến Linh Thứu. Lòng tôi có chút vướng
bận một điều gì đó chưa rõ nhưng tôi háo hức theo đoàn người xuống núi, đi
trước là một viên lính Ấn Độ dẫn đường. Càng đi, Linh Thứu càng gần dần và
rõ dần. Buổi chiều đã bớt nắng, gió hơi mạnh.
Và đây rồi, len lỏi qua vài mô đá
lớn, chúng tôi tới đỉnh Linh Thứu ! Xúc động thay, đời mình đến được nơi
này.
Đây là một sân vuông nhỏ, dài khoảng
hai mươi mét, rộng mười mét. Đây là nơi diễn ra Hội Linh Sơn cách đây hai
ngàn năm trăm năm mà hồi nhỏ tôi đã nghe ông tôi tụng “Linh Sơn hội thượng
Phật”, pháp hội mà nhiều người hiện nay cho rằng nó vẫn còn tiếp diễn.
Linh Thứu được xem là chỗ đức Phật
giảng pháp thậm thâm, dành cho các bậc thượng thừa, được mệnh danh là chỗ
Ngài chuyển pháp lần thứ hai. Trong một bài giảng tại đại học Harvard (Mỹ),
vị Đại-lai lạt-ma thứ 14 hiện nay nói: “Nội dung của những bài thuyết pháp
này là những bài kinh thuộc hệ Bát-nhã ba-la-mật-đa và trong những
bài kinh này, người ta thường kể rằng, rất nhiều môn đệ của Ngài (Phật) –
người, chư thiên, a-tu-la và những loài khác đã tham dự pháp hội này.
Nhưng nếu đã từng đến núi Linh Thứu thì người ta sẽ nhận ra ngay là cái
đỉnh của ngọn núi này chỉ có thể chứa được mười, cao nhất là mười lăm
người. Vậy thì chỗ Phật thuyết pháp phải là một nơi, một hiện tượng mà chỉ
những môn đệ với những thiện nghiệp hi hữu, con mắt thanh tịnh, mới có thể
nhìn thấy được”.
Đỉnh Linh Thứu chính là nơi Phật
giảng bộ kinh Diệu pháp liên hoa, trong đó Ngài không còn là một con người
lịch sử có sống có chết nữa, mà Phật xuất hiện trong dạng Báo thân, trong
dạng của một vị Phật đã thành tựu Phật quả từ muôn ngàn kiếp trước. Trong
kinh này Ngài trình bày rõ các phương pháp khác nhau của tam thừa đều chỉ
là phương tiện của “người cha muốn cứu các con đang vui chơi trong một
ngôi nhà đang cháy”. Phẩm thứ 16 (Thọ mạng Như Lai) trình bày rõ việc Ngài
đắc đạo bốn mươi năm trước đó tại Bồ-đề đạo trường hay sẽ nhập Niết bàn
chỉ là dạng Ứng thân của Ngài cho người đời dễ tin dễ hiểu chứ Ngài thành
đạo không phải trong đời này và cũng sẽ mãi mãi thường trụ tại đời này. Và
đáng chiêm ngưỡng thay, đỉnh Linh Thứu chính là trú xứ, là tịnh độ của
Ngài. Vì thế mà “hội Linh Sơn” mãi mãi vẫn còn tiếp diễn với hàng vạn
bồ-tát và thiên nhân. Người bình thường, còn bị vô minh vây phủ, thấy thế
giới này còn vô thường và khổ đau, thì cũng thế, thấy Linh Thứu chỉ là một
cái sân nhỏ tráng xi-măng chỉ có chỗ cho vài chục người.
Tôi chỉ là người trần mắt thịt nên
chiều hôm đó chỉ nghe tiếng gió chiều và cảm nhận một cách trừu tượng rằng
mình đang đứng một chỗ thiêng liêng. Từ đỉnh núi Linh Thứu này, lòng đầy u
hoài tôi nhìn xuống Vương Xá ngày nay chỉ là một con đường chạy giữa hai
triền núi. Tôi nhớ lại một tác phẩm của Schumann để hiểu tại sao ngày xưa
Phật lại cư trú trên này. Theo Schumann
thì Vương Xá ngày xưa là một đô thị nằm trong lòng chảo, xung quanh toàn
là núi không có chút gió nên mùa hè hẳn phải nóng khủng khiếp. Đức Phật và
đoàn tùy tùng có lẽ cũng không chịu nổi cái nóng và phải rút lên núi, thế
nhưng không lên quá cao để môn đệ, trong đó có nhà vua Tần-bà-sa-la tiện
việc thăm Ngài. Dễ thương thay, cách giải thích logic của một người phương
tây. Thì ra Ứng thân của Ngài cũng sợ nóng, cũng chịu mọi cảnh sinh lão
bệnh tử của cuộc đời.
Về sau trên đường đi xuống núi, quả
nhiên tôi thấy có bảng đề: “Đây là chỗ nhà vua cho tùy tùng rút lui để một
mình lên diện kiến Phật”. Đi tiếp xuống một đoạn lại thấy: “Đây là chỗ nhà
vua xuống xe ngựa, đi bộ lên núi thăm Phật”.
Trước khi xuống núi khách có thể thăm
viếng các động thiền định của A-nan, Đại Ca-diếp, Xá lợi-phất,
Mục-kiền-liên. Bao nhiêu thế hệ của khách hành hương đã đến chỗ này, bao
nhiêu lòng thành kính đã tỏa lan nơi đây mà ngày nay còn lại là những cửa
động bằng đá dát vàng lấp lánh. Ôi, những điều tưởng là huyền thoại không
ngờ lại có thật cả.
Trên đường xuống núi, người lính Ấn
Độ dẫn đường đã chỉ cho tôi thấy một tảng đá rất giống hình chim ưng, một
trong những lý do mà người ta đặt cho đỉnh núi này biệt danh “đỉnh kên
kên”. Tôi chụp được hình ảnh độc đáo này, không dễ gì bắt gặp nó trong một
ngày trời xanh nắng sáng như hôm nay (xem hình 9).
Tôi đi xuống chân núi, lòng ân hận.
Bây giờ tôi mới biết lòng mình vướng bận điều gì. Lẽ ra tôi phải đi bộ lên
núi, như hàng đoàn người đi ngược từ dưới lên, trong đó có cả ông già bà
cả. Những người trong khách sạn tưởng tôi thích tiện nghi đã chỉ một con
đường bất xứng, đi xe cáp lên cao rồi từ trên đi xuống cho khỏe. Từ
phía dưới tôi ăn năn nhìn lên, chỉ còn thấy xa xa hình của một ông già
người Ấn đứng bơ vơ trên đỉnh, ông là người thu những số tiền mà khách
cúng dường nơi chốn thiêng liêng này.
Lần sau đời tôi nếu có cho tôi đến
Linh Thứu lại, tôi sẽ dành một ngày đi bộ từ Vương Xá lên đỉnh, đi lại
bước chân của đức Phật lúc Ngài còn tại thế. Nhiều năm về sau, tôi được đi
tham bái nhiều thánh địa của đức Thích-ca ở Ấn Độ, nhiều đạo trường của
các vị Bồ-tát mà Diệu pháp liên hoa kinh đã nhắc tới như Văn-thù, Quán Thế
Âm, Phổ Hiền…ở Trung Quốc, nhiều tu viện rất cổ tại Tây Tạng. Đó là những
chốn rất thiêng liêng được mệnh danh là “tứ động tâm” của Ấn Độ, “tứ đại
danh sơn” của Trung Quốc, “thành phố của chư thiên” tại Tây Tạng. Thế
nhưng không có nơi nào để lại trong tôi lòng xúc động và biết ơn cuộc đời
như Linh Thứu. Phải chăng Linh Thứu quá nhỏ bé để tôi thấy đâu đây còn có
hơi ấm và ánh sáng của vị đạo sư trong lúc các chốn kia quá to lớn mênh
mông ? Nhưng đó là tâm tư thật của tôi. Nếu có một ngày hỏi lại đời mình
đâu là chỗ đáng quí nhất đã từng đi tới thì đó là núi Linh Thứu.
7.
TỪ LINH SƠN NHỚ VỀ YÊN TỬ
^
Có nhiều truyền thuyết giải thích tại
sao núi Linh Thứu còn có tên là “đỉnh kên kên”. Có thuyết cho rằng tôn giả
A-nan, một vị học trò thân cận của Phật, trong lúc thiền định trong động
đá bị ma quỷ hiện thành chim kên kên dọa nạt. Tôi không hiểu nếu hiện hình
con gì thì còn có người sợ chứ chim thì mấy ai sợ. Lại có người cho rằng
nơi đây chim kên kên hay đến làm tổ. Cũng có kẻ nói rằng đá núi nơi đây có
hình chim kên kên, thuyết này xem ra đứng vững hơn cả.
Như ta đã biết, trong hơn bốn mươi
năm giáo hóa, Đức Thích-ca đã giảng nhiều bài kinh quan trọng tại Linh
Thứu. Cuối đời mình, nơi đây Ngài đã dùng Báo thân để giảng bộ kinh Diệu
pháp liên hoa cho thiên nhân cũng như loài người, bộ kinh Đại Thừa nổi
tiếng mà Phật tử Việt Nam hay gọi là kinh Pháp Hoa.
Cũng trên đỉnh Linh Thứu này, ngày
nọ, Đức Thích-ca không nói gì, lẳng lặng đưa một cành hoa lên cao. Hội
chúng chẳng ai hiểu gì cả, chỉ có một đại đệ tử của ngài là Đại Ca-diếp
mỉm cười, cũng chẳng nói năng gì. Hành động “niêm hoa vi tiếu” này là đầu
nguồn của Thiền tông, một tông phái chủ trương “tâm truyền tâm”, đạt giác
ngộ không cần và không thể sử dụng ngôn ngữ văn tự mà dùng tuệ giác vốn có
sẵn nơi tâm mà tiếp cận với thực tại. Linh Thứu là quê hương của Thiền
tông, đây cũng là suối nguồn của nhiều tông phái quan trọng khác. Đại
Ca-diếp được xem như Tổ thứ nhất của Thiền tông Ấn Độ. Về sau Đại Ca-diếp
truyền cho A-nan, rồi cứ thế mà dòng truyền thừa Thiền tông tiếp diễn liên
tục đến gần ba mươi đời sau, trong đó có Long Thụ là truyền nhân đời thứ
14 mà ta đã biết.
Khoảng tám trăm năm sau khi Đức
Thích-ca nhập diệt có một kẻ lữ hành từ Trung Quốc đến thăm Linh Thứu.
Người đó là một vị tăng sĩ, tên gọi là Pháp Hiển, sinh khoảng cuối thế kỷ
thứ tư. Năm 399, Pháp Hiển lên đường thăm Ấn Độ, thăm các thánh tích quan
trọng của Đức Thích-ca và mười lăm năm sau mới về nước, mang theo vô số
kinh điển. Theo tập ký sự còn lưu lại, Pháp Hiển mang nhang đèn đến Linh
Thứu, vừa dâng hương, “đèn tự cháy sáng”. Pháp Hiển, “buồn đến phát khóc”,
ở lại trong núi một đêm và tụng đọc kinh Lăng Nghiêm để nhớ lại vị đạo sư
đã giảng kinh này tại đây. Sau Pháp Hiển hơn hai trăm năm, một đại sư
Trung Quốc lừng danh khác là Huyền Trang, biệt danh Đường Tam Tạng cũng
đến chiêm bái Linh Thứu. Trên đỉnh núi Linh Thứu ngày nay còn một nền đá
ghi lại ngày xưa Đức Thích-ca đã trú nơi đây và ngàn năm sau Huyền Trang
đã nghỉ lại qua đêm. Vị tăng sĩ Việt Nam đầu tiên đi Linh Thứu có lẽ là
Đại Thặng Thăng, sinh trong thế kỷ thứ bảy. Đại Thặng Thăng với ba vị tăng
sĩ Việt Nam khác cùng đi với nhà sư Trung Quốc Nghĩa Tịnh (635-713) bằng
đường biển đến Ấn Độ, đến tham bái Linh Thứu và các thánh tích khác, cuối
cùng chẳng may bỏ mình tại xứ người.
Không phải chỉ có lữ khách từ xa đến
Ấn Độ, ngược lại tăng sĩ Ấn Độ đi các nước khác cũng rất nhiều mà con
người đầy huyền thoại nhất thời đó là một tăng sĩ mặt đen, râu rậm, tướng
mạo như một võ sư. Đó là Bồ-đề Đạt-ma, có lẽ sinh năm 470. Bồ-đề Đạt-ma
chính là truyền nhân đời thứ 28 và là đời cuối cùng của Thiền tông Ấn Độ,
bắt đầu với Đại Ca-diếp và A-nan. Năm 520 Bồ-đề Đạt-ma lên đường đi Trung
Quốc bằng đường biển, theo một tài liệu thì có ghé Việt Nam trước khi đến
Nam Kinh gặp nhà vua Trung Quốc Lương Vũ Đế. Gặp Vũ Đế, Bồ-đề Đạt-ma khai
thị yếu tính Thiền tông rất rõ ràng nhưng vua không lĩnh hội vì lòng còn
bị các quan niệm thiện ác, tốt xấu chi phối. Bồ-đề Đạt-ma thấy cơ duyên
chưa tới, đi về hướng Bắc Trung Quốc, vượt sông Trường Giang đến Lạc
Dương, lên núi Tung sơn, ở chùa Thiếu Lâm, chín năm tọa thiền quay mặt vào
vách.
Tưởng Thiền tông như thế là đứt đoạn,
tổ Thiền thứ 28 đã rời Ấn Độ đi Trung Quốc, ở Trung Quốc thì quay mặt vào
vách không nói năng gì. Nhưng không phải, trong một ngày đầy tuyết nọ, có
người rút dao tự chặt cánh tay tỏ lòng thành khẩn, xin Bồ-đề Đạt-ma khai
thị. Người đó là Huệ Khả (487-593). Chỉ nghe một câu “an tâm”, Huệ Khả đại
ngộ, trở thành truyền nhân của Bồ-đề Đạt-ma, đời sau gọi là nhị tổ của
Thiền tông Trung Quốc. Huệ Khả truyền cho Tăng Xán, vị tam tổ này sinh ra
lúc nào không rõ chỉ biết tịch năm 606. Tăng Xán sau đó truyền cho Đạo Tín
(580-651), rồi vị này truyền lại cho Hoằng Nhẫn (601-674). Các vị truyền
nhân này đều sống một cuộc đời kỳ dị, giác ngộ qua những câu vấn đáp xem
ra ngớ ngẩn, mỗi người mỗi khác nhưng giống nhau ở chỗ lấy “tâm truyền
tâm, thấy tánh thành Phật” làm gốc. Đến đời thứ sáu, với Lục tổ Huệ Năng
(638-713) thì tính cách “bất lập văn tự” mới đạt tột đỉnh vì Huệ Năng mới
đầu chỉ là một anh chàng tiều phu mù chữ. Về sau, Huệ Năng không có truyền
nhân chính thức, thiền Trung Quốc được xem là có sáu vị tổ, như thiền Ấn
Độ có 28 vị. Thế nhưng Huệ Năng là người khai sáng Thiền Trung Quốc rực rỡ
hơn ai hết, để lại cho hậu thế vô số thiền sư xuất chúng và một dòng
truyền thừa mãnh liệt đến thế kỷ thứ 11 và cả đến ngày nay.
Thiền tông không dừng ở Trung Quốc.
Tổ thứ ba Tăng Xán vốn có ít học trò, trong đó có một vị tên là Tì-ni-đa
Lưu-chi.
Vị này sinh năm nào không rõ, chỉ biết tịch năm 594. Sau khi ngộ pháp
xong, Tì-ni-đa Lưu-chi đi về phương Nam, đến Giao Chỉ, ngụ ở chùa Dâu ngày
nay, thuộc tỉnh Hà Bắc Việt Nam. Tại đây Tì-ni-đa Lưu-chi khai sáng dòng
Thiền Việt Nam, truyền 19 đời, đến thế kỷ thứ 13, có ảnh hưởng mạnh lên
đến các vua thời Lý.
Song song, trong số học trò sau mấy
đời của Huệ Năng có một vị nói năng rất ít, được gọi tên là Vô Ngôn Thông.
Năm 820, Vô Ngôn Thông về phương nam đến tỉnh Bắc Ninh Việt Nam ngày nay,
khai sáng một dòng Thiền mới, truyền 17 đời, cũng đến thế kỷ thứ 13.
Trong thế kỷ thứ 11 một vị thiền sư
Trung Quốc tên gọi là Thảo Đường, không rõ vì duyên cớ gì đi lưu lạc tận
Chiêm Thành. Thảo Đường bị vua Việt Nam là Lý Thánh Tông bắt làm tù binh
trong một trận chinh phạt nước này năm 1069. May thay cho Thảo Đường, Lý
Thánh Tông là một nhà vua trọng đạo lý. Biết Thảo Đường là môn đệ của
thiền sư Tuyết Đậu Trùng Hiển, Lý Thánh Tông phong làm Quốc Sư, tự nhận
mình làm học trò. Cũng lại là một điều mà chỉ ngày xưa mới có. Sau đó,
Thảo Đường khai sáng dòng Thiền thứ ba của Việt Nam, truyền được sáu đời,
kéo dài đến cuối nhà Lý.
Khác với Thiền Trung Quốc chia thành
“ngũ gia thất tông”, hầu như ba thiền phái Việt Nam chỉ đợi ngày hợp nhất.
Qua đầu thế kỷ thứ 13, ba dòng Tì-ni-đa Lưu-chi, Vô Ngôn Thông và Thảo
Đường nhập lại một dòng duy nhất. Không rõ cơ duyên nào mà lịch sử Việt
Nam lại sản sinh nhiều nhân vật lỗi lạc trong các thế kỷ 12,13 của đời Lý
Trần. Dưới ảnh hưởng của Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ, ba dòng
Thiền đó tập hợp thành một, xuất phát từ núi Yên Tử, hiện nay thuộc tỉnh
Quảng Ninh, gọi là phái Thiền Yên Tử. Tại Việt Nam núi Yên Tử trở thành
đỉnh cao vòi vọi của một dòng Thiền vừa rất quí tộc vừa rất nghệ sĩ.
Giữa thế kỷ thứ 13, một nhân vật kiệt
xuất ra đời, đó là Trần Nhân Tông (1258-1308). Vừa làm vua chăm lo bảo vệ
bờ cõi, vừa là thiền sư đạt đạo, Trần Nhân Tông trở thành tổ thứ sáu của
dòng Thiền Yên Tử. Nhưng vì nhân cách của Trần Nhân Tông quá rực rỡ, đời
sau tôn ông làm sư tổ, lấy hiệu Trúc Lâm của ông đạt tên làm phái Thiền
Trúc Lâm, một dòng Thiền có tính nhập thế. Năm 1304, Trần Nhân Tông đích
thân đi cả nước tìm truyền nhân, gặp ngay một thiếu niên “có đạo nhãn”,
liền truyền pháp cho, người đó là Pháp Loa (1284-1330), tổ thứ hai của
Trúc Lâm. Đến năm 23 tuổi, Pháp Loa gặp một nhân vật kỳ dị, lúc đó đã 51
tuổi, tên gọi là Huyền Quang. Huyền sử chép rằng, mẹ của Huyền Quang là Lê
Thị, ba mươi tuổi mà chưa có con, hay đến chùa cầu nguyện. Đầu năm 1254,
trụ trì chùa là sư Tuệ Nghĩa mơ thấy trong chùa “đèn đuốc sáng choang, Đức
Thích-ca chỉ tôn giả A-nan mà bảo, ngươi hãy tái sinh làm pháp khí Đông Độ
và nhớ lại duyên xưa”. Năm đó Lê Thị sinh Huyền Quang. Gặp Pháp Loa, Huyền
Quang tôn làm thầy mặc dù thầy trẻ hơn mình gần ba mươi tuổi.
“Duyên xưa” là duyên gì? Đông Độ Việt
Nam thật ra là có duyên với đạo Phật, Việt Nam đến với đạo Phật sớm hơn cả
Trung Quốc. Trong thế kỷ thứ nhất sau công nguyên, tại Việt Nam đã hình
thành một trung tâm đạo Phật là Luy Lâu, thuộc Bắc Ninh ngày nay. Luy Lâu
phát triển song song với hai trung tâm của Trung Quốc là Lạc Dương và Bình
Thành.
Thiền Việt Nam đã xuất phát cả trước khi Bồ-đề Đạt-ma đến Trung Quốc.
Trong thế kỷ thứ ba, tăng sĩ Khương Tăng Hội người Giao Chỉ đã viết luận
giải về Đại Thừa và Thiền tông cho nên nhiều người cho rằng Khương Tăng
Hội chính là người sáng lập Thiền Việt Nam, không phải đợi đến lúc Thiền
Trung Quốc du nhập.
Người đời sau tôn ba vị Trần Nhân
Tông, Pháp Loa, Huyền Quang là “tam tổ” Thiền Việt Nam, xứng danh ngang
hàng với sáu vị Tổ Thiền Trung Quốc và 28 vị Tổ Thiền Ấn Độ. Núi Yên Tử
của Việt Nam, Tung sơn của Trung Quốc và Linh Thứu của Ấn Độ là nơi sản
sinh các dòng Thiền đó.
Suốt bảy thế kỷ sau Trần Nhân Tông,
trong vô số những người đã đến thăm Linh Thứu, có một đứa con cháu lạc
loài của ông đứng ngẩn ngơ trên núi chiều nay. Ôi, con người đích thực của
bao vị thánh nhân hầu như chìm trong bóng tối của lịch sử. Thường người ta
chỉ biết Trần Nhân Tông là một nhà vua giỏi bảo vệ bờ cõi, nào ngờ là một
đại sư đạt đạo mà học thuật và nhân cách của ông đã truyền thừa cho các
thế hệ đến ngày nay. Tưởng Huyền Trang chỉ là một nhân vật huyền thoại, sư
phụ hiền lành của Tôn Hành Giả, nào ngờ là một nhà dịch kinh tác tuyệt về
văn chương và nội dung, sáng lập cả một tông phái đại thừa tại Trung Quốc.
Tưởng Bồ-đề Đạt-ma chỉ là tổ sư võ công Thiếu Lâm, nào ngờ là kẻ đã khai
sáng Thiền tông miền Đông Á, mở đường cho vô số người cầu hiểu biết. Tưởng
Đức Thích-ca là một ông bụt hoang đường, nào ngờ là một con người từng
sống, từng hoạt động, từng chết trên trái đất này.
Rời Linh Thứu với lòng u hoài chiều
hôm đó, tôi chỉ có thể nhắc lại đây lời của Schumann: “Chuyến hành trình
theo dấu chân Đức Phật là một niềm vui, đồng thời là một cảm hoài xao
xuyến, vì phần lớn các nơi Ngài đã đặt chân đến, ngày nay người ta chỉ còn
tìm thấy sự đổ nát và hiu quạnh. Nhưng tính vô thường của vạn sự há chẳng
phải là thông điệp của Ngài ư? Ngài chẳng đã nói rằng Pháp sẽ có ngày bị
quên lãng, nhưng sẽ được khám phá lại một cách mới mẻ ư? Có thể Ấn Độ đã
quên người con trai vĩ đại của mình, nhưng tại các nơi khác ở châu Á, mà
cũng trong các tâm hồn tại châu Âu và Mỹ, thì thông điệp của Ngài vẫn còn
sinh động. Chúng ta hãy mừng vui rằng, có một đầu óc ưu việt đã thấu hiểu
cái Khổ và nguyên nhân của nó và đã chỉ rõ cách giải thoát nó nằm ngay nơi
chúng ta”.
DƯỚI
CÂY BỒ ĐỀ
^
Tháp Hòa Bình thế giới tại núi Bảo sơn thật ra
là một công trình đáng chiêm ngưỡng, rủi cho nó là tháp nằm cạnh ngọn Linh
Thứu quá thiêng liêng nên tháp bị lu mờ không ít. Tại bốn phía của tháp
này ta có thể xem bích họa của bốn cảnh về cuộc đời đức Phật, cũng là bốn
chốn thiêng "tứ động tâm", mà khách hành hương ai cũng đến tham bái, đó
là: chỗ đản sinh của Ngài tại Lâm-tì-ni, chỗ Ngài đắc đạo tại Bodh Gaya
(Bồ-đề đạo trường), chỗ Ngài bắt đầu giảng pháp tại Sarnath (Lộc Uyển) và
chỗ Ngài nhập diệt tại Câu-thi-na (Kusinara). Trong bốn chỗ thì Bồ-đề đạo
trường tại Bodh Gaya được xem là thiêng liêng nhất. Hôm nay tôi đến đó
đảnh lễ.
Bodh Gaya là một địa danh quan trọng trên bản đồ
Ấn Ðộ, nó chỉ cách Linh Thứu khoảng 50 km đường bộ về hướng tây nam. Còn
trong ký ức của tôi từ ngày còn nhỏ dựa theo một tấm hình thì chỗ Phật đắc
đạo là một cây bồ-đề và cạnh cây là một con sông, sông đó phải có tên gọi
là Ni-liên-thuyền.
Trải qua ngàn năm con sông này vẫn còn và ngày
nay có tên Nilajana. Nó chỉ là một con sông nhỏ, tại Bodh Gaya, nó nhập
với sông Mohana chảy ngược lên phía bắc và làm thành sông Phalgu. Hai con
sông này mùa khô không có nước và lòng sông trở thành một bãi cát rộng cả
cây số. Sông Ni-liên-thuyền là nơi Phật băng qua, đến một cây bồ-đề, từ bỏ
phép tu khổ hạnh và dùng phép thiền định mà tìm ra chân lý. Trong thời đó,
phương pháp nhận thức đó – từ bỏ khổ hạnh và áp dụng thiền định - là một
cuộc cách mạng, là một trong những điều làm nhiều người gọi Phật là "nhà
phê phán" Ấn Ðộ giáo.
Trước đó nhà ẩn sĩ Cồ-đàm tu khổ hạnh tại
Uruvela, nằm bên bờ nam Ni-liên-thuyền. Ðây là nơi năm thầy tỉ-kheo mà
đứng đầu là Kiều-trần-như qui phục Phật và hẹn rằng ai giác ngộ trước phải
giáo hóa cho những người còn lại. Sau năm năm tu khổ hạnh, Ngài đến với
một nhận thức khác, trong kinh kể lại: "đức Bồ-tát thọ nhận sữa và cơm của
một nàng tín nữ tên là Sujata. Ngài ngâm tứ chi đã rã rời trong dòng nước
thanh tịnh của Ni-liên-thuyền và bước về phía Bodh Gaya, đến cây bồ-đề
thiêng liêng, rải một ít nắm cỏ tươi dưới chân cây, đó là tòa kim cương và
bắt đầu ngồi thiền định".
Ngày nay cây bồ-đề vẫn còn và chỗ Ngài ngồi
thiền định đắc đạo đã trở thành chốn hành hương nổi tiếng nhất của Phật
giáo.
Tôi đến thị trấn Bodh Gaya buổi tối để sớm hôm sau đến chiêm bái nơi chốn thiêng liêng này, chỗ
được vẽ trong một bức tranh thờ Phật, có lẽ là bức tranh đầu tiên tôi thấy
trong thời thơ ấu. Ngày đó đối với tôi đức Phật trừu tượng xa vời như ông
Ngọc Hoàng thượng đế, cây bồ-đề hay làn nước xanh trong tranh chỉ là những
hình ảnh tưởng tượng. Bởi thế khi bước chân vào chốn này, tìm xem cây
bồ-đề lòng tôi đầy cảm xúc.

H 10: Gốc cây bồ-đề.
Gốc cây được bọc xung quanh bởi lan can bằng
xi-măng. Vải nhiều màu là phướn cầu nguyện được tín đồ Tây Tạng cúng
dường. Phía bên mặt là chân tháp Ðại bồ-đề
Cây bồ-đề là đây ! Ðó là một ngọn cây khỏe mạnh
cao vút, trên cao là những chiếc lá long lanh màu lục rực rỡ dưới nắng
mai. Lá bồ-đề mà đầu của nó nhọn và dài thì tôi đã thấy nhiều, nhưng ở đây
gốc của nó rất cao, cành mang lá nằm tuốt trên xa không với tới được,
những chiếc lá hầu như vui cười trong gió sớm. Thân cây đầy những đoạn màu
vàng sáng, đó là những chỗ mà khách hành hương cúng dường bằng cách dát
vàng mỏng như giấy lên cây. Xung quanh cây toàn là phướn cầu nguyện kiểu
Tây Tạng lẫn cờ ngũ sắc của Phật giáo. Người đi đông như hội, họ chen chúc
nhau thắp nhang chụp hình. Một đoàn trẻ con học sinh Ấn Ðộ, đứa này nắm
chéo quần đứa kia đi thành một đuôi dài đi vòng quanh thánh địa, mặt mày
hồn nhiên. Có vị bồ-tát nào hóa sinh làm một người trong đoàn trẻ con đó
không ?
Tôi chờ bớt người để đi vào sát thân cây. Nơi
đây còn có một phiến đá dày khoảng một tấc, được phủ lụa đỏ cẩn thận.
Người ta cho rằng phiến đá đó có từ thời vua A-dục trước công nguyên, nó
ghi lại chỗ đức Phật đã ngồi. Ðó chính là hiện thân của "kim cương tòa"
trong thế giới vật chất này mà kích thước thực sự của nó hết sức ẩn mật
không mấy ai hiểu hết. Chúng tôi im lặng thắp nhang, tìm chỗ ngồi thiền
định dưới cây bồ-đề.
Hãy thử làm theo Phật bằng cách thiền định để
nhận thức thế giới. Ý nghĩa đích thực của cuộc đời làm người là, đó chính
là cơ hội quí báu để nhận thức thế giới và cách nhận thức có hiệu quả nhất
là chỉ và quán trong thiền định. Ðó là kết luận của Ngài nhưng tiếc thay
đối với tôi lại là điều khó làm nhất. Từ xưa tâm tôi hay tán loạn khi ngồi
thiền định, đối với tôi không có gì khó hơn sự định tâm. Dưới gốc bồ-đề,
tôi ngồi đó với lòng cảm xúc, có lẽ tâm tôi chẳng định được gì vì tâm ý
sôi nổi. Làm sao tôi tĩnh tâm được khi nhớ rằng ngay tại nơi này cách đây
hai ngàn năm trăm năm có một bậc thầy ngồi thiền định nơi đây và đạt giác
ngộ. Ðây là chỗ mà người đó, nói như Schumann trong chương trước, đã thấu
hiểu nguồn gốc của cái Khổ và phương cách giải thoát khỏi nó.
Bên cạnh tôi có một người có khuôn mặt châu Á,
có lẽ người Nhật, cũng đang ngồi thiền định. Ngồi một lúc tôi phát hiện là
anh ta có tật, thỉnh thoảnh anh vung chân múa tay một cách bất bình
thường. Khuôn mặt anh sáng láng nhưng hình như thân thể anh không yên, xem
ra nó hoạt động độc lập với anh. Tay chân của anh hoạt động độc lập xem ra
cũng như tâm của tôi tán loạn. Chưa bao giờ tôi thấy thương một người xa
lạ như thế. Quê hương anh ở đâu, ai chỉ đường cho anh đến đây, phương tiện
đâu cho phép anh đi con đường vạn dặm này. Thân anh không bình thường
nhưng tâm anh liệu có sáng suốt không, hỡi người bạn đạo đang ngồi bên tôi
thiền định dưới gốc cây thiêng. Một điều tôi tin chắc chắn ngày hôm đó là
anh sẽ lành bệnh, dù bệnh thuộc tâm hay thuộc thân, vì đây là nơi là chỗ
phát ra ánh sáng của trí tuệ và là nơi ma quái phải qui hàng.
Về sau tôi biết thêm cây bồ-đề nguyên thủy nơi
mà ngày xưa Phật thiền định đã bị phá hủy trong thế kỷ thứ bảy. Tại chỗ
cây nguyên thủy đó người ta có trồng một cây con thì cây con cũng bị bão
thổi trốc gốc năm 1876. Còn cây bồ-đề chúng ta thấy ngày hôm nay là một
cây con của cây mà vua A-dục tặng Tích Lan trong thế kỷ thứ ba trước công
nguyên, mà con trai là Mahendra tự tay đem qua đó trồng. Ðối với tôi, cây
bồ-đề này là cây nguyên thủy hay cây con cây cháu, nó không hề quan trọng.
Chính tại nơi đây, Phật đã thấy "mọi pháp có sinh đều có diệt", huống hồ
chỉ là một ngọn cây.
Bên cạnh cây bồ-đề là một bảo tháp rất lớn gọi
là Tháp Ðại bồ-đề. Nó được xây dựng khoảng thế kỷ thứ 1,2 sau công nguyên
và cũng đã trải qua nhiều đợt trùng tu và hủy phá. Lúc Pháp Hiển đến đây
năm 409 thì ở đây đã có "ba ngôi tháp". Lúc Huyền Trang đến chiêm bái năm
637, ông mô tả tỉ mỉ: "về phía đông cây bồ-đề có một tháp cao chừng 52m,
nền tháp độ 20 thước vuông, tường bằng gạch xanh, trét vôi chu-nam". Ngày
nay người ta biết rõ tháp mà Huyền Trang mô tả chính là ngọn tháp ngày
nay, chiều cao chính xác là 55m.
Bồ-đề đạo trường là một thánh địa vĩ đại cho
những ai muốn tìm sự tỉnh giác thiền định, cảm hứng tâm linh hay nghiên
cứu lịch sử. Trong tháp là một tượng Phật thếp vàng ngồi thanh tịnh, ngoài
tháp là dấu chân Phật, trên mặt đất là lá bồ-đề rụng được khách hành hương
nhặt đem về thờ cúng. Tôi đi quanh tháp theo chiều kim đồng hồ, đó là cách
tán thán theo kiểu Ấn Ðộ, Tây Tạng, nhớ đến tích của một con chim chỉ bay
quanh ba vòng nơi đây mà tái sinh được làm người. Hỡi chim, nếu ngươi được
làm người thì cũng ráng dùng đời làm người mà nhận thức, ngoài ra cuộc đời
không còn ý nghĩa gì khác.

H 11: Sơ đồ khuôn viên
tháp Ðại Bồ-đề. 1) Ðường vào; 2) Ðền Buddhapada; 3) Ðền Ấn độ giáo; 4) Ðền
Ðại bồ-đề; 5) Kim cương tòa (bên trong); 6) Cây bồ-đề; 7) Kim cương tòa
(bên ngoài); 8) Dấu chân Phật; 9) Chỗ Phật đi kinh hành trong tuần thứ ba
sau khi giác ngộ; 10) Hàng rào đá; 11) Phế tích của Ratanaghara Chaitya,
đền do chư thiên dựng, nơi đây Phật giảng A-tì-đạt-ma trong tuần thứ tư
sau khi đắc đạo; 12) Ðền kỷ niệm chỗ Phật ngồi nhìn cây bồ-đề không chớp
mắt trong tuần sau khi Ngài đắc đạo; 14) Ðền kỷ niệm Phạm Thiên hiện xuống
khẩn cầu đức Phật hãy giảng pháp; 15) Trụ đá của vua A-dục; 16) Ðền A-dục
vương; 17) Ðền Mahanama; 18) Hàng rào
Xung quanh tháp Ðại Bồ-đề là vô số những tháp
nhỏ nhắc lại nhiều sự tích. Trong số đó có một tháp nhỏ nhắc lại hai vị
thương nhân tên là Tapussa và Bhallika, người xứ Orissa đã dâng Phật mạch
nha và mật. Hai vị đó có việc đi Vương Xá, chắc cũng làm công tác tiếp thị
tại đó, xin qui y làm cư sĩ và xin học pháp nơi Ngài mặc dù Phật chưa hề
muốn giảng dạy. Thế là đức Phật có hai đệ tử cư sĩ đầu tiên, hai vị đó
cũng chỉ là thương nhân như tôi thôi.
Có một bức tượng mà Huyền Trang đã thấy nhưng
ngày nay không còn, đó là tượng Quán Thế Âm gần cây bồ-đề. Theo một lời
tiên tri xa xưa thì tượng này ngày càng chìm trong đất, lúc nó chìm hẳn
thì đó là lúc đạo Phật suy tàn. Lúc Huyền Trang đến thì tượng đã chìm tới
ngực và ông tiên đoán trong ký sự của mình là đạo Phật chỉ còn hưng thịnh
nơi đây trăm rưỡi hay hai trăm năm nữa. Lời tiên tri đó đã thành sự thực
vì quả nhiên trong thế kỷ thứ 8, thứ 9, đạo Phật xem như mất hẳn tại Ấn
Ðộ, chỉ trừ ở vùng Ma-kiệt-đà và Bengale.
Cây bồ-đề có sinh có diệt, bản thân đạo Phật
cũng có sinh có diệt, tất cả đều là "pháp" cả. Ðó là một trong những điều
cốt tủy Phật dạy sau khi Ngài chứng ngộ dưới cây bồ-đề. Những điều này
muốn hiểu một cách trừu tượng thì dễ nhưng chấp nhận chúng trong cuộc đời
thì khó lắm thay. Ôi, những nhận thức toàn triệt xuất phát từ gốc cây này
thật khó được người đời hiểu ngộ, đó là lý do tại sao đạo Phật đích thực
không bao giờ trở thành một tôn giáo của quảng đại quần chúng, tại sao nó
đã biến mất trên chính quê hương của mình. Và đó là lý do mà tại chính
dưới gốc cây này, Phật phân vân không biết mình có nên giảng pháp hay
không.
THIỀN
ÐỊNH, PHƯƠNG PHÁP NHẬN THỨC ƯU VIỆT
^
Rời quê hương Ca-tì-la-vệ, vị du sĩ Cồ-đàm trẻ
tuổi đi về hướng đông nam, đến Vương xá và gặp Tần-bà-sa-la như ta đã
biết. Sau đó không lâu, Cồ-đàm tìm gặp một vị thầy là Alara Kalama xin học
pháp. Nơi đây Cồ-đàm học được một số phép thiền định nhưng phép này chỉ
dẫn đến "Vô sở hữu xứ", như về sau Phật kể lại trong Bộ kinh.
Sau đó Cồ-đàm tìm gặp một vị thầy khác là Uddaka
Ramaputta, phép tu của vị này cũng chỉ đạt "Phi tưởng phi phi tưởng xứ".
Thế nhưng với Uddaka, Cồ-đàm đã học được tinh túy của Ấn Ðộ giáo. Về sau
Phật kể lại rằng, Uddaka thường giảng, con người "thấy nhưng không thấy"
và minh họa lời mình bằng cách đưa một con dao lên, cho thấy lưỡi dao
nhưng không biết dùng nó mà cắt sự vật. Con dao là ẩn dụ quan trọng của
Những bài thuyết giáo của Ấn Ðộ giáo, trong đó Uddalaka Aruni giáo hoá cho
con trai là Svetaketu bằng dùng dao cắt hạt trái cây tí hon và cho thấy
trong đó không gì khác hơn là cái đại ngã tuyệt đối đang tràn ngập trong
vũ trụ và con người. Ðây là nơi nhà tu sĩ Cồ-đàm vừa tiếp thu triết học
của Ấn Ðộ giáo, vừa sáng tạo những lý thuyết mới của giáo pháp mình. Vài
tháng sau, du sĩ Cồ-đàm lại bỏ ra đi vì tất cả những gì thầy dạy "không
giải thoát được cái khổ, không mang lại lợi ích".
Sau đó Cồ-đàm đến Uruvela, như ta đã biết, chỗ
ẩn tu nằm trên bờ sông Ni-liên-thuyền. Thấy phép thiền định du-già và
triết học Những bài thuyết giảng Ấn Ðộ giáo không mang lại tri kiến giải
thoát cho mình, Cồ-đàm nghĩ phải chăng con đường đúng đắn là phép tu khổ
hạnh.
Miền rừng núi Uruvela về sau được Phật gọi là
"khả ái" nhưng ta đừng vội tin là nơi chốn thần tiên. Tôi đã đi qua miền
rừng núi Bihar và Bắc Ấn, đó là rừng già Ấn Ðộ mà loại cây thường gặp là
Sala, trong đó cơ man nào là khỉ, rắn và dơi. Vị du sĩ ba mươi tuổi đó về
sau kể lại đời sống độc cư trong rừng: "Thật là khó chịu đựng sự độc cư
trong rừng, khó thấy niềm vui khi độc cư".Những khi phải ở một chỗ xa vắng
thì chỉ một con thú đi ngang, hay một con công dẫm phải cành cây hay gió
reo trong lá, là ta đã thấy sợ rồi". Người tu sĩ tìm cách chế ngự cái sợ
bằng kỹ luật tâm linh và thử đạt nhận thức bằng cách "nghiến răng lại, ép
lưỡi vào hàm trên, buộc tư tưởng phải phục tùng tâm thức". Kết quả là
Cồ-đàm chỉ chuốc lấy thất bại và nhận thấy rằng tâm thì có thể kiểm soát
được nhưng tri kiến không thể đạt bằng sự ép buộc, nhất là khi vắng bóng
trực giác. Sau đó Cồ-đàm thử áp dụng phép nín hơi thở nhưng hậu quả là
chịu đau đớn toàn thân.
Vì các phép tu nội tâm như thế không mang lại
kết quả, Cồ-đàm áp dụng phép khổ hạnh ngoại cảnh. "Vị ấy sống theo hạnh
tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng mới ăn một lần, ăn cỏ hoang, ăn rong
nước, ăn phân bò…vị ấy mặc vải gai thô, vải phấn tảo y … vị ấy là người
theo hạnh nhổ râu tóc, hạnh thường đứng không ngồi, dùng gai làm giường
... Thế nhưng, nhà khổ hạnh Cồ-đàm không đạt được gì hơn là sự thán phục
của năm vị tỉ-kheo mà chúng ta đã biết, ngoài ra không có gì cả.
Cuối cùng, suy nghĩ về phương pháp tu học của
mình, Cồ-đàm chợt nhớ lại một kỷ niệm xưa. Cách đây nhiều năm, lúc còn ở
với phụ vương, trong một dịp xem vua cha tự tay đặt luống cày trong một
buổi lễ, Tất-đạt-đa đang ngồi dưới gốc cây bên bờ ruộng bỗng nhiên rơi vào
một trạng thái hỉ lạc của thiền định. Phải chăng đây là phương pháp quán
sát đúng đắn, dẫn đến giải thoát ? Tự thấy một thân thể hao mòn không thể
chuyên chở một tâm thức sung mãn, Cồ-đàm từ bỏ khổ hạnh và đó là bước
ngoặt.
Vị tu sĩ băng sông Ni-liên-thuyền, đến cây
bồ-đề, chuyên tâm thiền định và đạt trạng thái mà kinh điển gọi là "Tứ
thiền". Trạng thái tứ thiền chưa phải là giác ngộ, nó chỉ có chức năng
chuẩn bị, có khả năng dẫn đến giác ngộ. Ðức Phật giác ngộ vì ngoài tứ
thiền, Ngài đã có thiện nghiệp lâu đời và quyết tâm đạt tri kiến giải
thoát. Ngài đạt thiên nhãn, thấy sự sống chết của chúng sinh và của chính
mình, thấy nguyên nhân của đời sống lang thang vô tận này, thấy cách giải
thoát ra khỏi cảnh đó và nhận rõ:
"Ta đã giải thoát, đây là đời cuối của ta, không
còn sự tái sinh nữa"
Việc từ bỏ các phép khổ hạnh và chuyên tâm thiền
định để đạt nhận thức là một hành động rất có ý nghĩa, không phải chỉ
trong thời kỳ tôn giáo trước công nguyên đó, mà cả trong thời đại khoa học
hiện đại này. Thời nào cũng thế, tất cả đều quay quanh câu hỏi, làm sao
nhận thức được thế giới, phương pháp nào là phương pháp có hiệu quả nhất.
Muốn trả lời điều này, người ta phải tự hỏi thế giới là gì, từ đâu mà có.
Rồi từ câu trả lời đó về tự tính thế giới - một câu trả lời có tính chất
khẳng định tiên quyết, có tính cách như một định đề - người ta mới bắt đầu
tìm cách nhận thức nó, đó là một điều thực ra là nghịch lý. Tất nhiên càng
đi sâu vào nhận thức, định đề về tự tính thế giới ngày càng rõ, nhưng cũng
có lúc nó bị phủ định hay bị thay thế.
Ấn Ðộ giáo xuất phát từ niềm tin có một đại ngã
siêu việt xuyên suốt trời đất muôn vật, trong đó con người cùng một thể
với đại ngã đó. Thế nhưng vì con người có thân, thân đó che lấp thể tính
chung nhất đó, như "bình đất che ánh sáng tự thân". Vì thế muốn tiếp cận
với đại ngã, con người phải dùng phép du-già vượt qua giới hạn của thân,
kiểm soát thân, trong đó các phép khổ hạnh được xem là cần thiết. Vì lẽ
đó, khổ hạnh hầu như là đức hạnh trong Ấn Ðộ giáo.
Ðức Phật là người "cải cách" của Ấn Ðộ giáo ở
chỗ Ngài không quan tâm đến các vấn đề siêu hình, không đặt câu hỏi về
nguồn gốc của thế giới, không nói đến cái đại ngã, không thấy cần phải
"cọng trú với Phạm Thiên". Ðiều quan tâm duy nhất của Phật là làm sao
thoát khỏi cảnh khổ thế gian. Và phương pháp của Ngài là cách làm của một
y sĩ, đó là hãy trước hết tìm ra nguồn gốc của khổ. Ði từ điểm xuất phát
đó Ngài thấy không có lý gì mà phải tiếp tục con đường khổ hạnh. Muốn tìm
ra nguyên nhân của khổ phải có trí tuệ chứ không cần gì khác.
"Có hai điều cực đoan mà người xuất gia không
nên làm theo. Những gì là hai ? Một là đắm say dục lạc thấp hèn, đê tiện,
phàm phu, không ích lợi, không cao cả. Hai là lao mình trong khổ hạnh,
không ích lợi, không cao cả.
Này các tỉ-kheo, xa lánh hai điều cực đoan này,
Như Lai chánh giác chứng ngộ trung đạo, phát sinh sự thấy, sự hiểu, đưa
đến an tịnh, thắng trí, niết bàn".
Ðó là đoạn đầu bài kinh Chuyển pháp luân, bài
đầu tiên mà Phật giảng sau khi phân vân mấy tuần liền, trong đó ta thấy rõ
cái mà Ngàøi tìm kiếm không phải là sự thống nhất với thánh thần, với đại
ngã mà là sự thấy, sự hiểu.
Cái thấy là điều quan trọng bậc nhất trong đạo
Phật mà con đường đưa đến đó không gì khác hơn là phép thiền định. Nói một
cách giản đơn, đó là phương pháp nhiếp tâm, tỉnh giác để quán chiếu và
thấy sự vật đúng như nó là. Trong phương pháp đó không hề có sự cầu khẩn,
van xin đến một ai khác.
Phần lớn chúng ta không hiểu tại sao phép thiền
định, ngồi một chỗ, hướng tâm vào bên trong mà lại phát sinh được tri kiến
về thế giới. Ðó là sự ẩn mật muôn đời của phép thiền định, chỉ có ai nếm
trải rồi mới biết, chư Phật chư Tổ có từ bi đến mấy cũng không thể giải
thích cho chúng ta nghe. Nhưng có điều chắc chắn là đối với Phật giáo tri
kiến đích thực chỉ phát sinh trong thiền định, "ở đâu có Phật giáo là có
thiền định, ở đâu có thiền định là có Phật giáo".
Phần lớn chúng ta cho rằng, muốn có tri kiến về
sự vật, hãy đến với nó và phân tích nó. Ðó chính là nền tảng bất di bất
dịch của nền khoa học xưa nay. Và muốn phân tích sự vật thì dụng cụ xuất
sắc nhất của con người là khả năng lý luận phán đoán, vắng bóng nó con
người rơi vào tôn giáo thần bí. Nền khoa học của chúng ta cũng có một định
đề hẳn hoi về thế giới, đó là quan niệm về một thế giới khách quan, độc
lập với con người, con người chẳng may có chết đi thì thế giới vẫn cứ
trường tồn với thời gian. Với định đề đó, với dụng cụ đó, con người đã lên
đường từ gần 400 năm nay để tìm "cái thấy cái hiểu" về thế giới và những
thành tựu xuất sắc của nền vật lý làm ta thấy nhận thức đó hẳn phải đúng
đắn. Với thời gian, con người có thêm một dụng cụ đắc lực nữa, đó là các
thiết bị tinh vi để phát hiện, đo lường, tính toán các hiện tượng, chúng
là những trợ thủ đắc lực cho óc suy luận.
Với khả năng hùng hậu đó, nền vật lý hiện đại
của thế kỷ này đã đi sâu vào lĩnh vực vi mô cực nhỏ để phát hiện nền tảng
cuối cùng của thế giới vật chất, một thế giới mà người ta cứ nhất định cho
là nó phải được xây dựng từ các "hạt cơ bản". Ðó cũng là một thứ định đề
mà không ai trong ngành vật lý dám phủ nhận. Ngày nay sau hơn nửa thế kỷ
tìm kiếm nguồn gốc cuối cùng của vật chất, ngành vật lý hiện đại đang ở
trong một cuộc khủng hoảng về nhận thức luận. Ðó là, những hiện tượng
trong thế giới vi mô đó không ăn khớp với lý luận của chúng ta, dạng xuất
hiện của chúng mâu thuẫn lẫn nhau, hành tung của chúng tùy thuộc nơi cách
ta quan sát chúng và quan trọng nhất, sự xuất hiện của vật chất hầu như
phụ thuộc nơi ý thức con người. Hiện nay người ta ngờ rằng vật chất chỉ là
dạng xuất hiện của một thực tại khác, thực tại đó bao gồm toàn thể vũ trụ,
trong đó có ý thức con người.
Trong nền vật lý hiện đại, thế giới hết là một
thực thể khách quan, óc suy luận thuần túy đã bớt hiệu nghiệm, nó còn gì
là khoa học, nó khác gì với tôn giáo ? Người ta đi thêm một bước và thấy
rằng, những gì mà nền vật lý đang khám phá và cảm nhận rất trùng hợp với
những kết luận của các thánh nhân Phật giáo. Nhiều nhà vật lý nhận ra
rằng, vũ trụ được mô tả trong Kinh Hoa Nghiêm là hoàn toàn trùng hợp với
quan niệm đương thời của vật lý học và ngày nay có nhiều phát biểu về thế
giới và vũ trụ mà người ta không biết của một nhà vật lý hay một nhà đạo
học. Trong một cuộc hội thảo gần đây tại Vienna (Áo), có nhà vật lý dám
đặt câu hỏi: "Nếu con người không ai nhìn mặt trăng cả thì liệu mặt trăng
có tồn tại không?". Ðiều đó có nghĩa, nhà vật lý không còn xem thế giới
vật chất hoàn toàn độc lập với ý thức con người nữa, nó nằm trong một thể
tương tác qua lại mà ngày nay ta gọi là "phi tuyến tính". Cũng tại hội
nghị đó, đại diện của Phật giáo là vị Ðạt-lai lạt-ma lại nói một cách rất
khiêm tốn theo luận giải Trung quán: "Sự vật chỉ có ý nghĩa trong mối
tương quan với các sự vật khác".
Ðiều cần kết luận nơi đây là phương pháp thiền
quán của các nhà đạo học đã dẫn đến những "cái thấy, cái hiểu" mà ngày nay
nền vật lý đang đối diện với những thiết bị tinh tế của họ. Tại sao một
bên "nhìn vào bên trong", bên kia "nhìn ra bên ngoài" mà cuối cùng lại có
một kết luận như nhau? Chỉ còn một câu trả lời duy nhất là cả bên trong
lẫn bên ngoài đều là những dạng xuất hiện của một nhất thể mà đạo Phật gọi
là Chân như.
VESALI VÀ
VƯỜN XOÀI CỦA NÀNG AMBAPALI
^
Từ Bodh Gaya, chúng tôi trở về Hoa Thị Thành để
đi Vesali. Vesali mà ngày nay được gọi là Vaishali chỉ cách Hoa Thị Thành
chưa đầy 50 cây số đường bộ, nằm phía bắc sông Hằng, ngày xưa là kinh đô
của nước Licchavi.
Anh tài xế của chúng tôi, người Nepal, cho biết
đường từ Hoa Thị Thành đi Vesali cũng là đường đi Kathmandu, thủ đô Nepal,
cách đó khoảng 200 km, anh nói với giọng u hoài nhớ quê hương. Ðường này
đi lên phía bắc Bihar, vượt cầu Mahatma Gandhi đến Hajipur, qua sông Hằng
đúng chỗ sông rất rộng, có cồn cát ở giữa. Ðây là chiếc cầu dài nhất châu
Á với chiều dài khoảng 6 km.
Vesali là nơi Phật nhiều lần đến thăm viếng và
cũng là trạm dừng chân cuối cùng lúc Ngài đến chỗ nhập diệt của mình là
Câu-thi-na. Tôi tự hỏi ngày xưa Phật qua sông Hằng rộng mênh mông này bằng
phương tiện gì.
Câu hỏi này xem ra quá tầm thường nên không thấy
ai trả lời trong kinh sách. Trong kinh, tôi chỉ nghe Ngài qua sông "dễ
dàng"
Trên đường đi tham bái tôi có quen với một tu sĩ người Tích Lan, tôi hỏi
ông ngày xưa Phật làm sao vượt biển tới Tích Lan được để nói kinh Lăng
Già. Ông trả lời gọn lỏn "thần thông". Về sau tôi khám phá trong ký sự của
Huyền Trang có đoạn nói về Phật trở về thăm viếng quê hương Ca-tì-la-vệ
theo lời thỉnh cầu của vua cha. Huyền sử chép Ngài đi bằng thần thông trên
không và Huyền Trang có hân hạnh tới xem chỗ Ngài hạ xuống mặt đất. "Tám
vị Kim cương thủ hộ tống Ngài, bốn vị Tứ thiên vương dẫn đường. Với toàn
thể các thiên nhân cùng đi, trời Ðế Thích bên trái và trời Phạm Thiên bên
mặt, Phật đi ở giữa như mặt trăng giữa các vì sao. Cả ba cõi đều rung động
vì uy lực của Ngài, bảy thiên thể đều lịm tắt trước hào quang của Ngài,
Ngài vượt không gian và trở về quê hương".
Vesali là kinh thành của tiểu quốc Licchavi nằm
ở bờ bắc sông Hằng, thời đó chỉ có khoảng 250.000 dân và rất thân thiện
với nước Ma-kiệt-đà. Nước này tuy nhỏ nhưng có một dòng dõi hiệp sĩ đông
khoảng 14.000 người, cai trị nước một cách rất sáng suốt. Một ngày nọ
trong năm 524, lúc mùa mưa đã đến tại phía nam sông Hằng và tại vườn Trúc
lâm Phật bắt đầu ba tháng an cư để thiền định và giáo hóa cho tỉ-kheo thì
có một sứ giả từ bờ bắc sông Hằng đến Vương Xá. Người đó là Mahali, bạn
của Tần-bà-sa-la, ông báo tại Licchavi đang bị hạn hán trầm trọng, đói kém
và nạn dịch xảy ra, nhiều người đã chết. Mahali nhờ Tần-bà-sa-la xin Phật
đi Vesali cứu giúp. Năm năm sau khi thành đạo, lúc đó khoảng 39 tuổi, lần
đầu tiên Phật được thỉnh cầu thi triển thần thông. Vương Xá cách sông Hằng
khoảng 60km, Ngài lên đường cùng vài người hầu cận, "ngày thứ năm Ngài
vượt qua sông Hằng và vừa đến bờ bắc thì trời đổ mưa như trút". Và tương
truyền rằng nạn dịch cũng chấm dứt khi A-nan vâng lời Phật tụng đọc Bảo
tích kinh, đó là một bộ kinh có thần thông chữa bệnh.

H 12: Hình Phật Thích-ca
lúc khoảng 41 tuổi, tức là trong thời kỳ kể trên. Hình này do đệ tử của
Ngài là Phú-lâu-na (Purna) vẽ. Bức tranh này được giữ tại viện bảo tàng
London
Vesali cũng là nơi mà ni bộ – tăng đoàn của phụ
nữ - được thiết lập mà người đầu tiên chính là kế mẫu của Phật. Sau khi
vua cha Tịnh-phạn băng hà, bà kế mẫu đã trở thành góa phụ đi bộ từ
Ca-tì-la-vệ đến Vesali, tính ra khoảng bốn năm trăm cây số, để xin Phật
cho xuất gia. Phật đã từ chối nhưng tôn giả A-nan là người năn nỉ xin Phật
cho phép và cuối cùng bà được nhận lời. Vì cử chỉ lịch sự với phái nữ này
mà về sau A-nan bị tăng già khiển trách vì các vị tu sĩ ngày xưa thấy quả
thật sự hiện diện của phái nữ trong giới tu hành thật bất tiện.
Tại Vesali Phật còn có thêm một hành động cách
mạng nữa trong thời bấy giờ, đó là Ngài nhận lời mời thọ thực của một nàng
kỹ nữ tên gọi là Ambapali. Ambapali là một kỹ nữ với sắc đẹp hết sức kiều
diễm, đã làm điên đảo các vị công tử xứ Licchavi. Cả vua Tần-bà-sa-la phía
nam sông Hằng cũng mê say nàng, có với nàng một đứa con. Hay thay ngày
xưa, mặc dù đường xá xa xôi, sông Hằng cách trở mà niềm say mê và sinh
hoạt xem ra không khác gì người thời nay.
Nàng Ambapali mời Phật thọ thực rồi lại cúng
dường luôn một vười xoài rất lớn và Ngài cũng thâu nhận, mặc dù trong xã
hội Ấn Ðộ thời xưa với quan niệm hết sức khe khắt về đẳng cấp, đó là một
hành động lạ lùng.
Ðường đi đến Vesali dẫn tôi qua nhiều đoạn rừng
núi và làng mạc. Trong địa phận Vesali mà ngày nay nó chỉ là một quận nhỏ
của Bihar, điều làm tôi thấy lạ là ở đây rõ ràng có một khí sắc vương giả
sang trọng, chúng phảng phất trong màu lá, màu nắng, màu cỏ cây. Lạ thay,
tôi cảm nhận khí sắc đó một cách chắc chắn. Tại Vesali ta tìm thấy một trụ
đá của A-dục vương còn nguyên vẹn, trên đầu có hình sư tử. Dưới chân trụ
đá là nền gạch đá của tu viện nữ ngày xưa, theo kiến trúc thì cũng có
nhiều phòng khác nhau, tương tự như Na-lan-đà nhưng nhỏ hơn nhiều. Và thú
vị thay, xa xa cách vài cây số là một khu rừng nhỏ, cây lá um tùm, đó là
vườn xoài của Ambapali !
Nàng kỹ nữ về sau trở thành tỉ-kheo ni và giác
ngộ thành bậc thánh.
Thế nhưng chắc nàng không bao giờ ngờ vườn xoài của mình sẽ được hậu thế
ghi chép và thăm viếng. Hành động của Phật, cứu độ cho những người thuộc
giai cấp "thấp kém", như xã hội Ấn Ðộ ưa miệt thị, như Ambapali, như người
thợ rèn Cunda, như kẻ sát nhân Angulimala, không những nói lên lòng từ bi
vô lượng, mà là trí huệ của Ngài chỉ rõ, tất cả con người đều có chung một
tự tính thanh tịnh, " ...biết rõ rằng chúng sinh, người hạ liệt kẻ cao
sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh
nghiệp của họ ...".
Mùa mưa năm 484 trước công nguyên, lúc này sức
khỏe vị đạo sư đã tàn, Vesali này là chỗ Phật lưu trú và tại đây A-nan hỏi
Ngài về một người kế vị. Ngài trả lời: "A-nan, tăng đoàn còn trông chờ gì
nơi ta ? Ta đã giảng giáo pháp không phân biệt trong ngoài...Ta đã già,
năm tháng đã tận, cuộc đời ta sắp chấm dứt, ta đã tới giới hạn của mình:
ta đã tám mươi tuổi. Như một chiếc xe bò đã cũ chỉ nhờ giây chằng buộc lại
mà thành thì thân ta cũng chỉ nhờ giây chằng mà có ... Vì thế, A-nan, hãy
tự mình là y tựa của chính mình, hãy dùng chánh pháp mà làm nơi y tựa,
đừng tìm y tựa nơi nào cả". Như thế sau Phật không có người kế vị, giáo
pháp chính là đạo sư hướng dẫn tăng đoàn.
Vài ngày sau khi nói lời này, Phật đi về hướng
bắc, đến chỗ nhập diệt tại Câu-thi-na. Một trăm năm sau khi Phật nói lời
này, Vesali là chỗ kết tập kinh điển lần thứ hai, tổng kết về giáo pháp,
chỗ y tựa của Phật giáo. Và cũng tại hội nghị này tại Vesali, giáo pháp đã
phát triển và bị chia làm hai phái, Thượng tọa bộ và Ðại chúng bộ và Ðại
chúng bộ là tiền thân của Phật giáo Ðại thừa sau này.
VARANASI, THÀNH
PHỐ THIÊNG LIÊNG
^
Trên thế giới có những thành phố cổ như Theben ở
Ai-cập, Ninive hay Babylon ở Ba Tư. Chúng thành hình cả ngàn năm trước
công nguyên, thậm chí 1700 năm như Babylon, kinh đô rực rỡ một thời của
miền Trung Á. Thế nhưng về mặt cổ xưa, các thành phố đó lu mờ trước
Varanasi, thành phố xuất hiện khoảng 3000 năm trước công nguyên. Có lẽ
Varanasi chỉ thua kinh đô Trường An của Trung Quốc với số tuổi 6000 năm
khả kính. Khoảng năm 900 trước công nguyên, những người dòng Arya của Ấn
Ðộ đến Varanasi, biến nơi đây thành một kinh đô hùng mạnh về thương mại
cũng như tư tưởng học thuật. Và Varanasi phồn vinh tới ngày hôm nay, trải
qua gần 5000 năm lịch sử, trong lúc nhiều thành phố cổ khác đã điêu tàn.
Mark Twain, văn sĩ của Mỹ, đã đến Ấn Ðộ năm 1896
và dĩ nhiên cũng đã thăm Varanasi, viết: "Varanasi xưa hơn lịch sử, cổ hơn
truyền thống, cũ hơn cả huyền thoại và tuổi của nó gấp đôi tất cả những
thứ vừa kể cộng lại".
Không ai giải thích được tại sao Varanasi trở
thành kinh đô thiêng liêng của thần Shiva, nguồn gốc của nó hẳn nằm trong
bóng tối của thần thoại. Thế nhưng người ta cho rằng đó là "kinh đô ánh
sáng", mới nghe qua tưởng như Paris của châu Âu, nhưng không phải. Aùnh
sáng ở đây là mặt trời, và mặt trời mọc tại Varanasi bên bờ sông Hằng là
một cảnh tượng kỳ lạ.
Tôi đến Varanasi bằng máy bay từ Kathmandu,
thủ đô Nepal. Varanasi là một thành phố không thể không tới nếu ta đến xứ
Ấn Ðộ. Ðây là một nơi mà người du khách thấy mình lùi lại vài trăm năm
thời gian, nếu không muốn nói cả ngàn năm. Vì lẽ đó, ngày nay Varanasi đầy
khách du lịch, có sân bay quốc tế từ nhiều nước đến. Có nhiều người đến
Varanasi bằng tàu xe như tôi, nhưng rất nhiều tín đồ Ấn Ðộ giáo đi bộ nhọc
nhằn từ xa đến đây, họ tin rằng càng gian khổ bao nhiêu trên đường đi đến
thì tội lỗi càng chóng rửa sạch bấy nhiêu. Ai chết ngay tại Varanasi này,
linh hồn họ sẽ thoát khỏi sinh tử để về với Ðại ngã bao la và vì thế mà
nhiều người già đến đây đợi chết.
Vì lẽ gì mà Varanasi được xem là "quê hương" của
thần Shiva, là chỗ thiêng liêng nhất của Ấn Ðộ giáo ? Thành phố này có thể
sánh với Jerusalem của Thiên chúa giáo, với Mecca của Hồi giáo. Bên bờ
sông Hằng dài 2525km cũng còn những thành phố thiêng khác như Allahabad,
Rishikesh, Hardwar. Hãy t5am nghe lời giải thích của phương tây: tại
Varanasi, sông Hằng uốn mình nhìn ra phía đông để buổi sáng lúc mặt trời
mọc, ánh dương chiếu tràn ngập bờ sông, tín đồ tắm sông vừa ngâm mình
trong nước thánh, vừa hưởng tia sáng của thần Shiva. Vì thế Varanasi là
đất thiêng của tín đồ Ấn độ giáo, đến Varanasi mà không đi thăm sông Hằng
lúc mọc trời mọc là xem như chưa đến.
Tôi ra sông lúc trời còn mờ tối, thuê thuyền đi
dọc theo bờ. May thay đó là một ngày nắng ráo, mặt trời chưa mọc mà ánh
dương đã ngời sáng. Thật là một cảnh tượng lạ lùng. Sông Hằng đoạn này
rộng mênh mông, nước yên tĩnh như mặt hồ. Từ dưới mặt nước, mặt trời như
một quả cầu đỏ ối dần dần vươn lên, treo giữa trời lơ lửng như một chiếc
lồng đèn màu đỏ vĩ đại. Có lẽ vì không khí ban mai còn đẫm sương đêm hay
sao mà ta có thể nhìn thẳng mặt trời đỏ rực, không bị chói mắt, thấy to
hơn bất cứ mặt trời nào tôi đã từng thấy. Tôi ngây người nhìn mặt trời
không biết chán. Ôi, thì ra mặt trời hiện ra mà cũng tùy cảnh tùy nơi, mỗi
lúc một khác.
Xa xa giữa Hằng hà là những cồn cát của mùa nước
cạn, thế nhưng sông vẫn còn mênh mông những nước, phía đông mặt trời là
một vùng hoang vu, dưới là chỉ nước và cát, trên là một vầng dương kỳ
diệu. Phía tây là thành phố thì chỉ toàn người và người, người từ đâu đến
? Hàng ngàn người tắm gội giữa giòng sông, họ lặn hụp, đứng yên, vái lạy,
khẩn cầu ... Tất cả đều nhìn về mặt trời đỏ đang chiếu rọi. Dọc sông Hằng
tại Varanasi là các bến sông mà người Ấn gọi là "Ghat", nơi mà tín đồ Ấn
độ giáo tràn ngập xuống sông, đó là những chỗ để họ cầu nguyện, cúng
dường, thiền định, bố thí, khất thực, thiêu xác, rải tro, tắm rửa, bói
toán, thắp đèn, thả hoa. Trong mấy mươi Ghat trải dài khoảng mười cây số
đó thì Dasaswamedh-Ghat là thiêng liêng nhất, đó là nơi vị sáng tạo vũ trụ
Phạm Thiên đã cúng dường "mười con ngựa". Tại Manikarnika-Ghat có một cái
hồ nhỏ, nơi tương truyền thần Vishnu đã dùng dĩa đào lên và đổ mồ hôi vào
đây.
Tôi đi thuyền dọc sông Hằng vừa ngắm mặt trời,
vừa nhìn thế nhân, vừa thả đèn và hoa tươi đúng phép tắc, không biết mình
đang ở thế kỷ hai mươi hay thời đại nào. Trên các bãi thiêu xác dọc theo
sông, có những kẻ đã rời đời sống hỗn loạn này của trần gian ra đi trong
lửa đỏ cháy bập bùng. Mùi gỗ, mùi da thịt lẫn trong mùi nhang trầm và
tiếng tụng niệm bay trong không gian. Người ta nói với tôi cảnh tượng này
cũng là cảnh tượng của mấy trăm năm cũ, mặt trời và giòng sông thì không
hề thay đổi đã đành, con người và cách cúng tế cũng thế. Chỉ có điều khác
là ngày nay người ta người ta tụng niệm trong loa phóng thanh và vì thế mà
tiếng ồn ào và sự hỗn loạn có lẽ còn hơn ngày xưa.
Cách đây 13 thế kỷ, lúc Huyền trang đến
Ba-la-nại,
đó cũng là tên của Varanasi, ông đã viết về các tu sĩ Ấn độ giáo: "Phần
lớn trong số họ tôn sùng thần Shiva. Kẻ thì cạo đầu, kẻ thì bối một nhúm
tóc trên đỉnh đầu. Một số khác thì lõa thể tự nhiên đi ngoài đường. Kẻ
khác thì thoa tro lên người hay tự chịu nhục hình để mong trốn khỏi luân
hồi ... "
Huyền Trang cũng tìm thấy một bức tượng Shiva mà
ông mô tả "đầy sự cao quí uy nghi mà khi nhìn người ta thấy có một lòng
kính sợ tôn thờ, dường như thần đang hiện diện...". Ngày nay, sau những
Ghat chính là đô thị cổ Varanasi với cơ man nào là đền, thờ thánh thần
mang dạng người, dạng thú. Tượng của Huyền Trang nói đến chắc nằm trong
đền Vishawanath. Ngôi đền mái vàng này đã bị tín đồ Hồi giáo phá hủy trong
thế kỷ thứ 18 và nay đã được xây dựng lại. Ðó là đền lớn nhất và thiêng
liêng nhất của Ấn Ðộ giáo. Tôi đi theo những ngõ hẹp của Varanasi, tâm chỉ
biết mở ra đón nhận những ấn tượng vô cùng trái ngược. Ðã đi nhiều nơi
trên thế giới, nhưng chưa nơi nào tôi có ấn tượng của sự đối nghịch tuyệt
đối như Varanasi. Những đền đài thếp vàng bên cạnh mái tranh lụp xụp, trẻ
con bụi đời Ấn độ chen chúc với khách du lịch nước ngoài, những con đường
đầy phân bò và bùn đen bên cạnh những ngôi đền cẩm thạch bóng loáng. Các
thứ bột đầy màu được bày bán trong các basar mờ lẫn trong khói nhang trầm
sặc sụa. Tiếng còi xe xen lẫn với tiếng ăn xin, tiếng chào mời của các
tiệm bán tơ lụa chen với tiếng cầu nguyện trong giáo đường sát bên cạnh.
Ðây là nơi hầm hập hơi thở của sự sống, của niềm mơ ước và hẳn cả của sự
tuyệt vọng. Vì làm sao với số lượng con người khủng khiếp đó ai cũng có
thể có hạnh phúc ? Thế nhưng nhìn khuôn mặt của con người ở đây, kể cả
những người ăn xin hay tàn tật, tôi thấy một sự chấp nhận, thậm chí bình
an, tâm trạng của những người có cảm tưởng mình đang "trả nghiệp", theo
quan niệm của Ấn Ðộ giáo. "Hỡi trần gian hỗn loạn và điên dại này, ta vẫn
cứ yêu thương mi".
LỘC UYỂN
^
"Trên núi có một con đường đá, chỗ đó người có
thể đánh đổi sự luân hồi hỗn loạn với hạnh phúc thanh tịnh vô biên", đó
một câu ca của Milarepa,
thánh nhân Tây Tạng sau khi tìm được sự giác ngộ.
Milarepa ca bài ca này khoảng mười lăm thế kỷ
sau khi Phật đến vườn Lộc Uyển, chỗ cách
Varanasi không đầy tám cây số, một chỗ
cũng hết sức thanh tịnh, không còn dấu vết gì của "trần gian hỗn loạn và
điên dại" trên bờ sông Hằng.
Lộc Uyển, một công viên tại Sarnath, ngoại ô
Varanasi là chỗ Phật giảng pháp đầu tiên, một trong bốn thánh địa của Phật
giáo. Tại sao Phật thành đạo tại Bodh Gaya mà lại đến Lộc Uyển để giảng
pháp, chỗ cách Bod Gaya 210 cây số đường chim bay, mà theo nhà Phật học
Schumann tính lại, Ngài phải đi mất khoảng 14 ngày mới tới. Schumann cẩn
thận tính rằng mỗi ngày Phật phải mất thì giờ khất thực và nghỉ trưa vì
trời quá nóng nên cần khoảnh thời gian đó.
Nhiều nhà Phật học phương Tây ngờ rằng đức Phật,
với tính cách là "nhà cải cách" Ấn độ giáo đã chủ tâm đến Varanasi, quê
hương của Ấn độ giáo, để truyền bá Phật giáo. Thế nhưng người hiểu đức
Phật sẽ sớm thấy Ngài không làm như thế, thậm chí Ngài phân vân không biết
nên giảng pháp không, thứ pháp "khó hiểu, khó tin, chỉ dành cho người có
trí". Chỉ sau khi nghe Phạm Thiên khẩn cầu, Ngài mới thốt lên "cửa đã mở
cho ai biết nghe, cửa thoát vòng sinh tử" và mới sẵn lòng giảng giải. Ngày
nay, có đạo Phật, ta phải cám ơn ba vị, đó là Phạm Thiên nhiều công đức đã
đi làm công tác thuyết phục, Ca-diếp nhiều uy tín đã triệu tập hội nghị
kết tập và A-nan nhiều trí nhớ đã đọc lại những gì từng nghe.
Giảng cho ai ? Ðầu tiên Phật nghĩ đến hai vị
thầy cũ, Alara Kalama và Uddaka Ramaputta, nhưng với thiên nhãn Ngài biết
hai vị đã chết. Sau đó nghĩ đến năm vị tỉ-kheo đã từng cùng tu học trong
rừng Uruvela, Ngài thấy họ hiện ở trong vườn Lộc Uyển gần Varanasi và lên
đường đi đến. Ðó là năm 528 trước công nguyên.
Thế nhưng năm vị tỉ-kheo không phải là người đầu
tiên nghe chuyện. Trên đường đi Phật gặp một tu sĩ khổ hạnh theo phái lõa
thể
tên là Upaka. Upaka thấy Phật xem ra trang nghiêm mới hỏi Ngài tu phép gì,
thầy dạy là ai, đó là cách hỏi thông thường mà Xá-lợi-phất cũng sẽ hỏi.
Phật trả lời thành thực, Ngài đã thoát khổ, không ai là thầy của Ngài, bản
thân Ngài đã là một đạo sư. Upaka lắc đầu không tin bỏ đi nhưng còn lịch
sự chúc "mong được như thế, huynh đệ".
Tại Lộc Uyển, năm vị tỉ-kheo gặp Ngài mới đầu
không muốn chào vì cho Ngài đã bỏ cuộc, không theo nổi con đường tu hành
khổ hạnh. Thế nhưng họ thấy dáng điệu Ngài quá cao quí nên mới mời ngồi và
cũng gọi Ngài là "huynh đệ". Phật nhẹ nhàng sửa lại hãy gọi Ngài là Như
Lai và giảng bài pháp đầu tiên mang tên "Kinh chuyển pháp luân", nội dung
chính là "Bốn sự thực chân chính". Nghe xong, Kiều-trần-như đắc quả
A-la-hán và trở thành tỉ-kheo đầu tiên của tăng đoàn. Kiều-trần-như không
phải là ai xa lạ với Phật, ông là người trẻ nhất trong phái đoàn của tám
bà-la-môn đến đặt tên cho thái tử Tất-đạt-đa lúc thái tử mới sinh ra đời.
Tôi đến Lộc Uyển và thấy tượng Phật ngồi thuyết
giảng cho năm vị tỉ-kheo. Sáu vị ngồi yên lặng trong nắng sớm. Ôi, hai
mươi lăm thế kỷ đã trôi qua, tiếng nói ngày xưa đâu còn nghe rõ.

H 13: Sơ đồ vườn Lộc Uyển. Bên mặt là tháp Dhamekh.
Ðền hình vuông bên trái là Mulagandhakuti, cạnh đó là tháp vua A-dục. Dấu
hình tròn phía dưới là nền đá của tháp Dharmarajika
Ngày nay vườn Lộc Uyển là một công viên cực lớn
với một hàng rào đá, được chăm sóc kỹ lưỡng. Trong công viên là những bãi
cỏ xanh tươi với những bụi cây nhỏ rực màu đỏ và tím. Tháp nổi bật nhất
tại Lộc Uyển là tháp Dhamekh, cao 33 mét. Suốt một thời gian người ta
không biết rõ tháp này có sự tích gì nhưng về sau các nhà khảo cổ tìm ra
được nơi đó một bảng đề "dhamaka" (pháp luân) mới chắc rằng đó là chỗ Phật
giảng bài pháp đầu tiên. Nó được xây bằng gạch trước thời A-dục vương, thế
kỷ thứ ba trước công nguyên.
Lộc Uyển chính là nơi thành lập tăng đoàn. Nơi
đây ta còn thấy một trụ đá của vua A-dục với những dòng chữ: "Tăng đoàn
không được chia rẻ. Dù tăng hay ni, ai chia rẻ tăng đoàn, người đó phải
mặc áo trắng (chỉ cư sĩ) và ở một nơi không có tăng đoàn". Tại Lộc Uyển
còn một chỗ thiêng liêng, kỷ niệm trú xá của Phật trong mùa mưa
năm 528 trước công nguyên. Tại đây các tỉ-kheo đã làm cho Phật một cái
chòi lá. Ðến thế kỷ thứ ba trước công nguyên chòi này biến thành một cái
đền và tiếp tục được xây dựng thêm trong những thế kỷ sau.

H 14: Tượng Phật chuyển pháp luân được tìm thấy tại
Lộc Uyển và hiện được chưng bày tại bảo tàng viện tại đây. Tượng bằng đá,
cao 160cm, thuộc niên đại Gupta (thế kỷ thứ 5), là một trong những tượng
đẹp nhất, được đúc lại nhiều lần. Tay Phật bắt ấn chuyển pháp luân. Phía
dưới, bánh xe pháp được khắc họa, hai con nai hai bên trình bày địa danh
Lộc Uyển (Lộc: nai). Các người ngồi nghe là năm vị tỉ-kheo và một nữ cư
sĩ (người cúng dường bức tượng) và đứa con
Trong
thế kỷ thứ bảy khi Huyền Trang đến đây thì đền này đã đắp cao lên đến 60
mét mang tên Mulagandhakuti. Ngày nay đây chỉ còn một nền đá hình vuông
mỗi chiều khoảng 13 m, dày 2 m, cao chưa đầy 5 m và là nơi nhiều khách
hành hương ngồi thiền định.
Phía nam của đền này là một nền đá hình tròn,
đường kính khoảng 14 m. Ðó là nền của tháp Dharmarajika, ngày xưa vua
A-dục cho xây để thờ xá lợi Phật. Tháp này bị phá hủy cuối thế kỷ thứ 18
vì người ta cần gạch xây nhà ! Trong lúc đào tháp lấy gạch người ta tìm ra
một hộp đá đựng xá lợi của Phật và thả xuống sông Hằng theo truyền thống
Ấn Ðộ.
Lúc tôi đến nền đá hình tròn này, một đoàn khách
hành hương người Nhật đứng tụng kinh trước nền tháp cũ. Họ tụng tiếng Nhật
nên tôi chẳng hiểu gì nhưng đoán nó phải là kinh Chuyển pháp luân hay Vô
Ngã tướng, hai bài kinh Phật thuyết nơi đây. Tôi đứng nghe tiếng tụng kinh
trong nắng sớm, thấy giống tiếng tụng kinh của ông tôi ngày xưa. "Tôi nghe
như vầy: một thời đức Thế Tôn trú tại thành Ba-la-nại, chỗ chư tiên đọa
xứ, vườn Lộc Uyển. Lúc bấy giờ đức Thế Tôn gọi năm vị tỉ-kheo rằng...".
Với lòng cảm khái vô hạn, tôi nhớ từ "Lộc Uyển"
xa xăm của thời thơ ấu và không ngờ lớn lên mình đến được đây. Thì ra tất
cả đều có thật. Chợt tôi để ý đoàn hành hương Nhật không thắp nhang, không
hiểu tại sao. Tôi rút nhang Việt Nam trong ba-lô ra thắp, cắm vào một kẻ
đá của nền tháp cũ và ngơ ngẩn nhìn khói hương bay trong gió quyện với
tiếng kinh du dương trên bầu trời Lộc Uyển.
" ...Vậy nên, này các tỉ-kheo, tất cả các thức
hiện tại, quá khứ hay vị lai, nội tâm hay ngoại cảnh, thô hay tế, hạ liệt
hay cao sang, xa hay gần, tất cả thức ấy ‘không phải của tôi, không phải
là tôi, không phải tự ngã của tôi’. Chính như vậy chúng ta phải quán xét
với như thật chính kiến”.
Vô ngã là một trong những đặc điểm làm Phật giáo
khác với Ấn Ðộ giáo và là cái đặc sắc nhất của nền triết học đạo Phật.
Không có gì tồn tại tự nó
cả và con người chỉ là một sự giả hợp của
năm nhóm - ngũ uẩn, tức là của các yếu tố tâm lý và vật lý. Các ngũ uẩn đó
vận hành vô chủ, chúng tuân thủ thói quen của mình vốn đã biến thành
nghiệp lực. Tính chất của vô ngã sâu xa đến độ các môn phái Phật giáo cũng
khác nhau khi hiểu khái niệm này. Ðó là một khái niệm mà ta có thể dùng
trí để hiểu được nhưng không thể "ngộ" được nó đích thực vì bản thân cái
trí ta dùng để hiểu nó lại vương đầy ngã chấp. Ðạt được vô ngã đích thực
là đạt Niết bàn, không có cá nhân nào đi vào Niết bàn cả..
DỌC ÐƯỜNG
PHƯƠNG BẮC .
^
Chúng tôi rời Varanasi đi ngược lên miền Bắc
nhắm hướng Gorakhpur, gần biên giới Nepal. Gorakhpur cách Varanasi khoảng
180 cây số, là một thành phố nhỏ nhưng có đại học. Thế nhưng kẻ hành hương
như tôi có biết đến đến Gorakhpur chỉ vì đây là trạm chuyển tiếp để đi
thăm cách nơi quan trọng như Lâm-tì-ni, Câu-thi-na, Sravasti.
Chiếc Ambassador rời Varanasi rất sớm, nhắm
hướng bắc, đi ngang Lộc Uyển lần cuối. Trời mưa nhẹ và đường trơn ướt, tôi
lo ngại không biết tối ngay mình sẽ ngủ đâu, Câu-thi-na hay Gorakhpur.
Khoảng cách 180 cây số thật ra không đáng kể, ngay cả tại Việt Nam tôi
cũng tính mất cho bốn giờ là nhiều. Thế nhưng chiếc Ambassador này quá
nguy hiểm, bốn bánh xe mòn nhẵn không còn chút gai, nó sẽ đưa tôi xuống
đâu trên con đường trơn và hẹp này. Chúng tôi lấy đường số 29, qua
Saidpur, đến Ghazipur, bên mặt chúng tôi sẽ là sông Hằng. Từ Ghazipur
chúng tôi sẽ bỏ sông Hằng đi thẳng lên phía bắc, sau 60 cây sẽ băng sông
Ghaghara, thêm 60 cây nữa là đến Gorakhpur. Nếu đến đó sớm chúng tôi sẽ
đến thẳng Câu-thi-na, nơi Phật nhập diệt.
Rời Varanasi không bao lâu quả nhiên chiếc xe
suýt gây một tai nạn. Trước một khúc quanh, tài xế thắng lại nhưng chiếc
Ambassodor vẫn cứ trờ tới, hướng về một chiếc xe bò đậu dưới gốc cây với
một bà già và một cô bé gái ngồi trên xe. Họ run rẩy ngồi bất động không
có phản ứng, còn tôi lặng người đợi tai nạn tới như một ngày tại Delhi
trên cầu bắc qua sông Yamuna. May thay lúc chỉ còn cách xe bò chưa đầy nửa
mét thì xe hơi dừng lại. Chúng tôi ngồi đợi trời hết mưa mới dám ra đi,
làm sao chiếc xe này đưa chúng tôi đi khắp vùng Bắc Ấn, tới trạm cuối cùng
là Bhairawa thuộc lãnh thổ Nepal, tổng cộng cả ngàn cây số.
Tài xế nhìn tôi tỏ ý lo ngại khách không vừa
lòng nhưng tôi còn cách nào khác hơn là đi liều vì làm sao đổi hợp đồng,
thay xe trong cảnh hoang vu này. Tôi cũng không thể đòi anh đi chậm lại vì
xe đâu có thể đi nhanh trên con đường hẹp và trơn này. Tôi đành đi và cố
quên hiểm nguy.
Ðường lên phía bắc này là một trong những đường
chính của tiểu bang Uttar Pradesh của Ấn Ðộ mà đoạn này ngày xưa nằm trong
vương quốc Kiều-tát-la (Kosala). Trong thời Phật tại thế thì nhà vua của
Kiều-tát-la là Ba-tư-nặc (Pasenadi). Ông cùng tuổi với Phật, là một người
rất mực khôn ngoan về chính trị, thông thái về triết học, lại là một nhân
vật đầy tính người, thích ăn ngon và phụ nữ đẹp. Trước khi được vua cha
nhường ngôi, ông học tại đại học Takkasila và làm thống đốc tại Varanasi.
Vương quốc của Ba-tư-nặc trải dài từ đông sang
tây khoảng 350 km, từ bắc xuống nam khoảng 270 km, phía tây quá Lucknow
ngày nay, phía nam đến tận sông Hằng. Kinh đô của Kiều-tát-la chính là
Xá-vệ (Sravasti), chỗ mà đức Phật được một thương gia có tên là Cấp Cô Ðộc
cúng dường một vườn kỳ viên. Ðây là nơi Phật lưu trú đến trên 25 mùa mưa
và sẽ được nhắc đến trong những chương sau.
Ba-tư-nặc hết sức tôn trọng đức Phật và trở
thành cư sĩ của Ngài và cũng vì thế mà Phật rất hay đến Kiều-tát-la để lưu
trú và giảng pháp. Chỉ trong Tương Ưng bộ kinh
thôi ta có thể đếm Ba-tư-nặc đàm đạo với Phật 25 lần. Thế nhưng cũng vì
hiếu sắc mà Ba-tư-nặc gây một thảm họa cho dòng Thích-ca.

H 15:
Bản đồ các vùng hoạt động của đức Phật. Chú thích: =Thị trấn trong thời
Phật tại thế; o Thị trấn được xây dựng sau này; Xá-vệ: Savatthi;
Lâm-tì-ni: Lumbini; Bodh Gaya: Bồ-đề đạo trường; Lộc uyển: Sarnath; Hoa
Thị Thành: Pataliputra; Na-lan-đà: Nalanda; Vương Xá: Rajagaha; _._._ Biên
giới Nepal-Ấn Ðộ; ......Ðường đi của thương nhân
Ngoài chính hậu, Ba-tư-nặc có thêm bốn bà vợ mà
bà thứ tư là một người đẹp dòng dõi Thích-ca, tên là Vasabhakkhatiya. Bà
này sinh ra một hoàng tử, tên là Vidudabha, về sau nối ngôi Ba-tư-nặc. Câu
chuyện sẽ đơn giản nếu nó dừng tại đó. Khổ thay vị hoàng tử này khi lớn
lên khám phá ra rằng mẹ mình không phải hoàn toàn là gốc quí tộc của dòng
Thích-ca, bà là con gái của một vị hoàng tử - vị này không ai khác hơn là
một anh em họ của thái tử Tất-đạt-đa - với một tiện nữ nô lệ. Dòng
Thích-ca đã dâng cho vua Ba-tư-nặc một người bất xứng. Vị hoàng tử trẻ
tuổi uất hận dòng Thích-ca từ đó. Khoảng năm 487 khi Ba-tư-nặc viếng vương
quốc Thích-ca và hội đàm với Phật tại đó thì Vidudabha thừa cơ cha vắng
mặt ở kinh thành, lấy cắp ấn kiếm, lật đổ phụ vương. Ba-tư-nặc bị mất
ngôi, đi ngựa từ Ca-tì-la-vệ về Vương Xá để cầu cứu A-xà-thế. A-xà-thế
cũng là con phản cha nhưng lại gọi Ba-tư-nặc bằng cậu. Mẹ của A-xà-thế, bà
Vi-đề-hi là em gái của Ba-tư-nặc. A-xà-thế sẵn sàng đem quân chinh phạt
nhưng đêm đó Ba-tư-nặc chết vì kiệt sức, thọ 76 tuổi.
Bây giờ Vidudabha rảnh tay đem quân đi trả thù
dòng Thích-ca, dòng bên ngoại đã sinh ra mình. Kinh sách kể lại Phật ba
lần ngăn ngừa được trận trả thù này nhưng qua lần thứ tư thì Vidhdabha
không muốn nghe nữa, chiếm Ca-tì-la-vệ, thẳng tay giết tất cả thanh niên
trong tuổi quân đội và cho phá hủy thành. Thành đó là quê hương
Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) của Phật mà ngày nay có tên là Tilaurakot thuộc
địa phận Nepal. Ðó là năm 485 hay 484, không lâu trước khi Phật nhập diệt.
Với Tần-bà-sa-la, Phật đã đem giáo pháp vào nước
Ma-kiệt-đà, với Ba-tư-nặc vào nước Kiều-tát-la. Theo nhà Phật học Schumann
thì "chính sách" truyền giáo của Phật rất rõ, trước hết Ngài tranh thủ các
nhà vua và khi các quân vương theo Phật thì cả nước đều theo. Thế nhưng
Phật không phải lúc nào cũng thành công. Vương quốc, nơi mà Ngài thất bại
nặng nề, là Vamsa với nhà vua Udena tại kinh thành Kosambi. Vamsa nằm phía
nam nước Kiều-tát-la, phía tây của Varanasi, ngày nay là quận Banda của
tiểu bang Uttar Pradesh.
Phật đã đến Kosambi nhiều lần và năm 520, Ngài
lại đến với hy vọng điều phục được nhà vua Udena. Nhà vua là một người chỉ
ham mê thế tục, đối với chuyện tâm linh ông càng ngán ngẫm không muốn gặp
Phật, câu chyuện xảy ra chẳng qua cũng chỉ vì các bà vương phi. Vợ chính
của ông là Samavati, bà là người tha thiết với đạo pháp. Một bà khác trẻ
hơn tên gọi là Magandiya tìm cách bôi nhọ Samavati để chiếm lòng sủng ái
của vua, kế này xem ra đời nào cũng có. Bà kể vua nghe Samavati ngây người
ngắm Phật lúc Ngài đi khất thực làm vua ghen tức ra lịnh bít cửa sổ của
hoàng hậu. Về sau Samavati chết cháy vì bị Magandiya đốt cung điện ám hại.
Cơ mưu bại lộ, Magandiya cũng chịu một cái chết thảm khốc bằng hình phạt
tử hình.
Về sau con trai của Udena lại là người hâm mộ
Phật pháp và nhà vua cũng bớt thành kiến với giáo pháp và tăng đoàn nhưng
trong suốt 35 năm còn lại của đời mình, Phật không lưu trú một mùa mưa nào
tại Kosambi nữa.
Kosambi nằm trên bờ sông Yamuna là điểm cực tây
của vùng hoạt động lúc Phật còn tại thế. Ðiểm cực đông là Campa, chỗ cách
Bhagalpur ngày nay khoảng 40Km. Ðiểm cực bắc là quê hương Ca-tì-la-vệ và
cực nam là Uruvela, chỗ Phật tu khổ hạnh. Tổng cộng Phật đã du hành và
hoạt động trong một vùng đất rộng khoảng 600x300 km.
Ngày nay vùng đất đó chỉ cần vài ngày là đi
khắp. Phương tiện di chuyển đã thay đổi nhưng cảnh vật và tập quán người
dân hầu như không đổi bao nhiêu. Dọc theo con đường đầy bụi là ruộng mía,
là xe bò, là những đám rước tôn giáo đầy màu sắc và sự sùng tín. Xã hội Ấn
Ðộ cho thấy một niềm say mê tôn giáo khó tưởng tượng, điều mà tôi chưa hề
thấy tại Việt Nam hay Trung Quốc.
Lúc tôi đến Gorakhpur thì hình như nơi đây có
biến động chính trị. Khắp nơi là công an cảnh sát đứng đầy, đường xá vắng
vẻ. Tôi sực nhớ Ấn Ðộ là một xứ sở đầy tranh chấp chính trị mà nguồn gốc
của chúng lại là tôn giáo. Ðó là những hiềm khích dễ đổ máu giữa Hồi giáo,
Ấn Ðộ giáo và các bộ phái tôn giáo lớn nhỏ. Nghỉ ăn trưa trong một khách
sạn tại đây xong, chúng tôi vội vã đi Câu-thi-na. Một nhân viên khách sạn
xin đi nhờ xe tôi, quê hương anh chính tại Câu-thi-na cách Gorakhpur 55
km. Người này nói được tiếng Anh, nhờ vậy mà chúng tôi được một người
hướng đạo.
RỪNG SALA
TẠI CÂU-THI-NA ^
Cuối năm 484 Phật rời Vesali đi về hướng Tây Bắc
với một chủ ý rõ rệt: Ngài sẽ từ bỏ thân người sau gần 40 năm giáo hóa.
Hướng đi của Ngài là Tây Bắc nên nhà Phật học Schumann cho rằng Ngài muốn
nhập diệt trong một tu viện tại Xá-vệ, nơi Ngài từng sống rất lâu, nhưng
trên đường đi Ngài chỉ đến được Câu-thi na (Kusinara), tên ngày nay là
Kasia, nằm khoảng chừng giữa Vesali và Xá-vệ. Ðó là giả thiết của
Schumann, nhưng tôi không nghĩ khoảng cách địa lý là một trở ngại cho một
thánh nhân như Phật và khám phá thêm trong kinh sách, Phật đã báo trước
cho A-nan biết sẽ nhập niết bàn ba tháng trước đó, tại chỗ của bộ lạc
Malla. Trên đường đi, Ngài đến Pava, gặp tại đó một người thợ rèn tên là
Cunda. Pava ngày nay có lẽ là Fazilnagar, cách Câu-thi-na 16 km, nằm trên
quốc lộ 28 nối Vesali với Gorakhpur. Ðường Phật đi ngày xưa hẳn
là một con đường nhiều dân cư mà ngày nay nó đã trở thành một quốc lộ nằm
hướng đông tây, nối liền hai bang Bihar và Uttar Pradesh.
Người thợ rèn tốt bụng mời Phật và tăng đoàn thọ
thực và nấu một thứ thức ăn mà ngày nay người ta đoán là một thứ nấm. Phật
tự mình ăn thức ăn đó, không cho phép ai được đụng tới và nói với A-nan
rằng, "khắp trời người, ta không thấy ai có thể ăn món ăn này mà sống
sót". Giờ cuối cùng của Ngài đã điểm và Cunda có cái hân hạnh nấu cho Ngài
bữa ăn lần chót.
Rời nhà Cunda, đoàn tăng già ra đi, băng qua một
con sông nhỏ mà ngày nay có tên là Little Gandak, đến Câu-thi-na. Ðây
không phải là chỗ xa lạ, Phật đã đến đây, nó thủ phủ thứ hai của bộ lạc
Malla. Dưới tàng cây Sala, A-nan làm một chỗ nằm cho Phật nằm tạm và từ
đây Phật không bao giờ đứng dậy nữa.
Chiều hôm đó Phật chỉ thị cho A-nan đừng lo lắng
gì về việc mai táng Ngài, đã có nhân dân quanh vùng giúp đỡ. Ðến lúc đó
thì A-nan mới biết Phật sắp giã biệt tăng đoàn và khóc lóc than thở. Tối
đó có một sa-môn tên Subhadda đến thăm Phật và bị A-nan cấm không cho vào.
Vị đạo sư lúc đó như ngọn đèn sắp tắt nhưng vẫn nghe rõ lời van xin, bảo
A-nan cho ông vào và Subhadda trở thành vị đệ tử cuối cùng của Phật lúc
Ngài còn tại thế. Ngày hôm sau, Phật cho tăng già một dịp cuối được hỏi về
đạo pháp nhưng tất cả mọi người đều im lặng. Lúc đó đêm đã gần kề, cuối
cùng Phật nói: "Này chư vị, thật vậy, các pháp hữu vi đều vô thường, hãy
tinh tấn".
Sau đó Schumann kể lại Phật "bất tỉnh" nhưng
theo kinh điển, Ngài đã đi vào thiền định, từ sơ thiền đến các xứ định rồi
trở lại sơ thiền. Phật nhập định hai chiều thuận ngược như thế "đến hai
mươi bảy lần" và cuối cùng đúng lúc nửa đêm "Ngài nhập tứ thiền, lặng lẽ
mà đi".
Ngài bỏ ứng thân bằng xác thịt này, bỏ một tâm thức mang tính cá thể và
đạt tới một dạng bất khả tư nghì mà chúng ta gọi là "Ðại Niết bàn". Ðó là
năm 483 trước công nguyên.
Tôi từ Gorakhpur đến Câu-thi-na vào một chiều
mưa, rừng cây Sala
ngày nay vẫn còn, lá xanh ngắt đẫm nước trông như ngọc. Ðây là một nơi nhà
dân chỉ có vài nóc, cách quốc lộ 28 khoảng vài trăm mét. Lúc tôi vào thì
có một đoàn người Ấn Ðộ vào chiêm bái, nhưng khác hẳn với Lộc Uyển, đây là
một nơi hết sức vắng vẻ. Bây giờ như thế nhưng ngày xưa, lúc Huyền Trang
đến đây thì sao?
Huyền Trang kể "...Ðây là nhà cũ của Cunda. Giữa
đó là một cái giếng do ông này đào khi cúng dường thức ăn cho Phật. Dầu
trải qua nhiều năm tháng lụt ngập, nước vẫn trong và ngọt. Về phía tây bắc
thành phố
độ 3,4 dặm vượt qua sông Ajitavati,
về bờ phía tây không xa lắm, chúng ta đến một khu rừng có cây Sala. Cây
Sala như cây Huk, vỏ cây màu trắng xanh, lá lóng lánh và trơn dịu...Tại
chỗ này có một tinh xá bằng gạch, trong đó là tượng đức Như Lai nhập Niết
bàn. Ngài nằm đầu hướng về phía bắc như đang ngủ. Bên cạnh tinh xá là một
ngọn tháp do vua A-dục dựng lên; dầu đã hư sụp, nhưng cũng còn cao gần 200
bộ...Phía bắc thành phố vượt qua sông và đi bộ khoảng 200 bước có một ngọn
tháp. Ðây là chỗ làm lễ trà tỳ
nhục thân đức Phật. Ðất hiện tại đen vàng, than và đất trộn với nhau..."

H 2: Sơ đồ vùng Câu-thi-na. Chỗ ô vuông có
chấm là chỗ Phật nhập Niết-bàn. Chấm đen có chữ "Einascherungsstupa" là
chỗ cử hành lễ trà tỳ
Ngày nay tôi đến thì tinh xá và tháp do vua
A-dục xây vẫn còn. Nhưng theo tài liệu thì đền mà ngày nay ta thấy mới
được xây lại năm 1956, thay thế đúng nơi "tinh xá bằng gạch" mà Huyền
Trang kể lại. Trong tinh xá này là một bức tượng Phật nhập Niết bàn dài
6,2m bằng đá được hoàn thành trong thế kỷ thứ năm, đó chính là bức tượng
mà Huyền Trang mô tả. Bức tượng này đã nằm dưới đống gạch vụn của tinh xá
cũ và may thay được tìm thấy lại năm 1876 để hậu sinh như chúng ta được
đảnh lễ. Ðó là một cái đền có mái cao, buổi chiều trời mưa nên bên trong
mát lạnh. Tượng Phật đắp y vàng nằm an tịnh, hai bàn chân để lộ ra ngoài.
Tôi lặng lẽ tìm chỗ ngồi trên nền đá dưới chân tượng, trong đền mát lạnh
và thơm mùi nhang khói, lòng biết rằng ở nơi đây hai ngàn năm trăm năm
trước, có một vị đạo sư cũng phải lìa đời như mọi sinh vật trên trái đất
này. Ngài chủ động lấy thân người, sinh ra và lớn lên trong số phận của
đời làm người và cũng thông qua dạng người đó để chỉ dạy cho con người
những nhận thức và phương pháp giải thoát khỏi vòng sinh tử. Ðến ngày cuối
cùng của đời mình Ngài cũng chịu bệnh tật và đau đớn, dùng chính thân mình
để minh họa cho giáo pháp mình. Ngài là người thể hiện trước nhất và cụ
thể nhất Bồ-tát đạo, cứu cánh của Ðại thừa Phật giáo mà vài trăm năm sau
mới bắt đầu phát triển.
Lần thiền định trong đền này này để lại cho tôi
lòng an tịnh khó quên, nó khác hẳn tại Bodh Gaya, nơi đầy người qua kẻ
lại. Lúc tôi ra khỏi đền thì trời đã dứt cơn mưa, lá cây Sala vẫn còn lóng
lánh. Hỡi các cây Sala này, theo kinh điển thì tiền bối của các ngươi cũng
đã chứng kiến phút nhập diệt của Phật:
"...Bốn cặp
cây Sala,
vươn tàng ra hợp lại,
thành một vầng mây lá,
che phủ thân vàng kim,
nằm trên giường bảy báu..."
và cây lá
như các ngươi mà cũng biết đau buồn:
"...Lá các
cây Sala,
bỗng biến thành trắng xóa,
như một rừng hạc trắng,
rồi thì lá hoa trái,
vỏ cây và nhành cánh,
khô dần thành nứt nẻ,
gẫy rụng lả tả rơi...".

H 3: Sơ đồ tại tháp Nhập niết-bàn. Hình tròn
màu đen ở giữa là tháp tròn cao 15m. Bên cạnh là chính điện (có chữ
"Tempel"), trong đó có tượng Phật nhập niết-bàn dài 6,2m. Xung quanh là
các tu viện
Tôi đi vòng quanh tháp bên cạnh đền, lòng ngẩn
ngơ. Ngọn tháp mà Huyền Trang cho là 200 bộ (khoảng hơn 60m) đó ngày nay
chỉ đo được khoảng 15m. Có tài liệu cho rằng đó là chỗ thờ xá-lợi của Phật
được chia cho bộ lạc Malla chứ không phải của A-dục xây. Ngay tại nơi đây,
cách đền khoảng 1,5 km là nơi hỏa thiêu nhục thân đức Phật mà Huyền Trang
cũng đã mô tả, ngày nay chỉ là một ngọn đồi con đường kính 34m, cao 8m
(xem hình 16). Ðó là nơi cử hành lễ "Trà tỳ", lễ hỏa thiêu cử hành khoảng
một tuần sau khi Phập nhập diệt. Ðó là buổi lễ không thể thiếu Ma-ha
Ca-diếp, đại đệ tử của Phật, lúc đó đang ở Linh Thứu đã vội vã trở về tham
dự. Lễ này được mô tả rõ ràng trong Ðại Niết bàn kinh, phẩm Trà tỳ. Qua
bao nhiêu năm tháng ngọn đồi này đã bị nhiều người đào bới để tìm xá lợi
Phật. Huyền Trang cũng từng nói ai đến đây với lòng chí thành sẽ tìm thấy
xá lợi. Tôi không có chút tham vọng, biết mình làm sao đủ cơ duyên để tìm
thấy cái gì, chỉ nhớ rằng lúc mình đến là một buổi chiều sau khi mưa tạnh,
bầu trời hết sức quang đãng và lòng hết sức thanh thản. Ðiều bất ngờ là
vềà sau tại Linh Quang tự gần Bắc Kinh tại Trung Quốc, tôi đã được chiêm
bái răng Phật, một trong bốn chiếc răng được tìm thấy tại ngọn đồi con
này, một trong các báu vật mà cả Long Vương, Ðế Thích cũng giành nhau.

H 4: Lễ hỏa táng (trà tỳ) đức Phật. Bên mặt
phía dưới là Ca-diếp đang chắp tay cầu nguyện. Bên cạnh là cư sĩ dang cúng
dường hoa quả. Một tăng sĩ đang đổ hương trầm vào lửa từ trong một bình
đựng bằng vỏ ốc. Phía trên là thiên nhân đang tấu nhạc, một vị khác đang
rải hoa cúng dường[64]
XÁ-VỆ VÀ CẤP CÔ
ĐỘC
^
Vì Câu-Thi-Na chỉ là một làng nhỏ không có chỗ
trú ngụ, chúng tôi cho xe lấy đường 28 đi thẳng về hướng Tây, nhắm Basti,
cách đó khoảng 120 km. Trời đã tối, xe hư đèn, chỉ còn đèn "pha", chói mắt
xe chạy ngược chiều nên hết sức nguy hiểm. Cuối cùng chúng tôi cũng đến
được Basti, vào một khách sạn xác xơ nhưng có cái tên sang trọng là Suyash
Palace. Hôm sau chúng tôi sẽ bỏ đường 28, lấy một con đường không tên lên hướng
bắc, qua Balrampur đến một thị trấn tên gọi là Sravasti (Xá-vệ), ngày nay
không có người ở.
Xá-vệ không gì khác hơn chính là kinh đô nước Kiều-Tát-la của nhà vua
Ba-tư-nặc. Sravasti còn có tên là Savatthi, chính là nơi Phật lưu trú 25
mùa mưa, giảng vô số kinh sách mà ta thấy đầu kinh ghi là "Xá-vệ-quốc".
Tại Xá-vệ, Phật giảng hai bộ kinh cao cấp nhất về mặt trí huệ, đó là kinh
Kim Cương và kinh Hoa Nghiêm. "Hội Hoa Nghiêm" được mở tám lần cho trời
người được nghe, phần lớn là tại các cung trời, một lần trên địa cầu là
tại rừng "Thệ Đa" tại Xá-vệ. Hai ngàn năm trăm sau hội này, nhiều nhà vật
lý hiện đại kinh ngạc thấy rằng thế giới mô tả trong phẩm "Nhập pháp giới"
của Hoa Nghiêm hoàn toàn trùng hợp với nhận thức của họ.
Rừng Thệ Đa có tên là Jetavana, có người gọi là Kỳ viên, đó là một khu
vườn của một "trưởng giả" tên là Cấp Cô Độc. Vị này là một thương nhân rất
giàu có, ông làm nghề "ngân hàng", có lẽ ông nhiều của cải như Bill Gate
thời nay. Nhưng ông khác với các thương nhân ngày nay ở chỗ rất tôn trọng
và hết lòng hỗ trợ Phật pháp.
Nhà ngân hàng Cấp Cô Độc có vợ người xứ Vương Xá, ông hẳn là người đầu
tiên làm cái nghề nhiều lợi tức này của Ấn Độ. Ngày nọ, đến quê vợ giao
dịch, ở tại nhà anh rể, ông thấy trong nhà chuẩn bị nhộn nhịp. Hỏi ra ông
biết có người tên là "Đức Phật" ngày mai sẽ đến thọ thực tại đây. Tối hôm
đó ông thao thức chẳng ngủ được, dậy sớm đi về phía rừng Trúc Lâm thì có
người gọi ông bằng tên tộc. Như thời nay, các đại phú ngày xưa đều muốn
dấu tên, ông giật mình hoảng sợ và mới hay người đó là đức Phật đang đi
kinh hành buổi sáng. Trong bữa ăn ngày hôm đó, ông xin qui y và mời Phật
về Xá-vệ nghỉ trong mùa mưa. Phật nhận lời và cho hay chỗ lưu trú chỉ nên
yên tĩnh là được.
Cái chỗ đó thật sự là yên tĩnh nhưng đắt tiền. Cấp Cô Độc tìm ra được một
khu vườn xanh tươi, nằm ở phía tây nam kinh thành Xá-vệ. Thế nhưng vườn đó
có chủ, nó là của Jeta, con trai nhà vua Ba-tư-nặc. Jeta không chịu bán
cho Cấp Cô Độc nhưng dại dột nói chơi thêm "100.000 đồng tiền vàng cũng
chưa chắc chịu". Chẳng may cho Jeta là Cấp Cô Độc là thương nhân, rất sành
về hợp đồng mua bán. Theo luật thời đó hễ ai nêu giá là phải bán, nếu nhất
định không bán thì đã không nêu giá. Cấp Cô Độc kiện vị hoàng tử, buộc
phải bán với cái giá khổng lồ 100.00 đồng tiền vàng. Và công minh thay,
nền tư pháp của thời quân chủ ngày đó không hề bênh vực con vua cháu chúa,
Jeta phải bán với giá này. Người ta cho rằng số tiền này đủ để mua vàng
trải đầy khu vườn. Đó là năm 526.
Khu vườn này được trồng cây cối rậm rạp, một phần là xoài nên có khi được
gọi là "rừng xoài". Ngày nọ có một người đến thăm Phật vì lòng tò mò. Ông
là nhà vua Ba-tư-nặc, trị vì nước Kiều-tát-la. Ông nghe sa-môn Cồ-đàm là
con trai của Tịnh Phạn mà Tịnh Phạn thật ra là vua của một tiểu quốc thần
phục Kiều-tát-la. Đúng ra ta chỉ nên gọi Tịnh Phạn là thống đốc thì phải hơn. Ba-tư-nặc đến tìm Cồ-đàm với sự dè dặt:
"Ba-tư nặc: Thưa Cồ-đàm, phải chăng Ngài là người tự xưng là Phật đã hoàn
toàn giác ngộ?"
"Phật: Đúng thế, ta tự xưng như thế!"
"Ba-tư-nặc: Các vị Sa-môn và Bà-la-môn khác cũng trả lời tôi là họ cũng
giác ngộ hoàn toàn. Làm sao Ngài còn trẻ tuổi và xuất gia chưa lâu mà gọi
là giác ngộ hoàn toàn được?"
"Phật: Thưa quốc vương, có bốn thứ ta không nên coi thường vì tuổi còn
trẻ: người chiến sĩ, con rắn độc, đốm lửa và vị tỉ-kheo" .
Trước sự hùng biện hóm hỉnh của Phật, Ba-tư-nặc không hề thấy bị xúc
phạm. Ông là nhà vua, cùng trẻ tuổi như Phật thế nhưng không được liệt vào
"bốn thứ". Ngược lại ông xin qui y trở thành cư sĩ.
Kể từ năm 508 Phật xem vườn Kỳ viên là trú xứ mùa mưa của mình, Ngài ở đó
suốt 18 mùa mưa. Gần đó cách 600m về phía đông có một khu vườn khác tên
gọi là Pubbarama của tín nữ Visakha tặng tăng đoàn, tại đó Phật lưu trú
sáu mùa mưa.
Từ Basti đi Xá-vệ, đường dẫn qua những làng mạc vô danh, qua những đám
rừng rậm có thể làm ta hãi sợ. Bên mặt của con đường xe chạy là con sông
Rapti, ngày xưa tên gọi là Achiravati. Kinh thành Xá-vệ ngày xưa nằm trên
bờ sông này, nhờ thế mà thuận đường mua bán vì sông chảy về phía đông nam
nhập chung với Hằng hà. Trên đường đi, chúng tôi gặp một trận mưa to tưởng
chừng như đại hồng thủy kéo tới và cũng nhờ thế mà khi đến Kỳ viên tại
Xá-vệ thì mây đen đã tan, để lộ một vùng cây cối xanh tươi không thể nào
tả xiết.
Cám ơn thay Nhà nước Ấn Độ, mặc dù dân nghèo lam lũ, mặc dù đạo Phật đã
biến mất cách đây 10 thế kỷ nhưng vẫn để tâm săn sóc khu vườn lịch sử này
để cho hậu thế có thể tìm thấy trú xứ của Phật trong một tình trạng xứng
đáng với tầm vóc của nó.
Tôi bước chậm rãi trong Kỳ viên trên con đường hẹp tráng xi măng mà bây
giờ đã sạch bóng sau cơn trưa và nhận rằng lòng mình lúc nào cũng bình an
khi đến các thánh địa. Đó là lòng bình an kỳ lạ dù tâm lữ khách háo hức
lớn hơn mọi chỗ tôi từng đi qua. Ở đây tôi cảm nhận một không khí thuần
tịnh, ở Vesali một khí sắc vương giả, ở Bodh Gaya một tâm tư kính sợ, ở
Linh Thứu một lòng cảm động vô hạn, ở Câu-thi-na một khí lực mát lạnh buồn
bã, ở Lộc Uyển một lòngï hân hoan. Nhưng ở mọi nơi, lòng bình an luôn luôn
chan hòa trong mọi cảm nhận đó, nó làm nền cho chúng phát khởi.
Đây là cây bồ-đề mệnh danh "A-nan", nó được A-nan cho mang một nhánh từ cây bồ-đề gốc tại Bodh Gaya về và do chính tay Cấp Cô Độc trồng. Cây
này được trồng vì dân chúng Xá-vệ hỏi Phật khi Ngài đi vắng thì lấy gì để
cung kính. Phật cho trồng cây này và đã từng thiền định dưới gốc này một
đêm. Ngày nay Phật đã đi vắng, tôi đành cung kính Ngài bằng cách thắp một
cây hương cắm dưới gốc cây.
Đi thêm khoảng 100m nữa thì bên trái là đền Gandhakuti, chỗ thiêng liêng
nhất của Kỳ viên, đó là trú xứ của Phật, chỗ Ngài ở suốt 18 mùa mưa, ngày
nay chỉ còn nền đá. Trên nền này đã có nhiều công trình xây dựng sau đó,
chúng cũng lại bị đổ nát theo thời gian. Theo tài liệu khoa học thì nền
gạch nung còn lại ngày nay là từ thời đại Gupta (320-510 sau công nguyên).
Trong thế kỷ thứ 5 lúc Pháp Hiển đến đây, ông còn thấy dấu tích một ngôi
tháp gỗ bảy tầng đã bị cháy, thay vào

H 5: Sơ đồ vườn Kỳ viên. Phía trên
là Gandhakuti. Phía dưới bên mặt là cây bồ-đề[68]
đó là một ngôi tháp gạch hai tầng. Hai thế kỷ sau, lúc Huyền Trang đến
thì ngôi tháp gạch cũng đã đổ nát. Có lẽ các viên gạch đỏ này là di tích
nền tháp xây trong thế kỷ thứ năm đóù. Những cảnh thành hoại trong các
kiến trúc xây dựng này chỉ nhắc tôi nhớ lại kinh Kim Cương mà Phật thuyết
ngay tại chốn này:
Tất cả pháp hữu vi,
Như bào mộng, như huyễn thuật, như bọt nước,
Như sương mai, như tia chớp,
Cần phải quán như vậy.
HẠT CẢI CHO PHẬT
^
"Năm trăm năm trước Công nguyên, Phật Cồ-đàm, vị
đạo sư thế gian của lịch sử, đã sống trên trái đất này và du hành liên tục
không biết mệt mỏi từ nơi này qua nơi khác, để tìm gặp được càng nhiều
người càng tốt trong thời gian Ngài còn tại thế.
Một lần nọ có một bà mẹ đến tìm gặp Ngài tại một
ngôi đền, khóc lóc thảm thiết. Bà mang đứa con đã chết trên tay và khóc
lóc làm mọi người động lòng thương xót; vì ai cũng biết mất con là nỗi đau
đớn lớn nhất trên đời. Bà mẹ van xin: "Hãy để tôi gặp Phật Cồ-đàm", vừa
nói vừa gần như ngất lịm vì đau đớn. "Hãy cho tôi gặp Ngài, Ngài sẽ có một
phép lạ. Ai cũng nói Ngài có thể cứu con tôi. Hãy để tôi tới Ngài".
Phật Cồ-đàm cho bà vào gặp ngay. Trước cửa, các
tỉ-kheo đang cầu nguyện cho chúng sinh được giải thoát; sau cánh cửa, vị
đạo sư ngồi trong sự an lạc với chính mình và thế gian. Với ánh mắt Phật,
Ngài nhìn thi hài tí hon của đứa trẻ rồi nhìn khuôn mặt bà mẹ. Hơi ấm khó
tả tỏa ra từ hào quang của Ngài bao trùm căn phòng, Ngài để cho người mẹ
tuyệt vọng dần dần lấy lại được bình tĩnh, để cho bà sắp xếp được tư tưởng
đang rối loạn.
Bà đưa cho Phật xem thi hài đứa con rồi gọi:
"Con của con đã chết. Con làm sao bây giờ. Bạch Thế Tôn, Ngài hãy giúp
con. Hãy cứu nó sống dậy! Ngài là chúa tể của sự sống chết, đã vượt qua
sống chết. Hãy cứu chúng con. Nó là niềm vui của gia đình. Từ nhiều năm
nay, chúng con không mong gì hơn là được đứa con. Bây giờ nó chết vì một
thứ bệnh hiểm nghèo. Hãy mang ánh sáng lại trong mắt của nó. Hãy công
bằng. Đứa con nhỏ tuổi này chết đi quá sớm".
Bà van cầu đức Thế Tôn và Phật cứ để như thế cho
đến lúc bà im lặng. Ngài nhìn đứa trẻ và đưa tay rờ vầng trán đã lạnh.
Cuối cùng Ngài nói: "Hãy nghe ta, hỡi người đàn bà tốt dạ và trung thành.
Nàng hãy đi từ nhà này qua nhà khác trong đô thị này và hãy xin một hạt
cải của một nhà chưa có ai chết. Hãy mang hạt cải đó về đây và để xem ta
có thể làm được gì không".
Người đàn bà nghe xong mừng rỡ. Bà quì dưới chân
Phật, cảm tạ bằng cách rờ chân của Ngài. Phật để hai tay trên đầu bà,
truyền năng lượng an lạc lên người bà. Với phước lành đó, bà ôm đứa con ra
đi.
Bà đi suốt ngày trong thành phố, từ nhà này qua
nhà khác, và xin hạt cải của tất cả gia đình mà trong đó chưa có người
thân nào chết cả. Đi tới đâu, bà cũng kể chuyện thương tâm của mình, kể
hoài, nhưng bà không tìm ra một gia đình nào mà chưa từng đối diện với cái
chết. Không mệt mỏi, bà vẫn tiếp tục tìm kiếm, chỉ với hi vọng, xin được
một vài hạt cải đem về cho Phật, để Ngài cứu sống con mình.
Cuối ngày, bà vẫn không tìm ra được hạt nào cả,
vì thực tế cái chết đến với tất cả mọi người. Nhiều người xót thương, đề
nghị cho bà vài hạt cải, nhưng giấu chuyện trong nhà có người chết. Nhưng
người đàn bà nọ không đồng ý, bà không thể lừa dối Phật. Bà chỉ cần tìm ra
một gia đình mà trong đó chưa có ai chết cả.
Mặt trời đã lặn. Trong ánh sáng cuối ngày, bà
đứng đó với thi hài đứa con trên tay, và nghĩ về những câu chuyện hôm nay
bà đã được nghe. Bà không có một hạt cải nào cả và bỗng nhận ra rằng,
không ai thoát được cái khổ này cả, cái khổ mà trước đó bà nghĩ rằng chỉ
mình phải chịu.
"Ta không phải là một ngoại lệ, con ta cũng
không phải là người duy nhất phải chết", lần đầu tiên bà nghĩ thế. "Cái gì
có sinh, ắt cái đó có diệt. Đó là điều không thể thay đổi, vì thế ta phải
kiếm cái không bao giờ sinh và cũng không bao giờ diệt, phải tìm chân lý
trường cửu mà các bậc hiền nhân

H 20: Nền đá đền Gandhakuti, nơi câu
chuyện này xảy ra (Ảnh của H.W.Schumann)
và đức Phật đang giảng thuyết. Ngài đã đưa ta
vào đúng đường". Bà cảm tạ, nghiêng mình về hướng Phật đang lưu trú.
Đêm dần buông khi bà về lại đền Phật ở, thi hài
đứa con vẫn ở trong tay. Bà mẹ trẻ đó không tìm ra được một hạt cải nào,
nhưng được một tri kiến mà bà mang trong lòng như một ngọn lửa bập bùng.
Càng tới gần Phật, bà càng cúi đầu. Sau đó bà để
đứa con dưới chân Ngài và nói: "Bạch Thế tôn từ bi, con đã hiểu những gì
Ngài muốn nói. Cái vô thường thì phải chết, không thể tránh khỏi. Nhờ
Ngài, con đã thấy một chút của chân như, cái chân như đó không chết, trong
con và trong mọi thứ. Cái chân như đó cũng chính là cái mà đứa con của con
đã thấy, ít nhất là trong một chốc ngắn ngủi, trước khi nó tìm kiếm một
đời sống khác. Và cái chân như đó, con đã thấy ngay lúc con còn sống. Ánh
sáng của tự tính thường hằng là cái duy nhất vĩnh cửu. Và từ nay về sau,
con xin dựa vào nó thôi".
Đức Phật mỉm cười và gật đầu đồng ý, khi người
mẹ xin Ngài tiếp dẫn cho thần thức đứa con được sinh vào cõi Phật, trong
đó thức người chết được lưu trú trong một giai đoạn, không bị thời gian và
không gian lung lạc.
Cùng với các tăng sĩ, Phật đặt thi hài đứa trẻ
lên một đống lửa và để cho thân cháy, trong lúc tâm của đứa trẻ được đưa
về cõi của tự tính, từ đó mà mọi hiện tượng phát sinh"
.
Câu chuyện này được nhiều người biết và tôi đã
nghe nó từ hồi còn nhỏ. Nhưng hồi đó tôi có ngờ đâu đây là một câu chuyện
có thật và sẽ có một ngày mình sẽ đến tại chỗ xảy ra sự tích này. Trong
ngôi đền Gandhakuti này, Phật ngồi trong phòng, " sau cánh cửa, an lạc với
chính mình và thế gian ". Biển giới thiệu đền này còn ghi rõ, ở đây có một
cầu thang đi lên tầng trên và Ngài thường xuất hiện sau cánh cửa nọ. Ôi,
đây là chỗ bậc đạo sư phát tỏa hơi ấm bình an và êm dịu cho những ai đến
với Ngài, trong đó có người thiếu phụ mất con. Người đàn bà " tốt dạ và
trung thành " này tên là Kisagomi, quê tại xứ Xá-vệ này, dòng dõi nghèo
nàn, bị gia đình chồng hất hủi. Sau khi con mất, bà đã xuất gia và trở
thành một tôn giả đắc quả A-la-hán.
Ngày xưa đọc câu chuyện trên, tôi thầm nghĩ sao
Phật không dùng thần thông cứu đứa trẻ, Ngài là bậc toàn năng mà. Ngày nay
tôi biết rằng cái chết chỉ là một sự chuyển tiếp, chắc gì sống sót là may
mắn và cái chết là rủi ro. Và tôi biết một điều quan trọng hơn là Phật, dù
là bậc toàn năng, Ngài không can thiệp vào đường đi nghiệp lực của bất cứ
ai, Ngài chỉ giảng cho chúng ta nghe cơ cấu và tác động của chúng. Ngài
cho thấy động lực của mọi đời sống, mọi tái sinh là " tham, sân, si ", đó
là lòng tham ái, sự giận dữ và óc vô minh. Chúng sinh ra mọi dạng đời sống
trong một vòng tròn bất tận mà Ngài gọi là " mười hai nhân duyên ". Nếu ai
muốn thoát khỏi vòng sinh tử đó thì người đó tự tinh cần tu học, không ai
có thể làm thế cho ai.
Vì lẽ đó mà Phật đã giáo hóa cho Kisagomi và có
lẽ cho cả thần thức đứa con, nhưng Ngài không cứu ai khỏi cái chết. Ngay
tại Xá-vệ này cũng còn có một nàng thiếu phụ khác mất con được Phật giáo
hóa. Nàng tên là Ubiri
, một trong bốn thứ phi của Ba-tư-nặc, sinh được con gái có tên là Jiva.
Jiva bị chết sớm, nàng đứng khóc tại nghĩa trang bên bờ Achiravati. Phật
đi ngang, chỉ nghĩa trang hỏi nàng, trong đó có 84.000 người con gái tên
là Jiva, nàng khóc cho ai ? Câu nói nghe qua lạnh lùng đó mà giáo hóa được
cho Ubiri, về sau bà cũng trở thành tôn giả đắc quả A-la-hán.
Ngày nay tại Xá-vệ, chúng ta còn được thấy chỗ
đức Phật phải tránh qua một bên khi Vidudabha đem quân tàn sát dòng
Thích-ca. Nơi đó có một ngôi tháp mà Pháp Hiển đã thấy hồi thế kỷ thứ năm.
Ngày đó Ngài cũng phải nhìn thảm họa xảy ra cho dòng dõi mình, chúng phải
diễn ra đúng qui luật nhân quả mà hẳn Phật là người đại trí thấy rõ hơn ai
hết.
Sai trái thay những ai cho rằng đạo Phật là chỗ
dung thân cho những người yếu đuối bi quan. Ngược lại, kẻ đi trên đường
Phật giáo là người tự mình nắm lấy số phận của chính mình mà trên con
đường đó Phật hay Bồ-tát chỉ là người hỗ trợ. Người Phật tử đích thật phải
là người tinh tấn, kẻ chiến đấu chống lại khuynh hướng xấu ác nằm ngay
trong tâm mình, kẻ " tự thắng chính mình ".
ĐƯỜNG ĐI NEPAL
^
Tôi đã đến thủ đô Kathmandu của Nepal bằng máy
bay nhưng đi đường bộ từ Ấn Độ qua Nepal là một chuyện không đơn giản. Tôi
đang vạch kế hoạch đi từ Xá-vệ đến Ca-tì-la-vệ nằm bên kia biên giới Ấn
Độ, thuộc nước Nepal. Đường này dài chỉ khoảng hơn 140Km, có lẽ chính là
đường ngày xưa Phật từ Xá-vệ về thăm quê hương, cũng là đường mà Vidudabha
đem quân đi tàn sát dòng Thích-ca. Tôi thì nhắm hướng Ca-ti-la-vệ với một
ý định hòa bình hơn nhiều, tôi đến Lâm-tì-ni (Lumbini) gần đó để thăm chỗ
Phật đản sinh.
Từ Xá-vệ, tôi về lại Balrampur, kiếm chỗ ăn trưa
rồi theo chỉ dẫn của sở du lịch, đi về hướng Đông, nhắm hướng Naugarh, rồi
từ Naugarh đi ngược hướng bắc khoảng 20Km là đến biên giới Nepal.
Chúng tôi cho xe chạy nhanh không kể nguy hiểm
vì nghe nói buổi tối biên giới đóng cửa. Đường đi vắng người làm tôi lấy
làm kỳ, dù sao giữa hai nước Ấn Độ-Nepal cũng hẳn phải có thương nhân qua
lại. Theo bản đồ thì đường từ Naugarh lên phía bắc, tới biên giới tôi sẽ
gặp trạm biên phòng " Checkpoint Birdpur ". Sau khi chạy xe suốt một đoạn
đường vắng vẻ, khoảng 6 giờ chiều chúng tôi đến đó thực.
Trạm biên phòng chỉ có duy nhất một người lính
Ấn Độ bồng súng canh gác và không có xe cộ chờ đợi làm tôi ngờ ngợ. Người
lính nhìn tôi chăm chú khi tôi ngoan ngoãn rút giấy tờ ra trình. Ông cho
chúng tôi qua biên giới nhưng chiếc xe phải ở lại. Thì ra đây chỉ là một "
checkpoint " dành cho người đi bộ. Tôi chỉ còn hai giải pháp, hoặc là cho
xe chạy lui tìm trạm biên giới khác, hoặc bỏ xe xách va-li đi bộ qua Nepal
tìm xe khác đi Lâm-tì-ni.
Tôi nhìn quanh trạm biên phòng. Đây là một nơi
vắng vẻ, bóng tối đã buông màng, đâu đây có tiếng khỉ vượn kêu hú. Không,
tôi không dám qua biên giới với chiếc va-li trong tay, làm sao kiếm ra xe
trước khi bất trắc xảy ra. Tôi xách va-li trở lại chiếc Ambassador yêu
quí, anh tài xế tuy không nói được tiếng Anh nhưng tốt bụng, tối nay tôi
ngủ đâu cũng không sao, miễn an toàn là được.
Sau khi trao đổi với người lính bằng tiếng địa
phương, tài xế hộc tốc phóng xe lui về hướng Naugarh. Đến Naugarh, anh lấy
đường đi Pharenda, từ Pharenda xe lại ngược hướng bắc đi Nautanwa, đó là
thị trấn cực bắc của quận Maharajganj để đến trạm biên giới Sonauli. Đường
vòng này tốn chúng tôi thêm cả trăm cây số, đi xe thêm hai tiếng đồng hồ
nhưng đó là quyết định đúng. Trên đường đi dần dần tôi lấy lại sự an tâm
vì xe cộ chạy ào ạt, biên giới xem ra không đóng cửa ban đêm và hàng quán
bên đường cho tôi thấy đây là đường xá của khách lữ hành.
Sonauli hiện ra với một rừng xe, xe vận tải, xe
du lịch. Hai bên đường là vô số hàng quán chật ních những người, đèn sáng
choang. Tôi nhảy xuống xe và bỗng nhớ bến phà Hải Phòng cũng như các bến
phà trên đường đi Hạ Long. Đó là những nơi mà kẻ bán hàng rong hầu như
nhiều hơn người mua, nơi mà " xe con " tìm cách lách qua mặt các chiếc xe
tải, tìm cách đi trước và nhận lại những tiếng nguyền rủa. Đây là một
trong hai trục đường chính từ Ấn Độ đi Kathmadu, nơi thương nhân và du
khách qua lại. Xung quanh tôi đầy người nước ngoài, lác đác có ai nói
tiếng Đức, Anh và Pháp. Họ cũng mang ba-lô như tôi, đa số mặt mày rất trẻ.
Chúng tôi phải tới trạm biên phòng làm thủ tục xuất Ấn Độ và nhập Nepal.
Trạm này làm việc nhặm lẹ làm tôi ngạc nhiên, tôi đoán là mỗi ngày họ giải
quyết hàng trăm hàng ngàn người nước ngoài như chúng tôi, những kẻ phiêu
lưu đi đường bộ dưới chân Hy-mã lạp sơn này.
Tôi đến Nepal, đây là mảnh đất của vua Tịnh-phạn
ngày xưa, quê hương của thái tử Tất-đạt-đa. Nơi đây hai ngàn năm trăm nước
có một con người vĩ đại của dòng Thích-ca được sinh ra và có vô

H 7: Vùng biên giới Ấn Độ-Nepal với vị trí
của Lâm-tì-ni (Lumbini), Ca-tì-la-vệ (Taulihava). Kapilavatthu trong địa
phận Ấn Độ là tên của thị trấn thế chỗ Ca-tì-la-vệ sau khi bị Vidudabha
phá hủy
số người vô danh cũng của dòng Thích-ca bị giết
hại. Trời đã tối nhưng không lạnh, tôi yên tâm cho xe chạy từ từ về thị
trấn Bhairawa chỉ cách biên giới 7 Km. Đây là thị trấn cực nam của Nepal,
có một sân bay nhỏ nối liền với thủ đô Kathmandu. Bhairawa là thị trấn mới
xây, hầu như nó dành để tiếp đón khách du lịch đến thăm Lâm-tì-ni. Trên
đường từ Xá-vệ tới đây tôi ghi nhận ngoài bản chỉ đường thông thường của
Ấn Độ có những bản ghi tiếng Anh sơn màu xanh, chỉ hướng về Lâm-tì-ni hay
Ca-tì-la-vệ còn bao nhiêu cây số. Hỏi ra thì đó là của người Nhật làm, họ
còn bỏ tiền ra hỗ trợ xây đường sá dẫn đến vùng đất của nguồn suối thiêng
liêng này. Nhờ thế mà khách du lịch và kẻ hành hương có thể tìm lại miền
đất đã quên này. Cũng vì thế mà Bhairawa ra đời, cách Lâm-tì-ni khoảng hơn
hai mươi cây số, với nhiều khách sạn quốc tế hiện đại và không hề rẻ tiền.
Khách sạn tôi ở mang tên " Nirwana " (Niết-bàn),
một cái tên siêu thế gian tôi chưa hề thấy trong nhiều chuyến đi. Làm thủ
tục check-in, tôi đưa giấy tờ ra và thầm nghĩ mình đang "nhập Niết-bàn".
Buổi tối, ngồi trong lounge uống bia để quên hết mọi nhọc nhằn và hồi hộp
của ngày hôm nay, tôi chợt thấy mình còn ham bia rượu và thầm nghĩ nếu "
nhập Niết bàn " mà dễ như thế thì đỡ cho tôi biết bao nhiêu.
LÂM-TÌ-NI, KHU VƯỜN
ĐÃ QUÊN
^
Vương quốc của vua Tịnh-phạn thật ra rất nhỏ.
Theo ký sự của Huyền Trang, tiểu quốc Thích-ca có một chu vi chừng 4000 lí
(khoảng 1880Km). Theo Schumann đó là một vùng đất dài và hẹp với 180.000
dân, có một diệïn tích chừng 2000 cây số vuông, kinh đô là Ca-tì-la-vệ với
khoảng 8000 dân. Tiểu quốc Thích-ca thần phục nước Kiều-tát-la, mỗi năm
phải đóng thuế, bản thân vua Tịnh- phạn có khi phải đi hội họp tại Xá-vệ,
kinh thành của Kiều-tát-la cách đó khoảng 140km.
Vương quốc của Tịnh-phạn có 9 thị trấn, trong đó
có một nơi tên là Devadaha. Tại Devadaha có hai chị em lọt vào cặp mắt
xanh của vua Tịnh-phạn, người chị là Ma-gia (Maya), người em là Pajapati.
Ma-gia không ai khác hơn là vị hoàng hậu sinh ra thái tử Tất-đạt-đa.
Pajapati cũng tặng cho vua Tịnh Phạn hai con, một trai một gái.
Một ngày nọ trong tháng năm của năm 563 trước
công nguyên, bà Ma-gia lúc đó đã 40 tuổi, thấy mình sắp sinh, xin với vua
Tịnh-phạn rời hoàng cung, về quê tại Devadaha để sinh con đầu lòng. Đó là
tục lệ thời đó, ngày nay nhiều nơi vẫn còn. Thế nhưng bà không tới kịp
Devadaha. Cách kinh thành chừng 25km, ngang một khu vườn tại làng
Lâm-tì-ni, dưới một gốc cây mà có người gọi là hoa Vô Ưu, người khác gọi
là cây Sala, bà sinh một người con trai mà ngày sau thành Phật.
Sinh xong, hoàng hậu Ma-gia không còn lý do về
nhà cha mẹ nữa, bà trở lại Ca-tì-la-vệ. Ba ngày sau hoàng cung mời đạo sĩ
A-tư-đà đến xem tướng cho thái tử, hai ngày sau đó một đoàn gồm tám
bà-la-môn đến tham dự lễ đặt tên cho thái tử. Trong đoàn tám người đó thì
người trẻ nhất trong số đó tên gọi là Kiều-trần-như. Ba mươi năm sau,
Kiều-trần-như gặp lại thái tử và ta được biết ông chính là người trong
nhóm năm người được Phật giáo hóa tại Lộc Uyển sau khi đắc đạo.
Bảy ngày sau khi sinh, Ma-gia mất, kinh sách
chép bà tái sinh ngay vào cõi trời Đao Lợi. Bà ở tại đó để đợi Phật có
ngày lên thuyết pháp cho bà nghe và 80 năm sau lúc Phật nhập Niết Bàn tại
Câu-thi-na cách chỗ sinh chừng 100km, bà hiện xuống khóc tiễn.

Ca-tì-la-vệ và Lâm-tì-ni sớm bị chìm vào quên
lãng sau khi dòng Thích-ca bị diệt vong. Trong thế kỷ thứ năm lúc Pháp
Hiển đến thì ở đây đã thành bình địa, ông chỉ nhắc đến một phế tích không
rõ ràng. Lúc Huyền Trang đến khoảng hai trăm năm sau, ông ghi rằng một địa
danh tên hiện nay là Tilaurakot (cũng có tên là Taulihawa) phải là thành
Ca-tì-la-vệ cũ. Còn Lâm-tì-ni thì được Huyền Trang tìm ra chính xác. Ông
thấy nơi đó có một trụ đá của vua A-dục và ghi rõ trụ đã bị hư hại, đầu
trụ là hình con ngựa nằm lăn lóc trên mặt đất. Sau đó không còn ai biết
đến Lâm-tì-ni.
May thay, năm 1806 các nhà khảo cổ đào bới ra
được Lâm-tì-ni và tìm thấy lại trụ đá của vua A-dục, nhưng hình đầu con
ngựa nay đã mất. Kì diệu thay, người ta còn đọc trên trụ đá hàng chữ sau
đây : " Hai mươi năm sau khi đăng quang, nhà vua Devanampiya Piyadasi
đến đây và tỏ lòng ngưỡng mộ vì Phật, người minh triết của dòng Thích-ca,
đã được sinh tại đây. Ngài cho dựng phiến đá và một trụ đá để kỷ niệm nơi
sinh của đức Thế Tôn. Làng Lâm-tì-ni được miễn giảm khỏi đóng thuế và giảm
phần nộp lợi tức xuống còn 1/8 ".
Đó là năm 245 trước công nguyên.
Tôi đến đây vào một buổi sáng trời đẹp. Con
đường từ Bhairawa dẫn đến Lâm-tì-ni được UNESCO xây dựng, còn đoạn đi tiếp
từ Lâm-tì-ni về Tilaurakot (tức là Ca-tì-la-vệ ngày xưa) chưa hoàn tất.
Lâm-tì-ni là một khu vực xanh tươi nằm dưới chân Hy-mã lạp sơn, phía Bắc
là những đỉnh núi tuyết lóng lánh. Lúc tôi đến hoa Vô Ưu không thấy nở, nó
chỉ nở vài ngàn năm một lần khi có bậc đại giác sinh ra.
Trong vườn Lâm-tì-ni được rào bọc cẩn thận,
ngày nay ta thấy còn một hồ nước, huyền sử chép là nơi rồng hiện lên tắm
Phật. Hồ bây giờ tuy còn nước nhưng rêu xanh bám đầy mặt hồ. Gần đó là trụ
đá của A-dục cao 6,4 m, phía trên có một niền sắt siết chặt, được rào bọc
cẩn thận và nhờ đó những hàng chữ nói trên, viết bằng ngôn ngữ Brahmi và
Ma-kiệt-đà vẫn còn đọc được. Tôi cũng ném vào đó vài đồng tiền như mọi
người, lòng đầy hoài vọng và xúc cảm làm sao một trụ đá mà sống trên hai
mươi thế kỷ được. Lúc tôi đến, đền thờ hoàng hậu Ma-gia đang được tu bổ,
lều bạt ngổn ngang trên một nền gạch đỏ thẫm. Đi quanh nền gạch của đền
này, nghe nói nó mới xây dựng trong năm 1933, tôi cố tìm một kẻ nứt để cắm
một nén nhang nhưng lạ thay không sao tìm thấy. Di tích trong đền này được
dời tạm qua một căn nhà khác, vào đó thì thấy một phiến đá khắc họa lại sự
tích đản sinh. Theo nhiều tài liệu phiến đá này được hình thành trong thế
kỷ thứ hai hay thứ năm sau công nguyên.

H 9: Quyết định của vua A-dục ghi trên trụ đá
tại Lâm-tì-ni
Trong nắng sớm bỗng có những tiếng trống nhỏ.
Từ xa đi về phía chúng tôi là một nhóm khoảng bốn năm người. Họ theo đường
ruộng đến Lâm-tì-ni, cứ đi vài bước lại đánh một tiếng trống. Đó là những
thanh niên trẻ, người Âu có người Á có. Họ mặc đồ đen, không rõ tu sĩ hay
cư sĩ, mặt mày thành kính, rõ là đang đi thiền hành. Đến đền thờ hoàng hậu
Ma-gia họ đi vòng quanh đền cả chục lần, tiếng trống nhỏ đều đều vang lên.
Chúng tôi chắp tay vái chào nhau với một lòng thiện cảm không nói ra lời.
Không rõ các vị mặc đồ đen này thuộc giáo phái nào nhưng về sau tôi lại
gặp nhiều người như thế tại Cửu Hoa sơn tại Trung Quốc, thái độ họ cũng
hết sức thành kính.
Trong gió mai bỗng có tiếng phần phật, nhìn lại
tôi thấy một nhóm người khác đang giăng những hàng giây có mang những lá
cờ hình tam giác. Những lá cờ sa xuống đầu tôi, trên đó là vô số Tạng ngữ.
Đó là cách cúng dường của người Tây Tạng, họ viết kinh lên cờ và cho nó
tung bay trong gió. Những lá phướn trắng vàng và đỏ tung phần phật hòa
trong tiếng trống dưới nắng sớm mang lại cho tôi một niềm an bình rộn rã.
Tôi đi quanh quẩn trong vườn, không muốn rời, một chị người châu Á đi
ngang nhắc khẽ tôi " Clockwise ". Tôi cám ơn chị, lúc đó tôi đi ngược
chiều nên chị nhắc tôi hãy đi theo chiều kim đồng hồ. Đó là cách đi nhiễu
quanh các tháp tượng, luôn luôn phải theo chiều kim đồng hồ mới thuận theo
chiều của phước lạc.
Tiếng trống đã dứt, các thanh niên áo đen đã
tìm chỗ ngồi thiền định dưới ánh sáng mặt trời êm dịu, mặt nhìn về hướng
đền hoàng hậu Ma-gia. Chúng tôi tìm chỗ ngồi thiền định dưới gốc cây, đó
là chỗ tôi có thể cắm nhang. Đó là nén nhang Việt Nam cuối cùng trong
ba-lô tôi.
KATHMANDU VÀ KHUÔN
MẶT VÀNG
^
Từ Lâm-tì-ni tôi trở về khách sạn Nirwana và
tiếc thay phải làm thủ tục " xuất Niết-bàn " để lên máy bay từ Bhairawa về
Kathmandu, thủ đô Nepal. Có ba hãng hàng không nội địa với những cái tên
đáng kính ngưỡng là Buddha Air, Lumbini Airways và Necon Air chở hành
khách từ quê hương của Tất-đạt-đa về Kathmandu cách khoảng 250km. Cuối
cùng tôi chọn Necon Air. Đây là công ty hàng không nội địa lớn nhất của
Nepal với vài chiếc máy bay hiệu Avro 44 chỗ ngồi.
Từ xa tôi đã thấy đây phải là chiếc máy bay cũ
nhất mà tôi từng bước lên. Đó là chiếc máy bay có ba bánh, bánh sau thấp
hơn hẳn hai bánh trước nên thân máy bay không thẳng mà nghiêng, thứ máy
bay tôi từng thấy tại xứ ta thời còn nhỏ xa xưa. Lên cầu thang tôi thấy rõ
hàng ngàn những chiếc đinh tán cũ kỹ trên thân máy bay và tự hỏi liệu
chúng còn sức chịu đựng. Nhìn kỹ tôi thấy lờ mờ hàng chữ " chế tạo tại
vương quốc Anh " và nghĩ rằng chiếc máy bay của thời cố hỉ cố lai này chắc
có may mắn thoát khỏi trận oanh tạc của Hitler trong thời thế chiến thứ
hai. Nó cũng sẽ mang lại may mắn cho tôi.
Tôi sớm quên chiếc máy bay cũ kỹ này vì mãi
ngắm nhìn rặng Hy-mã lạp sơn từ trên không. Chúng tôi bay về hướng đông
bắc, ngọn Everest nằm phía trước, hành khách không thể thấy. Thế nhưng
rặng Hy-mã lạp sơn là một dãy núi dài trên 6000km, khắp nơi là những đỉnh
toàn trên 7000m, núi tiếp núi, mây liền mây, không phân biệt được đâu là
mây đâu là núi. Về sau rời Kathmandu đi Bangkok lần đầu tiên tôi được thấy
đỉnh Everest. Đỉnh núi đầy tuyết nên phải nhìn kỹ ta mới thấy được nó, bầu
trời và đỉnh núi hòa lẫn vào nhau một màu. Chiều cao của Everest thật là
khủng khiếp, giữa các đỉnh bảy tám ngàn mét mà nó vẫn như một chiếc nón
chụp lên các đỉnh.
Nhìn các rặng núi luôn luôn tôi có lòng kính
sợ, nó phải là trú xứ của thánh thần. Tôi nhớ lại biển cả, tuy nó cũng
mênh mông nhưng nó gây cho tôi sự thân tình gần gũi. Những ngọn núi trắng
óng ánh màu tuyết, dưới gió núi chúng tung những đám bụi trắng đầy băng
giá. Trên những đỉnh đó hẳn không có sinh vật, cây cối không mọc được,
chim chóc không thể bay tới, con người không thể leo lên. Thế nhưng hầu
như chúng có thần, chúng xa lánh với sinh vật, thù nghịch với sự sống,
nhưng chúng vẫn thu hút con người ngưỡng mộ hướng nhìn về chúng.
Về sau tôi biết rằng trên đó vẫn có cây cỏ,
chim chóc bay lên đến độ cao năm sáu ngàn mét và con người, một thứ sinh
vật kỳ lạ, nó leo lên được các ngọn núi tuyết ấy, có kẻ không cần mặt nạ
dưỡng khí. Và hơn thế nữa, có những kẻ độc cư trên các ngọn núi tuyết ấy
hàng chục năm. Và nếu con người khi sống trên mặt biển một vài ngày thì
tâm lý xã hội đã thay đổi như tôi hay nghe nhiều người kể lại, thì những
kẻ sống trên núi cao cũng sớm có những nhận thức khác lạ như Govinda kể
trong tác phẩm "Con đường mây trắng"
. Vì thế tôi không ngạc nhiên khi biết những người sống trên núi cao từ
năm này qua năm khác thường có những khả năng phi thường.
Máy bay đến gần Kathmandu, phía dưới là núi đồi
với vô số ruộng lúa nằm trên các bậc cấp. Máy bay hạ cánh an toàn tại sân
bay quốc tế Kathmandu, nền hàng không của vương quốc Anh không phải tầm
thường, tôi tự nhủ. Sân bay Kathmandu tuy nhỏ nhưng hiện đại, nhìn quanh
toàn khách nước ngoài. Sảnh đường đón khách của sân bay có một bức bích
họa to lớn diễn tả sự tích Phật đản sinh, chỗ tôi mới viếng sớm hôm nay.
Thì ra Nepal rất hãnh diện về Lâm-tì-ni, đó là một thánh tích nằm trong
nước họ. Trên bất cứ một bản đồ nào của họ, dù nhỏ tới mấy, ta cũng tìm
thấy hàng chữ ghi Lâm-tì-ni ở cực nam nước Nepal. Dĩ nhiên khách đến Nepal
không phải chỉ vì Lâm-tì-ni mà có một số lớn người đi leo núi, họ theo các
tuyến "trekking" trên sườn Hy-mã lạp-sơn.
Tôi ngạc nhiên thấy Nepal xem ra tiến bộ hơn Ấn
Độ trong nhiều phương diện, nhất là cung cách làm việc trong sân bay,
khách sạn, các công ty du lịch. Đây là một xứ nhỏ, dân ít, tiếp xúc nhiều
với bên ngoài nhờ khách du lịch. Đời sống xã hội của Nepal cũng đượm màu
tôn giáo như Ấn Độ, nơi đây Ấn Độ giáo và Phật giáo hầu như quyện vào nhau
để trở thành một. Tại các ngã tư đường trong thành Kathmandu thường người
ta tìm thấy một trụ đồng, bốn mặt có bốn tượng đức Thích-ca tay bắt ấn
nhìn ra bốn phía. Gần đó là vô số đền tháp, thờ các vị thần Ấn Độ giáo
trong dạng thiên nhân, dạng phẫn nộ, dạng voi, dạng khỉ.
Kathmandu là một thành phố nhỏ nhưng có đến bảy
đền tháp được Liên Hiệp Quốc thừa nhận là "di sản văn hóa". Đó là các đền
đài phần lớn được xây bằng gỗ, ngày nay bị phủ đầy bằng một lớp bụi dày,
không có ngân sách nào tu bổ cho chúng. Tại trung tâm Durbar Square khách
du lịch lui tới tấp nập, họ hối hả chụp hình hầu như sợ rằng một ngày gần
đây các đền đài đó sẽ sụp đổ vì sự tàn phá của thời gian.
Các đền tháp nọ có thể không còn đứng vững được
lâu nhưng nghệ thuật tôn giáo của Nepal chắc vẫn sống mãi, tôi hy vọng
thế. Tôi nhớ một ngày nọ tại Delhi, mình lang thang trên một con đường
lớn. Trước một tiệm kim hoàn sang trọng tôi thấy một bức tượng nằm trong
tủ kính. Tượng trình bày một dáng hình hết sức cao quí, tay cầm lưỡi kiếm.
Đầu tượng màu xanh đậm mang vương miện năm cánh, tượng trưng cho năm trí.
Mặt bức tượng được phủ bằng một lớp vàng mờ, nét mặt rất trẻ và thanh
thoát. Tay mặt tượng cầm lưỡi kiếm bốc lửa, bên trái là hoa sen mang kinh
Bát-nhã, bàn tay trái hướng ra ngoài bắt ấn giáo hóa. Tôi biết đó là tượng
Văn-thù Sư-lợi, vị bồ-tát chủ trí huệ. Bức tượng này hẳn hết sức đắt tiền,
nằm trong tiệm kim hoàn không phải để bán mà để trang hoàng. Tôi càng thấy
xa vời, không thể mua. Tôi đến Janpath, khu vực buôn bán của Delhi thì chỉ
tìm thấy tượng Văn-thù Sư-lợi bằng đồng, nét thô, còn khuôn mặt bằng vàng
mà tôi ưa thích đó không có. Hình tượng thì bằng đất hay đồng cũng chỉ là
hình tượng, chất liệu và xấu đẹp không quan trọng, ta nên có tâm vô phân
biệt, tôi tự nhủ. Không, nhưng tôi muốn thế, muốn nhìn ngắm khuôn mặt vàng
của Văn-thù và hỏi ra mới biết bức tượng đó là nghệ thuật của Nepal.
Vì thế đến Kathmandu, trong lúc mọi người khác
tìm đường leo núi, tôi đi tìm bức tượng. Và đã tìm thì ra. Ngày nay bức
tượng Văn-thù với khuôn mặt phủ vàng mờ nằm trong phòng làm việc của tôi.
Những lúc bí không tìm ra tài liệu, chữ nghĩa khi làm việc, tôi đều nhìn
và hỏi thử khuôn mặt vàng cao quí đó.
Ngày nọ, tôi được biết Văn-thù Sư-lợi có "đạo
trường" – có người xem là trú xứ – tại Ngũ Đài sơn thuộc tỉnh Sơn Tây ở
Trung Quốc. Vì Văn-thù đã giúp nhiều lần khi tôi cần đến, tôi quyết đi Ngũ
Đài sơn đảnh lễ Ngài. Về sau tôi mới hay cơ duyên còn cho mình đi nhiều
nơi nữa trên đất nước Trung Quốc mênh mông này.
Mahasiddha, sống trong khoảng từ thế kỷ thứ tám đến thứ mười hai tại Ấn
Độ. Huyền sử ghi lại 84 vị Đại thành tựu giả, xem Dowman Keith, Master
of Mahamudra. Song and histories of the Eightyfour buddhist Siddhas, New
York, 1985
Xem chương “Con trâu điên” trong phần thứ tư
Dakini, các vị nữ thần thường được nhắc đến trong Kim Cương Thừa, xuất
hiện để bảo vệ giáo pháp.
Trích câu kệ về Từ Đạo Hạnh
Ngày
nay chỉ còn khoảng 10 trụ
Xem chương “Đền Jokhang” trong phần
thứ tư
---
o0o
---
[Mục
lục]
[Phần
thứ nhất ] [Phần
thứ hai ] [Phần
thứ ba]
---
o0o
---
Trình
bày: Linh Thoại
Cập
nhật
ngày: 01-12- 2003