Mùi Hương Trầm
Nguyễn Tường Bách
---o0o---
PHẦN THỨ BA : TRUNG QUỐC, XỨ SỞ CỦA
BỒ-TÁT
ÁNH SÁNG ĐẾN TỪ PHƯƠNG
TÂY ^
Dưới cánh
máy bay là một vùng sa mạc trắng xóa. Máy bay tôi đi đang bay từ phía tây
đến Trung Quốc, vùng đó chính là sa mạc Gobi mênh mông. Trong vùng đất
tưởng như không người đó có một con đường nhỏ được thiết lập từ đầu công
nguyên, đó là một trục lộ mệnh danh là "Con đường tơ lụa".
Đó là một
con đường của thương nhân nối liền đông tây hai phía. Nhưng tại sao là "tơ
lụa" ? Người Trung Quốc có hân hạnh là kẻ đầu tiên tìm ra phép trồng dâu
nuôi tằm lấy lụa từ thế kỷ thứ ba trước công nguyên và xuất khẩu món hàng
mượt mà này qua phía tây cho các bà mệnh phụ vùng Địa Trung Hải.
Con đường
tơ lụa được xây dựng khoảng trong thế kỷ thứ nhất, bắt đầu tại Trường An.
Tại Trung Quốc thì nó được nối thêm đến Bắc Kinh và Thành Đô còn về phía
tây thì nó chạy ngang Lan Châu, Vũ Uy, Tửu Tuyền, Đôn Hoàng, Ngọc Môn
quan. Sau Ngọc Môn thì nó chia làm hai đường nam bắc mà người Trung Quốc
gọi là bắc Tây Vực và nam Tây Vực. Đường phía bắc chạy ngang Turfan,
Korla, Kutscha. Đường phía nam chạy qua Charchan, Chotan. Hai đường nam
bắc rẻ ra nhằm tránh sa mạc Takla Makan, lại gặp nhau tại Kaschgar (Sơ
Lặc), ngày nay nằm trong lãnh thổ Trung Quốc. Đặc biệt con đường phía nam
có một nhánh đi về phía nam hướng Ấn Độ. Đó là một nhánh đường thú vị sẽ
nói đến sau. Sau đó đường lại chạy qua Tadschikistan, Kasachstan,
Usbekistan để đến Merv (ngày nay thuộc nước Turkmenian) và chạy về hướng
Iran, Irak, Syrie, cho đến Địa Trung hải.
Thương
lái đường dài ngày xưa đi từ Trung Quốc, mang theo tơ lụa đi bán và mang
về lại hột giống, hương liệu, đá quí và cả ngựa từ Á-rập. Họ đi một chuyến
như thế mất đến sáu tới tám năm mới về đến nhà. Trên đường về nhà họ còn
mang một vài thứ kỳ lạ, trong đó có kinh sách, nói về Phật giáo, Hồi giáo…
Khoảng
suốt mười thế kỷ sau công nguyên, con đường tơ lụa này bị chiến tranh của
các nước Bắc Á đe dọa nên mất vai trò quan trọng nhưng đến thời Mông Cổ
trong thế kỷ 12, 13 nó lại được phục hồi nên Marco Polo mới đi được từ
Venedig đến Trung Quốc trong thế kỷ 13.
Trên con
đường tơ lụa đầy hiểm nguy đó không phải chỉ có thương nhân và kẻ thám
hiểm mà còn có một số người khác mà Trung Quốc gọi là "Phạm Tăng". Ngày
nay lịch sử truyền bá Phật giáo từ Ấn Độ qua Trung Quốc đã nằm trong bóng
tối của lịch sử, nhưng điều xem ra chắc chắn nhất là có hai "Phạm tăng"
tên là Ca-diếp Ma-đằng và Trúc Pháp Lan theo con đường tơ lụa này đến
Trung Quốc năm 67 sau công nguyên. Hai vị này mới đi nửa đường đã được sứ
giả tiếp đón trọng hậu. Sứ giả đó là một đoàn 18 người của nhà vua Hán
Minh Đế, vị này nằm mộng mà thấy "người vàng" đầy ánh sáng từ phương tây
tới. Hán Minh Đế cho đoán mộng thì mới hay có thánh nhân xuất hiện ở phía
tây. Vua sai sứ giả qua Tây Vực để cung thỉnh tượng Phật, không ngờ gặp cả
tượng lẫn kinh do hai vị tăng sĩ đó tải bằng ngựa trắng. Vua cho lập chùa
để thờ, tên chùa là Bạch Mã tự để nhớ đến các con ngựa trắng và bộ kinh
đầu tiên được dịch ra là "Tứ thập nhị kinh". Bạch Mã tự là ngôi chùa đầu
tiên của Trung Quốc, kiến lập năm 68, ngày nay vẫn còn, cách Lạc Dương 9km
về hướng đông.

H 24 : …… Lộ trình của Huyền Trang và cũng
là đoạn chính của con đường tơ lụa. Ông bắt đầu đi từ Trường An (Ch�angan).
Trong chuyến đi Ấn Độ, ông lấy đường phía bắc. Về lại Trung Quốc, ông lấy
đường phía nam
Sau Ca-diếp Ma-đằng và Trúc Pháp Lan, nhiều phạm tăng cũng bằng con đường
tơ lụa tiếp tục đến Trung Quốc như An-thế-cao đến Lạc Dương năm 147,
Cưu-ma-la-thập đến Trường An năm 401. Cũng trong thời đại đó có một kẻ đi
ngược từ đông sang tây để hành hương và tìm kiếm kinh điển. Đó là Pháp
Hiển, rời Trường An năm 399, đến Ấn Độ tham bái tất cả các thánh tích và
15 năm sau mới chịu trở về cố hương. Về nhà Pháp Hiển dịch kinh và viết
tập ký sự "Phật quốc ký". Pháp Hiển còn làm một việc nữa rất khác thường
là ông lấy đường biển trở về, đó là đường rời Calcutta, ghé thăm Tích Lan,
đi vòng xuống phía nam đảo Sumatra, ngược lên biển đông của Việt Nam, lách
giữa lục địa Trung Quốc và Đài Loan mà trở về Thanh Châu miền đông bắc.
Hơn hai trăm năm sau, như chúng ta đã biết, dưới thời nhà Đường thịnh trị,
lại có một thanh niên khôi ngô 26 tuổi tên là Huyền Trang nhắm con đường
tơ lụa ra đi về phía tây. Mười sáu năm sau, ông lại trở về bằng con đường
bộ đó, đem theo hơn 500 bộ kinh, về đến Đôn Hoàng cuối năm 644. Tại đó ông
viết thư thỉnh cầu Đường Thái Tông
tha tội ngày xưa đã vượt biên ra đi không đợi phép vua. Vua tha lỗi và
Huyền Trang dùng hết 20 năm cuối của đời mình để dịch kinh. Cùng với
Cưu-ma-la-thập, Huyền Trang đã đi vào lịch sử Phật giáo Trung Quốc như
những nhà dịch kinh vĩ đại nhất với một trình độ văn chương tác tuyệt và
nội dung chính xác. Năm 664 đang dịch kinh Bát-nhã, thấy đã đến giờ từ
biệt, ông đến chùa lễ bái lần cuối rồi ngồi kiết già tịch diệt. Trước đó
vài giờ ông nhận linh ảnh sẽ sinh vào trời Đâu-suất nghe Di-lặc giảng
pháp.
Con đường tơ
lụa ! Ai đã nghĩ ra ngươi, đó là thương nhân đi buôn bán kiếm lời hay có
ai chủ tâm xây dựng ra nó đầu công nguyên này để mở đường cho Ca-diếp
Ma-đằng, Trúc Pháp Lan, An-thế-cao, Cưu-ma-la-thập, Pháp Hiển, Bồ-đề
Đạt-ma, Huyền Trang và vô số những tăng sĩ khác, đưa Phật giáo vào Trung
Quốc ?
VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH
^
Việc đầu
tiên phải làm khi đến Bắc Kinh là tôi đi xem Trường thành. Ngày nay du
khách, thương nhân hay chính trị gia ai đến thủ đô Trung Quốc cũng đều
tham quan Vạn lý trường thành vì công trình đồ sộ đó là biểu tượng của xứ
sở vĩ đại này. May thay nó không nằm quá xa Bắc Kinh, chỉ cách khoảng 80km
nên du khách ai cũng đến được.
Theo nhiều
tài liệu, công trình này đã được bắt đầu xây dựng trong khoảng giữa thế kỷ
thứ 8 và thứ 5 trước công nguyên. Đến thời Chiến Quốc (475-221) nó được
các nhà vua thời đó tiếp tục tu bổ để phòng vệ chống "rợ Hung Nô" và các
"bộ lạc Tây Vực". Trung Quốc được Tần Thủy Hoàng thống nhất năm 221 trước
công nguyên, ông là người cho hoàn thành Trường thành thành một dãy liền
lạc dài trên 5000km. Dưới thời nhà Hán (khoảng 200 năm trước và sau công
nguyên), Trường thành được phát triển đến 10.000km, dài hơn "vạn lý".
Trong đời nhà Minh (1368-1644), Trường thành được tu bổ thêm và giữ hình
thể đó đến ngày hôm nay. Qua thời gian, Trường thành đã hư hại nhiều nhưng
công trình to lớn này cho thấy ý chí ghê gớm của các vương triều cũng như
công lao đầy mồ hôi và xương máu của nhân dân Trung Quốc.
Ngày nay
Trường thành dài khoảng 6700km, chạy qua Hồ Bắc, Thiên Tân, Bắc Kinh, Sơn
Tây, Nội Mông, Ninh Hạ, Thiểm Tây và Cam Túc. Gần Bắc Kinh có một chỗ dễ
lên Trường thành, đó là Cư Dung quan. Đây là chỗ Tần Thủy Hoàng kiến lập
nhiều làng dân cư sau khi đã hoàn thành Trường thành nhưng ngày nay các
thị trấn đó không còn tồn tại. Tôi đến đây, leo Trường thành và cảm nhận
cái vĩ đại của một công trình lớn trong một xứ sở lớn. Những bậc cấp ở đây
thường cao hơn nửa mét, chỉ việc leo lên một đoạn của Trường thành đã đủ
mệt, không cần nói đến chuyện xây dựng chúng. Làm sao người xưa có thể đưa
những tảng đá to lớn lên những độ cao như thế và không phải chỉ dài vài
chục cây số như tại Vương Xá của Tần-bà-sa-la
mà cả vạn dặm trên những sườn núi cao ?
Về sau khi đi
khắp Trung Quốc, tôi hay nhớ lại cái vĩ đại của Trường thành để thấy một
điều: đây là một nước lớn và dân nước đó không chịu nổi những gì có kích
thước nhỏ bé. Đó là một nước có rặng Hy-mã với những đỉnh núi cao nhất thế
giới, quanh năm tuyết phủ. Ngay tại Tứ Xuyên mà núi của họ đã cao hơn
7000m. Núi non của Trung Quốc không phải chỉ hùng vĩ, nó là suối nguồn của
thơ văn, của nghệ thuật và của đạo giáo. Những bức tranh thủy mặc chúng ta
hay thấy không hề là sự hư cấu của các họa sĩ, chúng đúng thực như thế,
với mây, với núi và với những căn nhà tí hon trên đỉnh. Sông của họ là
những con sông với nguồn chảy mãnh liệt, nước sông là "thiên thượng thủy",
phát khởi từ cao nguyên Tây Tạng, băng núi non chảy về đông hải. Dương Tử
Giang (Trường Giang) là sông dài nhất châu Á với 6600km, là nguồn sống của
mấy trăm triệu dân từ tây sang đông. Hồ của Trung Quốc kể chung thì lên
đến 2000 hồ, từ các hồ nước mặn ít người biết đến ở các vùng cao nguyên
Tây Tạng, Thanh Hải cho đến các hồ nước ngọt miền đồng bằng tiếng tăm như
Động Đình Hồ, Đại Hồ. Đất của Trung Quốc quá mênh mông nên tuy bờ biển của
họ dài đến 20.000km nhưng thực tế toàn bộ đời sống diễn ra trong vùng đại
lục với sông và hồ. Đối với Trung Quốc thì "tái xuất giang hồ" đã là hạ
sơn về lại với thế giới rồi, họ không cần nói tới biển.
Nền văn hóa
Trung Quốc là một cái nôi của văn minh loài người, đó là một quá trình năm
sáu ngàn năm, người ngày nay không sao dò tới đáy. Từ bốn năm thế kỷ trước
công nguyên ở đó đã ra đời bộ Kinh Dịch với tham vọng tìm hiểu và vẽ nên
đường đi của tạo hóa. Cũng từ trước công nguyên, có lẽ cùng thời với đức
Thích-ca tại Ấn Độ và Heraclitus tại Hy Lạp, hai thánh nhân vĩ đại ra đời,
đó là Khổng Tử và Lão Tử, đại diện hai cực âm-dương tiêu biểu của tư tưởng
Trung Quốc. Người thì luận về hoạt động và trật tự xã hội, kẻ thì ám chỉ
đường đi mầu nhiệm của đạo, tập hợp triết học Trung Quốc trong một tổng
thể lý tưởng "nội thánh ngoại vương chi đạo". Đó là một đất nước với những
con người có những giấc mơ kỳ lạ, dưới tay họ phải phát sinh những công
trình vĩnh viễn, những dự án xây dựng ngất trời, những cuộc phá hủy tận
gốc mà Tần Thủy Hoàng với Vạn lý trường thành và việc đốt sách, chôn sống
học trò chỉ là một thí dụ xưa cũ. "Ngu Công dời núi" không hề là một
chuyện đùa với họ, xưa cũng như nay, họ sẵn sàng làm nhiều điều đội đá vá
trời. Và trong thời đại ngày nay công trình tiêu biểu cho đầu óc đó là đập
thủy điện tại Trường Giang tam hiệp.
Trong lịch sử
Trung Quốc có một nhà du khảo nổi tiếng, đó là Từ Hà Khách người
đời nhà Minh. Suốt cuộc đời, ông đi được "nửa nước Trung Quốc". Từ đời nhà
Minh đến nay Trung Quốc đã rộng hơn nhiều, Từ Hà Khách có sống lại cũng
chỉ được được một phần. Ngày nay nước Trung Quốc bao gồm một lục địa khổng
lồ vươn dài từ đông hải đến phía tây tận các nước cộng hòa của Liên Xô cũ,
từ miền bình nguyên Hoàng hà đến cao nguyên Tây Tạng. Trong đất nước này
ngoài Hán tộc còn biết bao dân tộc khác như Mãn Châu, Tây Tạng, Mông cổ.
Bên cạnh các nền triết học của Khổng Lão, Trung Quốc đã thu nhiếp Phật
Giáo, biến tôn giáo này thành một hệ tư tưởng hầu như đặc thù của họ.
Một dân tộc
như thế thì còn lâu mới chấp nhận một tư tưởng ngoại bang làm chủ đạo cho
nền học thuật của mình. Làm sao một triết học phương tây, dù mang màu sắc
gì, có thể làm họ lung lay. Làm sao một nước láng giềng phương bắc, dù
nhất thời giàu mạnh hơn họ, có thể làm họ chịu thua kém. Đầu thế kỷ hai
mươi là thời kỳ đánh dấu một giai đoạn đáng đau buồn của họ. Họ mở mắt và
xấu hổ nhìn thấy một đất nước bị xâu xé, một ý thức hệ xa lạ lên ngôi, một
nền kinh tế nghèo nàn trì trệ, một nền khoa học kỹ thuật lạc hậu.
Không còn
nghi ngờ gì, hảo hán của Trung Quốc sẽ đưa nước họ cất cánh trong thế kỷ
21. Nhiều hiện tượng đặc biệt đang báo hiệu sự chuyển biến đó, trong đó có
cả sự phục hưng của Phật giáo tại Trung Quốc.
LINH QUANG TỰ VÀ CHIẾC RĂNG
CỦA PHẬT
^
Bắc Kinh là
kinh đô của ba triều đại Nguyên, Minh, Thanh từ thế kỷ thứ 13. Đó là ba
triều đại tôn sùng đạo Phật nên tại Bắc Kinh và các vùng phụ cận ta thấy
còn vô số chùa chiền. Thế nhưng trong các chùa đó có một nơi đặc biệt, đó
là Linh Quang tự, nơi thờ một chiếc răng của Phật.
Được xếp
trong số Bát đại tự nằm phía tây Bắc Kinh, Linh Quang tự chỉ là một ngôi
chùa nhỏ với một ngôi tháp gạch cao 51m. Trên tầng thứ hai của tháp là chỗ
thờ một chiếc răng của Phật. Tôi được lên chiêm bái bảo vật vô song này
sau khi đi nhiễu nhiều vòng quanh tháp. Răng được chứa trong một bảo tháp
nhỏ bằng vàng, sau "cửa" của tháp là một đóa sen cũng bằng vàng và trên đó
là răng Phật. Dưới ánh sáng, chiếc răng nằm trên hoa sen hiện ra huyền ảo,
tôi thấy răng to hơn bình thường, dễ chừng phải bằng ngón tay cái.
Linh Quang tự
được kiến lập năm 1071. Trong thời nội loạn năm 1900 chùa bị quân đội nước
ngoài phá hủy nặng nề. Về sau, khi trùng tu, các nhà khảo cổ Trung Quốc
tìm thấy một chiếc hộp gỗ, bên ngoài ghi hộp chứa răng của Phật. Tháp mà
ta thấy ngày nay mới được xây cách đây có 40 năm để thờ chiếc răng đó.
Ngày nay theo các tài liệu thì có nơi cho là răng đến Trung Quốc trong thế
kỷ thứ 5, nơi thì nói trong đời Tống (960-1279). Thế nhưng không ai biết
được làm sao chiếc răng Phật từ Ấn Độ mà qua đến Trung Quốc này được ? Có
lẽ chỉ có một người biết rõ, đó là một tăng sĩ có tên Đạo Tuyên.
"Đức Thế Tôn
dùng lực đại bi làm nát thân kim cương thành vô số các hạt xá lợi nhỏ, chỉ
có bốn răng nanh là còn nguyên vẹn". Đó là một câu ta đọc được trong "Đại
bát Niết-bàn kinh" ,
phẩm Cúng dường xá lợi. Trong phẩm đó ta còn thấy thêm: "Thiên Đế lấy một
răng nanh xá lợi của Phật ở bên phải hàm trên, đem về thiên cung xây tháp
cúng dường…Lúc đó có hai con quỉ La-sát ẩn thân sau lưng Đế Thích, nên
không ai nhìn thấy. Hai quỉ lấy trộm được một cặp răng nanh xá lợi". Khá
khen cho quỉ La-sát, chúng cũng biết quí trọng xá-lợi nên mới đi ăn trộm.
Thế nhưng chúng bị một vị tướng nhà trời rượt theo lấy lại, đó là Vi đà
thiên. Rồi hơn ngàn năm sau, Vi đà thiên đợi một vị tăng tên là Đạo Tuyên
tu học xuất sắc, giới luật trọn vẹn, sống trong đời Đường Trung Quốc để
trao cho.
Đạo Tuyên
(596-667) là nhân vật lịch sử, xuất gia từ năm 16 tuổi. Lúc Huyền Trang về
nước ông được cử vào ban phiên dịch kinh sách. Song song, ôâng là người
nghiêm túc trì giới, truyền bá giới luật nên được xem là khai tổ của Luật
tông Trung Quốc, cũng được gọi là Nam Sơn Đại sư. Giới hạnh của Đạo Tuyên
cao tới mức mà ông luôn luôn có thần thánh hầu cận. Theo Tống cao tăng
truyện, ngày nọ ở chùa Tây Minh, thình lình ông trợt chân té nhưng có
người đỡ. Người đỡ ông là một thiếu niên không phải tầm thường, tự xưng là
thần hộ pháp Vi đà tướng quân, trao cho ông chiếc răng Phật. Đó là chuyện
"Vi đà thiên hoàn Phật nha" (Thiên tướng Vi đà trả lại răng Phật) .

Vi đà thiên
tướng là vị hộ pháp ta hay gặp trong các chùa ở Trung Quốc. Thông thường
chùa có một tiền điện thờ Di-lặc, vị Phật tương lai. Xung quanh Di-lặc là
bốn vị Thiên vương gồm Trì Quốc Thiên vương, sắc trắng cầm đàn tì bà; Tăng
Trưởng thiên vương, sắc xanh cầm bảo kiếm; Quảng Mục thiên vương, sắc đỏ
cầm rắn và Đa văn thiên vương sắc lục, tay trái cầm lọng, tay mặt cầm ngân
thử (chuột bạc). Sau lưng Di-lặc là tượng Vi đà tướng quân, mặt rất trẻ
trông như một thiếu niên nhưng hết sức oai phong. Tượng Vi đà nhìn vào
chính điện, tức là Đại Hùng bảo điện, nơi thờ các vị Phật. Hoạt động của
nhân thiên trong sân, giữa tiền điện và chính điện hẳn không lọt qua cặp
mắt của
Vi đà. Nhất
là tiền cúng dường của khách thập phương chắc không có quỉ La-sát nào trộm
cắp được, tôi tự nhủ khi thấy các chùa Trung Quốc với vô số khách viếng
thăm và cúng dường. Về sau khi đi Tây Tạng, tôi thấy lại các vị hộ pháp
trong các đền thờ Phật, dù nơi đây các vị được trình bày khác hẳn. Thế
nhưng nơi đây vắng bóng vị Vi đà tướng quân và tiền cúng dường của thập
phương thì nằm vương vãi khắp nơi, xem ra không ai dám trộm cắp. Có lẽ
trên cao nguyên Tây Tạng thiêng liêng này, trong một xứ sùng tín tuyệt
đối, Vi-đà không còn ngồi sau lưng Di-lặc để canh chừng chính điện nữa mà
dưới chân Ngài để nghe giảng pháp.
UNG HÒA CUNG
VÀ TIỂU TRUYỆN VỀ TRUNG QUỐC-TÂY TẠNG
^
Tại Bắc Kinh,
đền thờ rực rỡ nhất ngày nay phải là Ung Hòa cung. Nơi đây là chốn khách
du lịch lúc nào cũng đông như hội. Đây là nơi khách hành hương chủ ý đến
lễ bái một pho tượng Phật Di-lặc tuyệt đẹp. Điện thờ này chứa nhiều sự
tích và ý nghĩa thâm trầm về mối quan hệ Trung Quốc-Tây Tạng.
Đây là một
cung điện hay một ngôi chùa ? Cả hai ! Thời nhà Thanh (1662-1911) có một
vị hoàng tửû tên là Dận Chân. Năm 1694 Dận Chân cho xây một cung điện. Về
sau, năm 1723 Dận Chân lên ngôi thành nhà vua Thế Tôn Ung Chính, về trị vì
tại Tử Cấm thành. Từ đó cung điện cũ của hoàng tử Dận Chân mang tên là Ung
Hòa Cung và không ai được vào đó ở. Sau đó nhà vua Thế Tôn tặng cung Ung
Hòa cho Phật giáo Tây Tạng, thời đó được gọi là Lạt-ma giáo. Lý do của sự
hiến tặng đầy hào phóng đó là lòng nhiệt tâm tôn giáo trộn lẫn với tính
toán chính trị.
Tôi đến Ung
Hòa cung và thấy một rừng người vói khói hương nghi ngút. Đây là một tổng
thể gồm năm điện, nằm trong một khu vườn rộng lớn. Từ cổng vào, ta phải đi
một đoạn xa mới tới được điện đầu tiên với Di-lặc và các vị thiên vương.
Điện thứ hai mang tên Ung Hòa điện, thờ ba vị Phật tam thế, quá khứ hiện
tại vị lai. Điện thứ ba mang tên Vĩnh Hưu điện, thờ A Di Đà và Dược Sư
Phật. Điện thứ tư là Pháp luân điện thờ đại sư Tông-khách-ba ,
nhà cải cách trong thế kỷ 14 của Phật giáo Tây Tạng, thầy dạy của các vị
Đạt-lai lạt-ma và Ban thiền lạt-ma. Cuối cùng là Vạn phúc các, thờ Di-lặc
trong dạng một bức tượng cao 18m, đường kính 3m, làm từ một thân cây trầm
hương duy nhất. Tượng này được Đạt-lai lạt-ma thứ 7 tặng cho vua Càn Long
. Trong năm điện đó ta tìm thấy vô số tranh tượng diễn tả kinh điển, sự
tích, các vị thánh nhân, hộ pháp, núi Tu-di, các công trình nghiên cứu,
trong đó có cả các ngành khoa học và toán học. Trong Pháp luân điện có
tượng của 500 vị la-hán, hai bên vách chứa toàn kinh sách cổ.

Thế nhưng tất
cả đều làm tôi sớm quên khi thấy tượng Di-lặc. Tôi ngẩn người vì cái đồ sộ
của tượng, tới dưới chân ngẩng đầu nhìn cặp mắt xanh biếc của Ngài. Sau
bao nhiêu lần thấy tượng Di-lặc mập tròn thường có tại Trung Quốc, nơi đây
tôi lại được thấy tượng Ngài theo cách diễn tả của Tây Tạng với khuôn mặt
vô cùng trí tuệ. Di-lặc là vị "hóa thân thiên ngàn ức", có dạng là một hòa
thượng mập tròn đùa dỡn với trẻ con cũng có, làm kẻ héo hon đi ăn xin cũng
có, làm trời, làm người, làm kẻ hướng đạo, làm người hầu cận. Ngài mang
mọi dạng hình, đi khắp bốn phương trời để giáo hóa Tính Không.
"Thiện nam
tử, hãy thức dậy ! Pháp tính là như vậy. Bồ-tát biết tất cả các pháp do
nhân duyên kết tụ lại mà hiện ra, tự tính (của chúng) là như vậy, như
huyễn, như mộng, như ảnh, như bóng, không có gì được thành tựu hết!" .
Ôi, chân lý đó của Phật giáo đại thừa, dưới chân tượng, tôi thấy hầu như
Di-lặc đang mỉm cười nhắc lại.
Nhưng đó là
chân lý tuyệt đối, còn tại trần gian tương đối này, bức tượng này một sự
thành tựu tuyệt vời, bàn tay nghệ nhân nào đã tạc ra một khuôn mặt vừa trí
tuệ vừa từ bi như thế. Bức tượng này quả thật là một món quà vương tước.
Nó đánh dấu một giai đoạn hữu hảo của Trung Quốc và Tây Tạng mà ngày nay
mối quan hệ giữa hai bên đã trở thành phức tạp.
Trong lịch sử
Tây Tạng, đây là một vương quốc trong thế kỷ thứ 7 sau công nguyên với nhà
vua Tùng- tán Cương-bố (Songten Gampo), trị vì khoảng từ 617 đến 649. Đó
là một thời phát triển rực rỡ của Phật Giáo, kéo dài suốt từ thế kỷ thứ 7
đến thứ 9.
Sau một thời gian bị bức hại, khoảng thế kỷ thứ 11, Phật giáo lại được
phục hưng nhưng lại rơi vào một thái cực khác, nó trở thành một chế độ
tăng lữ, trong đó các tăng sĩ đảm nhiệm luôn việc điều hành đất nước.
Qua thế kỷ
thứ 13 tại Trung Quốc, nhà Nguyên lên ngôi hoàng đế. Năm 1279 Hốt Tất Liệt
thống nhất sơn hà Trung Quốc, đem quân đánh luôn Tây Tạng bắt được giáo
chủ Phát-tư-ba (Phagpa) của phái Tát-ca (Sakya). Thế nhưng Phát-tư-ba
không hề ở tù một ngày mà lại được Hốt Tất Liệt trọng đãi như thần tiên.
Người Mông Cổ Hốt Tất Liệt làm hành động đó vừa do lòng sùng tín thuần
thành vừa lại rất khôn khéo chính trị. Về sau Hốt Tất Liệt đưa Phát-tư-ba
về lại Tây Tạng và "ủy thác" việc cai trị xứ sở này. Kể từ đó Tây Tạng
thần phục Trung Quốc, ngược lại nhà Nguyên vì quá tôn thờ Lạt-ma giáo mà
mất đế chế. Cuối đời nhà Nguyên, nhân dân Trung Quốc đói khổ còn một số
lạt-ma lại quá lộng hành, có vị cho đào cả mộ các vua nhà Tống. Năm 1368
có một vị tăng người Hán tên là Chu Nguyên Chương, dấy quân diệt nhà
Nguyên Mông Cổ, lên ngôi vua. Đó là Thái tổ nhà Minh. Nhà Minh trở lại với
Phật giáo Trung Quốc nhưng vẫn khôn ngoan tiếp tục bảo hộ lạt-ma giáo, ban
vương tước cho các vị tăng sĩ Tây Tạng. Qua đó ta thấy việc bảo hộ lạt-ma
giáo vì lý do chính trị là một chính sách nhất quán của các vương triều
Trung Quốc.
Ba trăm năm
sau, trong một bộ tộc Mãn Châu, lại có một nhân tài xuất hiện, diệt nhà
Minh, thống nhất sơn hà, lập nhà Thanh năm 1662, trị vì thiên hạ cũng được
khoảng 300 năm. Nhà Thanh lại là dân ngoại tộc, có máu giang hồ nên lại
hết lòng ủng hộ lạt-ma giáo. Cũng như nhà Nguyên, nhà Thanh ủng hộ các vị
lạt-ma vì lòng sùng tín, nhưng với chính sách rất rõ, họ dùng các vị
lạt-ma để thống trị Tây Tạng và Mông cổ. Nhà vua thứ ba là Thế tổ Thuận
Trị sai sứ thần đón Đạt-lai lạt-ma thứ 5 về triều, tặng danh hiệu Quốc sư.
Sau Thế tổ, nhà vua Khang Hy cho quân tiến vào Tây Tạng năm 1720. Và như
ta đã biết, sau Khang Hy là Ung Chính tặng Ung Hòa Cung năm 1723. Như thế
là kể từ Hốt Tất Liệt cuối thế kỷ thứ 13, Tây Tạng đã thần phục Trung
Quốc. Cuối đời nhà Thanh năm 1911, lúc Tôn Văn lật đổ chính quyền để lập
thể chế cộng hòa, Tây Tạng tuyên bố tự trị. Thế nhưng, tuyên ngôn độc lập
đó đã quá trễ. Một năm sau khi Trung Quốc giành lại độc lập năm 1949, họ
đem quân chiếm đóng Tây Tạng.
Phải công
bằng thấy rằng, kể từ gần 700 trăm qua, Tây Tạng luôn luôn là một xứ chư
hầu của Trung Quốc. Dù nhiều đau thương đã xẩy ra cho dân tộc Tây Tạng,
nhưng ta khó đòi một nước Tây Tạng độc lập với đầy đủ chủ quyền. Nhìn lại
lịch sử, ta thấy chính các vị lạt-ma, quá dính líu với quyền lợi thế gian,
đã đưa dân tộc mình vào chỗ bị lệ thuộc. Ngày nay, vị Đạt-Lai lạt-ma thứ
14 cũng có lúc thừa nhận rằng dân tộc của ông đang trả nợ với giá rất đắt
cho chế độ tăng lữ ngày xưa, cho những vị lãnh đạo tinh thần nhưng mang
nghiệp tham ái quyền lực và danh vọng.
Tại Ung Hòa
Cung, khi ngẫm nghĩ những điều này, tôi chưa biết sẽ có một ngày mình sẽ
đi Tây Tạng.
BÌNH THÀNH VÀ ĐỘNG VÂN CƯƠNG
^
Trong thế kỷ
thứ hai sau công nguyên có ba trung tâm phát triển Phật giáo, tại Trung
Quốc và Việt Nam (Giao Chỉ). Ngoài Lạc Dương được nhiều người biết, ta
phải kể đến Bình Thành tại tỉnh Sơn Tây Trung Quốc và Luy Lâu, ngày nay
thuộc tỉnh Bắc Ninh Việt Nam.
Theo tài liệu
lịch sử, Bình Thành được xây dựng rất sớm, khoảng trong thế kỷ thứ 5 trước
công nguyên. Thị trấn này ngày nay là Đại Đồng, cách Bắc Kinh khoảng 350km
về hướng tây, được Vạn lý trường thành bao bọc hai mặt, là một vị trí
chiến lược. Trong thời Hán Sở tranh hùng trước công nguyên, Hạng Vũ diệt
nhà Tần, đốt phá Hàm Dương (phía bắc Trường An) và rút quân về đóng ở Bình
Thành. Về sau Hạng Vũ bị Lưu Bang diệt. Khoảng sáu trăm năm sau, thời mà
lịch sử Trung Quốc gọi là Nam Bắc Triều (420-588), Trung Quốc bị chia làm
hai miền Nam-Bắc, mỗi miền lại chia ra nhiều nước nhỏ. Trong các nước Bắc
Triều có một nước gọi tên là Bắc Ngụy của nhà vua Đạo Vũ đế. Đạo Vũ đế lấy
Bình Thành làm kinh đô năm 398, thống nhất phương Bắc năm 439, trở thành
một nước có uy thế.
Đạo Vũ đế rất
sùng tín đạo Phật. Trong thời Bắc Ngụy có hàng ngàn tăng sĩ Ấn Độ, Tây Vực
đến đây, tu sĩ lên đến hàng chục vạn người, chùa chiền hơn 30.000 ngôi.
Nhưng hình như sự vật lúc nào lên đến đỉnh cao nhất lại bị hoại diệt nên
cũng trong thời Bắc Ngụy, đạo Phật bị pháp nạn. Đây là pháp nạn lần thứ
nhất trong bốn pháp nạn
của Phật giáo tại Trung Quốc.
Pháp nạn này
do nhà vua Thái Vũõ Đế gây ra. Thái Vũ Đế là con của Đạo Vũ Đế, mới đầu
cũng tin tưởng đạo Phật. Thế nhưng ngày nọ, ông thân hành đi dẹp loạn,
thấy trong một ngôi chùa có vũ khí. Chùa bị dèm pha, Thái Vũ Đế hạ chiếu
chỉ dẹp bỏ đạo Phật, tàn sát vô số tăng sĩ. Đó là năm 446. Sau đó không ai
được chứa chấp tăng ni, chùa chiền tranh tượng bị phá hủy. Thế nhưng Thái
Vũ Đế lại có một người con tôn trọng đạo lý, đó là thái tử Thác Bạc Hoảng.
Vị thái tử mật báo tăng ni trốn lánh, đem kinh sách tranh tượng đi cất
giấu trong núi non gần đó và cũng vì thế mà bị mưu hại.
Sáu năm sau,
Thái Vũõ Đế mất, ông chỉ sống được 45 tuổi. Em của thái tử Hoảng là Thác
Bạc Duệ lên ngôi là Văn Thành Đế, lúc đó tăng ni trong núi mới dám trở lại
hoằng pháp. Nhà vua Văn Thành Đế là người trọng đạo lý, tạ lỗi cho cha
bằng cách cho xây dựng "Vân Cương thạch quật" ở sườn nam núi Ngô Châu,
cách Bình Thành 16km. Nhà sư Đàm Diệu là người khởi công xây dựng, để danh
lại đến ngày hôm nay. Vân Cương là một trong ba thạch động nổi tiếng nhất
của Trung Quốc, hai nơi kia là Long Môn và Đôn Hoàng.
Qua năm 494,
triều Ngụy dời đô về Lạc Dương, vì thế mà Bình Thành và Vân Cương chìm vào
quên lãng. Hơn bốn trăm năm sau, năm 907, đó là thời nhà Liêu bắt đầu trị
vì một vùng miền Bắc bao la của Trung Quốc, vương triều có đến năm kinh đô
mà một là Bình Thành, lúc đó đã mang tên Đại Đồng. Trong thời đó tại Đại
Đồng, Hoa Nghiêm tự được xây dựng, Vân Cương thạch động nhờ thế mà cũng
được tu bổ thêm.
Tôi đến Đại
Đồng từ Bắc Kinh bằng xe lửa chạy đêm. Đại Đồng nằm trên độ cao khoảng
1200m, tàu chạy trên những cao nguyên ngút ngàn vùng bắc Trung Quốc, qua
những ruộng lúa mì, ngô, hướng dương. Đi xe lửa mới thấy cái mênh mông của
nước này, trên bản đồ hai nơi xa nhau không bằng đầu ngón tay út mà tàu
chạy cả đêm không thấy tới. Tàu đến ga Đại Đồng lúc trời còn sáng tinh
sương, đúng là lúc thợ thuyền hối hả đi làm. Họ là những người thợ mỏ
than, Bình Thành ngày nay đã trở thành kinh đô than đá của Trung Quốc !
Than đá xem ra quan trọng hơn kinh điển. Nó làm ra điện để công nghiệp hóa
đất nước. Cũng đúng thôi ! Đại Đồng là một thành phố kỹ nghệ, anh hướng
dẫn du lịch hãnh diện kể như thế, là thành phố lớn thứ 12 của Trung Quốc,
với than đá vô tận và công nghiệp chế tạo thiết bị cho ngành nông lâm
nghiệp. Xe đi một vòng trong Đại Đồng, trung tâm Phật giáo Bình Thành mà
tôi hào hứng muốn tới thăm ngày nay khắp nơi được phủ bằng một lớp bụi
than mờ mờ. Tôi được đưa vào một khách sạn ăn sáng lấy sức sau một đêm đi
xe lửa, tên nó là khách sạn "Vân Cương". Đúng thế, tôi đến đây để thăm
công trình đồ sộ của Vân Cương thạch quật mà tiền nhân của các anh thợ mỏ
này đã tạo tác từ 15 thế kỷ trước. Cả những người thợ mỏ ngày nay lẫn
những nghệ nhân ngày xưa, họ cũng là những người vào núi đập đá, đục đẻo,
chịu gian khổ từ năm này qua năm khác, những con người chân cứng đá mềm,
đem mồ hôi và cả xương máu để làm nên sự nghiệp cho đất nước họ, dù đó là
công trình văn hóa hay công nghiệp.

Và như
Blofeld đã từng ca tụng, đây quả là một thạch quật vĩ đại. Công trình này
có 53 động chạy dài khoảng 1km từ đông sang tây, gồm 51.000 tượng Phật mà
tượng lớn nhất cao 17m, tượng tí hon nhất chỉ cao 2cm. Phần lớn tượng được
tạc trong thời Bắc Ngụy, từ năm 460 đến năm 494. Một ít tượng khác được
hoàn thành trong thời nhà Đường (618-907). Trong các động, ngoài tranh
tượng ta còn thấy các Kinh được minh họa bằng các tượng đá khắc nổi trên
tường, đó là một nghệ thuật Phật giáo độc đáo mà ta hay thấy tại Trung
Quốc, được gọi là "biến tướng" của kinh. Tại Vân Cương, biến tướng của
Duy ma cật sở thuyết kinh
được trình bày. Về sau tại các thạch quật Bảo đỉnh sơn hay Bắc sơn, tôi
còn được thấy các biến tướng của các Kinh khác.
Trong nắng
sớm tôi ngắm nhìn các động cả thạch quật mà ngày nay chỉ còn khoảng 20
động có thể tham quan được. Mới đầu công trình này để Văn Thành Đế sám hối
cho vua cha, nhưng rõ ràng là cả chục ngàn nghệ nhân đã sáng tạo nơi đây
để cho giáo pháp trướng tồn với thời gian, để lòng sùng tín của họ trở
thành những tác phẩm nghệ thuật, để những gì trong tim óc thành tháp tượng
thấy được, sờ được. Vì nghệ thuật, nói cho cùng, là quá trình biến những
gì trừu tượng thành vật thể, đối tượng của năm giác quan, dùng chúng mà
diễn tả lại lòng cảm khái, sự rung động nội tâm.
Động số 3 là
động lớn nhất với tượng Phật và hai vị Bồ-tát. Sau đó là động số 5 với bức
tượng lớn nhất của Vân Cương cao 17m. Động số 6 chứa một cột đá cao 16m,
trình bày cuộc đời đức Phật. Động 17 chứa tượng Di-lặc ngồi tréo chân, một
thế ngồi thiền định ít thấy. Trong động 18 có tượng Phật Thích-ca mâu-ni
mà trong vạt áo là vô số các vị Bồ-tát. Quá nhiều động và quá nhiều hình
tượng, khách tham quan có lẽ không mấy ai xem được kỹ. Chỉ ngắm tượng thôi
mà người ta đã hết sức, hãy nhớ đến gian khổ của người xưa, tôi tự nhủ.
Cuối cùng là
động 20, đó là động chứa bức tượng Phật Thích-ca, cao 13,7m, đây là nơi
được xem là biểu tượng cho Vân Cương thạch động. Tiếng tụng kinh của Phật
tử vang trong nắng và mùi hương trầm quen thuộc của Trung Quốc làm tôi nhớ
những ngày ở Ấn Độ. Hình ảnh của "người con trai vĩ đại của Ấn Độ"
đã qua đến đây từ thế kỷ thứ nhất và nghệ thuật tạc tượng của Gandhara
(ngày xưa thuộc về Ấn Độ) cũng đã định hình tại Trung Quốc, tại Vân Cương
này trong thế kỷ thứ năm. Đó là nền nghệ thuật tạc tượng của Phật giáo đại
thừa, xem Phật là Ứng thân, là nhân dạng của Pháp thân không sinh không
diệt. Nền nghệ thuật đó gặp gỡ những đầu óc ưa làm chuyện vĩ đại của người
Trung Quốc để sinh ra những tượng Phật khổng lồ mà họ gọi là "Đại Phật",
những thạch quật đồ sộ mà Vân Cương mới chỉ là một.
TỪ HẰNG SƠN ĐẾN QUANG MINH ĐỈNH
^
Trung Quốc là xứ sở của núi non
hùng vĩ. Trong những rặng núi đó có nhưng ngọn đã trở thành thiêng liêng,
là "đạo trường" của Bồ-tát như Ngũ Đài sơn của Văn-thù, Nga Mi sơn của Phổ
Hiền, Cửu Hoa sơn của Địa Tạng và Phổ Đà sơn của Quan Âm. Đó là "tứ đại
danh sơn" mà về sau sẽ được nhắc tới.
Song song,
Trung Quốc còn có năm rặng núi thiêng khác được gọi là Ngũ Nhạc với trung
tâm và bốn hướng đông tây nam bắc. Đó là Tung sơn ở trung tâm, thuộc tỉnh
Hà Nam; Thái sơn phía đông, thuộc tỉnh Sơn Đông; Hoa sơn, phía tây thuộc
tỉnh Sơn Tây; Hành sơn phía nam, thuộc tỉnh Hồ Nam và Hằng sơn phía bắc
thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngũ Nhạc là nơi "trời đất giao nhau", nơi các đời vua
chúa từ 2000 năm nay đến cầu đất nước thái bình thịnh trị.
Trung Nhạc
Tung sơn, cách Lạc Dương khoảng 50km phía đông nam, đỉnh cao nhất là
1440m. Tại Tung sơn, Thiếu Lâm tự được xây dựng năm 495, nó là quê hương
của Thiền tông Trung Quốc, võ lâm bắc đẩu. Đây là ngôi chùa mà khoảng năm
520 Bồ-đề Đạt-ma đã đến đây, quay mặt vào tường chín năm và cuối cùng
truyền tâm cho Huệ Khả.
Đông Nhạc
Thái sơn được xem là rặng thiêng liêng nhất, đó là rặng núi của Đạo giáo.
Nằm về phương đông , phía mặt trời mọc, Đông Nhạc là nơi vua chúa thân
hành đến tế trời đất từ hơn 2000 năm nay. Chỗ cao nhất của Thái sơn đo
được 1545m. Thái sơn là nơi thờ thần Thái Sơn phủ quân của Đạo giáo, vị
thần thống lĩnh đời sống trần gian, chỉ nghe lệnh của Ngọc Hoàng thượng
đế. Đền cao nhất của Thái sơn là đền Ngọc Hoàng, cao 1524m.
Tây Nhạc Hoa
sơn là rặng núi cũng với năm đỉnh đông tây nam bắc và trung tâm, mà đỉnh
cao nhất là Liên hoa đỉnh, cao 2100m. Giữa năm đỉnh đó là con đường đá đi
từ vách này qua vách khác mà cứ mỗi bước chân là dẫn đến một phong cảnh
khác lạ. Ngày nay trên Hoa sơn người ta còn thấy một phiến đá phẳng. Huyền
sử chép rằng đó là chỗ Triệu Khuôn Dẫn, thái tổ nhà Tống, đánh cờ với Trần
Đoàn, đạo sĩ trường sinh bất tử. Triệu Khuôn Dẫn thua, phải nhường Hoa sơn
cho đạo sĩ.
Nam Nhạc Hành
sơn có đến 72 đỉnh mà đỉnh cao nhất đo được 1290m. Tương truyền rằng trên
đỉnh Tử Cái, một đỉnh cao của Hành sơn, nhà vua thần kỳ Hoàng Đế đã hội
nghị với các chư hầu miền nam. Đến thế kỷ thứ 20 (trước công nguyên), có
nhà vua tên Vũ, cháu năm đời của Hoàng Đế, hậu duệ của Nghiêu Thuấn, là kẻ
khai sáng đời nhà Hạ (thế kỷ 21-16). Ông lên đây quan sát địa thế để vạch
kế hoạch trị thủy, ngày nay còn để lại danh thơm. Tại Nam Nhạc Hành sơn
hiện còn có rất nhiều đền đài của Đạo giáo và Phật giáo.
Bắc Nhạc Hằng
sơn nằm cách Đại Đồng khoảng 75km là một rặng núi mênh mông với đỉnh phía
bắc cao 2017m. Trên đỉnh phía bắc này ngày nay còn lại đền thờ lớn nhất
của Hằng sơn, xung quanh là rừng thông bao phủ. Trên sườn núi Hằng sơn có
nhiều đền đài mà nổi tiếng nhất là Huyền Không tự, tức là "chùa treo".
Chùa này được tôn là một trong mười thắng cảnh của tỉnh Sơn Tây. Huyền
Không tự quả nhiên như treo cheo leo trên sườn núi. Từ xa người ta tưởng
là sườn Hằng sơn được vẽ tạc hình một ngôi chùa, tới gần mới hay đó là một
tổng thể khoảng 40 điện thờ nhỏ bé với rất nhiều tượng Phật, Bồ-tát. Các
điện này được xây dựng trong thế kỷ thứ sáu, nối với nhau bằng các hành
lang gỗ, nằm cheo leo trên sườn núi, được chống bằng những cột sắt.
Tôi đến Hằng
sơn vào buổi trưa, nghỉ trong một quán mang tên "Hằng sơn tửu điếm". Nghe
tên Hằng sơn, lòng tôi đã rộn rã, bỗng nhớ Kim Dung và Lệnh Hồ Xung của
ông vô cùng. Cám ơn Kim Dung, ông là người làm tôi biết và yêu mến một
nước Trung Quốc trừu tượng trong ký ức. Quá khứ tôi bỗng hiện về rõ mồn
một, tôi nhớ những năm của đầu những năm sáu mươi, khi truyện của Kim Dung
còn đăng báo ngày và mình nằm dài trên nền nhà đọc tờ Tiếng Vang,
trong đó có Cô Gái Đồ Long. Kim Dung đưa tôi đi khắp Trung Quốc với
các địa danh tuy xa lạ nhưng rất thú vị như Động Đình Hồ, Ngũ Nhạc, Thiếu
Lâm tự. Quan trọng hơn, ông khắc họa cho tôi về một xã hội Trung Quốc tuy
xa vời vợi như hoang đường nhưng hết sức gần gủi hầu như ta có thể tìm
thấy mình trong đó. Tôi vẫn nhớ Kim Dung trong mỗi bước đi tại Trung Quốc,
trong mỗi dòng viết về Trung Quốc. Vì thế tôi rất để ý tìm hiểu Khưu Xứ
Cơ, Vương Trùng Dương, Trương Tam Phong, những nhân vật có thật, tiền bối
của Trương Vô Kỵ. Tôi thích nhắc tới Chu Nguyên Chương không phải vì ông
là thái tổ nhà Minh, cũng không phải ngày trước ông là tăng sĩ, mà vì ông
là nhân vật có thật trong Cô Gái Đồ Long, được kể lại trong truyện lúc
Trương Vô Kỵ bắt đầu sống đời nhàn nhã với Triệu Minh. Với Cô Gái Đồ
Long, Kim Dung đã vẽ nên một xã hội hiện thực của loài người, trong đó
thiện ác lẫn lộn, ánh sáng và bóng tối chồng lên nhau nhiều lớp, cái phải
cái trái tồn tại song hành cùng một lúc trong xã hội và trong tâm lý con
người. Chính phái và ma giáo tưởng chừng như hai thái cực đối lập với nhau
đã hòa với nhau, trong chính phái có những hành động hết sức đen tối và
trong ma giáo có những con người đáng làm thầy của những kẻ tưởng mình đi
trên đường vương đạo. Và nhất là Kim Dung đã cho tình yêu nảy nở giữa
những con người mà quê hương chính tà của họ cách nhau vạn dặm, cho thấy
những giá trị thuộc đầu óc lý luận chưa bao giờ thay thế tiếng nói sâu
thẳm của trái tim.
Sau Cô Gái
Đồ Long, Kim Dung còn một kiệt tác, đó là Tiếu Ngạo Giang Hồ,
bản thân ông đã già giặn hơn rất nhiều sau các tác phẩm trước. Với Tiếu
Ngạo Giang Hồ, Kim Dung đã vẽ một toàn cảnh đương đại với một khung xã
hội và chính trị rộng lớn, trong đó con người vừa là kẻ đạo diễn mọi điều
xẩy ra trên sân khấu, vừa chịu cảnh vui buồn của những gì do mình bày ra.
Tác phẩm này đã một thời làm tôi biết nhìn cuộc đời không phải chỉ gồm hai
màu đen trắng. Thế nhưng cần nói thêm là, với số tuổi ngày nay, tôi càng
nhận ra rằng đó là một tác phẩm phản ánh sâu sắc kiếp nhân sinh, xót xa
thay số phận con người nằm trong mọi sự xô đẩy của những ngọn sóng lành dữ
khác nhau, những đam mê đầy nhân tính, những âm mưu quỉ quyệt. Cũng trong
bức tranh đầy những mảng tối sáng đó, con người với tình yêu của nó mới
sáng lên tính cá thể của mình. Và ngay cả tình yêu tưởng chừng là một điều
rất riêng tư cũng không bao giờ trọn vẹn, Lệnh Hồ Xung của Kim Dung tuy
hạnh phúc hòa hợp với Doanh Doanh nhưng chàng vẫn tưởng nhớ đến một tình
yêu vô vọng.
Với Tiếu
Ngạo Giang Hồ, tôi biết đến Ngũ Nhạc và ngày nay đến đây, lòng tôi sao
khỏi có niềm rộn rã kính trọng. Hằng sơn tửu điếm này nằm ngay dưới chân
Hằng sơn của phái Nga Mi phải là nơi giang hồ đã lắm người qua lại, nơi
Lệnh Hồ Xung và Đào cốc lục tiên ghé ăn nhậu còn nàng Nghi Lâm mà tôi yêu
mến chắc không khi nào dám vào. Tiểu nhị đem bánh bao ra ! Thì ra bánh bao
là một thứ người Trung Quốc hay ăn như ta ăn cơm, và ta ăn cơm trắng thì
bánh bao của họ trắng trơn không nhân. Tôi thử chiếc bánh bao và công bằng
mà nói thì thấy nó nhạt nhẽo, không hiểu tại sao đại hán ngày xưa ăn "mấy
cân bánh bao" một lúc. Và rượu thì ngày xưa hẳn Đào cốc lục tiên uống
không bao giờ đủ, ngày nay người Trung Quốc uống bia. Như tại Việt Nam, ở
đâu cũng có bia, tỉnh nào cũng có hiệu bia, chai nào chai nấy to gần cả
lít. Bia Thanh Đảo nổi tiếng nhất, nhưng tại rặng Cửu Hoa sơn xa xôi cũng
có bia Cửu Hoa.
Nhớ chàng
trai Trương Vô Kỵ tôi không thể không nhớ đến Quang Minh Đỉnh. Đó là sào
huyệt của Ma giáo mà chàng đã lần mò theo một ông hòa thượng leo lên tới.
Nhưng Quang Minh Đỉnh có thật chăng ?
Quang Minh Đỉnh là một đỉnh của rặng Hoàng sơn. Hoàng sơn là đệ nhất danh
sơn của Trung Quốc. Ngũ Nhạc đã đẹp nhưng Hoàng sơn vượt xa Ngũ Nhạc.

(Hình
trích của "Huangshan in China", Publishing house of China National,
Academy of fines Arts, 1994)
Hoàng sơn nằm
trong tỉnh An Huy, là một rặng núi có 72 đỉnh mà đỉnh cao nhất là Liên Hoa
đỉnh (1860m) và sau đó là Quang Minh Đỉnh (1840m). Huyền sử chép rằng nhà
vua Hoàng Đế đến đây để luyện linh đan sống ngàn năm nên núi có tên Hoàng
sơn. Ngày nay dưới chân Hoàng sơn là một thành phố có sân bay, đến từ Hàng
Châu, Thượng Hải rất tiện.
Nhà du khảo
nổi tiếng đời Minh, Từ Hà Khách, là tác giả của "Từ Hà Khách du ký", một
tác phẩm có giá trị về văn hóa và khoa học. Ông đã đến đây và thốt
lên:"Đến Ngũ Nhạc thì không kể mọi danh sơn khác, đến Hoàng sơn thì không
kể Ngũ Nhạc". Hoàng sơn thật là một cảnh non bồng nước nhược với bốn đặc
tính: sườn núi như vách dựng đứng, rừng thông đầy hình thù kỳ dị, thế đá
lạ lùng bí hiểm và cảnh mây bọc núi, núi xuyên mây. Hoàng sơn là nơi thống
nhất uy danh của các núi lớn: cái tôn quí của Thái sơn, màu hoang dã của
Hoa sơn, biển mây mênh mông của Hằng sơn, thác nước cuồn cuộn của Lư sơn
và phong thái thần tiên của Nga mi sơn. Hoàng sơn chính là đối tượng sơn
thủy của tranh thủy mặc từ nhiều ngàn năm nay. Trên sườn Hoàng sơn vào mùa
xuân người ta chỉ thấy một vùng trắng như tuyết nhưng không phải tuyết,
hỏi ra thì đó là Đào hoa phong, đỉnh chỉ trồng hoa đào.

Tôi đến Hoàng
sơn để ngắm những ngọn núi hầu như cổ tích này. Trung Quốc mênh mông và
quá nhiều cảnh đẹp, nếu chỉ thăm một núi thì đó là Hoàng sơn; nếu chỉ thăm
một hồ thì đó là Tây hồ ở Hàng Châu. Nằm dưới chân Hoàng sơn lại còn có
một thị trấn còn giữ lại được từ thời nhà Tống, thế kỷ thứ 9, thứ 10. Thị
trấn này làm tôi nhớ đến Hội An, ngày nay nó là cũng chỗ bán đồ lưu niệm
nhưng nó cổ hơn Hội An khoảng 400 năm và toàn bộ nhà cửa ngày xưa còn
nguyên vẹn suốt cả một con đường dài vài km.
Hoàng sơn là
đệ nhất danh sơn, "đến Hoàng sơn thì không kể Ngũ Nhạc", đó phải là lý do
mà Ma giáo đã một thời chọn Quang Minh Đỉnh làm ngai vàng để muôn năm
trường trị, thống nhất giang hồ, chống lại các chính phái. Đến Hoàng sơn
tôi hiểu thêm rằng, những gì mình đọc Kim Dung ngày xưa là một sự phối hợp
tài tình giữa lịch sử và địa lý có thật của Trung Quốc, hòa trong nền tảng
thực tế của đạo lý, tâm lý và xã hội của đất nước này, cùng với tài hư cấu
tuyệt vời để khắc họa những trong nhân vật, sáng tạo những hành động và
cảnh ngộ vừa hoang đường vừa hiện thực.
Cuộc ác chiến
trên Quang Minh Đỉnh không hề có thực nhưng Hoàng sơn, ngọn núi nằm tại hạ
lưu sông Dương Tử, là kẻ chứng kiến những trận chiến đẫm máu suốt trong
lịch sử Trung Quốc. Trước công nguyên tại vùng này đã xảy ra cuộc Hán Sở
tranh hùng, cuối cùng Hạng Vũ thua, tự tử tại Cai Hạ trên bờ Dương Tử.
Trước đó, Ngô Phù Sai cũng bị Việt vương Câu Tiễn tiêu diệt nơi đây. Đầu
thế kỷ này, đây cũng là nơi Nhật và các nước phương tây xâu xé Trung Quốc.
Và, làm sao khác được, cũng chính đây là nơi phát sinh các cuộc cách mạng
vũ bão tại đất nước mênh mông này.
Tôi đến Hoàng
sơn, hoa đào trên đỉnh Đào hoa phong vẫn nở trắng trinh nguyên như ngày
trời đất mới mở hội. Tất cả, những gì hư cấu hay có thực, đã chìm trong
lịch sử. Mầu nhiệm thay, thời gian.
TỪ TIỂU NI CÔ NGHI LÂM
ĐẾN NÀNG LÝ NGƯ
^
Dưới chân
Hằng sơn tôi không thể không nhớ đến một người con gái tên gọi là Nghi
Lâm. Đó phải là một thiếu nữ tươi đẹp, hoạt bát, đầy nhựa sống, ham hoạt
động. Thế nhưng đồng thời, nàng là một tiểu ni cô với hạnh nguyện nghiêm
túc mà cuộc đời mãi mãi gắn liền nơi cửa Phật. Những cuộc đấu tranh long
trời lỡ đất trong Tiếu Ngạo Giang Hồ đưa đẩy nàng xuống núi hành
hiệp, nhưng cứ mỗi lần phạm chút lỡ lầm, nàng lại thầm cầu mong bồ-tát tha
tội.
Với tuổi tác
và võ công non kém, Nghi Lâm "hành hiệp" không hiệu quả lắm, nàng chỉ có
một vai trò rất phụ thuộc. Nàng chỉ "nổi" trong sự hoạt bát đầy thông minh
của mình và cũng với tấm lòng yêu cuộc sống đó, nàng cảm thấy gần gủi tự
nhiên với Lệnh Hồ Xung, một chàng trai dễ yêu. Theo đà câu chuyện, Kim
Dung sáng tạo ra cả cảnh Lệnh Hồ Xung phải miễn cưỡng làm cả trưởng môn
phái Nga Mi của Hằng sơn, dẫn đầu cả một đám nữ đệ tử trong đó có Nghi
Lâm. Hay thay cái chính tà đan chéo lẫn lộn, một kẻ bị trục xuất ra khỏi
Hoa sơn vì "theo tà bỏ chính" mà lãnh đạo Hằng sơn, các vị ni sư Hằng sơn
dám phá chấp để gọi một chàng trai ham rượu chè về núi để điều động đệ tử.
Trong khung cảnh đó một tình cảm nẩy nở trong lòng Nghi Lâm mà nàng không
biết gọi tên.
Nghi Lâm
không biết gọi nó là tình yêu, thứ tình cảm mà nàng thấy thể hiện bằng sự
quyến luyến Lệnh Hồ đại ca. Nàng không tìm cách kềm chế nó như các vị sư
trưởng của nàng mong đợi, vì đối với nàng, tình cảm đó chưa có gì là tội
lỗi. Các vị sư tỉ của nàng già giặn hơn, biết đó là tình yêu và tìm cách
ngăn cản một cách nhẹ nhàng, đầy từ bi như bồ-tát của họ. Dễ thương biết
bao, mối tình nhẹ nhàng này của tác phẩm, nó xuyên suốt đến cuối câu
chuyện để Nghi Lâm rốt cuộc trở thành một người chủ chốt, hạ thủ cả Nhạc
Bất Quần. Đáng thương thay cho nàng, nàng sẽ ân hận suốt đời vì hành động
mà người như Nghi Lâm sẽ cho là vô đạo đó. Và không ai rõ sau khi câu
chuyện chấm dứt, các vị sư nữ trở về núi tu hành tụng niệm, làm sao Nghi
Lâm quên được lòng "quyến luyến" của mình. Liệu sau đó nàng biết đó là
tình yêu hay không, đó là điều người đọc truyện tự trả lời.
Đến Hằng sơn,
tiếc thay tôi không còn thấy một tiểu ni cô nào cả. Đi nhiều nơi thăm
nhiều tự viện tại Trung Quốc ngày nay, tôi cũng không thấy một vị sư nữ
nào, chứ đừng nói tới ni cô vai mang kiếm đi hành hiệp. Tại nhiều chùa tôi
nghe nói đến có sư nữ nhưng hình như chúng tôi không được thăm viếng. Hẳn
hình ảnh sư nữ Phật giáo đã biến mất khỏi xã hội Trung Quốc ngày nay. Thế
nhưng tại Bắc Kinh, tôi gặp một chuyện lạ. Tôi được đi xem opera,
tuồng "Truyện nàng Lý ngư" tại Nhà hát lớn ở Bắc Kinh, cách quảng trường
Thiên An môn không xa.
Tuồng kể có
chàng thư sinh nọ, gia đình nề nếp. Lúc nhỏ chàng đã được đính hôn với con
gái của một ông quan. Về sau cha mẹ chết sớm, gia đình sa sút, chàng thư
sinh ngày càng nghèo, gia đình ông quan nọ tỏ vẻ xa lánh chàng. Chàng thư
sinh buồn bã không thiết gì đến việc học hành, ngày đêm thở vắn than dài.
Ngày nọ cô tiểu thư con ông quan đến thăm thư sinh, bày tỏ vẫn yêu thương
chàng, nhưng tại cha mẹ nàng sinh lòng rẻ rúng, chứ nàng vẫn quyết một
lòng chung thủy với chàng. Chàng thư sinh hết sức phấn khởi, chăm chỉ học
hành. Chàng có ngờ đâu người con gái đó là một nàng Lý ngư sống trong hồ,
tu luyện lâu năm, biết được hoàn cảnh của chàng, biến hiện thành tiểu thư
nọ đến khuyên nhủ để chàng yên tâm dùi mài kinh sử.
Ngày nọ đến
hội hoa đăng, đôi trai tài gái sắc đi hội, không ngờ gặp nàng tiểu thư
thật ! Chàng thư sinh lấy làm kỳ thấy hai người giống nhau như hệt mà
người nào cũng tự xưng là tiểu thư cả. Ông quan nọ được vời đến để phân
biệt ai là con gái mình, thế nhưng không sao biết được cả, vì nàng Lý ngư
có thần thông đã biết hết mọi chuyện riêng tư của nàng tiểu thư. Nàng Lý
ngư đã lỡ hiện hình tiểu thư, nàng phải làm cho trót vai trò, nhưng còn
thêm một điều thú vị, đó là nàng đã lỡ yêu chàng thư sinh mất rồi. Ông
quan nọ không biết làm sao nên đem cả hai nàng đến Bao Công nhờ phân xử.
Nàng Lý ngư có một ông anh sống tại thủy cung, thần thông xuất chúng. Ông
anh này liền biến mình thành Bao Công để tìm cách bênh vực cho cô em gái.
Thú vị thay khi thấy hai Bao Công và hai tiểu thư giống hệt nhau trên sân
khấu trong sự hoang mang hoảng hốt của ông quan nọ và chàng thư sinh tốt
số. Cuối cùng Bao Công thật mới dùng cái kế muôn đời là đem thư sinh vô
tội ra đánh đòn trừng trị để xem phản ứng của hai nàng tiểu thư, qua đó mà
biết ai thật ai giả. Cũng lụy vì tình mà nàng Lý ngư lộ bản chất chỉ là
con cá chép tu luyện ngàn năm. May mắn thay cho nàng, chàng thư sinh không
chê nàng mà đem lòng yêu thương, theo về đến thủy cung.
Tưởng như vậy
là ổn, ai ngờ đây là một chuyện sai đạo lý, người không thể chung sống với
súc sinh ! Và người thi hành đạo lý đó là tướng nhà trời Dương Tiễn. Dương
Tiễn đem quân đến thủy cung bắt Lý ngư. Ngờ đâu Lý ngư cũng như chàng thư
sinh yếu đuối nhất định đánh lại, thà chết chứ không chịu xa nhau. Cuối
cùng Lý ngư đánh không lại Dương Tiễn, nàng cầu cứu Phật Bà Quan Âm.
Bồ-tát Quan Âm hiện ra, cho nàng lựa chọn, nếu là vì tình yêu thì được
biến thành người, chung sống với thư sinh nhưng phải mất công phu tu
luyện, mất tuổi thọ mấy ngàn năm. Nàng Lý ngư thưa: "Nếu không có tình yêu
thì sống ngàn năm phỏng có ích gì". Xúc động thay lời nói của nàng. Sau đó
nàng chịu cho Dương Tiễn rút ba cái vảy thần, chúng là hiện thân của kết
quả tu luyện ngàn năm của mình và về sống làm người với cuộc đời dân giã.
Trong bóng
tối, tôi thầm lặng cảm nhận câu chuyện, nhận ra lòng mình nhiều cảm khái
về opera của Bắc Kinh nổi tiếng toàn thế giới mà ta tạm gọi là "hát
bộ". Hay thay, giải pháp có tình có lý đầy từ bi, đầy tính người của Quan
Âm. Liều lĩnh thay, Lý ngư, dám bỏ công phu tu luyện ngàn năm để làm kiếp
nhân sinh nhiều rủi ro, đầy trắc trở; bỏ thần thông để làm con người yếu
đuối và bất lực trước mọi hoàn cảnh. Tất cả những hy sinh đó chỉ để làm
theo tiếng gọi của trái tim. Và lạ lùng thay, giữa Bắc Kinh mà có những vở
tuồng có tính phê phán xã hội và đầy tính tâm linh tôn giáo, trong đó Bao
Công thật và giả đấu tranh với nhau trước mắt người dân, trong đó hình ảnh
của Nam Hải Quan Âm được trình bày hết sức trân trọng và cuối cùng giải
pháp của Ngài đề ra là chung quyết, trọn vẹn cho con người.
Nghi Lâm và
nàng Lý ngư đều là những hình tượng tuyệt đẹp để tả tình yêu trai gái, một
khía cạnh ưu việt của văn hóa nghệ thuật Trung Quốc. Hai câu chuyện khác
nhau xa về kết cục nhưng giống nhau ở chỗ hai nàng đều xả thân, không tiếc
mạng sống mình. Những điều đó làm rung động đến tâm can người đọc người
xem. Những mối tình nhẹ nhàng như của Nghi Lâm, mãnh liệt như của Lý ngư
đều có một nguồn gốc chung là tính người. Vì thế chúng được thể hiện khắp
nơi, có thể nằm trong một bộ trường thiên tiểu thuyết của Kim Dung, cũng
có thể ở trong một tích tuồng đầy màu sắc và tiếng thanh la não bạt của
opera Bắc Kinh.
NGŨ ĐÀI SƠN ( Wutaishan) ^
Năm 67 sau
công nguyên, Ca-diếp Ma-đằng và Trúc Pháp Lan gặp Hán Minh Đế và sau đó
như ta đã biết, Bạch mã tự là chùa đầu tiên được xây dựng. Nhà vua người
Hán còn hỏi hai vị Phạm tăng: "Pháp Phật chỉ lưu truyền ở Thiên trúc, sao
không thấy giảng giải tại Trung nguyên". Hai vị đáp: "Có chứ, ngày nay có
vị Bồ-tát Văn-thù đang giảng pháp tại Thanh Lương sơn".
Thanh Lương
sơn cũng là địa danh được nhắc tới trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Bồ-tát trụ
xứ: "Vùng Đông Bắc có
núi Thanh Lương từ xưa đến nay các vị Bồ-tát thường trú ở đó. Hiện có
Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi cùng quyến thuộc và các Bồ-tát khác nữa đông tới vạn
người thường thuyết pháp ở đây"
.
Thanh Lương
sơn là tên khác của Ngũ Đài sơn, nằm tại tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Vì
những lẽ trên mà từ xưa tới nay, Ngũ Đài sơn được xem là trú xứ, là đạo
trường của Văn-thù Sư-lợi. Theo truyền thuyết, Bồ-tát Văn-thù là người
cùng với A-nan kết tập bộ kinh Hoa Nghiêm, sau đó trao cho Long Vương cất
giữ rồi Long Vương mới trao cho luận sư Long Thụ để phổ biến. Vì thế mà
Kinh Hoa Nghiêm rất gần gủi với Văn-thù và Ngũ Đài sơn là nơi các vị tổ
của tông Hoa Nghiêm tu học.
Văn-thù
Sư-lợi là vị Bồ-tát được gọi là vị "đại trí". Ngài là một vị cổ Phật nhưng
đóng vai trò Bồ-tát để giáo hóa, nhiều vị thành Phật là cũng nhờ Ngài.
"Văn-thù Sư-lợi vẫn thường làm mẹ của vô lượng chư Phật. Ngài luôn làm
thầy của vô lượng Bồ-tát. Ngài giáo hóa vô lượng chúng sinh…Ngài trụ trong
trí huệ thâm sâu, thấy biết được tất cả các pháp đúng như thật, Ngài thông
đạt thấu suốt tất cả cảnh giới giải thoát"
. Đó là lời của Di-lặc nói với Thiện Tài và khuyên Thiện Tài nên đi gặp
Văn-thù Sư-lợi. Tại sao Thiện Tài phải tìm đến gặp Văn-thù ? "Vì từ trước
đến nay, mọi thiện tri thức mà ông gặp để rồi được nghe hành bồ-tát, để
vào được cửa giải thoát, để được đầy đủ đại nguyện, đều do thần lực của
Văn-thù Sư-lợi".
Tôi từ Đại
Đồng, xuống phía nam, đến Ngũ Đài sơn đảnh lễ Văn-thù. Ngũ Đài sơn là một
rặng núi cách Thái Nguyên, thủ phủ tỉnh Sơn Tây khoảng 200km. Đây là một
rặng núi với năm "đài" mà đỉnh phía Bắc, Bắc đài, cao đến 3058m. Từ thời
Hán Minh Đế ở đây đã có một tự viện thờ Văn-thù, về sau nơi đây có hàng
trăm đền chùa, bảo tháp. Ngày nay trên núi có 54 đền chùa, nằm rải rác
khắp rặng núi. Sau khi đi qua nhiều con đèo hiểm nghèo, xe đến Đài Hoài
trấn, đó là thị trấn nằm giữa lòng Ngũ Đài sơn và cũng là nơi đi bộ leo
lên nhiều tự viện chủ yếu của núi. Tôi đến Đài Hoài trấn buổi trưa nhưng
trời mát lạnh, ở đây có độ cao 1435m. Đường đèo dẫn đến Đài Hoài tuy rất
tốt nhưng hết sức vắng xe, có ai ngờ đến đây mới thấy đây là một thị trấn
tấp nập toàn cả khách hành hương tham bái. Đường đến Ngũ Đài sơn rất khó
khăn và cũng nhờ thế mà các tự viện ở đây thoát khỏi sự tàn phá trong thời
cách mạng văn hóa.
Từ làng Đài
Hoài ta có thể đi bộ lên phía bắc để đến Hiển Thông tự. Đây là ngôi chùa
cổ nhất của Ngũ Đài, được kiến lập trong thế kỷ thứ nhất sau công nguyên.
Theo thời gian Hiển Thông Tự được mở rộng để ngày nay có 7 tự viện nằm
trên một trục và nhiều đền nằm xung quanh. Tổng diện tích của Hiển Thông
tự lên đến 80.000 m2. Hiển Thông tự là nơi mà Thanh Lương Trừng
Quán thời nhà Đường, tổ thứ tư của tông Hoa Nghiêm trụ trì và dịch, chú
giải kinh Hoa Nghiêm. Tại đây có câu đối nói về Pháp thân và Văn-thù:
Pháp thân vô khứ vô lai, trụ tịch oai
nghi bất động,
Đức tướng phi không phi hữu, ứng tùy cơ dĩ hằng châu.
(Pháp thân không đi không đến, vững
yên oai nghi không động,
Đức tướng chẳng không chẳng có, luôn luôn tùy cơ ứng hiện)
Phía bắc của
Hiển thông điện là Bồ-tát đỉnh, theo truyền thuyết từ thời Bắc Ngụy
(386-534), đó chính là trú xứ của Văn-thù. Tôi leo 108 bậc thang để lên
Văn-thù đỉnh, lòng xúc động và cám ơn cơ duyên vô danh nào đã cho mình cái
dịp ngàn năm một thuở này. Những bậc thang này chính là nơi mà hàng ngàn
năm nay, kể từ đầu công nguyên tới nay, hàng vạn người đã đến đây để đảnh
lễ Văn-thù, từ các nhà vua đến các hàng thứ dân, từ các thiền sư đến các
cư sĩ, từ vị đại lạt-ma đến các tiểu tăng sa di. Người ta kể rằng, đến Ngũ
Đài sơn, ai có lòng tin tưởng thì thế nào cũng sẽ gặp Văn-thù trong một
dạng hình nào đó.

Tôi còn nhớ,
trong tác phẩm Sư tử tuyết bờm xanh,
mình có biên dịch câu chuyện của một vị lạt-ma tên là Yahden. Vị này mất
sáu tháng để từ Tây Tạng đến Ngũ Đài sơn chiêm bái Văn-thù, trên đường đi
ông hết lòng tụng niệm và thiền định liên tục. Và cuối cùng ông được "leo
lên 108 bậc thang" để đến Bồ-tát đỉnh. Ông vừa lên gần đến đỉnh thì gặp
một người ăn xin cụt chân, người đó nói với ông: "Huyền diệu thay, cái Một
trong thiên hình vạn trạng". Yahden mở túi xách, lấy một ít tiền cho kẻ ăn
xin thì người đó nói tiếp: "Huyền diệu thay, cái Một trong thiên hình vạn
trạng và cái thiên hình vạn trạng của cái Một. Thứ ít ỏi này ta không thèm
lấy của ngươi. Ta đòi ngươi cả trái tim!". Yahden vừa biết kẻ đó là ai thì
người đó đã biến mất. Yahden mở mắt thật lớn nhìn quanh và nhảy như bay
lên những bậc cuối và chỉ còn nghe chuông chùa đánh 108 tiếng.
Tôi lên đến
Bồ-tát đỉnh, chỉ nghe tiếng chuông vang ra từ Văn-thù điện xây trên đó.
Trên Bồ-tát đỉnh này vua Càn Long đời Thanh đã cho dựng một tấm bia đá cao
6m, với thủ bút của ông viết bốn văn tự: Hán, Mãn Châu, Mông cổ và Tây
Tạng, ca tụng trí huệ của Văn-thù. Cách đó khoảng 1km, ta tìm thấy Thù
Tượng tự, trong đó là bức tượng nổi tiếng của Văn-thù cao 9m, ngồi trên
lưng sư tử. Chùa này được kiến lập trong đời Đường, nhưng bị hư hoại và
được xây dựng lại năm 1487.
Yahden được
Văn-thù "tùy cơ ứng hiện", được Ngài đọc lại cho nghe yếu nghĩa của Kinh
Hoa Nghiêm. Đến đạo trường của Văn-thù, tôi lấy lại kinh Hoa Nghiêm ra
đọc, xem Ngài nói gì với Thiện Tài, khi Thiện Tài vâng lời Di-lặc đi tìm
Ngài.
"Lành thay,
lành thay! Này thiện nam tử, nếu lìa khỏi lòng tin thì tâm sẽ yếu kém, sẽ
lo âu tiếc nuối, nên công hành không tròn đủ, sẽ thối thất tinh cần, mà
chỉ bám trước vào một thiện căn. Với chút ít công đức ấy sẽ cho đó là đủ,
thế nên sẽ không phát khởi được hành nguyện, sẽ không được thiện tri thức
nhiếp thọ, không được chư Như Lai ức niệm, sẽ không biết được Pháp tính
(…giảng Pháp tính), Pháp môn (…giảng Pháp môn), công hành (…giảng công
hành), cảnh giới (…giảng cảnh giới), sẽ không thể nào biết hết, biết
nhiều, biết đến tận cùng, biết rõ, hướng nhập vào giải thoát, cũng như
phân biệt, chứng biết và chứng đắc giải thoát. Mọi điều ấy sẽ không sao có
được" .
Đến đây thì
tôi hiểu. Vị đại trí Văn-thù mà cũng cho rằng phải có "lòng tin" mới phát
khởi được hạnh nguyện và trí huệ. Chúng ta thường dễ cho rằng dùng trí là
có thể hiểu được pháp, thậm chí trí huệ ưu việt hơn lòng tin. Thế nhưng
trí nào hiểu được "cái Một trong thiên hình vạn trạng và cái thiên hình
vạn trạng của cái Một" ? Trí nào nắm bắt được cái nghịch lý đó ? Tư duy
logic thông thường của chúng ta không thể hiểu Kinh Hoa Nghiêm, đó là điều
tôi dám kết luận. Đó cũng là lý do sau khi Phật thành đạo Ngài giảng kinh
Hoa Nghiêm trong 21 ngày nhưng không ai hiểu cả, chỉ trừ các bậc đại
bồ-tát.
Tư tưởng Hoa
Nghiêm nói về Chân Như tuyệt đối, trong đó không còn bóng dáng của sự phân
biệt nhị nguyên nữa. Còn tư duy logic của chúng ta lấy nhị nguyên, lấy
ta-người làm cơ sở, nó không thể vươn lên, với tới mức độ tuyệt đối. Như
thế phải chăng không ai có thể hiểu Hoa Nghiêm ? Văn-thù chỉ cho ta một
cách, đó là dùng lòng tin mà "phát khởi hành nguyện". Lạ thay, Văn-thù mà
cũng cần lòng tin! Lấy hành nguyện thật lớn, "phát tâm bao la không cùng,
khởi tâm vô ngại lìa bỏ tất cả các cõi, rời xa tất cả các chấp" .
Vì thân biến theo tâm nên với tâm "bao la không cùng" đó hành giả sẽ có
thân vô lượng, siêu việt lên ta-người, bỏ tính cá thể và trực nhận Chân
như tuyệt đối hiện lên trong "Một trong thiên hình vạn trạng và cái thiên
hình vạn trạng của cái Một". Với cách đó Thiện Tài đã siêu việt tâm thân
mình, hiểu ngộ tất cả các pháp mà chúng ta thấy là mâu thuẫn không sao
hiểu được và đã thể nhập vào hạnh lớn mà kinh sách gọi là thể nhập vào đạo
trường của Phổ Hiền Bồ-tát.

Văn-thù là vị
đại trí vì Ngài là kẻ chỉ đường tu học cho chúng sinh. Nhưng muốn có trí
thì phải dùng lòng tin mà phát tâm học tập, đó là bài tôi học được hôm
nay. Vì vậy mà có câu "Ta đòi ngươi cả trái tim". Ngày trước khi biên dịch
chuyện Yahden này, tôi chỉ nhớ câu "Huyền diệu thay, cái Một trong thiên
hình vạn trạng và cái thiên hình vạn trạng của cái Một", còn "trái tim"
tôi cho là phụ. Bây giờ tôi hiểu, "trái tim" là tiên quyết, "nếu lìa khỏi
lòng tin thì tâm sẽ yếu kém", không có trái tim rộng lớn thì không thể
hiểu được Văn-thù.
Còn Phổ Hiền
là vị "đại hạnh", vì nguyện lực cho hành động (hạnh) của Ngài là rộng lớn
vô biên, cũng phải cùng hành động như Ngài mới hiểu được đại trí của
Văn-thù. Tôi chỉ là người học trò nhỏ, dùng trí logic thông thường mà đoán
mò về các điều nằm ngoài suy luận. Trí huệ và hạnh nguyện của các vị
bồ-tát quá to tát, quá xa vời đối với tôi, thế nhưng tôi cũng sẽ đến đạo
trường Phổ Hiền để đảnh lễ Ngài. Đạo trường đó nằm trên đỉnh Nga Mi sơn,
tỉnh Tứ Xuyên.
CÒN ĐÂU NƯỚC THỤC
^
Tôi đến Tứ
Xuyên, lòng bồi hồi. Tỉnh Tứ Xuyên là tỉnh đông dân của Trung Quốc, ngày
nay khoảng 120 triệu dân, có diện tích hơn nửa triệu cây số vuông. Về dân
số cũng như diện tích, Tứ Xuyên lớn gấp rưỡi nước Việt Nam. Tỉnh Tứ Xuyên
có địa thế rất hiểm trở, có hình lòng chảo, bốn phía núi non bao bọc. Phía
nam là cao nguyên Vân Nam, phía đông bắc tiếp giáp với Thiểm Tây với các
dãy núi cao trên 2500m, phía đông là rặng Vu sơn, phía tây là Thanh Hải,
Tây Tạng. Tứ Xuyên ngày xưa là một vùng biên cương của Trung Quốc, đời
sống khô cằn, đến thế kỷ thứ tư trước công nguyên mới được người Hán đến
khai khẩn, thường được mệnh danh là "biên địa hạ tiện".
Thế nhưng Tứ
Xuyên là một vùng đất được nhiều người yêu mến do ngày xưa nó chính là
nước Thục của Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi, của Khổng Minh Gia Cát Lượng.
Như ta đã
biết đầu công nguyên (năm 67) có một nhà vua tên là Hán Minh Đế là người
đầu tiên cho truyền bá đạo Phật. Đó là thời Hậu Hán, có khi được gọi là
Đông Hán. Sau đó gần 200 năm, con cháu của Minh Đế tên là Hiến Đế lên
ngôi, bị Đổng Trác và Tào Tháo chuyên quyền lấn hiếp. Trong giới tôn thất
nhà Hậu Hán có một người tên là Lưu Bị ,
chỉ làm nghề dệt chiếu, đóng dép, đau lòng vì cơ nghiệp nhà Hán, mới kết
nghĩa cùng Quan Công, Trương Phi dấy quân, phò vua giúp nước. Mới đầu cơ
nghiệp không đi tới đâu nhưng về sau Lưu Bị gặp một kỳ nhân, đó là Khổng
Minh Gia Cát Lượng.
Khổng Minh giúp Lưu Bị chiếm được đất Thục, nay là tỉnh Tứ Xuyên, đóng đô
ở Thành Đô ,
nay là thủ phủ của Tứ Xuyên. Nhờ tài thao lược của Khổng Minh mà nước Thục
mở rộng về phía đông, chiếm được Kinh Châu, nằm trên sông Dương Tử, nay có
tên là Sa Thị. Người trấn thủ Kinh Châu là Quan Công.
Còn Tào Tháo bị
nhiều người ghét vì tính "đa nghi" nhưng thật ra là một nhân vật xuất sắc.
Ông là người thao lược, giỏi cả văn lẫn võ. Ông giữ đất Trung Nguyên, gọi
là nước Ngụy, khi đó Lưu Bị đã chiếm đất Thục, Tôn Quyền dựng nước Ngô.
Lúc Tào Tháo chết rồi, con là Tào Phi lên thay mới phế bỏ Hiến Đế và chính
thức xưng đế, hiệu là Văn Đế, khai sinh nhà Ngụy. Đó thời Tam Quốc nổi
tiếng (220-280).
Ba nước này
chia Trung Quốc ra thế chân vạc, đó là ba vùng đất to lớn. Nước Ngụy nằm
phía Bắc, xung quanh sông Hoàng Hà; nước Thục phía Tây, dựa lưng vào Tây
Vực và cao nguyên Hy-mã; nước Ngô phía đông ở Giang Nam. Ba vùng đất này
tự nó là ba nước cực lớn, nếu ta nhớ lại thời Chiến quốc, Trung Quốc có
hàng trăm nước. Tôi nhớ lại các vương quốc Ấn Độ, tương đối nhỏ hơn nhiều
nhưng họ sống hòa hoãn với nhau. Thế nhưng người Trung Quốc có óc thống
nhất quốc gia từ thời nhà Tần, họ đã quen nghĩ đến một nước Trung Quốc
mênh mông từ bắc xuống nam, từ đông sang tây. Ba nước Ngụy, Thục và Ngô vì
thế mà đánh nhau liên miên, khi chiến khi hòa và để lại cho hậu thế tác
phẩm Tam quốc chí bất hủ. Tiếc thay lịch sử không đúng như mong ước của
người đọc đời sau. Lưu Bị, Khổng Minh bại trận, nước Thục mất. Lưu Bị thất
bại hẳn cũng có số trời như Khổng Minh đã nói, nhưng ông đã không nghe lời
Khổng Minh, phạm sai lầm cuối cùng của đời mình và là sai lầm quan trọng
nhất. Chiến lược của Khổng Minh là không đánh nước Ngô, liên hiệp với nước
này mà đánh nước Ngụy. Lưu Bị cũng biết thế nhưng khi Quan Công bị nước
Ngô sát hại tại Kinh Châu thì Lưu Bị quên mọi tính toán chiến lược, kéo
quân đi dọc Trường Giang về đánh nước Ngô, báo thù cho người em kết nghĩa.
Thất bại, ông rút lui về thành Bạch Đế
trên sông Trường Giang và chết tại đó.
Tôi leo lên
Bạch Đế thành, lòng đầy xúc động. Ôi, tại ngọn núi vắng vẻ này mà đã từng
diễn ra cảnh cả Lưu Bị chết, giao con cho Khổng Minh để rồi nước Thục đi
vào diệt vong thật chăng. Bạch Đế thành nằm trên núi cao, nhìn xuống dòng
Trường Giang, ngày nay người ta có thể đi bộ hoặc xe cáp lên đỉnh.
Thành này được Công Tôn Thuật xây năm 25 sau công nguyên, ông là người
xưng đế ở Thục (25-36) thời Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán. Truyền
thuyết kể rằng ông thấy trên núi đó, từ một cái giếng thoát ra khói có
dạng như một con rồng trắng và nhân đó mà ông xưng là "Bạch đế". Ngày nay
giếng vẫn còn, trên miệng giếng có dựng hình một con rồng. Tôi tìm tới
cung Vĩnh An là nơi Lưu Bị chết. Xúc động biết bao khi thấy tại chốn này
cảnh diễn tả lại Lưu Bị nằm trên giường bệnh, giao lại cơ nghiệp và con
trai Lưu Thiện cho Khổng Minh. Quần thần đứng nghiêm trang ngậm ngùi xung
quanh, trong đó có đại tướng Triệu Vân. Hai người anh hùng kia là Quan
Công thì đã bị hại và Trương Phi đã bị ám sát trước đó hai năm. Cảnh này
được ghi lại bằng hình tượng có kích thước như người thật, vô cùng sinh
động. Đáng cảm khái thay được thắp một nén hương ngay chỗ 18 thế kỷ trước
đã có một nhà vua đã từ trần, người được bao thế hệ Trung Quốc đến ngày
nay vẫn còn thờ cúng.
Lý Bạch có
bài thơ Há Giang Lăng khi tạ từ Bạch đế thành:
Triêu từ Bạch Đế thái vân gian
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ
Khinh chu dĩ quá vạn trùng sơn
Sớm rời Bạch đế rạng tầng mây
Nghìn dặm Giang Lăng tới một ngày
Tiếng vượn đôi bờ kêu chẳng dứt
Núi non thuyền nhẹ vượt như bay
Từ tay Lưu
Bị, Khổng Minh tiếp nhận cơ đồ và Lưu Thiện. Nhưng Lưu Thiện chỉ là kẻ bất
tài, còn Khổng Minh không còn tướng giỏi. Ông đã sáu lần đem quân đi đánh
nước Ngụy, cuối cùng sức quá suy nhược, Khổng Minh mất ngay trong trại thọ
54 tuổi. Đó là năm 234, con người mưu lược, thông thiên văn địa lý đó cũng
không tránh khỏi số mệnh.
Đi đường dài
mới thấy ngày xưa Tam quốc phải là một thời kỳ kịch chiến tiêu hao sức lực
của cả ba nước, từ quân vương đến binh sĩ. Chỉ kể Thành Đô đến Bạch Đế
thành là đã 600km, đường bộ lẫn đường sông, tính đến Kinh Châu là thêm
300km nữa. Từ Bạch Đế thành hãy đi ngược dòng Dương Tử để về Thành Đô, đó
phải là đường ngày xưa người ta đưa thi hài Lưu Bị về chôn cất. Đi khoảng
50km Lưu Bị sẽ chào từ giã Trương Phi, đó là chỗ người em kết nghĩa này bị
hại, ngày nay còn đền thờ trên bến sông. Sau đó có lẽ đám ma của Lưu Bị sẽ
đến Trùng Khánh và từ đó đi đường bộ về Thành Đô.
Tôi đến Thành
Đô, ngày xưa là kinh đô nước Thục, ngày nay là thủ phủ Tứ Xuyên. Tại đây
khách không thể không tham quan đền Vũ Hầu. Vũ Hầu là tên dành cho Khổng
Minh nhưng đền này chính là nơi thờ cả Khổng Minh lẫn ba anh em Lưu Bị,
Quan Công, Trương Phi. Thật là một ngôi đền xứng đáng với những công trình
xây dựng hết sức nghiêm trang, những bức tượng cực kỳ sinh động. Đáng chú
ý nhất là bức tượng của Lưu Bị và Khổng Minh bằng đất mạ vàng, mỗi tượng
cao khoảng 3m. Đáng quí nhất là một bia đá cao 3,7m truyền lại từ đời nhà
Đường. Tả hữu dọc theo các điện thờ là 28 bức tượng của các công thần nhà
Thục, công trạng của các vị đó được ghi lại trên các bia đá.
Phía tây của
các ngôi đền là một gò đất cao khoảng 12m, chu vi khoảng 180m, trên đó cây
cối mọc như rừng. Đó chính là lăng mộ của Lưu Bị và hai bà hoàng hậu của
ông. Tôi đi suốt một vòng gò, nhưng không tìm ra cửa vào, có lẽ đó chính
là điều phải giữ bí mật trong 18 thế kỷ trước. Trên gò tiếng chim hót vang
lên trong tiếng gió thổi qua các cành cây, hồn thiêng Lưu Bị hẳn đã tìm ra
sự bình an.
Trong đền Vũ
Hầu còn có một tòa xây dựng rất đáng lưu ý mới được mở cửa năm 1984, đó là
nhà triễn lãm lịch sử của thời Tam quốc. Khách vào đó sẽ được xem mọi chi
tiết của những cuộc chiến long trời lỡ đất của thời đại này cũng như những
dấu tích còn lại của đời sống văn hóa, xã hội và nghệ thuật của người dân
hồi đó của cả ba nước Thục, Ngô, Ngụy.
Tại nước Ngụy
thì viên tướng tài chống lại được Khổng Minh là Tư Mã Ý. Về sau Ngụy diệt
được nước Thục năm 265 nhưng ngai vàng lại bị cháu của Tư Mã Ý là Tư Mã
Viêm cướp, biến thành nhà Tấn. Tư Mã Viêm là tay kiệt xuất, kéo quân diệt
luôn nước Ngô năm 280, thống nhất sơn hà, đời sau gọi là Tây Tấn.

Trên nước
Trung Quốc thống nhất mênh mông ngày nay, trong đó Tứ Xuyên không còn là
biên địa nữa mà gần như nằm giữa trung tâm, tôi thầm nghĩ ngày xưa dù ai
thắng ai thì có lẽ bây giờ cũng thế này thôi. Kẻ thắng người bại ngày nay
đều chỉ là những nắm xương tàn mục. Thế nhưng điều lưu danh với sử xanh là
lòng trung liệt mà nổi bật nhất là Gia Cát Lượng, Quan Công, Trương Phi.
Lưu Bị mất, Lưu Thiện bất tài mà Khổng Minh không có chút tơ hào vương
tước, đúng là lòng "Cúc cung tận tụy, tử nhi hậu dĩ" (hết lòng hết sức,
đến chết mới thôi) như trong bài Tiền xuất sư biểu của ông. Còn Lưu
Bị Quan Công Trương Phi, điển hình kết nghĩa đó đã trở thành biểu tượng
nhân nghĩa của xã hội Trung Quốc. Trong trận đồ đẫm máu Tam quốc dài 60
năm, kẻ chiến thắng cuối cùng là Tư Mã Viêm nhưng không ai thờ ông cả mà
ngược lại ở đâu cũng có bàn thờ ba người anh em kết nghĩa. Điều làm lòng
người, bất cứ ở thời đại nào, xã hội nào, tôn thờ khâm phục không phải là
cơ đồ sự nghiệp mà là phẩm chất của con người, đó là điều tôi rõ ra hơn
bao giờ hết.
NHÂN KIỆT KHÔNG ĐỜI NÀO THIẾU
^
Cách Thành Đô
16km về hướng tây có một ngọn núi tên là Thanh Thành.
Đây là một ngọn núi với 37 đỉnh với rải rác nhiều đền đài của Đạo giáo.
Nơi đây, trong thời gian đầu công nguyên có một đạo sĩ tên là Trương Đạo
Lăng
đã thành lập Đạo giáo. Trương Đạo Lăng, tương truyền là cháu bảy đời của
Trương Lương, mới đầu học Nho giáo nhưng khi về già học "Tiên thuật" của
Lão giáo. Ông soạn ra sách "Đạo thư" gồm 24 thiên để làm cơ sở căn bản
giáo lý của "Thiên sư đạo". Từ đó động của ông trong núi Thanh Thành được
gọi là Thiên sư động. Ngày nay tại đó có một đền thờ Trương Đạo Lăng,
trong đó còn lại một bức tượng của ông, đền kiến lập từ đời nhà Tùy
(589-618), nhưng được xây dựng lại cuối đời nhà Thanh (1644-1911). Giáo lý
của Thiên sư đạo dựa vào tư tưởng của Lão Tử, phối hợp với bói toán chú
thuật và lấy phép phù thủy chữa bệnh giúp dân. Vì mỗi khi chữa bệnh, đạo
sĩ được phần lễ tạ năm đấu gạo nên đạo này còn được mệnh danh là "Ngũ Đẩu
mễ" .
Trương Đạo Lăng phải là tiền bối của các đạo gia xuất chúng của Trung Quốc
như Vương Phù, Vương Khâm Nhã, Trương Quân Phòng, Lã Đồng Tân, Vương Trùng
Dương. Trong số này có Lã Đồng Tân là người sáng lập Toàn Chân giáo, điều
hòa ba nguồn tư tưởng Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo. Đến tận nơi, tôi
mới thấy núi Thanh Thành quả là một ngọn núi thâm u huyền bí, cảnh quan
hầu như có thần. Tôi theo xe cáp leo tận đỉnh Thanh Thành, nơi đó
có hai cây Ginkgo, lá như cánh quạt, mỗi cây một ngàn năm tuổi đứng
chầu trước cửûa đền. Đệ tử đạo giáo ngày nay không thiếu, họ mặc áo đen,
đầu búi tóc.
Tứ Xuyên còn
hân hạnh được xem là quê hương của Lý Bạch, một trong những thi hào vĩ đại
nhất của Trung Quốc. Ông sinh năm 701 tại Tây Vực, trong một vùng đất nào
khuyết danh ở phía tây của Tứ Xuyên, mẹ ông là người xứ đó. Nghe đến Lý
Bạch suốt ngày ôm bầu rượu, cuối cùng cũng vì rượu mà chết, ta dễ nghĩ ông
là một thư sinh ốm yếu. Nhưng không phải, do dòng mẹ là người Tây Vực, ông
hết sức cường tráng, mười lăm tuổi đã rèn kiếm, tự cho là "sức địch nổi
muôn người". Ông nhận Tứ Xuyên là quê hương, viếng Thành Đô thăm đền Vũ
Hầu, viếng Bạch Đế thành khóc Lưu Bị, lên núi Thanh Thành đọc sách nhớ
Trương Đạo Lăng. Ông lên cả núi Nga Mi bên bờ Mân Giang để ngắm trăng,
nghe Thục Tăng Tuấn đàn cầm. Nga Mi là ngọn núi cao hơn 3100m, trên đó
dưỡng khí đã loãng. Lên đó để ngắm trăng nghe đàn hẳn phải là người có sức
của lực sĩ. Nhưng Lý Bạch không phải nổi danh vì sức khỏe mà ông để lại
cho đời một nhân cách vô song và gần 20.000 bài thơ mà nội dung thì Đỗ Phủ
cũng phải thán phục "Bạch dã thi vô địch" .
Nếu Lý Bạch
là "Tiên thơ" thì Đỗ Phủ là "Thánh thơ" .
Đỗ Phủ cũng dùng bước rất lâu tại Tứ Xuyên. Ông sinh năm 712, thua Lý Bạch
11 tuổi. Đời ông là đời đi chơi, lấy chuyện đi chơi làm thú vị. Trên đường
Tráng du
đó, năm 744 ông gặp Lý Bạch tại Lạc Dương. Mùa thu năm sau hai người chia
tay không bao giờ gặp nhau nữa nhưng tình bạn gắn bó suốt đời. Đời ông khi
làm quan, khi bị cách chức, khi chịu loạn lạc, rất nhiều cay đắng. Ông
nghèo tới mức có lúc phải đi lượm hạt dẻ, đào hoàng tinh cho con ăn. Năm
48 tuổi, Đỗ Phủ đưa gia đình về Thành Đô, dựng nhà trên hai mẫu đất hoang
bên bờ Hoãn Hoa, viết thư xin bè bạn các loại hoa để làm thành "Thành Đô
thảo đường", nhà hướng về núi Nga Mi, đánh cờ với vợ, câu cá với con, uống
rượu với người hàng xóm.
Thế nhưng đời
ông vẫn không yên vì sau đó lại xảy ra loạn lạc, ông chạy loạn một thời
gian rồi năm 55 tuổi lại về Tứ Xuyên, nhà ở gần Bạch Đế thành. Về sau ông
cùng gia đình chạy loạn nữa và chết trên thuyền năm 770. Ngày nay đến
Thành Đô ta sẽ thấy một con sông nhỏ tên là Hoãn Hoa, nó là một nhánh của
sông Mân Giang. Trên bờ Hoãn Hoa, không xa miếu Vũ Hầu Khổng Minh ta còn
thấy "Thành đô thảo đường" xưa của Đỗ Phủ, kỷ niệm ông sống ở đây bốn năm,
từ 759 đến 763.

Tôi đến thảo
đường cũ của ông, ngày nay nó đã trở thành một khu vực nổi tiếng cho khách
du lịch. Suối Hoãn Hoa hầu như nước đọng không chảy, mơ màng dưới các cây
cổ thụ. Bèo và lá vàng trên suối được vớt thường xuyên cho nước được
trong. Băng qua Hoãn Hoa là vài chiếc cầu kiến trúc theo lối xưa, đưa ta
đi từ tòa nhà này qua tòa nhà khác để giới thiệu con người và thơ văn Đỗ
Phủ. Tôi đến gần tượng của ông bằng đá đen. Bức tượng này phải là một tác
phẩm hết sức thành công. Đó là một khuôn mặt trí tuệ, đồng thời có một nét
bình dân gần gũi với quần chúng. Lạ thay, bức tượng đá mà toát ra một chút
đăm chiêu, một chút căm tức, đúng như con người của ông.
Thành Đô còn
ghi dấu hài của một nữ sĩ, đó là Tiết Đào (769-834). Bà là người Trường An
nhưng thân phụ làm quan tại đất Thục nên bà lưu ngụ tại Thành Đô. Bà làm
thơ từ năm lên tám lại xinh đẹp lạ thường, giao du với những danh sĩ đương
thời. Bạch Cư Dị, Vương Mục đều có thơ xướng họa với bà. Phía nam Thành Đô
ngày nay, bên cạnh đại học Tứ Xuyên, ta còn lại một khuôn viên với một tòa
lâu các gọi là Vọng Giang lâu, gồm bốn tầng, cao 30m, là nơi có thể ngắm
sông Mân giang. Tôi đến nơi thì Vọng Giang lâu đóng cửa không còn cho
khách lên lầu. Cách đó không xa có một cái giếng từ thời nhà Đường, đó là
nơi bà lấy nước để chế tạo thứ giấy hoa thông, một thứ giấy màu đỏ thẫm,
mang tên bà là "Tiết đào tiên". Miệng giếng rất lớn, đường kính dễ chừng
5m, nay đã được nắp gỗ đậy kín. Thú vị nhất là ta tìm thấy trong công viên
này một vườn trúc với 140 loại được trồng tặng bà vì Tiết Đào là người yêu
trúc.
Khoảng 300
năm sau Tiết Đào có một tăng sĩ kỳ dị tu trong chùa Chiêu Giác ở Thành Đô.
Đó là Viên Ngộ Khắc Cần (1063-1135). Thầy của ông là Pháp Diễn. Ngày nọ
Pháp Diễn nói chuyện xong với một viên quan đề hình (cảnh sát thời nay)
xong hỏi Viên Ngộ: "Thế nào là ý Tổ sư sang?". Hỏi xong Pháp Diễn tự trả
lời: "Cây bách trước sân, xem xem". Tưởng Pháp Diễn nói chơiù thế thôi nào
ngờ Viên Ngộ nghe xong đại ngộ ! Về sau, Viên Ngộ trở thành thiền sư xuất
chúng và với môn đệ của ông, dòng thiền Trung Quốc phất lên một lần nữa
trước khi tàn lụi. Viên Ngộ là người soạn tập công án Bích Nham Lục và
cuốn sách khó hiểu này trở thành tác phẩm quan trọng nhất của Thiền tông.
Trong tác phẩm này Viên Ngộ lấy nguồn gốc là những công án của Tuyết Đậu
Trùng Hiển ,
thêm vào những bình giải của mình. Những lời bình đó lại cực kỳ tuyệt hảo
về văn chương đến nổi người đọc dễ đâm ra mê văn chương hơn là nội dung
công án, vướng vào chữ nghĩa, phản lại tinh thần "bất lập văn tự" của
thiền. Học trò của Viên Ngộ là Đại Huệ Tông Cảo
thấy cơ nguy đó nên đem đốt Bích Nham lục. Mãi đến thế kỷ 14 có một cư sĩ
trên là Trương Minh Viễn đi góp nhặt lại, tham khảo mọi nơi và xuất bản
lại nên ngày nay ai cũng có thể đọc Bích Nham lục. Thế nhưng đọc là một
chuyện, hiểu được là một chuyện khác.
Thành Đô, thủ
phủ nước Thục, tưởng là một miền biên địa hạ tiện, không ngờ là chỗ ghi
dấu của đạo sĩ, thi sĩ và thiền sư. Thế nhưng điều đó không có gì là lạ
tại Trung Quốc, vì đạo sĩ, thi sĩ và thiền sư khắp nơi đều có trong xứ sở
mênh mông này. Đạo, Thơ và Thiền, đó là ba suối nguồn tâm linh quan trọng
nhất của học thuật Trung Quốc và điều kỳ lạ là chúng đan quyện vào nhau,
ảnh hưởng chan hòa lên nhau.
Tư tưởng chủ
yếu của Đạo là ngắm nhìn thiên nhiên và trực nhận qui luật bao trùm trời
đất, từ đó mà rút ra phép hành động cho con người. Cái nhận thức của Đạo
là tri kiến trực giác từ thiên nhiên, cái hành động của Đạo là làm mà
không tác ý. Vì những lẽ đó mà Đạo tìm nơi thơ phú khả năng diễn đạt tuyệt
vời nhất. Thi nhân Trung Quốc qua của bao thế hệ thường là những người tìm
cảm hứng nơi thiên nhiên, dùng thiên nhiên để diễn tả nội tâm. Thơ của họ
tuy ngắn nhưng là bức tranh sinh động về thiên nhiên, tâm hồn của họ chính
là tâm hồn của Đạo.
Còn ảnh hưởng
của Đạo giáo lên Thiền tông cũng là điều rất rõ. Thiền chủ trương trở về
với tự nhiên, "tâm bình thường là đạo" ,
vì vậy mà rất gần với Đạo giáo. Thiền Trung Quốc là sự phối hợp hài hòa
giữa giáo lý của các thiên tài tôn giáo Ấn Độ và cốt tủy của văn hóa Trung
Quốc để trở thành một tông phái độc lập, nhất là sau Lục Tổ Huệ Năng. Với
Huệ Năng thiền Trung Quốc dám từ bỏ cả Kinh Nhập Lăng Già của Đạt-ma từ
phương xa mang qua Trung Quốc, vì thế mà có chuyện Lục Năng xé kinh, Đại
Huệ đốt Bích Nham Lục. Schumann viết "Thiền tông có một người cha Ấn Độ
nhưng nếu không có người mẹ Trung Quốc thì đã không trọn vẹn".
Cuối cùng,
nhiều thi sĩ cũng là thiền sư như Vương Duy, được người đời mệnh danh là
"Thi Phật", Tô Đông Pha, cư sĩ đạt đạo, đồng thời cũng là một trong "bát
đại gia" của Trung Quốc. Truyền thống vừa tu thiền vừa làm thơ cũng thể
hiện rõ nét trong các thiền sư đời Lý, Trần của Việt Nam.
Ngày nay,
tiếc thay ba suối nguồn tâm linh Đạo, Thơ và Thiền hầu như đã tắt lịm tại
Trung Quốc. Thiền tông, với đúng nghĩa "dĩ tâm truyền tâm" đã tàn lụi từ
đời nhà Tống. Đạo gia với câu "Không ra khỏi cửa, mà biết được việc thiên
hạ"
ngày nay đã bị nền học thuật chính thống hiện đại của Trung Quốc coi
khinh, chế giễu. Và thơ, nhất là thơ Đường chắc chắn không bao giờ trở lại
được thời kỳ vàng son của mình. Thậm chí có người nói với tôi, khẩu âm
Trung Quốc đọc thơ Đường cũng còn chẳng hay nữa, chỉ còn khẩu âm Việt Nam
mới may ra !
NGA MI SƠN (Emeishan)
^
Lý Bạch, nhà
thơ đã từng leo lên Nga Mi sơn để ngắm trăng và nghe đàn cầm đã viết về
ngọn núi này: "Nga Mi cao xuất Tây Cực thiên, La phù trực dữ thanh minh
tế" (Ngọn Nga Mi cao quá trời Tây phương cực lạc, Bao la cây cỏ khoảng
trời xanh).
Bao nhiêu năm
tháng trước Lý Bạch, Tạp Hoa Kinh (một tên khác của Hoa Nghiêm Kinh) cũng
nhắc tới Nga Mi bằng những dòng: "Phổ Hiền hóa nhân thiên đẳng chúng, hiện
tướng hải ư Hoa Mi sơn" (Phổ Hiền hóa người trời các loại, Hiện tướng
nhiều như biển ở Hoa Mi sơn). Huyền sử chép Nga Mi sơn là trú xứ của
Bồ-tát Phổ Hiền, không những thế nơi đây còn có cả một cái ao mà Phổ Hiền
từng tắm cho con voi sáu ngà của mình.
Nga Mi sơn
nằm ở phía nam tỉnh Tứ Xuyên, cách Thành Đô 160km về phía tây nam, với
đỉnh cao nhất là Vạn Phật đỉnh đo được 3099m. Đường lên núi Nga Mi hết sức
cheo leo với hai đường đèo, một phía bắc dài 44km, đường kia phía nam dài
66km. Sau đó ta phải đi bằng dây cáp mới lên được tới đỉnh. Tôi lên đỉnh
gặp một ngày nắng tốt, thông thường ở đây mây mùa bao phủ quanh năm vì Nga
Mi sơn nằm không xa hai giòng Mân giang và Thanh Y giang. Lên tới đây
không khí đã loãng, đi vài bước ta đã hụt hơi.

Thật là một
cảnh tượng sơn kỳ thủy tú tôi chưa từng thấy. Đường đi quanh co, cứ qua
khỏi một khúc quanh, cảnh vật lại hiện ra khác lạ. Vách núi chập chùng cao
như dựng ngược. Thác đổ nước trắng xóa xuống những con suối sâu chảy lẫn
trong lá. Đây là chốn thần tiên của kỳ hoa dị thảo. Và khi lên đến nơi,
tới Kim Đỉnh, ta đứng trên ngọn Đại Nga chót vót với một độ cao 3077m,
"bao la cây cỏ khoảng trời xanh". Đây hẳn là nơi Lý Bạch ngắm trăng rồi
viết bài thơ "Nga Mi sơn nguyệt ca" và nghe Thục tăng Tuấn đánh đàn cầm.
Ngày xưa hẳn ông phải đi bộ lên đây bằng những bậc tam cấp đá xanh, tôi
không rõ đi bao lâu thì tới, nhưng nếu không tới Kim Đỉnh thì khỏi thấy
"trời xanh" hay "trăng thu" vì dưới đó xung quanh toàn là vách núi.
Lý Bạch không
phải là người đầu tiên lên đây. Từ thời Đông Hán (25-220) ở đây đã có Kim
Đỉnh Phổ quang điện. Đến khoảng đời nhà Đường, nhà Tống, tại Nga Mi sơn
được xây dựng rất nhiều. Sau đó đời Minh, Thanh là những thời cực thịnh
của Nga Mi sơn. Rải rác trong rặng Nga Mi sơn này là 200 đền đài tự viện,
là chốn thiêng liêng của Phật giáo Trung Quốc. Ngày nay trên Nga Mi sơn
còn khoảng 20 ngôi chùa còn được bảo tồn và đang tu sửa.
Đến Kim Đỉnh
tôi thăm được Hoa Tạng tự. Đây là chùa xưa nhất và được trùng tu vào đời
Thanh (1866). Gần đó là Ngọa Vân am, trong đó có một tấm bi đồng có xuất
xứ từ đời nhà Minh. Tại Kim Đỉnh người ta có thể thấy một hiện tượng gọi
là "Phật Quang", là ánh cầu vồng hình tròn gồm có bảy màu thường xuất hiện
lúc giữa trưa khi người xem đứng trên Đỗ Quang đài. Đó là một trong ba
cảnh đẹp nhất của Kim Đỉnh: Phật quang, cảnh mặt trời mọc và biển mây xung
quanh Kim Đỉnh.
Tại Kim Đỉnh
ta có thể đảnh lễ Phổ Hiền và quán đại nguyện của Ngài mênh mông như bầu
trời, như ánh dương vừa mọc, như biển mây bao la, như cầu vồng ngũ sắc.
Còn nếu muốn tham bái tượng Phổ Hiền thì hãy đến chùa Vạn Niên tự nằm ở độ
cao 1020m của Nga Mi, tương truyền Phổ Hiền đã nghỉ chân tại đây. Chùa này
được xây đời Tấn (265-420), bị hư hại nhiều lần, đến đời nhà Minh được
trùng tu lại. Năm 1946 chùa bị hỏa hoạn, nay chỉ còn "Chuyên điện" (điện
đá nung). Điện này được xây từ đời nhà Tống, có hình vòm, không cần cột
kéo chống đỡ. Trong điện có tượng Phổ Hiền bằng đồng cao 7,3m, nặng 62 tấn
và trên vòm tháp có khoảng 3000 tượng Phật nhỏ.
Nếu Văn-thù
Sư-lợi cỡi sư tử xanh và đại diện cho trí huệ thì Phổ Hiền được trình bày
ngồi trên voi trắng và đại diện cho hành động. Văn-thù và Phổ Hiền là sự
hợp nhất giữa trí huệ và hành động, đại diện cho nguyên lý "tri hành hợp
nhất". Vì thế mà hai vị Bồ-tát này hay được thờ tả hữu bên cạnh đức Phật.
Đại nguyện của Phổ Hiền trong hành động thường được gọi là "Phổ Hiền thập
nguyện" ,
được nhắc nhở trong hai kinh Pháp Hoa và Hoa Nghiêm.
Muốn có đại
nguyện hành động như Phổ Hiền, tức là "thể nhập hành Phổ Hiền", đó là điều
không dễ, nó phải có trí tuệ của Văn-thù. Nói theo văn chương thông
thường, muốn hành động phải có trí; muốn có hành động to lớn phải có trí
to lớn, muốn có đại hạnh phải có đại trí. Và ngược lại muốn có trí đích
thực thì con người phải tự mình nếm trãi, tự mình hoạt động. Và muốn có
đại trí vượt trên nhị nguyên để hiểu Tính Không thì phải có đại hạnh bao
la của Phổ Hiền, trong đó cái cá thể đã bị vượt qua. Cái "tri" và "hành"
nằm trong một thể thống nhất của hai mặt biện chứng mà chúng ta có thể
chứng ngộ trong phạm vi nhỏ.
Hãy trở lại
với Thiện Tài, nhờ nghe Văn-thù giảng các pháp môn mà Thiện Tài mới "thâm
nhập được vào đạo trường của hành Phổ Hiền"
và khi ở trong đạo trường đó, Thiện Tài tận mắt trông thấy trong mỗi "hạt
bụi nhỏ đều chứa đựng trọn vẹn công đức Phổ Hiền". Đó chính là "tất cả
trong Một, Một trong tất cả", cốt lõi của Kinh Hoa Nghiêm, cái đại trí của
Văn-thù Sư-lợi.
Kinh sách Đại
thừa nhắc đến khoảng 200 vị bồ-tát và mỗi vị ra đời cũng vì hành động cho
thế gian. Tại Trung Quốc năm vị được tôn kính nhiều nhất, đó là Di-lặc,
Phổ Hiền, Quan Âm, Văn-thù và Địa Tạng, mỗi vị chủ đạo một hướng khác nhau
trong việc giáo hóa và cứu độ. Thế nhưng trong các vị thì hành động của
Phổ Hiền, "hạnh" của Ngài, là to lớn nhất bao trùm nhất, tổng kết tất cả
mọi hoạt động khác. Vì thế mà Phổ Hiền được gọi là bậc "đại hạnh" và cũng
là vị cuối cùng trong Kinh Hoa Nghiêm mà Thiện Tài gặp gỡ sau khi đi tìm
gặp hơn 50 vị thiện tri thức khác. Với Phổ Hiền, Thiện Tài cầu "Bồ-tát
hành, nhất thiết trí" và đó chính là mục đích cuối cùng của bồ-tát đạo của
Đại thừa Phật giáo.

Nga Mi sơn
xứng danh với hạnh nguyện vô tận của Phổ Hiền với vách núi, biển mây, bao
la như không gian, rực rỡ như hoa lá. Đó là ngọn núi cao nhất của Trung
Quốc mà tôi lên được tới đỉnh, trên đó tôi thở dốc vì thiếu dưỡng khí. Tôi
cũng hụt hơi vì đại trí của Văn-thù, đại hạnh của Phổ Hiền quá cao xa, quá
khó tới. Thế nhưng bài học tôi ngẫm nghĩ được trên ngọn núi này là nhận
thức và hành động phải đi đôi với nhau, nó không phải là bài học luân lý
đạo nghĩa mà là phương cách nhận thức. Nó nói rằng nhận thức đích thực chỉ
xuất hiện trong hành động. Nhận thức dẫn đường cho hành động nhưng chỉ
hành động mới đem lại tri kiến đích thực.
NHỮNG KÍCH THƯỚC VĨ ĐẠI
^
Từ chân núi
Nga Mi có con đường số 31 đi về phía đông, cách khoảng 30km là một thị
trấn nhỏ tên gọi là Lạc sơn (Leshan) . Lạc sơn là chỗ tụ hội của ba con
sông Mân Giang, Thanh Y giang và Đại độ hà. Ba con sông này nhập lưu nơi
đây nên chỗ này nước xoáy, sóng dữ, xưa nay ghe thuyền bị đắm rất nhiều.
Ngày nọ có
một tăng sĩ tên là Hải Thông đi qua, thấy thuyền bè đi lại rất nguy hiểm,
ông quyết xây nơi đây một tượng Phật thật lớn mà người Trung Quốc gọi là
"Đại Phật". Ông lựa một ngọn núi đá nhìn ra hướng ba con sông, quyên tiền
bạc của cải để bắt đầu công trình xây dựng. Viên quan địa phương thời đó
thấy ông có tiền của, đòi chia chác. Ông khẳng khái từ chối, nói đó là
tiền của bá tánh quyên góp, không phải là tiền của ông và nói thêm, nếu
của ông thì ông không tiếc gì cả. Viên quan nọ hỏi xin thử mắt ông, nào
ngờ Hải Thông móc mắt đưa ngay. Việc làm đó dĩ nhiên làm người thần đều
sợ, Hải Thông bắt đầu công trình xây dựng, đó là năm 713, đời nhà Đường.
Hải Thông xây
dựng đến cuối đời mình vẫn chưa xong, sau khi ông chết nhiều tăng sĩ tiếp
tục công trình. Đến năm 803, chín mươi năm sau, Đại Phật Lạc sơn hoàn
thành, ngày nay là tượng Phật đẽo từ đá lớn nhất thế giới.
Đó là tượng
Phật Di-lặc cao 71m, đẽo từ một vách đá, lưng dựa vào núi Long Vân, mặt
nhìn ra sông, mắt ngang 3,3m, tai dài 7m, vai rộng 24m, trên bàn chân đứng
được 100 người. Khí độ tượng Phật hùng vĩ, xứng đáng với câu "Sơn thị nhất
tôn Phật, Phật thị nhất tòa sơn" (Núi là một vị Phật, Phật là một ngọn
núi). Sau khi tượng hoàn thành tàu bè không còn bị đắm. Nhiều người cho
rằng lúc xây dựng, đá núi được đổ xuống sông và biến đổi lòng sông một
cách thuận lợi, chế ngự được các dòng nước xoáy. Nhiều người khác cho rằng
Di-lặc mà nhìn ra sông thì dòng sông là nguồn ân phước vô tận.
Lạc sơn thực
ra là một thị trấn nhỏ nhưng nhờ Đại Phật lớn nên ngày nay đã trở thành
một đô thị phồn vinh với nhiều du khách. Đây là nơi của trung tâm bảo tồn
vùng Nga Mi-Lạc sơn, theo công thức mà người Trung Quốc ưa nói "Lên Nga Mi
đảnh lễ Phổ Hiền, xuống Lạc sơn tham bái Di-lặc". Đến Lạc sơn tôi được
biết thêm ngày xưa tượng Đại Phật này có thêm một tòa lâu đài cao 13 tầng
che chở bức tượng, gọi là Đại tượng các, nhưng đã bị hủy cuối đời nhà
Minh. Thế nhưng mưa gió bao thế kỷ không hề hấn gì đến tượng Di-lặc bằng
đá, có chăng là trên đầu, vai, tay áo của tượng rêu phong đã bám xanh rì.
Hai bên tả
hữu bức tượng có đường đi từ dưới chân Đại Phật lên núi Long Vân, trên đó
có chùa Linh Bảo với tháp gạch cao 38m xây trong đời nhà Tống. Cũng tại đó
ta có thể thấy tượng Hải Thông mà khuôn mặt và điệu bộ cương quyết của ông
hầu như còn truyền đạt ý chí sắt đá của người xưa.
Rời Lạc sơn
vài km là không còn thấy du khách đâu nữa, chúng tôi đi hướng bắc để đến
Bát long đảo. Trên dòng Thanh Y Giang tôi lạc vào một "quốc độ" chỉ toàn
là tháp tượng, đó là "Thiên tháp Phật quốc" tại Tào Ngư Than. Nơi đây, tuy
không đến ngàn ngôi tháp như tên gọi nhưng con số cũng lên đến 108 ngọn
tháp, không tháp nào giống tháp nào, tất cả đều được tạc bằng "nhã thạch".
Cảnh vật u tịch ở đây làm tôi nhớ đến chùa Linh Mụ và điện Hòn Chén ở Huế.
Cả hai nơi đều là cảnh thanh sơn thủy tú, sông liền núi, núi ngăn sông.
Điều khác biệt với xứ Huế bé nhỏ là người Trung Quốc không ưa những con số
nhỏ, những kích thước bé. Lẫn trong 108 ngọn tháp đó là một tượng Phật
nhập Niết bàn dài 45m, cao 12,5m. Giữa núi rừng cô tịch, nhìn xuống là
nước, nhìn lên là núi, giữa vô số tượng tháp và trong mùi hương trầm quen
thuộc, tôi bỗng nhớ thượng nguồn sông Hương tha thiết.

Những ngày
xưa ấy hiện về rõ mồn một với màu nước trong xanh, với lòng kính sợ khi đi
thuyền qua trước điện Hòn Chén. Đó là ngôi điện nằm đúng chỗ miệng con
rồng vĩ đại, một nhánh của Trường sơn, cúi mình hút nước sông Hương. Đó
phải là nơi mà ngày xưa còn rất nhỏ, tôi đã cảm thấy giữa trời đất này
phải có cái gì thiêng liêng, nó không thể chỉ là cát đá trơ trụi được. Thế
giới không thể chỉ là vài hạt điện tử quay vòng vòng xung quanh hạt nhân
được, tôi tự nhủ khi lớn lên. Tuy thế nếu hỏi cái thiêng liêng đó là gì,
không ai trả lời được rõ ràng. Ngày nọ nghe Goethe, nhà thơ lớn nói: "Giữa
trời và đất hẳn phải có cái gì khác nữa", tôi thấy mình không đơn độc lắm,
nhưng nhà thơ và cũng nhà bác học người Đức đó cũng chẳng nói gì thêm. Ông
không biết hay biết mà không muốn nói ?
Không phải
chỉ Goethe, nhiều người phương tây dường như cũng khắc khoải về "cái gì đó
nằm giữa trời và đất". Tôi nhớ đến câu chuyện của một phi hành gia. Ông ta
tự hỏi, mình đi bao nhiêu tầng trời rồi mà chẳng thấy Chúa đâu cả. Một nhà
giải phẫu đáp lại, ông đã mổ bao nhiêu cái đầu rồi mà cũng không thấy tư
tưởng đâu cả. Xem ra, cái thiêng liêng đó không phải là thứ để ta thấy, để
ta có thể sờ mó được. Nó nằm ngoài năm giác quan của ta nhưng nó thâm nhập
và điều hành mọi sự. Đã bốn mươi năm trôi qua kể từ lòng kính sợ ngày xưa
tại điện Hòn Chén đến ngày nay được hân hoan đứng trước tượng Đại Phật
nhập niết bàn tại Hồng Nhã Tứ Xuyên, tôi cũng không biết rõ hơn bao nhiêu
cái thiêng liêng đó thực chất là gì. Thế nhưng điều tôi hiểu rõ là câu hỏi
nọ của mình ngày trước không hề là thắc mắc của trẻ con khờ dại mà là vấn
đề trọng đại nhất của con người.
ĐẠI TÚC (Dazu), THẠCH ĐỘNG
NGỦ QUÊN
^
Cách Trùng
Khánh về hướng tây khoảng 100km có một vùng hoang dã ngủ yên trong rừng
núi. Một ngày nọ trong năm 1939, một giáo sư ngành kiến trúc tình cờ đến
thăm và khám phá những tác phẩm điêu khắc tuyệt đẹp nằm trong nhiều hang
động. Nhiều người bắt đầu đến tham quan thì chiến tranh thế giới nổ ra và
Trung Quốc lâm vào cảnh nội chiến triền miên mà Trùng Khánh là một trong
những căn cứ địa của Quốc Dân đảng. Sau ngày hòa bình lập lại nhiều người
lại đến thăm nơi đây, thế nhưng lại có một loạt xáo trộn mới xảy ra, mang
tên cách mạng văn hóa. May thay có một người cứu những tác phẩm điêu khắc
đó trong phút cuối cùng, trước khi chúng bị phá hủy. Người đó là Chu Ân
Lai, Thủ tướng thời đó của Trung Quốc và các hang động đó là Đại Túc Thạch
quật. Về sau tôi biết thêm ông đã cứu nhiều đền đài tượng tháp của đạo
Phật, trong đó có chùa Linh Ẩn ở Hàng Châu. Có người không ngại gọi ông là
một vị hộ pháp. Có người phá hoại thì cũng có kẻ cứu hộ, điều đó xảy ra
trong lịch sử Trung Quốc rất thường.
Đại Túc không
hề là một nơi hoang dã như ta tưởng. Huyền sử chép rằng đức Phật đã đặt
chân tại một hồ nước ở Bảo đỉnh sơn tại Đại Túc, vết chân dài đến 2m, vì
thế thị trấn xa xôi này có tên Đại Túc (chân lớn). Sự thật lịch sử là cuối
đời Đường, thời Đường Vũ Tông, Phật giáo bị bức hại, nhiều tăng sĩ bỏ
Trường An chạy về Tứ Xuyên đến Đại Túc. Về sau khoảng cuối thế kỷ thứ 9,
có một viên tướng tên là Vĩ Quân Tinh chống
lại triều đình ở Thành Đô, ông rút về Đại Túc, núi Bắc sơn, cho quân đẽo
núi đá tạc hình tượng Phật để cầu nguyện. Trong khoảng 250 năm sau, trong
thời Ngũ Đại (907-960) và đời Tống (960-1279), ảnh hưởng Phật giáo trong
vùng này rất mạnh. Từ đó mà phát sinh vùng Đại Túc với khoảng 70 khu vực
gồm 50.000 tượng Phật nằm rải rác, mà hai thạch động tại Bắc sơn và Bảo
đỉnh sơn - hai bên cách nhau khoảng 20km - là quan trọng nhất. Có xem Đại
Túc rồi tôi mới thấy tầm vóc của nó ngang hàng với Vân Cương thạch quật đã
trình bày trong các chương trước.
Tại Bắc sơn,
cách Đại Túc khoảng 2km, ta thấy một động đá cao khoảng 7m, dài 500m,
trong đó là vô số tượng đẹp. Ở phía nam của động là các tượng tạc trong
thế kỷ thứ 9, 10, hình vóc đầy đặn áo quần giản dị, đó là nghệ thuật đời
Đường và Ngũ Đại. Ở phía Bắc là các tượng đời nhà Tống, thế kỷ thứ 12, vóc
gầy nhưng nhiều trang sức, quần áo cầu kỳ. Nơi đây, sau khi viếng Ngũ Đài
và Nga Mi, tôi được gặp lại Văn-thù cưỡi sư tử và Phổ Hiền ngồi voi trắng.
Trong các tượng tại Bắc sơn thì tượng Nhật Nguyệt Quan Âm có lẽ đẹp nhất.
Về sau tôi mới biết mình sẽ còn đến đảnh lễ Quan Âm tại Phổ Đà sơn.
Đi về phía
bắc của Đại Túc ta đến một nơi gọi là Đại phật loan nằm dưới chân núi Bảo
đỉnh sơn. Nơi đây trong thế kỷ thứ 12 có một danh tăng trên là Triệu Chí
Phụng. Ông là người khởi công xây dựng thạch quật này từ năm 1179. Suốt 70
năm nhiều thế hệ nghệ nhân đã lao động nơi đây để ngày nay ta có khoảng
10.000 tượng Phật để chiêm bái.
Triệu Chí Phụng là một tăng sĩ Mật giáo kỳ bí. Ông là người được truyền
pháp Kim Cương đảnh của Du-già bộ Mật giáo
từ Kim Cương Trí.
Kim Cương Trí là người Ấn Độ, là một trong ba đại sư truyền bá Mật Tông
tại Trung Quốc. Triệu Chí Phụng tự tay tạc nhiều tượng tại Bảo đỉnh sơn,
trong đó nhiều tượng Tì-lô-giá-na và nhiều vị bồ-tát rất lạ, trình bày
quan niệm về vũ trụ của Mật giáo . Động
qui mô nhất hẳn phải là động Viên giác, trình bày ba vị Phật của ba thân:
Pháp thân, Báo thân, Ứng thân. Hai bên là 12 vị bồ-tát, mỗi vị có vẻ mặt
và thế ngồi khác nhau. Nhiều sách nước ngoài cho rằng bức tượng quan trọng
nhất là Quan Âm với 1002 cánh tay (có nơi ghi 1007), tỏa ra chiếm một diện
tích 88m2. Trong các động ở Bảo đỉnh sơn ta còn thấy rất nhiều
"biến tướng" của kinh sách Mật tông như Đại Bảo, Quảng bá lâu các, Thiện
trụ bí mật đà là kinh. Ngoài ra có các kinh hiển giáo như Kinh báo ân phụ
mẫu, diễn tả công dưỡng dục của cha mẹ. Nhiều sách nước ngoài không biết
tích kinh, cho rằng đó là thạch tượng mô tả "đời sống hàng ngày". Tranh
Thập mục ngưu đồ của Thiền tông cũng được đẽo trên vách đá, trông rất hóm
hỉnh, sau gần 1000 năm mà tương đối còn được bảo tồn.

Bảo đỉnh sơn
là một công trình nói lên sự hòa nhập hiếm thấy của hai tông phái Mật tông
và Thiền tông tại Trung Quốc. Lịch sử Phật giáo Trung Quốc thường hay
trình bày Mật tông như một tông phái cực đoan tả đạo. Tôi cho rằng, khi đã
nhận là mật giáo, Mật tông cũng chẳng cần ai hiểu và muốn hiểu Kim Cương
thừa, hành giả cần phải được quán đỉnh trong một môn phái nhất định. Giữa
Mật và Thiền tông có những cái rất chung, mặt dù mặt ngoài hai bên khác
nhau rất nhiều, tôi tự nhủ. Tôi nhớ lại cuộc đời của 84 vị thành tựu giả
của Ấn Độ, các vị đó sống trong thế kỷ thứ 8 đến 11, tức cũng đúng là thời
của nhà Đường nhà Tống, thời vàng son của Thiền tông Trung Quốc, mà cũng
là thời xây dựng các thạch động này tại Đại Túc. Kỳ lạ thay thời gian đó,
đó là thời kỳ của các thiền sư chủ trương "thấy tánh" là thành Phật, của
các vị thành tựu giả chỉ cần quán ngộ Tính Không là đủ nhập vào "cõi của
không hành nữ Dakini" .
Đó cũng là thời kỳ của Từ Đạo Hạnh, Không Lộ, Giác Hải tại Việt Nam, những
vị hít thở không khí của Mật và Thiền tông. Các vị đó chính là những đại
thành tựu giả của Việt Nam, những kẻ thong dong ra vào chốn sinh tử, đã
đạt "thần thông kiêm biến hóa".
Các vị cũng là thiền sư đạt đạo, đã siêu việt vượt trên chuyện có-không:
"Tác hữu trần sa hữu, Vi không nhất thiết không" (Có thì muôn sự có, Không
thì tất cả không) .
Bao giờ
trở lại đồng Bương Trấn,
Lên núi Sài Sơn ngắm lúa vàng.
Ngay giữa
Trung Quốc mà tôi bỗng nhớ chùa Thầy tại núi Sài Sơn tha thiết, biết bao
giờ mới sống lại thời gian tuyệt đẹp đó. Sài Sơn thuộc tỉnh Hà Tây chỉ
cách Hà Nội có 25km. Cũng như Đại Túc ghi dấu chân Phật thì Sài Sơn ghi
dấu chân Từ Đạo Hạnh. Các bậc đắc đạo, các vị tu Mật tông thường có dấu ấn
của mình theo cách đó. Tôi yêu thích Phật giáo Việt Nam thời Lý Trần vì đó
là nơi dung hợp giữa Thiền và Mật tông, không chút phân biệt. Cũng như
Thiền tông có đức Thích-ca là sơ tổ môn phái mình thì trong Mật tông cũng
thế, Pháp thân, Báo thân của Phật đã truyền Mật giáo cho Kim cương tát-đỏa
và từ đó được mật truyền về sau. Thiền cũng như Mật tông chỉ là hai môn
phái trong vô số pháp môn của đạo Phật, ta không nên rơi vào cạm bẫy
thường tình của tư tưởng để phê phán so đo đúng sai, chúng tùy thuộc vào
căn cơ trình độ của hành giả, tôi tự nhủ.
- Hình trích của R.Grousset, sách đã dẫn
- 598-649 Vị vua đời Đường rất có công với Phật giáo
Trung Quốc. Ông đích thân viết bài "Đại Đường tam tạng thánh giáo tự",
là người giúp cho sự nghiệp dịch kinh của Huyền Trang được thành tựu
- Xem chương "Vui đẹp thay thành Vương Xá" trong phần hai
1586-1641
- Việt dịch của Thích Nhất Chân
- Một chiếc răng Phật khác hiện nay được thờ tại chùa Vô Úy sơn tại
Tích Lan. Theo truyền thuyết thì cuối thế kỷ thứ tư sau công nguyên,
thời nhà vua Tích Lan Sri-Meghevanna, có một vương tử của nước
Kalinga, Ấn Độ tên là Danta Kumana đi lánh nạn tới Tích lan, mang theo
một chiếc răng bên trái của Phật
- Càn Long là nhà vua nối ngôi Ung Chính và được nhiều
truyền thuyết cho là hậu thân của một thiền sư Việt Nam.
- Lời của Di-lặc nói với Thiện Tài. Trích Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Nhập
pháp giới, Việt dịch của Thích Nhất Chân
- Xem thêm hai chương đầu tiên của phần thứ tư
- Bốn pháp nạn là trong các thời vua Vũ Đế của Bắc Ngụy, một vị Vũõ Đế
khác của Bắc Châu (574), Võ Tôn đời Đường (840-847) và Thế tôn thời
Hậu Châu (giữa thế kỷ thứ 10). Bốn pháp nạn này được gọi chung là "Tam
Vũ Nhất Tôn pháp nạn"
- Vimalakirtinirdesa-sutra
- Cách dùng chữ của W.Schumann
- "Đông Bắc" vì dựa trên vị trí của Xá-vệ tại Ấn Độ, đó là nơi Phật
giảng kinh Hoa Nghiêm
Trích Từ Điển Phật Học Hán Việt, Chủ biên Kim Cương Tử, Hà Nội 1994
- Trích Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp giới, Việt dịch của Thích Nhất
Chân
- Sư tử tuyết bờm xanh, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh 1999
Trích Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập pháp giới, Việt dịch của Thích Nhất
Chân
- Kinh đã dẫn
- Sinh năm 161, mất năm 222
- Sinh năm 181, mất năm 234
- Sinh năm 155, mất năm 220
- Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu, sách đã dẫn
- Sinh năm 34, mất năm 156
- Trích "Lịch sử Phật giáo Trung Quốc", Thích Thanh Kiểm, Thành hội
Phật giáo Tp Hồ Chí Minh 1991
- Nhiều tư liệu trong chương này được trích từ "Đường Thi tuyển
dịch", Lê Nguyễn Lưu, Nhà xuất bản Thuận Hoá, 1997
- Người thứ ba là Bạch Cư Dị (772-846), được mệnh danh là "Sử thơ"
- Đầu đề một bài thơ của Đỗ Phủ
- 980-1052
- 1089-1163
- Lời của thiền sư Nam Tuyền (738-835)
- W.Schumann, Mahayana-Buddhismus (Đại thừa Phật giáo), Eugen
Diederichs Verlag 1995
- Đạo Đức Kinh: "Bất xuất hộ, tri thiên hạ".
- Đó là: 1.Kính lễ chư Phật, 2. Xưng tán Như lai, 3. Rộng tu cúng
dường, 4. Sám hối nghiệp chướng, 5. Tùy hỉ công đức, 6. Thỉnh chuyển
pháp luân, 7.Thỉnh Phật tại thế, 8. Thường theo học Phật, 9. Luôn
thuận chúng sinh, 10. Hồi hướng cho tất cả
- Trích Kinh Hoa Nghiêm, Việt dịch của Thích Nhất Chân
- Trích tư liệu do chùa Khánh Anh, Paris phát hành
- Trích Phật Quang đại từ điển, 1994
- Xem "Kumbum", man-đa-la vĩ đại" trong phần thứ tư
- Theo quan điểm của Kim cương thừa, đó là nơi không còn sự tái sinh
- Thơ của vua Lý Nhân Tông khen Giác Hải
- Kệ của Từ Đạo Hạnh (mất năm 1115)
- Trích Đôi mắt người Sơn Tây, thơ Quang Dũng
---
o0o
---
[Mục
lục]
[Phần
thứ nhất ] [Phần
thứ hai ] [Phần
thứ ba]
---
o0o
---
Trình
bày: Linh Thoại
Cập
nhật
ngày: 01-12- 2003