THIÊN TRÚC TIỂU DU
KÝ
Thiện Phúc
---o0o---
Phần
2
KHỔ HẠNH LÂM

Sáng sớm ngày 1 tháng 12, chương trình có phần
thay đổi, thay vì đi thăm Thành Vương Xá và núi Linh Thứu như đã dự tính,
đoàn đi thăm Khổ Hạnh Lâm (Uruvela), làng Sujata và sông Ni Liên Thiền
(Naranjana). Khổ Hạnh Lâm cách Gaya không xa lắm, nhưng đường sá gồ ghề
xấu xí nên đoàn phải mất gần 2 giờ mới tới làng Bakraur. Xe buýt cố gắng
chạy len lỏi vào những con đường rất hẹp và rất xấu cho đoàn hành hương đỡ
phải đi bộ. Tuy nhiên, gần đến đồi Pragbodhi, xe không còn vào được nữa,
nên chúng tôi phải đi bộ khoảng 10 phút sau mới đến đỉnh Uruvela. Chính
nơi đây Đức Phật đã rời bỏ năm người bạn đồng tu để chuyển sang con đường
“Trung Đạo.” Ngài đã từng trú ngụ trong hang đá Dungeswari trong một thời
gian dài. Ngày đó, sau khi rời bỏ kinh thành Ca Tỳ La Vệ, thái tử Tất Đạt
Đa đã phi ngựa qua vùng quê hương của dòng họ Thích Ca, rồi vượt qua xóm
làng của bộ tộc Malla. Ngài đã cùng Sa Nặc (Sarnath) đến bên bờ sông A Nô
Ma, tại đây Ngài đã cắt mớ tóc nhờ Sa Nặc Mang về trao lại cho phụ vương,
cởi bỏ áo hoàng bào để đổi lấy chiếc áo rách cũ kỹ của người thợ săn, rồi
chia tay trong tiếng khóc nức nở của Sa Nặc. Kể từ đó Thái tử Tất Đạt Đa
đã trở thành vị sa môn khổ hạnh, cô thân vạn lý du tìm chân lý giải thoát
cho nhân loại. Mỗi sáng Ngài ôm bình bát ra đi, Ngài đi một cách lặng lẽ,
đến trưa thì dừng chân lại trước nhà của những dân làng để chờ sự cúng
dường của họ, sau khi thọ trai, Ngài dừng lại một bóng cây nào đó để tu
tập khổ hạnh. Ngài tìm hết thầy này đến thầy khác, từ thầy Bạt Già Bà
(Bhagava), rồi đến thầy A Ra La Ca Lan (Aralakalama), rồi lại đến thầy Uất
Đầu Ka La Ma Tử (Udraka-Ramaputta)... để thọ giáo, nhưng không có vị nào
vượt qua được sự thông thái của Ngài, nên Ngài tiếp tục đi về xứ Ma Kiệt
Đà, vào kinh thành Vương Xá.

(Hòa Thượng Giác Nhiên và đoàn hành hương vừa mới tới khu Khổ Hạnh Lâm)
Tại đây Ngài hạnh ngộ với vua Tần Bà Sa La, và
cũng tại đây Ngài gặp năm anh em A Nhã Kiều Trần Như trong khu rừng Khổ
Hạnh Lâm, nơi mà Ngài đã cùng họ tu tập ròng rã trong 6 năm liền. Ngày nay
ngọn đồi này có tên là Dhongra, cách làng Bakraur chừng 1.6 cây số về phía
Đông Bắc, dọc theo bờ sông Ni Liên Thiền. Trên ngọn đồi này ngày nay có
một ngôi chùa Tây Tạng. Khách hành hương leo lên tới đỉnh thường được các
vị sư Tây Tạng đãi trà. Hòa Thượng cùng đoàn leo lên hang Khổ Hạnh nằm
trong khu khổ hạnh lâm. Sau đó đoàn bố thí tài vật cho những người nghèo
trong khu quanh rừng Khổ Hạnh trước khi đến làng Sujata.
Hình Ảnh Tại Khổ Hạnh Lâm

(Xe buýt lòn lách qua những con đường gồ ghề đưa đoàn hành hương đến Khổ Hạnh Lâm)

(HT Thích Giác Nhiên đang hướng dẫn đoàn hành hương lên Hang Khổ Hạnh )

(Không biết thời Đức Phật còn tại thế như thế nào chứ
hiện giờ thì người
dân ở khu Khổ Hạnh Lâm cũng không khá gì hơn cái tên
của nó)

(Đoàn đang được Hòa Thượng Thích Giác Nhiên hướng dẫn
đi lên
Hang núi nơi Đức Phật đã từng trú ngụ lúc Ngài tu
Khổ Hạnh)

(Đoàn hành hương đang thăm viếng Khổ Hạnh Lâm)

(Hang Khổ Hạnh Dungeswari trong rừng Khổ Hạnh Lâm)

(Những người dân nghèo khổ tại Khổ Hạnh Lâm đang chờ
được ủy lạo)

(Trên đường từ Hang Khổ Hạnh đi xuống, một số vị
trong đoàn đang
bố thí tiền bạc cho những người nghèo trong khu Khổ
Hạnh Lâm)

(Những người dân nghèo khổ tại Khổ Hạnh Lâm
vẫn còn luyến tiếc với khách hành hương)

(Khổ Hạnh Lâm ngày nay chỉ còn lác đác những dân
nghèo)

(Đoàn hành hương chụp hình lưu niệm tại Khổ Hạnh Lâm)
Sông Ni Liên Thiền (Naranjana)
Sông cách Đại Tháp khoảng 200 mét về phía Đông.
Ngày nay sông này có tên là Lilajan. Sông rộng trên 1 cây số. Vào mùa
nắng, sông khô cạn gần như không còn một giọt nước. Đến mùa mưa thì nước
chảy rất mạnh. Hiện nay chánh phủ Ấn Độ đã bắt ngang qua sông này một cây
cầu thật dài, rất thuận tiện cho việc giao thông qua lại với làng Bakraur.
Theo truyền thống Phật giáo thì chính tại nơi này Đức Phật đã tắm gội sạch
sẽ, sau đó Ngài nhận bát cháo sữa do nàng Sujata cúng dường, rồi Ngài nhận
thêm bó cỏ kiết tường làm gối ngồi thiền từ một nông dân trong vùng,
trước khi Ngài đi về cội Bồ Đề bắt đầu thiền định.
Hình Ảnh Sông Ni Liên Thiền

(Chụp hình lưu niệm tại bờ sông Ni Liên Thiền)

(Cây Bồ Đề bên bờ sông Ni Liên Thiền)

(Sông Ni Liên Thiền khô cạn)
Làng Sujata

(Chính tại gốc cây này bên bờ sông Ni Liên Thiền,
nàng Sujata
đã dâng cúng bát sữa cháo lên Đức Phật)
Làng Sujata-Kuti, nơi nàng Tu Xà Đa (Sujata) đã
dâng bát cháo sữa lên Đức Phật. Vị trí của làng nằm khoảng 2 cây số về
phía Nam bờ sông Ni Liên Thiền, thuộc địa phận làng Bakraur bây giờ. Tại
đầu làng có một ngôi miếu nhỏ thờ hình Đức Phật ngồi thiền và cô gái chăn
cừu Tu Xà Đa dâng sữa để ghi nhớ chính nơi đóThái Tử Tất Đạt Đa đã nhận
bát cháo sữa do nàng Tu Xà Đa cúng dường. Không biết ngày xưa làng Sujata
thế nào, nhưng chắc là sung túc hơn bây giờ nhiều vì thuở ấy nhà của nàng
Sujata hãy còn có sửa để cúng dường Đức Phật, chứ ngày nay ngôi làng ấy xơ
xác điều hiu, dân làng nghèo nàn thê thảm, nên họ chỉ biết có xin chứ
không hề biết đến chuyện “cho” ai thứ gì. Còn sông Ni Liên Thiền, một
chứng tích lịch sử trong việc Đức Phật chuyển sang “Trung Đạo,”con sông ấy
hãy còn đây trên bản đồ, nhưng trên thực tế nó chỉ còn là một bãi cát bao
la, không còn lấy một chút nước nào nữa. Chính nơi đây, sau khi vượt sông
Ni Liên Thiền, Thái Tử Tất Đạt Đa đã nhận bát cháo sữa của nàng Sujata,
nhờ đó mà sức khỏe của Ngài hồi phục dần dần. Rồi tiếp đó Ngài nhận bó cỏ
cúng dường của một người nông dân để làm gối tọa thiền. Sau đó Ngài tìm
đến gốc cây Bồ Đề, tại Bồ Đề Đạo Tràng, và quyết chí thiền định cho đến
khi đạt thành đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Theo truyền thuyết Phật giáo, thì hôm đó nàng
Sujata đang vừa đi vừa dệt mộng cho một buổi cơm trưa ngon lành với túi
mật ngọt mà cha cô đã mua khi bán hết củi khi sớm. Khi ấy nàng thấy thấp
thoáng một sa môn đang ngồi dưới một gốc cây. Dù sau sáu năm tu khổ hành,
thân thể của Thái tử Tất Đạt Đa đã gầy tóp, má hóp sâu, nhưng nơi Ngài
toát ra một cái gì vô cùng cao quý, mà theo cô nghĩ phải là dáng vẻ của
một vị trời. Cô nghĩ mình phải cúng dường cho vị trời này mới được. Thế là
nàng lấy túi cháo sữa trên vai xuống đổ vào bình bát, sau đó cô trút hết
túi mật mà cô đang mong thèm cho buổi cơm trưa hôm đó. Rồi với tất lòng
thành kính cô quỳ xuống và cúng dường cho Thái tử và thầm vái là đang cúng
dường cho một vị trời. Lúc đó Thái tử bèn ra định và bảo nàng là Ngài chỉ
là một vị sa môn chứ không phải là một vị trời. Nàng Sujata với lòng kính
ngưỡng vô biên đã bẩm với Ngài rằng: “Dù Ngài là một vị trời hay chỉ là
một đạo sĩ, cũng xin Ngài nhận nơi con sự cúng dường này. Con nguyện cầu
cho Ngài được giải thoát giác ngộ như mục tiêu hành đạo của Ngài.” Sau khi
Thái tử chấp nhận sự cúng dường này thì nàng Sujata hết sức sung sướng,
đứng dậy ra về. Trong khi đó, năm anh em Kiều Trần Như thấy hết cớ sự,
tưởng rằng Thái tử đã phá bỏ lời nguyện tu hành năm xưa, và đầu hàng trước
sự hành xác, nên họ quày quả quay lưng bỏ Ngài mà đi. Lúc đó Thái tử mới
nhận chân rằng “không thể nào thái quá, mà cũng không thể nào bất cập
được.” Vì vậy sau khi thọ nhận xong bát cháo sữa, Ngài liền đặt cái bát
xuống dòng Ni Liên mà thệ nguyện: “Ta nguyện đạt được giác ngộ rốt ráo,
nếu lời nguyện của ta thành sự thật thì chiếc bát này sẽ trôi ngược dòng.”
Mà thật vậy, lúc ấy một luồng nước xoáy đã làm cho chiếc bát trôi ngược
dòng. Sau đó Thái tử đã băng qua bên kia dòng Ni Liên Thiền, được một anh
nông dân cúng dường bó cỏ Kusa (một loại cỏ thơm), Ngài bèn dùng bó cỏ làm
gối lót tọa thiền, rồi đến ngồi tại một gốc cây mà phát nguyện: “Nếu không
đạt thành đạo quả, ta quyết không đứng dậy và không rời khỏi chỗ này.” Sau
49 ngày đêm liên tuc tọa thiền Ngài đã đạt thành đạo quả Cháng Đẳng Chánh
Giác.
Tại khu làng Sujata, Hòa Thượng Thích Giác Nhiên
cũng hướng dẫn đoàn thăm viếng khu trường học và ủy lạo một số học sinh và
thầy cô nghèo tại đây. Khoảng giữa trưa, chúng tôi từ giã dân làng Sujata
và lên đường trở về Bồ Đề Đạo Tràng.
Sau khi rời khu làng Sujata, chúng tôi trở về
lại Bồ Đề Đạo Tràng. Khoảng 1:00 giờ trưa ngày 1 tháng 12, 2005, đoàn dự
lễ Hòa Thượng làm lễ xuất gia cho hai vị cư sĩ tại Bồ Đề Đạo Tràng, rồi
thăm viếng một vài ngôi chùa lớn tại đây. Tối đêm đó Phật tử chúng tôi
được tự do thăm viếng Đạo Tràng.

(Lễ quy-y tại Bodhgaya trưa 3/12/05)

(Sau lễ quy-y Hòa Thượng hướng dẫn tụng kinh cầu an)
Những Ngôi Chùa Tại Bồ Đề Đạo Tràng
Có thể nói Bồ Đề Đạo Tràng là một trong những
Thánh tích hãy còn khá nguyên vẹn. Chung quanh khu vực Đạo Tràng, các quốc
gia trên thế giới đến đây xây những ngôi chùa thật uy nghiêm và to lớn.
Buồi chiều ngày 1 tháng 12 năm 2005, đoàn chúng tôi được Hòa Thượng Thích
Giác Nhiên và các Tăng Ni sinh hướng dẫn đi thăm các chùa quanh vùng như
chùa Việt Nam Phật Bảo Tự, chùa Nhật Bản, Tích Lan, vân vân. Tất cả đều uy
nghi đồ sộ. Vì không đủ thì giờ nên chúng tôi chỉ ghé lại một số chùa do
Tăng Ni sinh giới thiệu, chứ chúng tôi không đến được từng nơi để thăm
viếng. Tuy nhiên, trên đường đi, Sư Cô Liên Phụng và Thầy Minh Thành thay
phiên nhau thuyết minh về tất cả những ngôi chùa trong vùng này.
Hội Đại Bồ Đề-Mahabodhi Society
Sau đó chúng tôi ghé qua thăm Hội Mahabodhi
Society nằm kế bên chùa Tây Tạng, không xa Đại Tháp bao nhiêu. Hội được
ngài Anagarika Dharmapala người Tích Lan sáng lập vào năm 1891, là một Hội
có tầm vóc lớn có trụ sở khắp nơi trên thế giới, như tại Hoa Kỳ, Anh,
Tích Lan, Nhật Bản, Népal... và hoạt động rất mạnh ở Ấn Độ. Trụ sở Hội tại
Bồ Đề Đạo Tràng được chính phủ Sri Lanka tài trợ xây cất và do các vị sư
người Tích Lan quản trị. Đây còn là trung tâm thiền quán, cơ sở giáo dục,
trạm y tế từ thiện xã hội cho dân làng. Ngoài ra, phía sau Hội còn xây
nhiều phòng khách xá cho khách hành hương nhằm tạo ngân quỹ cho các lớp
cấp I cho học sinh nghèo tại địa phương.
Chùa Ấn Độ MahaBodhi Mahavihara at Bodhgaya
Ngôi chùa Maha Bodhi Mahavihara, nằm đối diện
với Đại Tháp, được chính phủ Ấn Độ tài trợ xây cất và đặt dưới sự quản trị
của Ban Quản Trị Đại Tháp Bồ Đề (Buddha Gaya Temple Management Committee).
Được biết ủy ban này do quận trưởng Gaya làm chủ tịch, cùng với tám thành
viên, bốn thuộc Ấn giáo và bốn vị sư Phật giáo. Chùa Maha Bodhi
Mahavihara được đặt làm trụ sở ủy ban. Chùa còn là trụ sở thông tin chính
thức cho toàn khu Bồ Đề Đạo Tràng. Bên trong chùa có phòng nghỉ ngơi cho
khách hành hương. Các vị sư Ấn Độ tại ngôi chùa này luôn túc trực tại Bồ
Đề Đạo Tràng để hướng dẫn khách hành hương.
Chùa Thái Lan-Thai Temple at Bodhgaya
Kế bên Hội Mahabodhi Society là ngôi chùa Thái
Lan, với dáng vẻ uy nghi sừng sững, tạo cho khu vực quanh Bồ Đề Đạo Tràng
một vẻ đặc thù riêng của nó. Bên trong chánh điện là tượng Đức Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni bằng vàng, tạc đúc theo kiểu Thái Lan. Theo tài liệ lịch
sử ngôi chùa thì pho tượng này được Thái Tử Thái Lan tên Hanon
Kittikheaenhern dâng cúng 60.000 mỹ kim để đúc vào năm 1956. Năm 1957,
hoàng gia Thái Lan tài trợ cho việc xây cất ngôi chùa này. Toàn bộ chùa
được xây cất theo kiến trúc và vật liệu đặc biệt của người Thái Lan. Chùa
có một khuôn viên rộng rải, nằm về hướng Tây của khu Đại Tháp. Mái chùa có
những đường nét cong đặc biệt, mái lợp ngói vàng rất công phu. Phía sau
chánh điện là hai dãy phòng nghỉ, xây theo hình chữ U, có thể chứa trên
300 khách hành hương.
Chùa Nhật Bổn-
Japanese Temple at Bodhgaya
Cách chùa Thái Lan một quãng không xa mấy là chùa
Nhật Bản. Cũng như dân Tây Tạng, Nhật Bản có rất nhiều chùa tại Bồ Đề Đạo
Tràng vì hầu như mỗi tông phái đều muốn có một ngôi chùa riêng cho mình
tại đây. Ngôi chùa này do Tông Nhật Liên xây dựng vào năm 1973, nằm sát
bên chùa Tây Tạng, tọa lạc trên một khu đất cao. Muốn lên chánh điện phải
bước lên hàng chục bậc cấp. Chùa được lót bằng một loại gạch rất đặc biệt,
được lau chùi bóng loáng, có thể thấy bóng mình in trên đó. Tuy nhiên,
chánh điện chùa rất nhỏ, thờ Đức Bổn Sư và hình ngài Nhật Liên. Cũng như
các chùa khác tại đây, phía sau chùa là phòng nghỉ cho khách hành hương.
Sau đó chúng tôi đến thăm một ngôi chùa khác của Nhật Bản, tên là chùa Đại
Phật, với một pho tượng Phật vĩ đại. Tuy nhiên, chúng tôi không vào được
vì chùa đang còn trong thời kỳ xây cất. Ngoài ra, Nhật Bản còn ngôi chùa
Kim Cang Thừa nằm gần chùa Nhật Bổn Sơn, do Hội Daijokoyo xây dựng vào năm
1983, nhưng chúng tôi không có thì giờ thăm viếng ngôi chùa này. Nghe nói
tại chùa Kim Cang Thừa, tiếng chuông “Hòa Bình” ngày hai thời sáng chiều
vang dậy cả một góc trời.

(Chùa Đại Phật do chánh phủ Nhật tài trợ đang xây
cất,
dự trù hoàn thành vào năm 2007 )
Việt Nam Phật Quốc Tự-
Vietnam Phat Quốc Tu at Bodhgaya
Riêng chùa Việt Nam Phật Bảo Tự, nằm trong một
ngôi làng cách Bảo Tháp chừng 7 cây số, là một quần thể lớn, gồm ngôi
Chánh Điện, ngôi khách xá thật lớn và một khu vườn rậm mát. Đây là ngôi
chùa Việt Nam đầu tiên trên đất nước Ấn Độ do thầy Thích Huyền Diệu xây
dựng vào tháng 5 năm 1987. Chùa được xây trên một khu đất rất rộng, khoảng
hai mẫu tây, giữa khu đất bao la. Khi bước chân vào sân chùa là chúng ta
biết ngay đó ngôi chùa Việt Nam vì tất cả đều mang dáng dấp Việt Nam. Trên
đường trải sỏi đi vào chánh điện là hai hàng bông dừa, đủ các màu trắng,
chen lẫn đỏ, hồng và màu tím thẳm. Trong sân chùa là những đám rau muống,
rau đay pha lẫn với rất nhiều loại bông hoa khác, hòa lẫn với nhiều tiếng
chim hót líu lo, tạo cho sân chùa một sắc thái thật đặc biệt của một vùng
thôn dã Việt Nam. Chính khu đất rộng rãi này đã làm cho cảnh chùa càng
thanh u tĩnh mịch hơn. Khu chánh điện vuông cạnh 16 mét, cao 24 mét gồm 3
tầng. Tầng dưới đất gồm trên 30 phòng khách xá, mỗi phòng đều có bia khắc
tên một vị Thánh Tăng. Tầng nhì dùng để trưng bày những di tích và kinh
sách. Tầng ba thờ Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
Chùa Viên Giác-Viên Giác Temple
Chùa Viên Giác là ngôi chùa Việt Nam thứ hai tạo
Bồ Đề Đạo Tràng. Chùa do Thượng Tọa Thích Như Điển tại Đức thành lập. Chùa
hoàn thành vào năm 2002 trên một khu đất khang trang rộng rải, với nhiều
phòng nghỉ cho khách hành hương. Hiện tại trong chùa có một nhà hàng
chuyên làm các món ăn chay Tàu và Việt Nam để phục vụ khách hành hương.
Ngoài ra, tại Bồ Đề Đạo Tràng còn có nhiều ngôi
chùa khác của các xứ Trung Quốc, Đài Loan, Tây Tạng thuộc nhiều tông phái
khác nhau như phái Gelukpa, phái Karmapa, chùa Shechen Tennyi Dargyeling,
trung tâm Root, một trung tâm thiền thất của ngài Zopa Rinpoche, chùa
Bhutan, chùa Népal, chùa Đại Hàn, chùa Miến Điện, vân vân. Tuy nhiên, đoàn
chúng tôi rất tiếc không có thì giờ thăm viếng từng chùa một.
Tối ngày 1 tháng 12, Hòa Thượng lại hướng dẫn cả
đoàn ra đảnh lễ Đại Tháp. Đêm đó có nhiều vị hữu duyên hữu phúc lưu lại Bồ
Đề Đạo Tràng để thiền định như các anh Thiện Tài, Thiện Phước... Cảnh Bồ
Đề Đạo Tràng về đêm vừa kỳ vĩ, vừa huyền bí làm sao ấy. Những ánh đèn,
những khuôn mặt thành kính dâng tấc lòng thành cúng dường lên Đức Bổn Sư.
Những đoàn người đi kinh hành với những ánh đèn cúng Phật... tạo cho cảnh
trí của Đạo Tràng một sắc thái thật đặc biệt, vừa uy nghi, vừa cảm động.
Thành Vương Xá
Đỉnh Kỳ Xà Quật

(đường lên núi Linh Thứu trong Thành Vương Xá)
Sáu giờ sáng ngày 2 tháng 12, đoàn khởi hành đi
thăm thành Vương Xá (Rajgir), thăm đỉnh Kỳ Xà Quật, và thăm núi Linh Thứu
(Hill of Vultures). Từ Bodhgaya đi về phía đông bắc khoảng 50 cây số là
đến thành Vương Xá. Thành này nằm về hướng Đông Nam thành Hoa Thị
(Pataliputra nay là thủ phủ Patna của bang Bihar). Ngày trước Vương Xá là
một kinh thành trù phú vào bậc nhất trong vùng Bắc Ấn, nhưng nay chỉ còn
trơ lại một bức tường thành nằm trơ trọi giữa những túp lều tranh lụp sụp.
Vương Xá là một trong những thành phố lâu đời nhất ở Ấn Độ. Thành Vương Xá
là nơi gắn liền với cuộc đời hoằng pháp của Đức Thế Tôn trong nhiều năm.
Chính nơi đây đã diễn ra nhiều pháp hội quan trọng và Đức Phật cũng đã về
đây an cư kiết hạ nhiều lần. Thời Bình Sa Vương thì thành Vương Xá chính
là kinh đô của vương quốc Ma Kiệt Đà. Ma Kiệt Đà thời đó là một vương quốc
hùng mạnh với một địa thế hết sức đặc biệt. Vương quốc này đã tuần tự được
cai trị bởi những quân vương Phật tử như Tần Bà Sa La, A Xà Thế, trong
thời Đức Phật, rồi về sau này đến vua A Dục dưới triều đại Khổng Tước...
Ngày đó Vương Xá thật sầm uất, dân cư đông đúc, sinh hoạt nhộn nhịp, kinh
tế trù phú. Theo truyền thuyết Phật giáo thì sau khi Thái Tử xuất gia,
Ngài đã gặp vua Bình Sa Vương, và vị sa môn trẻ tuổi Cồ Đàm đã hứa với nhà
vua là trở về đây độ vua khi đắc đạo. Bảy năm sau đó, kinh thành Vương Xá
tưng bừng nhộn nhịp mở hội đón một bậc Đại Giác đến đây. Đây là một trong
những biến cố quan trọng trong lịch sử của thành này. Vương Xá còn có
những tên khác như Girivraja, Vasumati, Barhadrathapura, Kusagrapura, và
Rajagriha. Có lẽ vì Vương Xá được bao quanh bởi núi đồi nên nó có tên là
Girivraja, có nghĩa là đồi núi chung quanh. Còn tên Vasumati có lẽ được
đặt để tưởng nhớ đến vua Vasu khi ông lấy thành này làm kinh đô.
Barhadrathapura đặt theo Brihadratha, tên của một vị vua sáng lập ra một
triều đại tại kinh thành này. Trong Đại Đường Tây Vực Ký ngài Huyền Trang
đã gọi thành này là Kusagrapura, có lẽ vì lúc này tại kinh thành này có
nhiều loại cỏ thơm, nhưng theo truyền thuyết Ấn Độ thì tên này được đặt
theo tên vua Kusagra, người kế vị vua Brihadratha. Còn tên Rajagriha, âm
theo Hán tự là Vương Xá, có nghĩa là nơi vua chúa ngự trị, có lẽ vì nơi
đây đã trở thành kinh đô trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, theo Ngài Huyền
Trang trong Đại Đường Tây Vực Ký thì tên Rajagriha dùng để gọi thành Vương
Xá mới nằm về phía Bắc của khu Vương Xá thời Đức Phật còn tại thế: “Đi về
phía Đông của dòng sông Mahi là một khu rừng lớn, sâu trong rừng là ngọn
núi Cam Túc (Kukkutapadagiri), còn gọi là núi Chân Gà. Triền núi cao và
dốc, với những vực thẳm rất nguy hiểm, không thể nào vào được. Những tảng
đá lở thường lăn từ trên xuống, trong những vực thẳm này có nhiều cây cao.
Trên cao có ba đỉnh, mây mù thường che khuất các đỉnh ấy. Từ trên những
hang động này, ngài Ma Ha Ca Diếp đã triệu tập cuộc kết tập kinh điển lần
thứ nhất dưới sự bảo trợ của vua A Xà Thế. Nơi này có động đá A Tu La, từ
động này đi về phía Đông khoảng 60 lý sẽ đến thành phố Kussagara, có nghĩa
là thành phố vua chúa của loại cỏ thơm. Đây chính là thủ đô của nước Ma
Kiệt Đà. Những vị vua trước đã thành lập kinh đô tại đây. Xứ này sản xuất
loại cỏ thơm rất tốt, và cỏ này là biểu tượng của sự may mắn. Những ngọn
núi cao bao bọc thành phố như một tường thành kiên cố.Về phía Tây có một
con đường nhỏ đi xuyên giữa núi. Về phía Bắc là con đường vượt trên triền
núi. Thành rộng từ Đông sang Tây, nhưng lại hẹp về hước Bắc Nam. Chu vi
thành khoảng 150 lý. Những tàn tích của thành nội có chu vi khoảng 30 lý.
Những cây nguyệt tác dọc hai bên đường có bông hoa vàng óng ả, tỏa ra một
mùi thơm đặc biệt. Về phía Bắc thành phố là một tháp. Chính nơi này Đề Bà
Đạt Đa và A Xà Thế đã toa rập nhau để hãm hại Đức Phật. Phía Đông Bắc nơi
này cũng có một ngôi tháp. Đây chính là nơi ngài Xá Lợi Phất lần đầu tiên
được nghe ngài A Thuyết Thị (Asvajita) nói pháp nên sau đó tìm tới quy-y
với Đức Thế Tôn. Về phía Bắc ngôi tháp này có một cái hồ rất sâu, bên bờ
hồ có một cái tháp. Nơi đây Thắng Mật (Srigupta), một đệ tử của Ni Kiền
Đà, đã thiết bị một hầm lửa âm mưu hại Phật. Thế nhưng Thắng Mật đã được
Đức Thế Tôn độ và về sau cũng chứng được quả A La Hán. Phía Đông Bắc của
kinh thành khoảng 14 hay 15 lý là Linh Thứu Sơn. Linh Thứu Sơn có hình như
con chim và trên đó loài kênh kênh đã dùng làm nơi trú ngụ. Trong gần 45
năm hoằng hóa, Đức Phật thường về núi này thuyết giảng những giáo lý cao
siêu. Vua Tần Bà Sa La đã cho lấp những hố sâu để làm con đường lên núi.
Đỉnh núi chạy dài từ hướng Đông sang Tây và rộng từ Nam lên Bắc. Trên đỉnh
có một tịnh xá bằng gạch, cửa thất quay về hướng Đông. Chính nơi đây Đức
Phật đã giảng những bài kinh quan trọng của Phật giáo. Về phía Đông của
tịnh xá là một tảng đá dài nơi Đức Phật dùng làm đường đi kinh hành. Kế
bên tảng đá này là một tảng đá khác, cao khoảng 5 mét và rộng khoảng 10
mét. Đây chính là nơi Đề Bà Đạt Đa đã đứng để lăn đá xuống hãm hại Phật.
Phía Nam nơi này có một ngôi tháp nằm bên dưới mỏm đá. Chính nơi này Đức
Thế Tôn đã giảng kinh Pháp Hoa. Phía Nam của tịnh xá là một mỏm đá, có một
ngôi nhà đá mà theo truyền thuyết, Đức Phật đã ngồi nhập định lúc Ngài còn
là Bồ Tát trong một kiếp xa xưa. Phía Tây Bắc của ngôi nhà đá về phía
trước là một tảng đá. Nơi đây A Nan đã bị ma vương làm sợ hãi. Theo truyền
thuyết khi ngài A Nan nhập định tại đây, ma vương đã hiện hình làm chim
kênh kênh vào giữa đêm tối trời, đậu trên tảng đá và cất tiếng kêu thảm
thiết. Sau đó nhờ Đức Phật dùng thần lực đưa tay chẻ đôi mỏm đá và trấn an
ngài A Nan và nói: ‘Con không cần phải sợ cái phép thuật của ma vương.’
Nhờ đó mà A Nan trụ tâm vào định trở lại dễ dàng. Hiện mỏm đá hình con
chim và vết nứt của đá vẫn còn đó. Gần bên tịnh xá còn có một số các nhà
đá, nơi ngài Xá Lợi Phất và những đại A La Hán khác nhập định. Phía trước
hang động của ngài Xá Lợi Phất là một cái giếng đã cạn nước. Phía Đông Bắc
của tịnh xá nơi giữa các mỏm đá là một tảng đá dài và phẳng. Đây là nơi
Đức Phật dùng để phơi y áo. Bên hông tảng đá phơi y là một mỏm đá hãy còn
in lại dấu chân Phật. Mặc dù bìa của dấu chân không còn rõ, nhưng chúng ta
vẫn còn có thể nhận ra được. Trên đỉnh của ngọn núi về phía Bắc có một cái
tháp. Từ đây Đức Phật đã nhìn xuống toàn xứ Ma Kiệt Đà và đã thuyết pháp
xuyên suốt bảy ngày đêm. Phía Nam của cửa thành Bắc là ngọn núi Vipula.
Theo truyền thuyết thì tại đây có 500 nguồn nước nóng, nhưng hiện giờ chỉ
còn lại khoảng 10 suối mà thôi, một số ấm, một số lạnh, chứ không có suối
nào nóng cả. Từ cửa thành Bắc đi khoảng một lý sẽ đến Trúc Lâm Tịnh Xá,
nơi đây hiện còn những nền và tường của ngôi tịnh xá cũ với cửa hướng về
phía Đông. Trong thời Như Lai còn tại thế, Ngài thường về trụ tại đây.
Hiện vẫn còn một pho tượng Phật lớn bằng cỡ Ngài. Về phía Đông của Trúc
Lâm Tịnh Xá là ngôi tháp do vua A Xà Thế dựng lên sau khi Thế Tôn nhập
diệt. Sau khi vua A Dục của triều đại Khổng Tước (Maurya) lên ngôi, ngài
cũng đã đến đây, mở tháp ra để lấy xá lợi và xây nhiều tháp khác để thờ.
Hiện tháp vẫn tỏa ra một thứ ánh sáng kỳ diệu. Kế bên tháp xá lợi do vua A
Xà Thế xây, còn một tháp khác chứa xá lợi của ngài A Nan. Theo truyền
thuyết, khi ngài A Nan sắp sửa thị tịch, ngài đã rời khỏi xứ Ma Kiệt Đà để
đi về Tỳ Xá Ly. Khi nghe tin hai nước đã tranh nhau cất quân đi giành xá
lợi, ngài A Nan đã phân đôi thân mình, phần trên ở Tỳ Xá Ly, còn phần mình
được vua của xứ Ma Kiệt Đà đem về xây tháp thờ. Không xa ngôi tháp này là
nơi mà hai ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đã dừng lại an cư. Phía Tây
Nam của Trúc Lâm tịnh xá khoảng 5 lý, có một khu rừng trúc, giữa rừng là
một ngôi nhà đá to do ngài Ca Diếp và 999 vị A La Hán đã kết tập kinh điển
(không hiểu sao ngài Huyền Trang lại có 999, khác với con số 500 trong các
kinh điển) sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Trước kia nơi này có những nền
tường cũ, dấu tích nơi vua A Xà Thế đã xây đại sảnh cúng dường cho kỳ kết
tập kinh điển lần thứ nhất.” Tại vùng này có năm ngọn núi, trong đó có núi
Linh Thứu (Gijjakutta), nơi Đức Phật thường tới giảng kinh. Tuy khoảng
cách không xa, nhưng đường sá gồ ghề xấu xí nên đoàn chúng tôi phải mất
trên hai giờ đồng hồ mới đến được Vương Xá. Từ Vương Xá, đi thêm 12 cây số
nữa là đến núi Linh Thứu. Bây giờ phương tiện lên núi đã được cải tiến
bằng dây cáp điện do người Nhật thiết bị, đi nhanh và khỏe hơn thời Đức
Phật nhiều, thế mà chúng tôi vẫn cảm thấy mệt. Càng nghĩ càng thấy cảm
kích Đức Phật, thời đó phương tiện duy nhất chỉ là đôi chân, thế mà Ngài
đã đặt bước đi khắp các vùng Bắc Ấn. Nhờ dây cáp điện mà mọi người đều lên
đến đỉnh Kỳ Xà Quật một cách nhanh chóng. Lên đến đỉnh Kỳ Xà Quật, phải đi
bộ một đoạn nữa mới đến Tháp Hòa Bình.
Tháp Hòa Bình Trên Đỉnh Kỳ Xà Quật

(Cổng vào Tháp Hòa Bình trên đỉnh Kỳ Xà Quật)

(Tháp Hòa Bình Shanti trên đỉnh Kỳ Xà Quật)

(Quang cảnh trên đỉnh Kỳ Xà Quật)
Vào năm 1978 phái Nhật Liên Tông của Nhật đã cho
xây dựng ngôi tháp Hòa Bình to lớn sừng sững trên đỉnh núi Kỳ Xà Quật, để
cầu nguyện cho nhân loại luôn sống trong hòa bình an lạc và hạnh phúc.
Ngọn tháp hình bán cầu thật đẹp, chóp tháp cao 38 mét, đường kính 144 mét,
mái vòm 72 mét, toàn tháp cao 125 mét. Tháp có năm tầng, bên trong có thờ
xá lợi của Đức Phật. Bên ngoài vòng tường Tháp có các tôn tượng bằng vàng
lay lát vàng, các tượng Phật Đản Sanh, Phật Thành Đạo, Phật Chuyển Pháp
Luân, và Phật Nhập Niết Bàn...Xung quanh tháp có đường kinh hành hình trôn
ốc, lót đá cẩm thạch trắng sạch sẽ và tươi mát, nên dù trời nắng gắt,
chúng tôi lại đi chân không mà vẫn cảm thấy mát chân. Phía sau tháp là một
chánh điện, lúc nào cũng có người túc trực, vừa đánh trống vừa niệm câu
“Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.”Người Nhật đã chọn đỉnh Kỳ Xà Quật để xây
tháp Hòa Bình thật là đúng ý nghĩa của nó, vì từ đàng xa người ta có thể
thấy được mô tháp khổng lồ này.
Mẫu tháp “Hòa Bình” này được người Nhật cho xây
tại nhiều Thánh tích khác trong vùng Bắc Ấn Độ. Đây là nét độc đáo của
người Nhật, vì bất cứ nơi đâu họ cũng đều xây tháp theo kiểu kiến trúc
này.
Gần tháp Hòa Bình là một ngôi chùa Nhật Bản,
được người Nhật xây ngay trên nền tháp cũ của vua A Xà Thế. Chùa được Đại
Đức Nichi Dastu Fujai xây dựng vào năm 1978. Bến trong chùa tôn trí các
tượng Phật rất mỹ thuật. Đặc biệt tiếng trống tại chùa này được đánh lên
liên tục để cầu nguyện cho hòa bình thế giới.
Sau khi tụng một thời kinh cầu an, Hòa Thượng
hướng dẫn đoàn đi nhiễu quanh tháp, rồi cả đoàn cùng đi bộ lên núi Linh
Thứu. Từ đỉnh Kỳ Xà Quật qua núi Linh Thứu không xa lắm, chỉ mất khoảng 30
phút đi bộ. Chính nơi đây, khi Đức Phật còn tại thế, vua Bình Sa Vương đã
cho xây dựng một con đường ngoằn ngoèo từ chân lên đến đỉnh núi. Ngày nay
con đường ấy được xây lại với các bậc cấp bằng xi măng và hai bên đều có
cây to tỏa bóng mát, nên việc đi lại cũng dễ dàng, tuy nhiên, đối với các
cụ già thì thật là vất vả. Người Nhật đã xây chiếc cầu Linh Sơn nối liền
núi Kỳ Xà Quật và Linh Thứu. Đây cũng chính là nơi đánh dấu chỗ vua Tần Bà
Sa La bước xuống ngựa, đích thân đi bộ lên hương thất thăm viếng Đức Phật.
Thời Đức Phật còn tại thế, vua Bình Sa Vương đang cai trị vương quốc Ma
Kiệt Đà đã cho xây hai lớp tường rào bao bọc thành Vương Xá. Lớp bên trong
bao bọc nội điện, nơi vua và hoàng gia trú ngụ. Lớp bên ngoài bao bọc toàn
thành nơi trú ngụ của đình thần. Thời ngài Phật Âm (Buddhaghosa) thì dân
chúng thành Vương Xá đã lên đến 18 triệu. Tuy nhiên, đến đời vua Udyin, vị
vua nối ngôi vua A Xà Thế, đã cho dời kinh đô về Pataliputra (ngày nay là
Patna, thủ phủ của bang Bihar), bên cạnh một dòng sông với đất đai phì
nhiêu màu mỡ, nên kể từ đó vị thế của thành Vương Xá không còn nữa. Vào
thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch, vua A Dục cho dựng tháp và trụ đá tại đây để
tưởng niệm Đức Phật và Tăng đoàn của Ngài.
---o0o---
Mục Lục >> 1
>> 2 >> 3 >> 4 >>
5 >>
6
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày: 01-07-2006