Đánh
cờ tướng là một trò tiêu khiển thú vị
lắm. Dàn binh bố trận, đưa quân mình sang xâm
lấn nước người, đánh cho tan tác đội
ngũ của đối phương, đánh cho tướng
địch phải chắp tay đầu hàng. Vừa công
vừa thủ, tiền quân hậu quân phối hợp
chặt chẽ, chặn đánh quân thù trên từng
tấc đất. Lúc thì xe pháo công thành, khi thì tốt
ngựa bắt tướng; lúc thì thương tiếc quân
sĩ, bảo vệ cả con tốt mọn, khi thì thí mạng bỏ
cả xe tượng để giữ lấy chủ soái tối
cao. Chẳng lúc nào là không thú vị.
Nhưng
thú nhất là khi thắng. Vì thắng thì có thể vỗ
đùi đánh đét một cái để tự ban thưởng
sách lược chinh đông chinh tây tài ba của mình. Ngoài ra,
còn là để mục kích cái đau khổ của kẻ đại
bại. Còn thua ư? Ồ, quê lắm. Hai khóe miệng
tự nhiên chảy xệ xuống, không sao nhích lên nổi.
Nhưng cũng phải ráng cười, vì không cười thì
có vẻ như muốn mặc nhiên thừa nhận mình dở mà
cũng là tự công nhận cái tài giỏi của thằng
khỉ đối phương đáng ghét đang cười
hí hửng ngay trước mặt. Nếu không cười gượng
được thì cũng nói đôi lời vớt vát,
chẳng hạn "tại tui sơ hở để chết
mất con xe" hoặc, "tại tao lo tấn công quá nên
quên thủ con tướng". Cười không nổi, nói
không được, im lặng cũng chẳng xong thì
chỉ có nước xách bàn cờ mà đập cho đối
phương một trận. Anh rượt em, cha đuổi
con có khi cũng chỉ vì thua một ván cờ (làm như
thể đánh cờ với anh với cha thì phải làm
bộ thua hoài vậy!). Sự thắng bại trong một
bàn cờ có thể làm thay đổi nhiều thứ.
Tôi
không phải là kẻ đánh cờ tướng chuyên nghiệp.
Tôi chưa hề bỏ công để học cờ thế. Tôi
biết đánh cờ, vậy thôi. Nhưng, có thể nói
là do đánh cờ nhiều năm mà tôi có chút kinh
nghiệm trong thế công cũng như thế thủœ để
bày được những ván cờ không mấy tệ.
Đánh với kẻ cao tay thì dù thắng hay bại tôi cũng
học được những nước hay; còn đánh
với kẻ thấp cờ, tôi có được cơ
hội để thí nghiệm những nước cờ táo
bạo mà tôi chưa dám áp dụng với kẻ ngang cơ
hay trên cơ mình. Nhưng trong suốt mười mấy năm,
kể từ khi bắt đầu tập đánh cờ —
lúc mười tuổi — chỉ có hai lần đấu
cờ làm tôi nhớ đời. Hai lần đó đều
là những bài học ý nghĩa và thú vị cho tôi.
Những bài học này không nằm trong thế cờ mà
nằm ởœ cái tâm. Đúng, cái tâm của người đánh
cờ.
Lần
thứ nhất xảy ra vào năm tôi hai mươi hai
tuổi. Đối thủ của tôi — phải sòng phẳng mà
gọi như vậy — là một vị Thượng
tọa lãnh đạo giáo hội Phật giáo có tiếng
tăm. Trong khi chờ đợi thầy tôi (đi vắng
chưa về), ông bảo tôi bày cờ ra. Nghe danh ông, tôi
đã thấy khớp rồi, nói chi dùng trí mà đấu
với ông, dù chỉ là qua những quân cờ. Nhưng
đánh thì cứ phải đánh. Trận địa, nếu
không bày thì thôi, bày thì phải đánh và đánh thì phải
đánh để thắng, không thể nương tay. Vài
nước dọ dẫm, tôi lấy được tự
tin rồi tấn công tới tấp. Quân tôi ồ ạt
sang sông, bắt con tốt, chụp con xe, phá đại pháo,
không chừa một mạng. Thành không cung trống, quân tôi
ba mặt vây kín, bắt bí tướng già trong tướng
phủ. Ông cười vang, khen rằng: "Khá lắm, khá
lắm!" rồi bày ván khác. Tôi tự hỏi: "Sao
lại có thể dễ dàng như vậy? Nghe nói ông là
một trong các vua cờ mà... hay là ông thả mình ván đầu?"
Nghĩ vậy, tôi dè dặt và bắt đầu lưu ý
cách đánh của ông. Nước cờ của ông thật là
kỳ quái. Mỗi con cờ mang cả sức mạnh của
sự im lặng chịu đựng, con trước con sau
hòa hợp nhịp nhàng trong một khối đồng
nhất nhưng lại đa dạng, biến hóa. Ông
dụng cờ trong thế thủ, nhưng thế thủ đó
lại chính là thế công, chặt chẽ, kỳ bí, lúc
ẩn lúc hiện, khi tấn khi thối, không nước nào
mà không chứa đựng tiềm lực của sự chinh
phục, cảm hóa. Thế đi của ông như nước chảy,
như mây trôi, trong khi lối đánh của tôi như lửa
chụp, như núi đổ. Chận bắt, phủ đầu,
tôi đuổi theo ông như cọp vồ rồng. Ông ung
dung tự tại đưa đi những quân cờ khoáng
đạt, bao dung; tôi hùng hổ, háo thắng đẩy
tới những tinh binh hung tợn. Và cuối cùng, tôi
lại thắng; thắng một cách không ngờ; thắng
trong sự ngỡ ngàng, kinh dị. Tôi muốn nhìn lại
thế cờ tàn trước mặt nhưng ông đưa
tay xóa đi và nói: "Khá lắm, con lại thắng
thầy rồi!" Nhưng, không thấy có dấu
hiệu gì trên nét mặt ông cho thấy ông bị thua hai ván.
Mắt ông sáng lên và ông buông một tràng cười sảng
khoái y như khi người ta vừa làm được
một điều gì đắc ý trên đời. Tôi lui
về phòng riêng mà thất thần, giao động. Không,
tôi không thắng gì cả. Tôi như một đấu thủ
quyền anh đấm vào hư không những cú đấm
thôi sơn cực mạnh; và những cú đấm không có
đối tượng đón nhận đó chỉ làm cho
kẻ đấm thêm mệt nhọc, khó thở mà thôi. Không
thể đón bắt được hư không; không
thể thắng được sự tịch lặng
bằng những âm thanh thịnh nộ; không thể chinh
phục được cái không bao la bằng cái có nhỏ
mọn. Và, không thể thắng được một cái
tâm rỗng, sáng.
Tôi
hầu như bỏ cờ tướng từ lúc đó. Nhưng
bốn năm sau, ở trong tù, thời giờ rộng rãi, tôi
bắt đầu đánh cờ lại cho khuây khỏa. Trong
phòng giam hơn sáu mươi người, tôi không gặp
tay cờ nào ngang sức. Tôi chịu khó đánh cờ
với cả những người mới tập chơi và
đôi khi tôi thua họ mà lòng tôi vẫn hững hờ như
không. Một năm sau, tôi mới gặp được đối
thủ của tôi. Và đây chính là lần đấu cờ
thứ hai mà tôi nhớ mãi trong đời.
Ông
ta ở vào tuổi bốn tám hay bốn chín (có người
đoán là trên năm mươi), nhưng trông mặt thì
còn trẻ lắm. Ông bị giam ở phòng 6, bị các bạn cùng
phòng trùm mền đánh cho một trận vì tội làm
ăng-ten, tức là tội làm công việc báo cáo mọi
sinh hoạt của phòng giam cho cán bộ trại. Lá bài ăng-ten
bị lộ ở phòng 6, ông được cán bộ
chuyển qua phòng 7 chúng tôi. Sự liên lạc qua lại
giữa phòng 6 và phòng 7 rất dễ dàng, vì vậy, phòng
chúng tôi nhận ra nhanh chóng tín hiệu của một cây
ăng-ten mới. Ông được đón chào và tiếp
xử một cách không mấy thân thiện cũng vì lẽ
đó. Tuy nhiên, ông cũng tỏ ra là kẻ khoe khoang, khoác lác
ngay từ những ngày đầu mới nhập phòng nên
được đặt cho biệt danh là ông Bô (cái
miệng nói bô bô) chứ tên thật của ông là Dự. Ngoài
biệt danh Bô, hai yếu tố khác làm nổi bật cá tính
của ông là: thứ nhất, sĩ quan Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa, chức vụ thiếu tá, binh chủng không rõ
ràng (lúc thì Thủy quân lục chiến, lúc thì Pháo binh, lúc
thì Bộ binh, chẳng biết đâu mà mò); thứ hai, vô
địch cờ tướng của trại giam B5, Biên Hòa.
Ông có là vô địch cờ tướng củœa trại
giam hay không thì phòng 7 này cũng chưa xác định
được vì ông mới vào đây lần đầu;
còn ông có là sĩ quan thứ thiệt hay không thì chỉ có
cán bộ trại giam mới rõ mà thôi. Tôi thì nhận
thấy mấy anh sĩ quan Cộng Hòa thực sự thì
ít khi nào đi rao với bạn đồng phòng rằng mình
là sĩ quan cả, trừ khi gặp kẻ tâm đầu ý
hợp. Cho nên chuyện ông là sĩ quan này nọ, xuất
thân từ đâu, chẳng làm tôi quan tâm lắm. Nhưng
chính cái đại danh "vô địch cờ tướng
của trại B5" đã cho tôi chút hứng thú để
lưu ý tới ông ta. Một cái gì đó ngủ yên trong tôi
bị đánh thức dậy.
Trong
vòng mấy ngày đầu tiên vào phòng, ông Dự đã
dọ hỏi ngay những ai là người cao cờ nhất
phòng. Người ta nói chỉ có vài cao thủ thôi, trong
đó có tôi. Ông đã tìm được đủ cơ
hội để ra chiêu dằn mặt những cao thủ
đó và cũng đã chứng tỏ cái chức vô địch
cờ tướng của ông không phải là ngoa cho lắm. Nhưng
ông và tôi vẫn chưa có dịp đấu cờ
với nhau. Trong khi tôi đang đánh cờ với người
khác, thỉnh thoảng ông đến gần, im lặng quan sát.
Tôi chỉ ngang cờ với những kẻ thấp nhất mà
ông chấp cả xe pháo ngựa — có lẽ đó là
nhận xét của ông khiến ông chưa có ý rủ tôi đấu
cờ. Những tay cao cờ ít khi chịu hạ mình hay
tốn thì giờ để đánh với kẻ mới
tập chơi vì làm như vậy sẽ hư nước
cờ. Tuy vậy, những người trong phòng vẫn
cứ thừa nhận tôi là một cao thủ. Điều này
khiến cho nhà vô địch hiếu kỳ, háo hức
muốn đọ trận với tôi. Tôi bắt được
cái nôn nả, bồn chồn của ông trong nhiều ngày. Ông
nghĩ là tôi sẽ như những tay chơi cờ khác:
ước mong được tiếp cờ với một
vô địch (để học hỏi thêm hoặc nếu
may mắn, biết đâu lại đoạt giải vô địch),
nên ông chịu khó chờ tôi. Nhưng phần tôi, tôi
biết sẽ có lúc ông tự mở lời thách đấu
với tôi. Và tôi cứ chờ đợi ông.
Cơ
hội đó đến vào dịp Tết. Ông Dự
đứng ngoài gà — mách nước — cho một đối
thủ của tôi (đây là cách để dọ nước
cờ của tôi mà chẳng thiệt thòi gì cho ông nếu
lỡ thua). Tôi đánh thắng và ngay lúc đó, tôi
muốn ông cắn câu, tôi đùa với đối thủ của
mình, làm như không biết có ông đứng bên cạnh:
"Thấy
chưa, nước đó thắng là thắng, dù có Đế
Thiên Đế Thích xuống cũng gỡ không nổi nói
chi người phàm!"
Nghe
vậy ông chen vào, đẩy đối thủ của tôi sang bên,
nói với giọng ra vẻ tự nhiên:
"Mày
dở quá, để tao đánh thử với ông thầy này coi."
Rồi
ông tự động sắp cờ, mắt chẳng nhìn tôi:
"Thử
vài ván đầu năm nhé ông thầy?"
Tôi
chỉ cười và sắp cờ. Ông tự ý bỏ
một pháo một ngựa của ông ra ngoài, chấp tôi.
Một sự khinh địch thái quá. Tôi nén bất bình.
Tôi biết nếu tôi đánh cờ với một cái tâm
đầy tự ái và tức giận, tôi sẽ không
thắng được ai, tôi nói:
"Tôi
nghĩ là chú chấp tôi thêm con xe nữa mới ngang
cờ đó."
"Con
xe nữa? Giỡn hoài, ông thầy cũng thuộc loại
khá, tôi đâu dám bỏ xe. Hay là để thử vài ván
rồi hãy tính, nhé!"
Trong
phòng, người ta thấy ông đấu cờ với tôi
liền tụ lại, xầm xì:
"Cao
thủ gặp nhau rồi."
Nhiều
người còn quảng cáo to hơn:
"Đến
coi, đến coi! Kỳ phùng địch thủ. Tranh giải vô
địch cờ tướng trại B5."
Nhờ
trống pháo ngựa mà xe ông tiến nhanh, tấn công
chớp nhoáng. Biết ông sở trường nơi cặp xe,
tôi tập trung hai pháo hai ngựa của mình để hạ
hai con xe của ông. Ông thua ván đầu, mất cả bình tĩnh.
Ván kế tiếp ông cũng thua nốt, nóng nảy nói:
"Thôi
đánh đồng đi, không chấp nữa!".
Rồi ông lượm con pháo con ngựa ở ngoài vào. Hai ván
kế tiếp đánh đồng mà ông vẫn cứ thua.
Cả phòng giam la hét cổ võ tôi:
"Ông
thầy hạ vô địch cờ tướng rồi!"
Ông
tiếp tục sắp ván cờ khác nhưng đã đến
giờ phát cơm, phải nghỉ. Ông miễn cưỡng
rời bàn cờ để đi lãnh cơm. Bưng cơm
đến chỗ tôi, vừa ăn ông vừa nói:
"Bữa
nay tôi không được khỏe lắm. Hơn nữa
tại tôi dễ ngươi, khinh địch nên thua. Chốc
nữa ta lại bày ván khác nhé?"
"Đánh
thì đánh. Mình rảnh rỗi mà, đánh cho đỡ
buồn."
Tôi
cười đáp ngay, không suy nghĩ, không từ chối.
Ông đánh cờ rất hay, đánh với ông hào
hứng lắm. Kể từ nhiều năm rồi, tôi ít
khi nào thấy cao hứng với cờ tướng như
khi được đánh với ông.
Thấy
tôi đồng ý rồi, ông quay đi chỗ khác. Chờ
ông đi rồi các bạn tù quanh tôi mới nói:
"Ông
thầy đánh thẳng tay nghe, cho ổng biết mặt.
Vô địch, hứ, kỳ này cho chừa cái tật nói
trạng nói dóc."
"Phải
cho hắn biết thế nào là phòng 7!"
"Ông
thầy mà hạ được hắn dài dài thì phòng 7 mình
đoạt chức vô địch B5 đó."
"Hạ
rồi, hồi nãy hạ xính vính rồi!"
Tôi
im lặng quan sát chính nỗi lòng mình. Cái háo thắng của
tôi chưa chết. Cái tôi nhỏ mọn này đang có vẻ
đắc ý với những thắng lợi tầm thường.
Danh dự của tôi, danh dự của phòng 7, đó là cái gì
nhỉ? Nhưng, trong ván cờ, không ai mong đợi
sự bại trận. Đấu là để phân định
sự cao thấp, thắng bại. Người ta chỉ có
thể vui lòng thua trong một trận đấu mà chính mình
cho phép và trường hợp này chỉ có thể xảy ra
khi họ thương hay nhường nhịn đối thủ,
hoặc coi đối thủ như một kẻ tầm thường
không đáng để so tài. Nhưng đối với
một đối thủ cao cơ, tự đại, sự
cho phép đó có vẻ như bất khả. Tôi phải thắng,
đó là ý muốn tự nhiên. Thắng được
một kẻ vô địch khoác lác lúc nào cũng tự xưng
mình bách chiến bách thắng là điều nên làm. Tôi
hầu như quên mất mình là một tu sĩ.
Bàn
cờ lại được bày ra. Sáu mươi mấy
người trong phòng giam đều ủng hộ tôi, xúm xít
quanh bàn cờ hoặc tụm năm tụm ba bàn tán,
chờ đợi kết quả. Mọi sinh hoạt khác trong
phòng giam đều trở nên thứ yếu. Tất cả đều
như tập trung vào cuộc đọ sức ly kỳ trên
bàn cờ. Ông Dự trở thành một chiến sĩ cô
đơn, nhưng tôi có thể đọc thấy sự
quyết tâm của ông hiện rõ trên nét mặt.
Phải
công nhận là nước cờ của ông thật lão
luyện. Không nước nào thừa, không nước nào
lầm lỡ. Quân ông tiến nhanh như vũ bão giành
thế chủ động. Quân cờ ông vùng vẫy ngang
dọc như những hổ tướng tàn bạo, chém
giết chẳng nương tay. Ông vây chặt cung cấm
của tôi với sự phối hợp tinh diệu của các cánh
quân lạnh lùng, vô cảm. Và tôi nhìn rõ, thật rõ, vẻ
sắt máu dữ tợn trên những quân cờ màu đỏ
của ông. Ông là một tay tinh tường về cờ
thế. Vừa đánh ông vừa hô to tên những thế
cờ y như người ta hô khẩu lệnh để
điều binh ngoài trận địa. Điều này
sẽ bất lợi cho ông nếu tôi cũng sành về
cờ thế và binh pháp. Nhưng ông biết rõ tôi
chẳng am tường gì về nó cả nên ông dùng nó để
áp đảo tinh thần tôi, vừa để chứng tỏ ông
đánh có bài bản, có kỹ thuật chứ không đánh
một cách tài tử, lơ mơ như tôi. Tôi chẳng
biết là tôi đã bày những thế trận gì. Có
lẽ trong sách cờ thế không có tên gọi cho các nước
cờ của tôi. Tùy theo thế công của ông mà tôi thủ, tùy
theo chỗ hở của ông mà tôi phản công. Tôi đánh trong
thế bị động, ứng biến. Cờ ông cao thì
tôi cao theo, cờ ông thấp thì tôi thấp theo. Vì thế,
cả ông lẫn tôi đều không ngờ là đôi lúc tôi
lại có những nước cờ kỳ quặc, lạ
lùng nhưng uyển chuyển và không kém phần bí
hiểm. Tôi sực nhận ra rằng trước đây
vị Thượng tọa kia đã từng đem cách
đánh vô chiêu thức này để đánh với tôi.
Sự khám phá đó làm tôi thích thú, hứng khởi. Nhưng
chính cái hứng khởi này đã lấn áp ý niệm hơn
thua trong tôi. Tôi rơi vào trạng thái mặc tình, tha
hồ (nhậm vận — một thuật ngữ của
Thiền học), bỏ mặc tất cả với một cõi lòng
thênh thang, sảng khoái. Tôi thấy trước mắt mình,
chính cái bàn cờ với những ô vuông ngăn chia hai cõi
hai nước, một cánh đồng bát ngát mở ra dưới
vòm trời cao xanh phảng phất những sợi mây
trắng mỏng. Qua những cành lá xanh um của hai hàng cây chen
bóng nghiêng ngã bên bờ sông tĩnh lặng, gió từ
đâu kéo đến, đưa lên mùi hương ngai ngái
êm nhẹ của ngàn hoa nội cỏ.
Tôi
thua ván cờ đó. Cả phòng la ó, có ý trách tôi chểnh mảng.
Họ nói, lý ra tôi phải thắng; từ thế thắng tôi
đã rơi vào chỗ bại một cách vô lý.
Ván
thứ hai cũng vậy, sắp thắng tôi lại thua. Ông
Dự có vẻ đắc ý lắm nhưng vẫn chưa thỏa
dạ. Ông hăm hở sắp ván khác rủ tôi đánh
tiếp. Tôi từ chối. Anh trưởng phòng 7 kéo tôi
lại một góc phòng, nói hành nói hẹ:
"Ông
thầy thả hắn ta hả? Sao sắp thắng rồi
lại thua? Ông thương hại hắn ta phải không? Làm
ơn làm phước đánh đàng hoàng giùm tôi đi.
Ông phải nhớ rằng danh dự phòng 7 đặt vào tay
ông đó. Đánh lại đi."
Nhiều
người khác cũng xúm lại, thúc đẩy tôi. Ai cũng
nhắc đến danh dự của phòng 7. Tôi trở lại bàn
cờ. Ông Dự vẫn còn ngồi đó như muốn
tận hưởng niềm vui chiến thắng. Thấy tôi
trở lại, ông hiểu ý ngay và sốt sắng sắp bàn
cờ khác. Tôi im lặng ngồi xuống, cầm cờ.
Lần này, tôi xua quân ào ạt, mũi tiến quân
nhọc hoắc như dao găm, chọc thủng mọi thành
trì, phá tan quân cấm vệ, xông vào bắt tướng.
Một ván, hai ván, ba ván, rồi bốn ván, tôi đều
thắng. Thắng vẻ vang. Thắng vì danh dự của phòng
7. Cả phòng reo hò tán thưởng, ca khúc khải hoàn. Ông Dự
méo mặt đau khổ, rút về góc phòng. Tôi cũng im
lặng rút về một góc. Tự nhiên thấy buồn.
Người
ta thường nhân danh tập thể này để áp
đảo, đánh bại tập thể khác. Nhưng
thực ra, tập thể chỉ là một danh từ
rỗng tuếch; nó chỉ là sự gá hợp gượng
gạo của nhiều cái bản ngã nhỏ nhen. Những bản ngã
nhỏ nhen này vì không chịu giam mình trong cái vỏ hạn
hẹp, đã tự đồng hóa mình vào cái tập
thể lớn hơn để thỏa mãn nhu cầu vùng
vẫy chiếm hữu của chúng. Danh dự của một
tập thể chỉ là danh dự của cá nhân phóng đại
ra chứ không gì khác. Cho nên, khi chiến thắng hay
thất bại, tập thể vẫn cứ là tập
thể, chỉ có từng cá nhân riêng lẻ kia mới
thọ nhận được hạnh phúc hay đau
khổ mà thôi. Nỗi khát khao hay ước vọng của tôi
nhân danh một tập thể vẫn cứ là khao khát hay
ước vọng của tôi: một sự vươn
dậy của bản ngã.
Tôi
đến chỗ ông Dự, định nói đôi lời
gì đó để an ủi ông. Nhưng khi đến rồi,
tôi chẳng biết phải mở lời thế nào để
ông khỏi hiểu lầm là tôi chọc tức, hoặc
sự việc tôi đến chỉ là muốn được
xác nhận thêm rằng tôi đã thắng từ chính
miệng ông ta. Quả nhiên ông ấy nghĩ vậy. Ông không
thèm ngó tôi. Tôi hối hận là đã bước đến
chỗ ông dù là với thiện ý. Ông vẫn chưa
chịu thua. Ông không tin rằng lối đánh cờ
rừng rú của tôi lại có thể thắng được
kỹ thuật tinh vi trường lớp của ông. Ông nói:
"Chưa
đâu ông thầy ạ. Ông tưởng rằng qua mấy ván
cờ đó ông có thể được coi là thắng tôi
sao? Chỉ tại tôi chưa quen cái lối đánh lung tung
không có chủ đích, không hợp binh pháp của ông mà thôi.
Đánh cờ nhiều năm hẳn ông phải biết
rằng khi người ta đã quen thuộc nước
cờ của nhau rồi thì sự thế sẽ diễn ra
trong một kết cuộc khác hơn chứ, phải không? Hơn
nữa, sau lưng ông có mấy chục người ủng
hộ, cổ võ, áp đảo tinh thần tôi."
"Dạ
đúng, tôi đến đây để nói với chú cái
ý đó. Rằng..."
"Không,
không phải vậy. Ông đến đây để
được nghe những lời ca ngợi của tôi đấy
thôi."
"Chú
Dự à, chú hiểu lầm rồi."
"Ông
đừng nói nữa. Tôi nói ông nghe này, có ngon thì
tối nay đánh ba ván nữa. Đánh độ đàng
hoàng."
"Đánh
độ? Nghĩa là sao?"
"Là
đánh cá đó! Ai thua thì nộp cho người thắng
một gói thuốc Samit và thua rồi thì coi như thua
suốt đời, không cần phải đấu với nhau
nữa. Sao, dám không?"
"Đâu
có cần thiết phải làm như vậy, thưa chú. Chú
biết mà, tu sĩ chúng tôi chơi cờ đã là quá
trớn rồi, đâu nghĩ đến chuyện chơi
bạc nữa!"
"Thấy
chưa, ông sợ rồi. Điều đó cho thấy
chuyện ông thắng tôi có vẻ như là may mắn, ngáp phải
ruồi, chứ có hay ho gì!"
"Đúng,
chó ngáp phải ruồi. Nếu chú cho rằng đánh cờ
không phải để giải trí và chỉ có đánh độ
mới phân được cao thấp thì tôi xin chịu
thua vậy."
Tôi
nói với giọng bình tĩnh, pha một chút khinh bạc
trong đó, rồi quay về. Nhưng, ngồi vào chỗ của
mình rồi, tôi mới nghe máu nóng chạy trong người.
Một cái gì đó bị tổn thương. Tôi tự
nhủ: "Tầm phào! Chuyện có đáng gì để phải
tự ái, bận tâm. Đâu có cần phải tranh đua
với những tâm hồn cờ bạc tầm thường!"
Tôi nằm xuống định ngủ, nhưng anh trưởng
phòng lại trờ tới, to nhỏ với tôi:
"Này,
ông làm sao mà để ông Bô nói xéo tùm lum vậy?"
"Kệ
ông ấy, để ý làm gì."
"Ổng
nói gì mà chó ngáp phải ruồi đó. Ổng còn nói gì mà
vào chùa nghe sãi tụng kinh, còn ra trận thì chỉ nghe tướng
chỉ huy thôi."
"Kệ
ông, nói gì cũng được mà."
"Sao
mà kệ, ổng còn nói là sáu mươi người
hội đồng một mình ổng thì thắng là phải
rồi."
"Ừ,
là phải rồi."
"Tầm
bậy! Ăn thua người cầm cờ chứ người
ngoài đâu có tính."
"Tính
cũng được, không tính cũng được."
"Không
được, ông phải làm cho rõ chuyện này. Ổng chưa
phục, phải làm cho ổng phục. Ổng nói ổng thách
cá độ mà ông thầy sợ không dám phải không?"
"Tôi
mà đi chơi cờ bạc với ông ấy à? Cho là ông
ấy thắng đi, tôi thua. Vậy là xong."
"Không,
ông không thể ngưng chiến. Phải đánh cho tới
khi nào đối phương tâm phục mới thôi. Đối
phương chưa phục thì cuộc chiến chưa ngã
ngũ."
Tôi
ngồi bật dậy:
"Hay,
nói hay. Tâm phục, tâm phục. Vậy mà tôi không nghĩ
ra kìa."
"Ông
thầy đồng ý rồi hả? Tôi nói với ổng nghe?"
"Khoan,
để coi lại đã. Tôi không thích đánh độ."
"Không
sao, ông thầy chỉ đánh cờ thôi, còn tôi đánh
độ."
"Không
độ không được sao?"
"Ổng
nói không độ ổng không đánh."
"Làm
như là có độ mới kích thích được tinh
thần chiến đấu vậy."
"Chứ
sao! Tự cổ chí kim, không cuộc chiến nào bày ra mà
không nhắm vào chiến lợi phẩm cả."
"Trừ
cuộc chiến của thầy tu," tôi tủm tỉm đáp.
"Niết
bàn giải thoát không phải là chiến lợi phẩm của ông
thầy sao?" anh trưởng phòng không chịu thua.
"Anh
nói khéo lắm. Thôi được, tôi nhận lời."
Anh
trưởng phòng hí hửng đi trao chiến thư và sắp
đặt giờ quyết đấu. Giao ước
được trọng tài đưa ra là im lặng đấu
cờ; người ngoài không được mách nước
hay hò reo cổ võ cho bất cứ bên nào; cầm quân
cờ nào thì đi quân cờ đó, không được
đổi quân cờ khác; nước cờ đã đi
rồi không được đổi nước cờ khác;
thời gian tối đa để suy nghĩ cho mỗi nước
cờ là mười phút; ba ván cờ sẽ phân thắng
bại; thắng hai ván liên tiếp coi như đã
thắng, không phải đánh ván thứ ba; thắng bại
đã phân thì không viện lý do gì để thách đấu
ván khác nữa.
Bao
cặp mắt chú mục ngó vào bàn cờ. Không khí trong phòng
giam im lặng một cách đáng sợ. Tôi không ngờ cái
im lặng này lại kích thích nỗi háo thắng và
quyết tâm chinh phục của mình hơn là những hò reo
ầm ĩ.
Tôi
chọn quân cờ màu xanh như mọi khi để tỏ ra
tôi xem ông Dự là kẻ cao hơn mình (vì quân cờ xanh
được quyền đi trước ngay ván đầu,
thường dành cho những kẻ thấp cờ hơn như
mọi người thường nghĩ). Ông Dự có vẻ
đẹp lòng trước thái độ lễ phép
của tôi, nhưng không vì vậy mà cái vẻ đằng đằng
sát khí của ông giảm đi. Ông tiến quân thần tốc,
chặn đông đón tây, nước nào cũng bí
hiểm, độc địa. Tôi lại bị rơi vào
thế bị động, chỉ biết ứng biến
theo thế công của ông. Nhưng thế cờ tôi như lò
xo, ông càng ép mạnh thì nó càng bung xa, phản ứng tùy nghi,
biến thủ thành công, biến nguy cơ thành lợi
thế, đột kích chớp nhoáng. Tôi thắng ông ngay ván
đầu. Trán ông lấm tấm mồ hôi hột. Ông
kinh ngạc một lúc mới lấy lại được
bình tĩnh để sắp ván cờ khác. Ông nuốt nước
bọt một cách khó khăn rồi đi nước
cờ đầu. Ván này, ông càng thận trọng hơn,
đi những nước thật chắc nhưng e dè và
thụ động. Ông thủ kín cung thành của mình khiến
cho thế cờ của hai bên có vẻ như đang đình
chiến để nghị hòa. Ngay lúc ấy, tôi bỗng
thấy rằng không bao giờ, không bao giờ ông có
thể thắng tôi được.
Tôi
đưa quân mình len lỏi vào thế trận thủ thành của
ông, thí cả pháo ngựa để mở đường.
Đường trống, quân tôi ồ ạt tấn vào,
khép chặt hai mặt công kích như hai cái càng bò cạp;
mặt chính diện thì chọc thủng vào với cái đuôi
mang đầy nọc độc. Ông Dự kinh hãi, mặt
biến sắc. Nhưng tôi bỗng bật cười lên
vì thấy rõ chỗ sơ hở của mình. Nếu không có cái
cười đó có lẽ ông Dự đã ngỡ
rằng ông thua rồi. Nghe tôi cười, ông trấn
tỉnh, nhìn kỹ lại cờ một lúc rồi mắt
ông sáng lên, vỗ đùi một cái, phản công. Thắng.
Ông thắng ván đó. Ông thở phào một cái rồi cười
rạng rỡ. Tôi chụp vai ông, tán thưởng:
"Chưa
có nước nào hay tuyệt như vậy!"
Ông
bàng hoàng, sửng sốt trước sự thích ý của tôi.
Đôi ngươi ông có vẻ chết đứng trong vài
khắc rồi lay động một chút trong nghi ngại.
Một
huề. Phải có ván chung kết. Ván này sẽ là ván
quyết định. Có vài tiếng xì xầm cho rằng tôi
vờ thua để có một ván chung kết hồi
hộp, gay cấn. Tôi biết không phải vậy. Tôi không
vờ thua ván đó. Tôi chỉ không quyết chí thắng
ván đó mà thôi. Trong một ván cờ mà cả hai bên đều
không nhích đi được một bước nào thì
hẳn nhiên chỉ có kẻ đã thắng được ván
trước hoặc tự tin vào sức mình mới dám
liều lĩnh để phá nước mở đường
mà thôi. Tôi không đánh liều ván đó thì ván đó có
thể kéo dài hai ba tiếng đồng hồ với
một không khí rất chán.
Ván
chót này ông Dự lại thay đổi thế đánh. Ông
đã lấy lại chút tự tin. Hơn nữa, thể
diện của ông cũng như sự cá độ — mà tôi
nghe nói là rất cao — không cho phép ông đầu hàng. Ông
tranh thế chủ động, tả xung hữu đột, tung
cả một đội tinh binh hùng hậu tràn sang nước
tôi. Nước cờ của ông mang đầy cơ tâm
quyết thắng. Nhìn những quân cờ của ông, tôi
thấy được cả một đội quân quyết
tử, hò hét vang trời với sự hỗ trợ của
chiến xa, phản lực cơ và những cỗ pháo
khạc lửa. Tôi thấy quân tôi, dân tôi gục xuống,
ngã xuống từng mạng một. Tôi thấy nước
tôi bị oằn xuống theo sức ép của ác tâm, rồi
bị cày lên bởi những tàn phá kinh hồn của bom, của
đạn, của lửa hận thù. Nhìn lại thế cờ của
mình, tôi thấy chỉ là nước. Nước. Nước
của một con sông êm đềm, lững lờ trôi đi,
chảy uốn khúc qua các lũy tre xanh, chảy từ đầu
làng đến cuối làng, chảy một cách nhu thuận,
uyển chuyển và hiền hòa, chảy mãi mà bất
biến, bất biến nhưng không dừng chết, không
dừng chết mà lại đa hình, đa hình nhưng
vẫn là một. Chỉ một thể đó thôi: chảy,
chảy. Cờ tôi lẩn bên này, tránh bên kia, khi tiến
tới, lúc thối lui, đều là để tự
vệ và tự tồn. Không tấn công nhưng không tỏ
ươn hèn; không tranh thế nhưng không bỏ thế
đứng. Thế của nó là chảy, chảy bất tận.
Vậy
mà cờ tôi lại dồn cờ ông vào một thế bí
không sao gỡ nổi. Chỉ hai nước cờ nữa
thôi là ông phải xếp giáo qui hàng. Và để thắng ván
này, tôi chỉ có mỗi một cách đánh để
chiến thắng chứ không có cách nào khác hơn. Tôi
chỉ cần đi sai nước thứ nhất thì hỏng
nước thứ hai; hỏng, không những không thắng
được mà còn thảm bại nữa vì cờ ông cũng
đang trong thế tranh thắng tối hậu với tôi.
Nước cờ quả là độc đáo và hiểm hóc
đến nỗi chỉ có ông và tôi, hai kẻ trong cuộc,
mới nhìn thấy được mà thôi. Tôi không vội
đi cờ. Tôi cũng không cần nhìn vào bàn cờ
nữa. Nước thắng đã quá rõ ràng. Tôi nhìn
ngắm ông. Trong ánh mắt ông, tôi đọc được
sự xuôi tay, thất vọng. Hai má ông xệ xuống,
đôi môi mấp máy run rẩy để lộ hai hàm răng
đánh lập cập vào nhau. Nước da ông tái đi
một cách bệnh hoạn. Con hổ hung tợn nay chỉ
còn là một con thỏ già hấp hối. Danh dự của ông,
một thời oanh liệt vẫy vùng của ông bây giờ tùy
thuộc vào nước cờ quyết định của tôi.
Tôi nói khẽ, vừa đủ cho ông nghe được:
"Thắng
bại đã rõ rồi."
Lời
tôi buông ra làm ông xụi người xuống như
thể nãy giờ ông vẫn còn hy vọng là tôi sẽ không
đánh đúng được nước cờ thắng.
Tôi cầm ca nước uống một hớp thoải mái,
xong tôi tằng hắng một tiếng, nói tiếp:
"Chà,
khó xử quá há!"
Nghe
vậy, mắt ông sáng lên thấy rõ. Ông vẫn còn hy
vọng. Cái hy vọng này vừa lú lên thì đã phát
triển theo cấp số nhân một cách hối hả để
biến thành nỗi khát khao chiến thắng vừa
bị đốn ngã trong ông. Sự hăm hở, ngoan cố
của ông bỗng làm nẩy sinh trong tôi một chút nực cười
và một chút ác ý. Tôi lại quên tôi là một tu sĩ.
Trong tôi cũng có cái khát vọng chiến thắng như
ông vậy. Trong một trận thư hùng quyết đấu,
chỉ có sống hoặc chết, thắng hoặc bại.
Cái bản ngã của tôi không muốn bại trận. Và vì nó
biết trước nó sẽ thắng, nó bước đến
chung cuộc bằng những bước lững thững
kiêu bạc. Nó cố ý kéo dài thời gian kết thúc
để lắng nghe nỗi bập bùng thống khoái của
khát vọng chinh phục đồng thời là để
tra tấn, hành hạ kẻ chiến bại hầu thỏa mãn cái
ác tâm hiếu chiến của nó. Tôi lấy ngón tay gõ vào con
xe xanh của mình — con xe quyết định ván cờ — nói
bỡn một câu:
"Mày
đó nghe, đừng có đi bậy à. Ăn hay thua cũng
là mày thôi đó."
Ông
Dự xanh mặt và đần người ra, rồi
lẩm bẩm nói theo tôi một cách vô vọng:
"Ừ,
ăn thua cũng là mày thôi."
Cả
phòng giam chết lặng, im phắc. Tôi nghe hơi thở
đứt đoạn và dồn dập của ông. Tôi từ
từ nhấc con xe lên, tỏ cho ông thấy là tôi không
chọn con cờ nào khác nữa. Cái hy vọng cuối cùng
còn sót lại trong ông là tôi đi sai con xe đó. Chỉ
một nấc xê xích thôi là sai bét cả. Tôi bật cười
lên ha hả, sảng khoái như khi một mình bước lên
đỉnh núi chót vót, khám phá cái đẹp vô cùng của
đất trời thơ mộng. Trong khi đó, ông Dự
không kìm hãm được sự run bấn của mình. Ông
ngước mắt nhìn tôi. Đôi mắt lạ lắm: có
một chút thù hận và một chút khẩn cầu. Tôi
tức khắc nhận biết tôi không thể thắng
được ông bằng sự sát phạt sòng phẳng
trong trận thế giữa hai cái bản ngã hiếu chiến
và đầy khát vọng. Tôi từ từ đặt con
xe xuống một cách nghiêm trang, cẩn trọng, như bước
chân đầu tiên chạm nhẹ trên nền đá phong rêu
của một ngôi đền cổ. Nhưng, đó là nước
cờ sai. Ông Dự chớp nhanh đôi mắt một cái,
sững người, ngước nhìn lại tôi như
muốn hỏi: "Thật vậy sao?" Rồi ông rơm
rớm nước mắt trong một vẻ kinh ngạc khó tả.
Ông không tin nổi rằng tôi có thể chủ định
một nước cờ tất bại phi lý như
vậy. Ông khiếp hãi và bối rối trong vài giây
rồi bất chợt, nỗi sung sướng tột độ
của ông bùng ra, ông hét lên:
"Thắng
rồi, tôi thắng rồi!"
Tôi
lặng lẽ trở về góc phòng giam. Qua song sắt, tôi
thấy hoàng hôn kéo xuống thật nhanh. Ngày Tết đã
qua. Tuổi đời chồng thêm một lớp. Cuộc
sống diễn ra trên một bàn cờ. Có kẻ thắng, có
kẻ bại, có người hơn, có người thua; nhưng, bất
biến hay không mới là điều thiết yếu.
Không.
Không phải là một ván cờ, không phải là một bàn
cờ phân ly những con người và những dòng đời
mâu thuẫn đối nghịch, mà là cuộc sống.
Cuộc sống là sự trôi chảy của một dòng sông êm
đềm. Đôi khi có gợn sóng vào những chiều
thu quạnh quẽ, nhưng đó cũng vẫn là
những cái gì tất yếu vẽ nên bức tranh muôn thuở
của cuộc đời.
Ông
Dự rón rén bước đến chỗ tôi như
một tín đồ tội lỗi muốn xưng tội.
Ông nói:
"Thầy
đã thắng tôi."
Tôi
cười, nói:
"Có
ai thắng đâu."
Virginia
1989