...... ... |
. |
TinhThần Hiếu Thảo
Thích Thanh
Từ
---o0o---
Theo phong tục Việt Nam thì ngày Rằm
tháng Bảy là ngày trung nguyên, là một trong ba ngày lễ cổ truyền
của dân gian. Đối với Phật giáo thì ngày Rằm tháng Bảy có nhiều
ý nghĩa nên có nhiều tên: ngày chúng Tăng Tự Tứ, ngày Phật hoan
hỷ, ngày Vu Lan báo hiếu, ngày xá tội vong nhân v.v.. Mỗi tên đều
có mang ý nghĩa riêng của nó.
Ngày Rằm tháng Bảy được gọi là ngày chúng Tăng
Tự Tứ là thể theo sinh hoạt của Tăng đoàn thời đức Phật.
Thời tiết ở Ấn Độ từ tháng Tư đến tháng Bảy là mùa mưa,
đất ẩm ướt, trùng kiến bò lên đầy đường. Chúng Tăng đi
khất thực thì dẫm đạp côn trùng làm tổn hại sinh mạng của chúng
và làm tổn giảm lòng từ bi của mình, nên đức Phật dạy từ
Rằm tháng Tư đến Rằm tháng Bảy, tất cả Tăng Ni họp lại một chỗ
để tu học, gọi là kiết hạ an cư: kiết là kết, tức là nguyện
trước Phật và chúng Tăng suốt ba tháng ở yên một chỗ đã qui
định để tu học, không ra khỏi phạm vi ấy. Đến ngày Rằm tháng Bảy
làm lễ Tự Tứ: tự là mình, tứ là mặc tình, tức là qua ba
tháng ở yên tu học, chư Tăng Ni đối trước những bậc trưởng
thượng, cấu xin các Ngài từ bi chỉ lỗi, nếu các Ngài có thấy,
nghe hay nghi mình có lỗi, để mình nhận lỗi và sám hối cho ba nghiệp
được thanh tịnh. Tinh thấn Tự Tứ của Phật dạy rất là đặc
biệt. Vì tất cả chúng ta, ai ai cũng mang cái bệnh tự cao ngã mạn,
lúc nào cũng thấy mình hơn người, có định kiến cho mình là đúng,
nên ít khi chịu nghe lời nhắc nhở xây dựng của ai, dầu người
đó là bậc cha mẹ hay thầy bạn. Ngày Tự Tứ, Tăng Ni tự mình
cầu xin bậc trưởng thượng chỉ lỗi và dạy bảo để sám hối,
sửa đổi. Đó là việc làm rất hay và hữu ích cho việc tu tiến.
Người lớn chỉ lỗi, người nhỏ giác ngộ nhận lỗi và sửa đổi
thì mới thành người tốt, làm cho Tăng đoàn lớn mạnh. Do đó,
đức Phật rất vui, nên ngày Tự Tứ cũng gọi là ngày Phật hoan
hỷ.
Ví như trong một gia đình, nhân ngày giỗ tổ tiên, có
một đứa con đối trước cha mẹ, anh chị thưa rằng: "Hôm nay là
ngày sum họp gia đình, xin ba má, anh chị nếu thấy con, em có lỗi lầm,
xin ba má, anh chị thương xót mà chỉ cho con sửa đổi để trở thành
người tốt". Là bậc cha mẹ, thấy con làm như vậy có vui không?
Chắc chắn là vui lắm! Cũng vậy, chư Tăng Ni đệ tử Phật biết cầu
xin những bậc huynh trưởng chỉ lỗi để sửa thì đức Phật rất là
hoan hỷ. Tuy nhiên, trên nguyên tắc là như vậy, nhưng ngày nay vì
Tăng Ni quá đông, mặc dù có thực hiện vẫn còn sơ sót.
Tại sao gọi ngày Rằm tháng Bảy là ngày lễ Vu Lan?
Chữ Vu Lan dịch âm tiếng Phạn là Vu Lan Bồn, dịch nghĩa là giải đảo
huyền. Giải là mở, đảo huyền là tội treo ngược, giải đảo
huyền là thoát khỏi tội treo ngược, nghĩa là lễ cầu nguyện cho
những người bị tội ở địa ngục ngạ quỷ được thoát khỏi. Có
nhiều người hiểu lầm "bồn" là cái chậu, nên đến ngày
Rằm tháng Bảy mua sắm hương hoa, bánh trái để vào chậu, đem đến
giữa bàn Tổ cúng lạy. Hiểu và làm như thế là sai lầm. Lệ
thường đến gần Rằm tháng Bảy là các chùa tổ chức tụng kinh Vu
Lan để cho Phật tử báo hiếu ông bà, cha mẹ. Kinh Vu Lan kể rằng:
Ngài Mục Kiền Liên tu, sau khi chứng A La Hán, Ngài muốn độ mẹ.
Ngài nhớ thuở còn sinh tiền, bà đã tạo nhiều nghiệp bất thiện
với người tu, nên dùng thiên nhãn quan sát xem bà thác sanh ở
cõi nào, thì thấy bà sanh ở cõi ngạ quỷ đói khổ vô cùng.
Động lòng từ hiếu, Ngài bèn xin một bát cơm, dùng thấn lực đưa
đến dâng cho mẹ dùng. Mẹ Ngài vừa đưa tay bốc cơm ăn thì cơm
hóa thành than lửa, bà ăn không được. Ngài rất thương xót nhưng
không biết làm sao cứu, bèn đến cầu xin Phật từ bi chỉ dạy. Nhân
ngày chúng Tăng Tự Tứ, Phật dạy Ngài sắm lễ vật thỉnh chúng
Tăng cúng dường, nhò sự cầu nguyện của chúng Tăng mà mẹ Ngài
được thoát kiếp ngạ quỷ. Chúng Tăng mà Phật dạy Ngài thỉnh
cúng dường và cầu nguyện cho mẹ Ngài là những vị ở sơn lâm
thiền định, hoặc kinh hành dưới cội cây, là bậc đắc quả A La
Hán; hàng chúng Tăng này mới có đủ thần lực cứu mẹ Ngài.
Ngài đã thực hành y theo lời Phật dạy, chúng Tăng cầu nguyện,
mẹ Ngài thoát kiếp ngạ quỷ được sanh cõi trời.
Có phải do chúng Tăng cầu nguyện mà mẹ Ngài được sanh lên
cõi trời không? Chỗ này phải hiểu cho thật kỹ. Chúng Tăng không
thể đưa bà Thanh Đề từ cõi ngạ quỷ lên cõi trời. Sở dĩ bà
thoát được kiếp ngạ quỷ là vì xưa bà khởi tâm ác, tạo nghiệp
ác nên chết mới đọa làm ngạ quỷ. Nay nhờ các bậc Thánh Tăng
với tâm thanh tịnh, chí thành hướng về bà cầu nguyện, thần lực
của các Ngài khiến tâm bà tương ứng và chuyển tâm niệm ác
thành tâm niệm thiện, nên bà được sanh về cõi trời. Ngang đây
coi như Ngài Mục Kiền Liên cứu được mẹ đền được ơn sanh
dưỡng, ơn hiếu nghĩa Ngài đã đền xong. Do giai thoại này mà ngày
Rằm tháng Bảy được gọi là ngày Vu Lan hay ngày báo hiếu.
Ngày nay, chúng ta theo gương hiếu của
Ngài Mục Kiền Liên, thỉnh chư Tăng cúng dường để cầu siêu hay
cầu an cho ông bà, cha mẹ. Việc làm của chúng ta ngày nay có được
kết quả như Ngài Mục Kiền Liên không? Hiện tại chúng ta tu chưa
chứng quả nên không biết ông bà, cha mẹ sanh ở cõi nào. Chư
Tăng Ni ngày nay cũng chưa chứng quả A La Hán, tâm chưa thanh tịnh. Như
vậy, người cúng dường và người cầu nguyện chưa hội đủ điều
kiện Phật dạy, làm sao ông bà, cha mẹ được siêu thoát? Tôi nói
đây không phải phủ nhận rằng sự cầu nguyện của đạo Phật, mà
nói để trình bày sự thật cho mọi người thấy, và tránh những
việc làm theo thông lệ mà không biết có kết quả hay không. Điều
này chúng ta phải gan dạ mà nhìn để thấy được lẽ thật. Ngày
nay, đa số Tăng Ni tu hành lôi thôi, Phật tử thì không biết ông
bà, cha mẹ mình sanh ở đâu. Cả hai đều không thông làm sao cầu
có kết quả? Tuy nhiên vì lòng hiếu thảo, quý vị cầu thì cầu, còn
siêu hay không thì tùy theo nghiệp của người được cầu, chớ
không bảo đảm, đó là lời thành thật của tôi.
Hiện tại, quỳ Phật tử muốn theo gương hiếu thảo
của Ngài Mục Kiền Liên thì phải làm ngay lúc cha mẹ còn sanh tiền.
Nghĩa là lúc cha mẹ còn sống, chúng ta phải tạo điều kiện cho cha
mẹ hiểu Phật pháp để tu hành. Nếu hiện tại cha mẹ tu, tạo nghiệp
lành, khi lâm chung chắc hắn sanh cõi lành rồi, có cầu cũng dư. Nếu
chúng ta không lo phụng dưỡng, không tạo cho cha mẹ diều kiện tránh
dữ làm lành, khi chết mời Tăng Ni cầu nguyện cho sanh cõi lành;
việc làm này thiếu thực tế e không kết quả.
Tất cả kinh sách của thánh hiền để lại đều dạy,
làm con phải hiếu thảo với cha mẹ, thế mà có người làm được,
có người không làm được. Mọi người trên thế gian này, ai ai
cũng từ tinh huyết cha mẹ mà hợp thành. Thân thể chúng ta là một
phần thân thể của cha mẹ. Khi ra đời nếu chúng ta không nhờ cha
mẹ nuôi dưỡng thì đã chết mất, đâu có sống và trưởng thành
đến ngày nay. Thế mà khi khôn lớn có gia đình chỉ biết thương vợ
con, cha mẹ thì quên mất. Trong kinh, Phật dạy tội lớn nhất là tội
bất hiếu, phước lớn nhất là phước hiếu thảo. Cha mẹ là
người mang nặng đẻ đau, khổ nhọc nuôi dưỡng chúng ta nên vóc
nên hình. Ơn cha mẹ lón nhất mà chúng ta quên được thì có nghĩa
ơn nào chúng ta nhớ, do đó mặc tình làm việc bất nhân bất nghĩa.
Ngược lại, hiếu kính cha mẹ thì cũng vui làm điều nhơn nghĩa với
mọi người.
Lúc Thái Tử trốn vua cha đi tu, người đời cho nghài
bất hiếu. Nhưng khi thành đạo, Ngài trở về cung thuyết pháp độ vua
cha, di mẫu, hoàng tộc tu hành được an lạc, lợi ích lớn. Nếu
không tu thì Ngài không làm được việc này. Ngài Mục Kiền Liên
đi tu đâu có quên ơn cha mẹ, nhờ Ngài tu mới cứu được mẹ
thoát kiếp ngạ quỷ. Người tu đã chứng quả hay chưa chứng quả
đều là những người con có hiếu. Người đời khi lập gia đình,
tình thương thường thường dồn cho vợ con, có khi quên mất cha mẹ,
không nhớ lo cho cha mẹ lúc tuổi già. Ngược lại, người tu thấy
cha mẹ càng già, biết không còn sống bao lâu nữa, nên lo lắng và
nhắc nhở tu nhiều hơn để phút ra đi được nhẹ nhàng, an ổn và
được sanh vào cõi lành.
Trong cuộc sống phải biết dung hòa với nhau, bậc làm
cha mẹ phải dễ dãi cho con cháu dễ gần gũi để nó làm tròn bổn
phận làm con. Phận làm con cháu phải thương kính hiếu thảo với cha
mẹ, ông bà. Sống như vậy, gia đình mới an vui, hạnh phúc. Trong kinh,
Phật có nói bài kệ về công ơn cha mẹ như sau:
Cha mẹ gọi Phạm Vương
Bậc đạo sư hiện đời
Xứng đáng được cúng dường
Vì thương đến con cháu
Do vậy người hiền triết
Kính lễ và tôn trọng
Thức ăn và thức uống
Vải mặc và giường nằm
Xoa bóp khắp thân mình
Tắm rửa cả chân tay
Với sở hành như vậy
Đối với mẹ cùng cha
Hiện đời người hiền khen
Đời sau hưởng thiện lạc
Theo triết lý Ấn Độ thì Phạm Thiên
là bậc trên hết, nên Ngài nói thờ cha mẹ như thờ Phạm Thiên,
và Phật là đạo sư tên đời nên Ngài nói thờ cha mẹ như thờ
Phật vậy. Phật so sánh lòng hiếu kính cha mẹ ngang với lòng tôn
kính Phật và lòng quý kính Phạm Thiên. Có nhiều người nghĩ rằng
đi chùa cúng Phật mới có phước, nên lơ là không lo phụng
dưỡng. Đó là ý nghĩ sai lầm. Ở đây, Ngài nói cha mẹ mới
thật là người xứng đáng cúng dường. Có một lần, Phật đi
khất thực ở một xứ mất mùa, Ngài đi cả buổi mà không có
thức ăn, có một thày Tỳ kheo đổi lá y được một bát cơm dâng
lên Phật, Ngài hỏi: Ngươi còn cha mẹ không?
Tỳ kheo đáp: Bạch Thế Tôn, con còn mẹ.
-- Mẹ ngươi có cơm ăn chưa?
-- Bạch Thế Tôn, con đổi lá y chỉ được
một bát cơm dâng lên Thế Tôn, mẹ con vẫn chưa có cơm ăn.
-- Ta không dám nhận bát cơm này, người
đáng nhận bát cơm này là mẹ của ngươi. Hãy đưa cơm về cúng
dường cho mẹ ngươi.
Phật phước đức vô lượng mà Ngài nói người
đáng nhận bất cơm cúng dường là mẹ của người cúng dường
chứ không phải là Phật. Thái độ của Phật cho chúng ta thấy Ngài
rất trọng ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Như vậy, lo cho cha mẹ
ấm no, tạo điều kiện cho cha mẹ tu hành mà không cúng chùa cũng
có phước. Lo cúng chùa mà để cha mẹ đói lạnh, khổ sở, mắc
phải tội bất hiếu, chẳng được phước bao nhiêu. Tại sao? Vì cha
mẹ là người thân thiết và thương con nhất. Thế nên ai là người
hiền trí thì đối với cha mẹ phải kính lễ, tôn trọng, cung phụng
đầy đủ bốn món cần dùng và còn phài xoa bóp, tắm rửa cho cha
mẹ nữa. Tại sao Phật dạy kỹ như vậy? Vì khi chúng ta còn nhỏ, cha
mẹ đã từng làm những việc đó cho chúng ta, bây giờ cha mẹ đã
già yếu, chúng ta phải chăm sóc lo lắng lại cha mẹ để đáp cái
ơn sanh dưỡng sâu nặng đó vậy. Chúng ta lưu tâm chăm sóc cha mẹ
là tạo nguồn an ủi cho cha mẹ được an vui lúc tuổi già, khiến
tuổi thọ của cha mẹ được tăng thêm. Nếu chúng ta lơ là không
nuôi dưỡng cha mẹ, làm cho cha mẹ buồn, cha mẹ buồn mắc bệnh và
mật sớm thì chúng ta phải tội bất hiếu. Ở đời cũng có những
người con bất hiếu, chẳng những không nuôi dưỡng cha mẹ còn
đầy đạo, đánh đập cha mẹ. Lúc tôi còn ở Chơn Không, có một
ông già mù hay lên núi chặt củi. Ông có một người con trai và
mấy đứa cháu nội. Con ông bắt ông phải đi chặt củi và gánh
nước. Hôm nào ông không gánh nước là nó không cho ăn cơm. Nếu
ông cãi lại thì nó đánh ông bằng roi mây. Xóm giềng ai thấy cũng
bất nhẫn. Nhưng truy nguyên ra thì trước đây ông cũng từng đánh
cha ông bằng roi mây! Như vậy, đối với cha mẹ, chúng ta tàn nhẫn
bao nhiêu thì con nó trả lại bấy nhiêu. Do đó, chớ bảo con cháu
hiếu thảo với mình, mà mình phải có hiếu với cha mẹ trước, con
cháu mới bắt chước làm theo. Mình bảo con cháu hiếu thảo với
mình mà mình bất hiếu với cha mẹ, làm sao con cháu hiếu thảo với
mình được!
Vậy muốn thành người tốt, vừa tròn chữ hiếu
với cha mẹ, vừa được người hiền trí quý trọng trong hiện tại
và hưởng phước lạc ở mai sau, vừa được con cháu hiếu kính
với mình thì phải hiếu thảo với cha mẹ để làm gương, vì đây
là nền tảng đạo đức. Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ
Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy
đem hết lòng thương kính, chăm sóc cho cha mẹ được no ấm an vui.
Nếu phụng dưỡng cha mẹ no ấm rồi mà cha mẹ chưa biết tu thì phải
khéo khuyên cha mẹ ăn ở hiền lành, quy y Tam Bảo, giữ năm giới,
làm điều phước thiện cho cha mẹ có đủ công đức, khi nhắm mắt
sanh vào cõi lành. Đó là điều thiết thực nên làm, bảo đảm
kết quả tốt.
Nhân ngày Vu Lan Tự Tứ, chúng tôi
mong tất cả quý Phật tử ứng dụng ý nghĩa của ngày này qua hai
lĩnh vực: Thứ nhất là lấy tinh thần Tự Tứ của chúng Tăng Ni
ứng dụng trong cuộc sống của mình, tức là tập nghe và nhận lời
khuyên răn nhắc nhở của người lớn để sửa chữa lỗi lầm để
trở thành người tốt. Thứ hai là noi theo gương hiếu thảo của
Ngài Mục Kiền Liên mà hiếu kính cha mẹ. Nếu cha mẹ còn tại thế
thì chăm sóc, phụng dưỡng cho cha mẹ no ấm, và nếu cha mẹ chưa
biết tu thì khéo nhắc nhở cho cha mẹ làm lành lánh dữ để sau sanh
vào cõi lành. Nếu cha mẹ đã qua đời rồi thì chính mình thành tâm
cầu nguyện và thỉnh Tăng Ni nguyện phụ, kết quả được bao nhiêu
tốt bấy nhiêu.
Thích Thanh Từ (1997)
---
o0o
---
|
Mục lục Tác giả
|
--- o0o ---
Vi tính: Nguyễn Anh Trang
Trình
bày:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày: 01-08-2002
|
|