THẬP BÁT LA-HÁN
Trước tác: Lâm Thế Mẫn.
Việt dịch: Thích Ðạo Luận.
--- o0o ---
MƯỜI TÁM VỊ LA-HÁN
Phần 1: (1-5)
1.
TÂN-NẦU-LÔ-PHẢ-LA-ÐỌA (TÂN-ÐỘ-LA-BẠT-LA-ÐỌA-XÀ)
Tôn giả
Tân-đầu-lô-phả-la-đọa là vị La-hán đầu tiên trong mười tám vị La-hán, có
chỗ dịch Tân-độ-la-bạt-la-đọa-xa. Ngài là người nước Câu-thiểm-di1,
vốn là một vị đại thần danh tiếng dưới trướng vua Ưu Ðiền.
Ngài họ “Phả-la-đọa” tên “Tân-đầu-lô”. Dưới
đây, chúng ta gọi ngài là Tân-đầu-lô.
Tân-đầu-lô quy y theo Phật rất sớm, do nỗ
lực tinh tấn tu tập nên khiến vua Ưu Ðiền cảm động. Thấy ngài thiết tha
với Phật, vua đồng ý cho ngài từ quan xuất gia.
Nhờ tư chất thông minh, cộng thêm sự
nghiêm mật tinh tấn hành trì nên ngài chứng quả La-hán rất nhanh. Từ khi
biết ngài chứng quả, vua Ưu Ðiền thường xuyên lui tới viếng thăm.
Theo lễ nghi nhà Phật “Sa-môn bất bái
vương giả”, do vậy, mỗi lần vua đến, Tân-đầu-lô chỉ chắp tay xá chào. Vì
nghĩ rằng mình cũng là một Phật giáo đồ nên vua không cảm thấy Tân-đầu-lô
thất lễ.
Nhưng đám cận thần bên vua có một số không
tin Phật thì cho rằng Tân-đầu-lô tự cao ngạo mạn. Do đó, những lúc ở trước
mặt vua thường đâm thọc thị phi:
- Thưa đại vương! Trong mắt Tân-đầu-lô,
ông ta không xem ngài ra gì cả!
- Thưa đại vương! Tân-đầu-lô nghĩ mình
mới là vua, còn ngài là thuộc hạ của ông ta!..
Không chịu được những lời gièm tấu của
quần thần, vua nổi giận quát:
- Ðược! Lần này ta đến, nếu như ông ta
không ra nghinh đón, quì bái chào hỏi, ta sẽ xử trảm ngay tại chỗ.
Vua nổi giận lôi đình, hầm hầm dẫn tùy
tùng đi thẳng đến động Tân-đầu-lô ở. Nhưng khi sắp đến nơi thì từ xa vua
đã trông thấy Tân-đầu-lô cung kính đứng trước động nghinh đón.
- Cung đón đại vương quang lâm! Xin mời
ngài vào! Mời vào! – Tân-đầu-lô chắp tay cúi chào chín mười lần.
- Ồ, miễn lễ! Miễn lễ! – Vua Ưu Ðiền thấy
Tân-đầu-lô một mực cung kính như thế, trong lòng rất xấu hổ, vội xuống
ngựa đáp lễ.
Sau khi vào động, mọi người ngồi lại hàn
huyên chuyện cũ với nhau, riêng vua ấm ức khó chịu hỏi:
- Thưa tôn giả! Thường ngày trẫm đến, Tôn
giả không ra ngoài động nghinh đón, sao lần này lại ra?
- Thưa đại vương! Trước kia đại vương đến
đây với lòng chí thành tôn kính Tam bảo nên tôi không cần ra đón. Nhưng
lần này, đại vương ôm hận mà đến, nếu tôi vẫn cứ ngồi trong động ắt sẽ
chuốt lấy họa sát thân. Tôi sợ đại vương chỉ vì nhất thời giận dữ mà mắc
đại tội sát hại La-hán, tương lai chiêu cảm khổ báo trong địa ngục. Vì
thế, tôi mới vội ra ngoài nghinh đón.
Nghe Tân-đầu-lô nói, vua xấu hổ vô cùng
vội rời tòa cúi đầu sụp lạy.
Lần
khác, Tân-đầu-lô ôm bát vào thành theo thứ lớp khất thực. Khi khất thực
đến nhà một phụ nữ keo kiệt bủn xỉn, ngài thấy bà ta đang chiên bánh bao.
Ðịnh ôm bát đến nhà khác, nhưng vì biết bà này là người bủn xỉn, muốn cho
bà ta bố thí gieo chút phước để tương lai có quả báo tốt nên ngài cố ý đi
đến chỗ bà ta.
- Cút đi
lão hòa thượng! – Bà ta chửi bới om sòm.
Mặc cho
bà ta chửi, Tân-đầu-lô vẫn đứng yên bất động, khiến bà ta càng giận dữ
thét:
- Cút
mau, còn đứng đó làm gì mất thời gian, dù thế nào bà cũng không cho đâu!
Tân-đầu-lô vẫn bình thản không nói, lặng lẽ đến ngồi trước cửa nhập định,
giả làm như một người chết. Có lẽ vì chưa từng thấy cảnh thiền định như
vậy nên bà ta nhảy thót lên, than:
- Ði
nhanh đi mà, đừng có chết ở nhà tôi, tôi gánh không nổi trách nhiệm này
đâu. – Vì ở Ấn Ðộ lúc bấy giờ, Hòa thượng rất được mọi người tôn kính nên
bà ta sợ vua kết tội thì không thể nào tránh khỏi bị mời lên quan phủ.
- Ðược
rồi, được rồi! Ðứng dậy đi, tôi sẽ cho ông một cái, vậy được chưa, đồ đáng
ghét! – Cuối cùng không còn cách nào hơn bà ta đành đồng ý bố thí.
Khi ấy,
Tân-đầu-lô từ từ tỉnh lại, mở to mắt đứng dậy.
Thấy
Tân-đầu-lô chưa chết, còn vui mừng đứng ngay cửa nhắc lại lời mình vừa nói
và xin bánh, bà ta rất hối hận. Nhưng đã nói rồi không thể rút lời lại
được nên bà ta đành buộc lòng cho ngài một cái. Song, không nỡ cho mấy cái
bánh vừa to vừa thơm đã chiên sẵn, bà ta cố ý naàu7841?n lại một cái nhỏ
như cái bánh cảo
rồi thả vào chảo dầu chiên.
Tân-đầu-lô thấy bà này hẹp hòi như vậy trong lòng vừa xót thương vừa buồn
cười, nên cố ý dùng thần thông, lúc đầu chỉ có mấy cái bánh bao nhỏ trên
chảo, lát sau mấy cái bánh lớn hai bên liên tiếp kết lại càng lúc càng
nhiều, dù bà ta cắt xén thế nào bánh cũng kết thành một
khối, không thể nào cắt ra được. Cuối
cùng, không còn cách nào hơn, bà ta đành đem toàn bộ xâu bánh cho
Tân-đầu-lô.
- Cảm ơn bà! Bà thật rộng rãi, cho tôi một lần nhiều chừng
này. – Tân-đầu-lô cười hà hà nói.
- Ðồ
đáng ghét! Cút đi! – Bà ta đau lòng quát.
- Này
thí chủ! Tôi nói thật cho bà biết tôi đã
chứng A-la-hán vốn không ăn cũng không
đói không chết, nhưng tôi có mấy huynh đệ đồng tu, hôm qua ngã bệnh
họ không thể ôm bát ra ngoài khất thực nên mới nhờ tôi giúp. Cảm ơn mấy
cái bánh của bà. – Nói xong, Tân-đầu-lô chắp tay cảm tạ.
- À, ra
là vậy, ông không phải cất riêng để dùng một mình mà muốn mang về cho các
huynh đệ bệnh. Ðây, đây, cầm lấy đi...
Bà ta
bất chợt xúc động, áy náy nói tiếp:
- Về đó
rồi còn cần bao nhiêu nữa thì cứ đến đây. Ở đây còn nhiều lắm.
- Cảm ơn
bà, vậy là đủ rồi. Thí chủ cúng dường tài vật vui vẻ như vậy, phước báo
tương lai không thể nghĩ bàn. – Tân-đầu-lô nói rồi đi.
Một hôm,
ngài cùng Tôn giả Mục-kiền-liên có việc ra ngoài, tình cờ thấy ông
Thọ-đề-già dùng gỗ chiên đàn tốt nhất đẽo một cái bát, rồi đem bát treo
trên cây sào rất cao, sau đó tuyên bố:
- Ai có
thể không trèo, không dùng thang mà lấy được bát xuống, tôi sẽ tặng bát
cho người ấy.
Tin này
gây xôn xao khắp nơi, vì bát chiên đàn là bảo vật quí giá, người thường ai
cũng mơ có nó. Nhưng bát treo quá cao họ chỉ đứng nhìn trong thèm muốn mà
thôi.
Ấn Ðộ
lúc bấy giờ có rất nhiều bọn ngoại đạo bản lĩnh cao cường cũng dồn dập kéo
đến trước. Song, xét cho cùng thì pháp thuật của họ còn non kém nên cứ
nhảy tới nhảy lui mãi mà vẫn không tới được cây, rốt cuộc không ai lấy
được bát.
Khi ấy,
Tân-đầu-lô nói với ngài Mục-kiền-liên:
- Này
hiền giả! Ngài là vị đại đệ tử thần thông đệ nhất của đức Thế Tôn, sao
không đến thử xem?
Mục-kiền-liên đáp:
- Bay
lên để lấy bát chẳng có ý nghĩa gì cao cả. Tôi không thích!
- Nhưng
lấy được bát cũng chứng minh được Phật pháp vi diệu hơn ngoại đạo chứ! –
Tân-đầu-lô không đồng ý với quan điểm của ngài Mục-kiền-liên.
Thấy
Tân-đầu-lô không tán thành, ngài Mục-kiền-liên đành nói:
- Vậy
thì một mình ngài đến thử đi!
Tân-đầu-lô liền vận thần thông bay lên không, lượn quanh cây sào bảy vòng
rồi đưa tay lấy bát. Sau đó, từ từ trở xuống đất trong dáng vẻ nhẹ nhàng
hân hoan với tiếng vỗ tay reo hò của hàng vạn người.
Nhưng
sau khi về đến tinh xá, ngài bị đức Phật quở trách:
- Trước
mặt thiên hạ mà biểu diễn thần thông, không những chẳng ích lợi gì cho
việc hoằng dương Phật pháp, trái lại dễ làm mọi người ngộ nhận cho rằng tu
học Phật pháp cũng chỉ để biểu diễn thần thông phi thường mà thôi.
- Bạch
đức Thế Tôn! Lần sau con không dám nữa. - Tân-đầu-lô xấu hổ thưa.
- Ðược
rồi, đừng buồn! Nhưng ông đã biểu diễn rồi mọi người ai cũng kính phục
ông. Vì vậy, ông sẽ phải tiếp tục lưu lại thế gian, vĩnh viễn không được
ra đi để làm phước điền cho chúng sanh gieo trồng thiện căn.
Tân-đầu-lô vâng lời Phật dạy nên hơn hai ngàn năm nay, ngài luôn lưu lại
thế gian thay tên đổi họ, tiếp tục không ngừng nỗ lực hoằng dương Phật
pháp, chỉ vì chúng ta phàm phu không nhận ra ngài thôi.
Ngoài
ra, còn một số tích nữa có thể chứng minh Tân-đầu-lô vẫn thường cùng sinh
hoạt quanh chúng ta:
Vào thời
Ngũ đại, vua nước Ngô Việt là Tiền Lưu rất thâm tín Phật pháp. Lần nọ, vua
tổ chức một pháp hội lớn chưa từng thấy để cúng dường Tăng chúng các nơi.
Quần thần có người tâu:
- Thưa
đại vương! Ngài nên giữ lại một chỗ tốt nhất chờ đón bậc đại A-la-hán.
- Chờ
ai? – Vua hiếu kỳ hỏi
- Thưa
đại vương! Ðó là Tôn giả Tân-đầu-lô, vì từ xưa đến nay chỉ cần người nào
thiết lễ trai diên cúng dường Tăng chúng và thành kính cung thỉnh thì
không lần nào mà ngài không đến.
Tuy bán
tín bán nghi, nhưng vua vẫn để dành một chỗ tốt nhất cho vị khách quý
không cho bất kỳ ai ngồi vào đó.
Pháp hội
tiến hành tưng bừng náo nhiệt, mãi đến khi hoàng hôn buông xuống thì bỗng
nhiên xuất hiện một vị Hòa thượng lạ, tướng mạo gầy ốm, lông mày vừa trắng
vừa dài, từ hướng núi phía tây bay qua cửa sổ, đến ngồi trên chỗ của khách
quý ăn uống vui vẻ. Lát sau, ngài đứng dậy nói với mọi người:
- Cúng
dường Tam bảo công đức vô lượng! Ha ha, ta là Tân-đầu-lô. Ta đi đây!
Ấn Ðộ
vào thời vương triều Khổng Tước, vua A-dục là một Phật tử rất thuần thành.
Có lần, vua thỉnh ba mươi vạn vị Hòa thượng đến hoàng cung thọ trai. Chỗ
ngồi trong và ngoài hoàng cung, chư vị Hòa thượng đã an tọa đầy đủ, duy
chỉ còn lại chỗ tốt nhất vẫn không có ai ngồi.
Vua
A-dục thấy lạ hỏi:
- Sao
chỗ này không ai ngồi?
Các vị
Hòa thượng đáp:
- Ðây là
chỗ của Tôn giả Tân-đầu-lô. Ðại vương hãy chí thành cung thỉnh, Tôn giả
nhất định sẽ đến.
Nghe
xong, vua chắp tay ngưỡng vọng lên trời, chốc lát quả nhiên thấy
Tân-đầu-lô và chúng đệ tử từ từ trên trời bay xuống.
Công
nguyên năm 490, Lương Võ Ðế bị một cơn bạo bệnh, bất kỳ danh y nào xem
cũng nói không qua khỏi, dường như sắp băng hà.
Khi ấy,
Lương Võ Ðế hạ chỉ khắp nước:
- Ai trị
lành được bệnh của ta, ta sẽ đem số châu báu trong nước chia cho một nửa.
Tối đến,
vua nằm mộng thấy một vị Hòa thượng diện mạo gầy ốm, đôi mắt sáng quắc nói
với mình rằng:
- Bệnh
của ông là do ham thích hưởng thụ phú quý, không đoái hoài gì đến sự đói
khát cơ hàn khốn khổ của nhân dân. Do đó, muốn khỏi bệnh phải khai mở quốc
khố, cứu giúp muôn dân nghèo khổ, cúng dường mười phương Tăng chúng, đồng
thời phải tự mình gieo trồng thiện căn công đức.
Lương Võ
Ðế làm theo lời vị Hòa thượng ấy dạy, không lâu bệnh quả nhiên khỏi. Vô
cùng cảm kích trước ơn cứu mạng của vị Hòa thượng kia, nhưng không được
thấy mặt nên vua lập một hương án trong vườn hoa chí thành cầu nguyện, hy
vọng vị ân nhân cứu mạng hiện thân. “Hữu cảm tất thành, hữu cầu tất ứng”,
thật vậy đến nửa đêm, Hòa thượng từ trên trời bay xuống nói với Lương Võ
Ðế rằng:
- Ta
chính là Tân-đầu-lô. Sau này, ông nên dốc sức hộ trì Phật pháp.
Vào đời
Ðông Tấn, pháp sư Ðạo An
là bậc cao Tăng phiên dịch kinh điển ở Trung Quốc. Trong lúc dịch, ngài
thường ngần ngại cho chỗ dịch của mình không lột tả hết được bổn ý Phật
dạy nên luôn ưu tư bất an.
Một hôm,
ngài ngưỡng mặt lên trời nguyện:
- Nếu
như chỗ phiên dịch của con không sai lệch ý chỉ Phật pháp thì xin chư hiền
thánh hiển lộ thần tích cho con thấy.
Tối hôm
đó, ngài nằm mộng thấy một vị Hòa thượng lông mày trắng nói với ngài rằng:
- Ta là
Tân-đầu-lô ở đất Ấn Ðộ. Lấy tư cách là một vị đại A-la-hán đắc quả, ta bảo
chứng những kinh điển ông dịch đều rất chính xác.
Căn cứ
vào những giai thoại ngắn trên, ta thấy Tôn giả Tân-đầu-lô luôn phụng hành
di chúc của Phật, vĩnh viễn lưu lại nhân gian hoằng dương Phật pháp. Và
theo ghi chép trong Pháp trụ ký thì hiện tại, ngài đang cùng
một ngàn vị đệ tử trú tại Tây-cù-đà-ni Châu.
2.
CA-NẶC-CA-PHẠT-SA
Tôn giả Ca-nặc-ca-phạt-sa
là vị La-hán thứ hai trong mười
sáu vị La-hán, có người gọi là
Yết-nặc-ca-phược-sa. Ðức Thế Tôn thường xưng tán ngài là vị La-hán
phân biệt thị phi, thiện ác rõ ràng nhất. Hiện tại, ngài cùng năm trăm vị
đệ tử trú ở nước Thấp-di-la.
Khi chưa xuất gia, Ca-nặc-ca-phạt-sa là
người rất tuân thủ khuôn phép. Dù nói năng hay làm việc, ngài đều
nhất nhất giữ gìn, thậm chí ngay cả một ý nghĩ xấu cũng không dám nghĩ. Có
nhân duyên được xuất gia, tiếp nhận lời Phật dạy, Ca-nặc-ca-phạt-sa càng
nỗ lực tinh tấn tu tập. Nhờ những thiện căn công đức gieo trồng được lúc
trước nên ngài chứng quả La-hán rất mau.
Sau khi
ngộ đạo, Ca-nặc-ca-phạt-sa du hóa khắp nơi hoằng pháp độ sanh. Ngài thấy
trong sinh hoạt hằng ngày, mọi người thường vô ý gây nhiều nghiệp ác,
tương lai phải chiêu cảm khổ báo trong địa ngục mà nguyên nhân là do những
tạo tác vô minh của chính bản thân. Cho nên, mỗi khi đến các nơi thuyết
pháp, ngài thường xiển minh giáo lý nhân quả, thiện ác để chúng sanh phân
biệt rõ ràng cái nào thiện, cái nào ác.
Có lần,
đi ngang qua thôn trang nọ, ngài thấy một gia đình đang giết vô số trâu,
dê, gà, vịt để làm yến tiệc mừng thọ nhân ngày sinh nhật.
Ca-nặc-ca-phạt-sa cố ý đến trước nhà hóa
duyên.Gia đình này cũng tin Phật nên tiếp đãi ngài rất thân thiết, nồng
hậu.
- Chúc
mừng, chúc mừng! – Ca-nặc-ca-phạt-sa chắp tay chúc phúc.
- Cảm ơn
sư phụ chúc thọ. – Ông cụ vui vẻ đáp lễ.
Nhân đó,
Ca-nặc-ca-phạt-sa chuyển đề tài hỏi:
- Nhưng
mà, này ông cụ! Sao ông muốn tổ chức mừng sinh nhật? Có phải vì muốn sống
lâu trăm tuổi không?
Ông cụ
cười ha hả đáp:
- Ðúng
vậy, con cháu tôi tổ chức mừng thọ đúng là muốn tôi sống lâu trăm tuổi.
- Nhưng,
này ông cụ! Ông có biết cách tổ chức mừng thọ như thế chẳng những không
làm ông sống lâu, trái lại còn khiến ông mau chết không? –
Ca-nặc-ca-phạt-sa nghiêm giọng hỏi.
- Thật
sao? Sao vậy? – Ông cụ giật mình kinh sợ, nét mặt tươi cười biến mất.
Ca-nặc-ca-phạt-sa nghiêm nghị nói:
- Vì
trên đời này chỉ có người có lòng vị tha, nhân ái mới trường thọ diên
niên. Nếu như ích kỷ vì muốn bản thân mình sống lâu hạnh phúc mà giết hại
vô số sinh mạng, khiến chúng đau đớn rên xiết thống thiết, người tàn nhẫn
như vậy sao có thể trường thọ được?
- Ồ, ra
là vậy, xin hỏi sư phụ, tôi phải làm thế nào mới phải? – Ông lão hỏi.
- Ðức
Phật từng dạy rằng, sinh nhật là ngày khó khăn của mẹ, ngày mà mẹ chúng ta
chịu nhiều đau đớn khó nhọc. Vì vậy, bổn phận làm con phải ghi nhớ công ơn
trời biển của mẹ, phải biết chia xẻ cảm thông với nỗi đớn đau của mẹ. Do
đó, hôm nay chẳng những không được ăn uống vui chơi, trái lại nên tịnh tâm
suy niệm ơn đức cha mẹ, quyết chí tinh tấn tu tập để thành tựu đạo nghiệp.
Có như thế mới an ủi được lòng mẹ trong muôn một.
Nghe
Ca-nặc-ca-phạt-sa giảng dạy, ông lão vô cùng cảm động.
Suốt
cuộc đời, Tôn giả Ca-nặc-ca-phạt-sa du hóa khắp nơi, hoằng dương Phật
pháp. Ngài như ngọn hải đăng soi đường dẫn dắt chúng sanh trong biển khổ
quay về bến bờ thanh tịnh giải thoát.
3.
CA-NẶC-CA-BẠT-LY-NỌA-XÀ
Tôn giả
Ca-nặc-ca-bạt-ly-nọa-xà là vị La-hán thứ ba trong mười sáu vị La-hán. Ngài
là vị đại đệ tử được đức Phật giao phó giáo hóa vùng Ðông Thắng Thần Châu.
Ðông
Thắng Thần Châu nằm trong biển Hàm Hải phía đông núi Tu Di. Tôn Ngộ Không
trong “Tây du ký” sinh tại Hoa Quả sơn nước Ngạo Lai chính là thuộc Ðông
Thắng Thần Châu.
Thuở quá
khứ khi còn tu hành hạnh Bồ-tát, Ca-nặc-ca-bạt-ly-nọa-xà từng đầu thai làm
con chim ưng rất thâm tín, ủng hộ Phật pháp.
Một hôm,
đang đậu nghỉ trên cây, chim nghe mấy vị Hòa thượng ở dưới nói chuyện.
- Ôi, đã
mười ngày chúng ta không ăn gì rồi.
- Tôi
đói đi không nổi nữa.
- Kỳ lạ,
thần Hộ Pháp già lam đi đâu hết rồi nhỉ?
Nghe
thấy hoàn cảnh đáng thương ấy, chim quyết định hy sinh thân mình để làm
thực phẩm cúng dường các vị hòa thượng. Vì thế, chim lập tức bay lên
không, rồi bổ nhào xuống ngay trước mặt hai vị Hòa thượng kia.
Cảm kích
trước nghĩa cử cao đẹp đó, các vị Hòa thượng chẳng những không ăn thịt mà
trái lại còn tụng kinh niệm Phật siêu độ cho chim.
Ðiều đó
cho thấy, Ca-nặc-ca-bạt-ly-nọa-xà xưa nay luôn là bậc thánh dũng khí ngất
trời, tiết nghĩa vẹn toàn, sẵn sàng xả thân vì nghĩa để cứu giúp muôn
loài.
Lúc bấy
giờ, quốc vương nước Tăng-già-la
ở Nam Hải không tin Phật pháp. Ca-nặc-ca-bạt-ly-nọa-xà liền nghĩ ra một
cách đến độ ông ta.
Sáng hôm
nọ, đang cầm gương soi mặt, quốc vương giật mình kinh sợ lớn tiếng gọi to:
- Người
đâu đến đây mau! Sao ta không thấy ta, người trong gương kia là ai?
Quần
thần vội chạy đến nhìn vào gương quả thật chẳng thấy quốc vương, trong
gương là một vị bạch y Ðại sĩ tay cầm cành dương chi và bình nước cam lồ,
khuôn mặt nở nụ cười từ ái.
Quốc
vương sắc mặt tái nhợt hỏi:
- Người
này là ai?
Trong
quần thần có người tin Phật đến trước cung kính thưa:
- Tâu đại vương! Xin
Người đừng sợ. Vị trong gương là đức Bồ-tát đại từ bi Quán Thế Âm.
- Ðược
rồi, hãy chiếu theo ảnh trong gương tạc một bức tượng giống vị Bồ-tát ấy!
- Quốc vương hạ lệnh.
Từ đó về
sau, nhân dân nước Tăng-già-la hết lòng tín ngưỡng Phật giáo.
Khi sang
Ấn Ðộ, pháp sư Huyền Trang trú ở chùa Na-lan-đà
và nghe các vị Hòa thượng trong chùa kể câu chuyện:
Sau khi
đức Phật Niết-bàn vài trăm năm, vua
Bà-la-a-điệt-đa
nước Ma-kiệt-đà
xây dựng chùa Ðại Phật. Hôm nọ, đến ngày lễ lạc thành chùa, vua
thỉnh mấy ngàn vị Hòa thượng đến cúng dường.
Lúc mọi
người bắt đầu thọ trai, bỗng nhiên có hai vị Hòa thượng từ không trung bay
xuống đứng trên nóc điện Phật. Cả chúng hội ai cũng cảm thấy kỳ lạ và kinh
ngạc.
- Xin
hỏi các ngài từ đâu đến? - Vua hỏi.
- Ta từ
Tây-cù-đà-ni Châu đến. - Vị lông mày trắng đáp.
- Ta từ
Ðông Thắng Thần Châu đến. - Vị kia đáp.
- Các
ngài có phải là hai vị đại A-la-hán Tân-đầu-lô và Ca-nặc-ca-bạt-ly-nọa-xà
không? - Vua hỏi tiếp.
- Ðúng
vậy, chính chúng tôi đây!
- Xin
thỉnh các Ngài xuống. Không ngờ hôm nay đã cách Phật diệt độ mấy trăm năm
rồi mà Phật tử đời sau chúng con vẫn còn có nhân duyên được thấy các
Ngài.- Quốc vương vui mừng, nét mặt rạng rỡ.
- Này
các vị, mười sáu vị La-hán chúng tôi sẽ mãi mãi lưu lại thế gian, cùng tu
tập với tất cả Phật tử chí thành đời sau. - Tân-đầu-lô và
Ca-nặc-ca-bạt-ly-nọa-xà cười nói.
Thọ trai
xong, hai ngài bay lên trời, chớp mắt thì biến mất.
4. TÔ-TẦN-ÐÀ
Tôn
giả Tô-tần-đà là vị La-hán thứ tư trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài
cùng bảy trăm vị đệ tử trú tại Bắc-câu-lô
Châu. Bắc-câu-lô Châu còn gọi là Bắc-uất-đơn-việt nằm phía bắc núi Tu Di.
Cá tánh Tô-tần-đà tương đối
hướng nội. Thường ngày, ngài tu tập rất tinh nghiêm, giúp người nhiệt
tình, nhưng ít thích nói chuyện.
Mỗi lần
đức Phật có việc ra ngoài, Tô-tần-đà
hiếm khi đi theo. Ngài chỉ thích ở lại tịnh thất yên lặng đọc
sách hoặc quét dọn sân tinh xá.
Có người phê bình
cách nói chuyện của ngài không hay. Ðức Phật biết được, Ngài an ủi:
- Này
Tô-tần-đà, cách nói chuyện hay hay không hay không liên quan gì đến vấn đề
giác ngộ, giải thoát. Mọi người chỉ cần y theo những pháp môn ta đã giảng
dạy mà thực hành thì dù không nói câu nào cũng thành tựu đời sống thanh
tịnh giải thoát.
Có lẽ
đúng thật là ít thích nói chuyện, nên Tô-tần-đà hiếm khi lãng phí thời
gian vào việc tán gẫu. Ngài dành trọn thời giờ để đọc sách, tọa thiền. Do
đó, ngài chứng quả La-hán rất sớm.
Ðương
thời, vua nước Án-đạt-la
muốn xây một tinh xá u tịch thoáng mát tại núi Hắc Phong,
nhưng ngặt nỗi tìm không ra những tảng đá cực lớn kiên cố. Thấy vậy,
Tô-tần-đà liền vận thần thông chỉ trong một đêm từ bên kia sông Hằng mang
đến vô số đá lớn.
Khi tinh
xá đã xây hoàn thành thì quốc vương lại chau mày than thở. Hóa ra quốc
vương muốn dùng vàng tôn tạo một tượng Phật lớn đặt trong tinh xá nhưng
tiếc thay kho lẫm quốc gia không có nhiều vàng đến thế.
Khi ấy,
Tô-tần-đà lấy trong đẫy ra một bình nước thuốc. Chỉ thấy ngài nhỏ vài giọt
xuống phiến đá; phiến đá lập tức biến thành vàng.
Quốc
vương thấy vậy trong lòng rất vui, liền cho gọi một người thợ giỏi nhất
đến lấy vàng tạc tượng Phật để nhân dân chiêm ngưỡng lễ bái.
Năm trăm
năm sau khi đức Phật diệt độ, Tô-tần-đà hiện thân nhiều lần tại thành
Bà-la-đổ-la nước Kiện-đà-la
ở Ấn Ðộ thời bấy giờ.
Có lần,
trên đường du hóa từ nước Ca-thấp-di-la
đến nước Kiện-đà-la, ngài gặp một ông Bà-la-môn đang cầm roi đánh đập con
mình. Ðứa bé bị đánh mình đầy vết roi, la khóc rất đáng thương.
Tô-tần-đà hỏi Bà-la-môn:
- Dạy dỗ
con cái, việc gì phải dùng tới đánh đập?
- Không
đánh không nên người được!
- Muốn
con cái nên người không phải đánh đập là thượng sách, mà phải biết tùy
theo khả năng, trình độ của con để dạy mới đúng.
- Không
bao giờ có chuyện đó! - Bà-la-môn không đồng ý.
Tô-tần-đà
lấy ví dụ để giải thích:
- Ông
chưa rõ phải không? Ông thử nghĩ xem tại sao cây khế kia liên tiếp mấy mùa
không đơm hoa kết trái và tại sao cây táo lại ra quả èo ọt như nho? Chúng
ta chỉ cần siêng năng chăm sóc tưới nước, bón phân thì chắc chắn cây khế
và cây táo sẽ đơm hoa kết trái tốt hơn.
Bà-la-môn nghe lời Tô-tần-đà nói có lý hỏi:
- Như
vậy, ngài bảo tôi phải dạy con như thế nào?
- Theo
tôi thấy, con ông có duyên với Phật, ông nên cho nó xuất gia. Công đức
xuất gia không thể dùng ngôn ngữ văn tự nghĩ bàn được đâu!
Bà-la-môn liền chấp thuận cho đứa con yêu quí của mình xuất gia.
Có thể
thấy, sau khi chứng quả, biện tài của ngài chẳng thua kém ai! Ngay cả ông
Bà-la-môn lời lẽ sắc bén kia cũng không phải là đối thủ của ngài.
5. NẶC-CỰ-LA
Tôn giả
Nặc-cự-la là vị La-hán thứ năm trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài
cùng hơn tám trăm vị đệ tử trú tại Nam Thiệm-bộ Châu.
Nam
Thiệm-bộ Châu còn gọi là Nam Diêm-phù-đề nằm trong biển lớn phía nam núi
Tu Di.
Nặc-cự-la chứng quả rất sớm. Ðương thời, có vị ngoại đạo tên
Uất-đầu-lam-tử, công phu thiền định của ông ta rất cao, có thể tọa thiền
suốt ba tháng.
Có lần,
Uất-đầu-lam-tử nói với Nặc-cự-la:
- Tôi
không tin Phật pháp cũng không cần tu theo phương pháp của Phật nhưng vẫn
đắc được định lực, đạt đến cảnh giới nhất tâm bất loạn.
- Ồ
không, ông sai rồi! Thiền định nhà Phật không giống cách tọa thiền của
ngoại đạo. Công phu nhà Phật vượt qua sự quán chiếu bằng trí tuệ, nhẫn
nhục thử thách, nghiêm trì tịnh giới mới đạt được, vả lại khi đạt đến rồi
thì không bao giờ thối chuyển. Còn ông theo phương pháp tu luyện của ngoại
đạo, tuy đạt được định lực, song chỉ là tạm thời không thể an trú vĩnh
viễn trong pháp lạc thanh tịnh giải thoát, một khi bị hoàn cảnh bên ngoài
quấy nhiễu, định lực sẽ hủy hoại, tán loạn.
- Hừ,
ông còn kém lắm! – Uất-đầu-lam-tử không tin.
Thấy
Uất-đầu-lam-tử không tin, Nặc-cự-la cũng không phản bác lại. Ngài lặng lẽ
bỏ đi. Dù sao thì sự thật sẽ chứng minh tất cả.
Ðương
thời, vua nước Ma-kiệt-đà rất tôn kính Uất-đầu-lam-tử. Vua cho rằng pháp
thuật và công phu thiền định của ông ta hơn hẳn Nặc-cự-la nên cứ cách mỗi
nửa tháng thì tổ chức một lần trai diên để cúng dường Uất-đầu-lam-tử. Mỗi
lần đến, ông ta đều bay từ không trung xuống, thần khí phi thường.
Lần nọ,
vua có việc đi xa có thể phải mất ba tháng mới về. Sắp đi, vua gọi đến một
thể nữ vừa đẹp, vừa biết hầu hạ dặn cứ cách năm ngày phải luộc rau thật
ngon chiêu đãi Uất-đầu-lam-tử.
Ðược thể
nữ tiếp đãi tận tình chu đáo, Uất-đầu-lam-tử vô cùng thích thú, trong lòng
bỗng nảy ra ý nghĩ: “Thể nữ này vừa xinh vừa luộc rau ngon, hầu hạ lại hết
lòng, nếu như được bầu bạn luôn bên ta, điều đó há chẳng phải là sung
sướng biết chừng nào sao?!”
Do mống
khởi ý niệm này mà công phu thiền định bấy lâu của Uất-đầu-lam-tử đều tiêu
mất, không bay được nữa. Ông ta đành đi bộ về lại chỗ mình ở.
Uất-đầu-lam-tử kinh sợ, thấy không thể coi thường nên vội kiết già tọa
thiền để công lực khôi phục lại. Nhưng khi mới ngồi xuống thì trong đầu
hiện lên toàn giọng nói và hình bóng của thể nữ, ông ta không thể nhập
định được.
Uất-đầu-lam-tử chạy đến rừng ngồi thì tiếng kêu rú của chim thú vang lên
trong tai. Ông ta chạy đến bên sông thì lại nghe tiếng huyên náo của các
loài cá, ba ba dưới nước. Không nhập định được, ông ta căm ghét bọn chúng,
giận dữ lập một ác nguyện: “Ta nguyện đời sau đầu thai làm một quái vật,
trên trời quắp hết các loài chim, dưới đất vồ chụp hết dã thú, trong nước
túm bắt tất cả cá, ba ba.”
Vì khởi
ác niệm như thế nên toàn bộ công phu thiền định trước kia của ông ta đều
tiêu mất. Ðáng thương hơn là sau khi chết, ông ta bị đọa vào địa ngục thọ
khổ.
Nặc-cự-la dùng thiên nhãn thông thấy Uất-đầu-lam-tử đọa địa ngục. Ngài
than, rồi nói với vua:
- Ðó
chính là chỗ pháp tu không rốt ráo của ngoại đạo, những phiền não cơ bản
của con người, ông ta chưa diệt trừ hết.
- Ngài
nói sao? - Vua hỏi.
- Tôi ví
dụ phiền não giống như cỏ độc, chúng ta nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, nếu chỉ
dùng lưỡi liềm cắt thì không lâu nó sẽ mọc dài ra lại.
- À,
Ngài nói có lý.
Lúc này, vua mới hiểu Phật
pháp chân chánh đáng quý và phát khởi niềm tôn kính Tôn giả Nặc-cự-la vô
hạn. Từ đó, vua dốc lòng ủng hộ hoằng dương Phật giáo.
--- o0o ---
Mục Lục
|
Phần 1
|
Phần 2
|
Phần 3
|
Phần 4
--- o0o ---
Mục Lục Pháp Tạng- 20
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-04-2004