THẬP BÁT LA-HÁN
Trước tác: Lâm Thế Mẫn.
Việt dịch: Thích Ðạo Luận.
--- o0o ---
MƯỜI TÁM VỊ LA-HÁN
Phần 2: (6-10)
6. BẠT-ÐÀ-LA
Tôn giả Bạt-đà-la là vị
La-hán thứ sáu trong mười sáu vị La-hán, là vị đại đệ tử thường theo hầu
đức Phật lúc Ngài ở tinh xá cũng như khi ra ngoài. Hiện tại, ngài cùng
chín trăm đệ tử trú tại Ðam-một-la Châu.
Trong
các tự viện ở Trung Quốc, Bạt-đà-la thường được thờ trong nhà tắm. Vì sao
như vậy? Giai thoại kể về ngài như sau:
Bạt-đà-la là người chuộng sạch sẽ, rất thích tắm. Khí hậu Ấn Ðộ lại nóng
nên mỗi ngày hễ có thời gian rảnh là ngài nhảy xuống sông tắm; nếu không
thì ngồi xổm bên giếng xách nước xối ào ào từ đầu xuống chân.
Tắm vốn
là việc tốt, nhưng tắm kiểu Bạt-đà-la một ngày từ một, hai đến mười lần
như vậy thật quá lãng phí thời gian. Do đó, ngài thường vì tắm mà trễ nãi
rất nhiều công việc khác phải làm và hay bị mọi người quở trách.
Chẳng
hạn như đến giờ thọ trai, ai nấy đều xếp hàng ngay ngắn ôm bát vào trai
đường nhưng chỉ có một mình ngài vắng mặt. Khi ngài tắm xong, cơm rau cũng
bị người khác dùng hết. Vì thế, ngài thường bị đói.
Nhiều
buổi công phu tối, mọi người đang xướng tán, tụng kinh, tọa thiền trong
chánh điện thì ngài lại lén ra ngoài đi tắm, mỗi lần tắm mất cả buổi. Thậm
chí ngủ nửa đêm, ngài còn thức dậy đi tắm. Nghe nói có khi một đêm, ngài
tắm đến năm, sáu lần.
Có người
đem thói quen kỳ quặc này bạch lên đức Phật. Ðức Phật gọi ngài đến hỏi:
- Này
Bạt-đà-la, ông thích tắm lắm phải không?
- Dạ
phải, bạch Thế Tôn! Con rất thích tắm.
Ðức
Phật hỏi tiếp:
- Vì sao
ông thích tắm?
- Dạ vì
tắm tẩy sạch được mồ hôi xú uế, khiến thân thể cảm thấy mát mẻ, sảng
khoái, nhẹ nhàng.
- Ðúng
vậy, này Bạt-đà-la! Tắm có 5 điều tốt: một, tẩy sạch các cấu bẩn; hai,
khiến thân thể thanh khiết; ba, trị được cảm mạo; bốn, giúp thân thể khỏe
mạnh; năm, thân tâm được thanh tịnh vui vẻ, cởi mở. Nhưng ông biết tắm
phải như thế nào không?
- Dạ
đương nhiên là con biết. Mỗi lần tắm, con đều dùng nước kỳ sạch sẽ những
chỗ dơ trên thân. - Bạt-đà-la nói rất chắc chắn.
Ðức
Phật cười nói:
- Không
đâu, này Bạt-đà-la! Cách tắm đó chỉ tẩy được những cấu uế trên thân không
tẩy được cấu uế trong tâm.
Trước
đây chưa từng nghe cách tẩy tâm, Bạt-đà-la thấy lạ hỏi:
- Bạch
đức Thế Tôn! Tắm còn có thể tẩy được cấu uế trong tâm sao?
- Ðúng
vậy! Ai hiểu đúng cách tắm ấy thì người đó tẩy sạch được cả trong lẫn
ngoài.
Bạt-đà-la sốt ruột muốn biết, bèn hỏi:
- Bạch
Thế Tôn! Con phải tắm như thế nào mới được?
Ðức
Phật từ ái dạy:
- Này
Bạt-đà-la! Khi tắm phải nghĩ như vầy: “tâm ta thường bị phiền não tham,
sân, si, mạn, nghi, ích kỷ, đố kỵ, ganh tỵ, vị kỷ... làm nhiễm ô, do đó
phải dùng nước thanh tịnh tẩy chúng. Tuy không thể một, hai lần là tẩy
sạch, nhưng ngày nào cũng tinh tấn thì ắt có ngày thân tâm sẽ được thanh
tịnh an lạc.”
Sau khi
tiếp nhận lời Phật dạy, ngài hiểu đúng phương pháp và ý nghĩa đích thực
của việc tắm rửa rồi theo đó hành trì, không lâu thì giác ngộ chứng quả
A-la-hán.
Thấy lợi
ích thiết thực của việc tắm, ngài bảo mọi người:
- Này
các vị! Ngày nào cũng tắm rửa, chúng ta thấy việc ấy rất bình thường,
nhưng đó lại là một pháp tu hữu dụng, gần gũi thiết thực nhất trong cuộc
sống đấy!
Từ đó, ngài
quyết định phụng sự cho chúng sanh hậu thế, dạy họ cách tắm, giúp hàng vạn
người cũng giác ngộ như ngài. Nghe nói, người đời sau nếu như khi tắm
không khéo phản tỉnh tư duy, nhớ nghĩ điều thiện thì ngài sẽ lén gãi vào
tai hoặc đánh vào người họ.
7. CA-LÝ-CA
Tôn giả
Ca-lý-ca là vị La-hán thứ bảy trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài
cùng môt ngàn vị đệ tử trú tại Tăng-già-trà Châu. Tăng-già-trà Châu tức
Tích Lan (Srilanka) ngày nay.
Phần
trước, chúng tôi đã giới thiệu Tôn giả Nan-đề-mật-đa-la cũng là người Tích
Lan. Tích lan chỉ là một hòn đảo nhưng lại có hai vị đại A-la-hán đản
sanh. Thật là một điều vinh hạnh đáng tự hào.
Hơn hai
ngàn năm trăm năm trước, đức Phật từng bảo:
- Này
Ca-lý-ca! Ông là bậc A-la-hán đạo cao đức trọng. Ông sẽ cùng mười lăm vị
La-hán kia lưu lại nhân gian mãi đến khi nào Bồ-tát Di Lặc ra đời, các ông
mới được ra đi.
Ca-lý-ca
thưa:
- Bạch
đức Thế Tôn! Nhưng thế gian rộng lớn như vậy con biết ở nơi nào?
Ðức
Phật bảo:
- Ồ, ông
nên ở lại Tăng-già-trà Châu, quê hương của ông.
Từ đó,
ngài đưa một ngàn vị đệ tử đến trú tại Tăng-già-trà Châu.
Khi còn tại
thế, đức Phật từng đến đảo Tích Lan thuyết pháp, giảng kinh cho vua Dạ Xoa
nghe. Bộ “kinh Lăng già” nổi tiếng được giảng tại đây. Ca-lý-ca cũng là
một trong số đệ tử theo Phật đến Tích Lan.
Lúc đức Phật
sắp rời đảo, vua Dạ Xoa theo hầu không rời nửa bước, rồi quỳ sát đất cung
kính thưa:
- Kính lạy
đấng Từ bi giáo chủ của trời người, xin thương xót chúng sanh ở đảo chúng
con mà lưu lại một vật kỉ niệm gì đó có giá trị để cho hậu thế tin Ngài đã
từng đến đây thuyết pháp, giảng kinh.
Cảm động
trước lòng thành kính của Dạ Xoa, đức Phật hứa khả lời thỉnh cầu.
Khi ấy mọi
người suy đoán: “ Ðức Thế Tôn sẽ để lại gì đây?”
- Có thể là
chiếc áo cà sa!
- Có lẽ là
một đôi dép!
- Chắc là
một chuỗi hạt!
Nhưng không
ai đoán đúng cả, chỉ thấy đức Phật từ từ đưa chân phải lên rồi nhẹ nhàng
để xuống. Bỗng nhiên, đại địa chấn động, núi non rung chuyển.
Lát sau,
đức Phật chỉ xuống chân nói:
- Ta để lại
cái này!
Mọi người
trố mắt nhìn, chẳng biết từ lúc nào trên đất đã in một dấu chân thật lớn.
- Chúng con
xin đê đầu đảnh lễ thành kính tri ơn Thế Tôn. Bạch đức Thế Tôn! Sau này,
chúng con sẽ gọi núi này là núi “Phật Túc Sơn”
được không? - Vua Dạ Xoa thưa.
- Tốt lắm!
Cứ gọi núi này là “Phật Túc Sơn”.
Ðáp lời Dạ
Xoa xong, đức Phật quay sang Ca-lý-ca bảo:
- Ðúng
rồi, Ca-lý-ca! Sau này, ông nên lưu lại nơi đây dạy bảo mọi người hằng
ngày đến lễ bái, gìn giữ thánh tích này cho trang nghiêm.
- Thưa
vâng, bạch Thế Tôn! Con nhất định sẽ phụng hành. - Ca-lý-ca cung kính đáp.
Phật Túc
Sơn lúc bấy giờ là thánh địa nổi tiếng khắp nơi, dân chúng chen nhau đến
lễ bái. Nhưng trải qua một thời gian, nó dần dần chìm vào quên lãng. Con
đường nhỏ lên núi cũng bị cỏ hoang phủ kín.
- Phải làm
sao đây? – Ca-lý-ca tự hỏi.
Trong thời
gian đó, vua Tích Lan là Ba-đạt-gia-mã-ni-a-ba-á bị bại trận, vì trốn chạy
kẻ địch truy đuổi nên núp trong sơn động. Một hôm, quốc vương thấy một con
nai hoa rất đẹp xuất hiện trước cửa động nhìn mình không chớp mắt, không
cầm lòng được vua thốt:
- Ô, nai
rừng đẹp quá!
Thế mà lạ
thay, vua bỗng như người bị mộng du bước đi theo nai. Khi gần lên núi, nai
biến mất. Ðang còn cảm thấy kỳ lạ thì vua phát hiện trên đỉnh núi cách đó
không xa có ánh hào quang lấp lánh.
Quốc vương
giật mình kinh sợ nghĩ trên đó có địch mai phục vội chạy núp vào bụi cỏ.
Nhưng qua cả buổi mà vẫn không thấy động tĩnh gì, lúc này vua mới mạnh dạn
bước ra, tiến về phía trước nhìn xung quanh, cuối cùng phát hiện dấu chân
Phật. Thế là danh tiếng Phật Túc Sơn được tiếp tục lưu truyền. Thì ra, con
nai hoa kia chính là do Tôn giả Ca-lý-ca biến.
Trải qua
không biết bao nhiêu triều đại, Phật Túc Sơn lại bị trôi dần vào quên
lãng. Do không có người lên núi nên nó đã bị cỏ hoang phủ kín lối đi.
- Phải làm
gì đây? – Ca-lý-ca trăn trở.
Khi đó,
dưới chân Phật Túc Sơn có một vườn hoa của vua Tích Lan rất lớn; trong
vườn trồng nhiều loài hoa quí hiếm. Những lúc rảnh rỗi, vua thường dạo
chơi ngắm hoa, thưởng thức cảnh ong bướm bay đầy trời với muôn màu hoa
thơm cỏ lạ.
Nhưng sáng
hôm nọ, khi đến vườn hoa, vua phát hiện mấy cành hồng mà mình yêu thích bị
ai đó bẻ đi rất nhiều. Vua giận dữ quát:
- Ðáng
ghét! Ðứa nào dám bẻ hoa của ta hả?
Liên tiếp
mấy ngày, hoa trong vườn không ngừng bị kẻ trộm ngắt bẻ. Cuối cùng, vua
phái người mai phục bốn phía vườn hoa suốt đêm và bắt được tên trộm bẻ
hoa. Thì ra là một thiếu nữ xinh đẹp.
Quốc vương
chỉ vào thiếu nữ mắng:
- Con bé
chết tiệt kia, sao ngươi dám trộm hoa của ta!?
- Dạ thưa
bệ hạ, con bẻ hoa để cúng Phật. - Thiếu nữ chắp tay đáp.
- Láo toét!
Gần đây không có chùa lấy đâu ra Phật mà lễ bái cúng dường! - Quốc vương
cho rằng thiếu nữ nói dối.
- Thưa bệ
hạ! Con không gạt ngài đâu. Trên núi này có dấu chân Phật để lại. - Thiếu
nữ đưa tay chỉ vào đám sương mù mờ mịt và những ngọn cây cao hơn hai ngàn
ba trăm thước trên núi nói.
Quốc vương
bán tín bán nghi, nhưng vì muốn vạch trần lời nói dối của thiếu nữ nên
ngài đích thân lên núi. Khi lên tới nơi, bất chợt vua giật mình kinh sợ vì
quả nhiên thấy dấu chân Phật. Quốc vương vội đảnh lễ dấu chân Phật. Nhưng
khi ngẩng đầu lên thì không biết thiếu nữ kia đã biến đi về hướng nào.
Hóa ra,
thiếu nữ xinh đẹp kia chính là do Ca-lý-ca biến thành. Ngài dẫn vua Tích
Lan phát hiện ra Phật Túc Sơn một lần nữa. Từ đó, Phật Túc Sơn
luôn được khắc sâu trong lòng người dân Tích Lan không còn bị lãng quên
nữa.
Cho đến
nay, lúc nào cũng có người lên núi. Nhất là mỗi năm đến ngày mười lăm
tháng ba âm lịch, phong trào quần chúng đến lễ bái thánh tích càng rầm rộ
không ngớt. Có được như vậy là nhờ ơn đức của Tôn giả Ca-lý-ca vâng lời
phó chúc của Phật trú tại Tích Lan hoằng dương Phật pháp.
8.
PHẠT-XÀ-LA-PHẤT-ÐA-LA
Tôn giả
Phạt-xà-la-phất-đa-la là vị La-hán thứ tám trong mười sáu vị La-hán. Hiện
tại, ngài cùng một ngàn một trăm vị đệ tử trú ở Bát-thích-noa Châu. Có
người nói ngài chính là Kim Cang Tử trong Mật tông Phật giáo Trung Quốc.
Phạt-xà-la-phất-đa-la có thể lực tráng kiện, dũng mãnh vô song, một tay
có thể nâng một con voi, nắm một con sư tử ném xa hơn mười mét.
Có lần,
Ðề-bà-đạt-đa và vua Vị Sanh Oán (tức vua A-xà-thế) bày mưu sát hại đức
Phật. Họ dùng rượu phục cho mười mấy con voi lớn uống say, đợi khi đức
Phật đi qua đường rồi đem thả chúng ra.
Ðám voi say
lồng lên như điên, chạy sồng sộc khắp nơi. Khi chúng sắp xông đến đức
Phật, Phạt-xà-la-phất-đa-la liền nhảy tới trừng vào chúng, không chút sợ
hãi. Nhờ thể lực và dũng khí hơn người, ngài xách đầu con voi chúa chế
phục, rồi bảo toàn bộ đám voi quỳ xuống thành kính sám hối đức Phật .
Phía bắc tinh
xá Trúc Lâm ở nước Ma-kiệt-đà tại Ấn Ðộ có ao Ca-lan-đà, đức Phật thường
đến đó giảng kinh thuyết pháp. Nước trong ao rất trong có thể uống và nấu
nướng. Uống nước ao này không những trị được bệnh mà còn khiến tinh thần
thoải mái sảng khoái. Nhưng sau khi đức Phật diệt độ, nước trong ao khô
dần và cuối cùng không còn giọt nào. Thấy thế, tín đồ ngoại đạo phao tin
nhảm:
- Phật pháp
suy vi rồi! Phật pháp sắp diệt rồi!
Nghe tin,
Phạt-xà-la-phất-đa-la từ
Bát-thích-noa Châu tức tốc trở về. Ngài đưa tay chỉ xuống ao, lập tức nước
trong ao đầy trở lại. Dân chúng đứng xem xung quanh rất đông ai cũng cảm
thấy kỳ lạ. Phạt-xà-la-phất-đa-la nói với mọi người:
- Này các
vị, mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi,
nước sông Hằng có thể khô cạn, nhưng chân lý mà đức Thế Tôn đã dạy thì
không bao giờ thay đổi. Các vị có biết vì sao nước trong ao khô không? Ðó
là vì mọi người không có niềm tin kiên cố nơi Phật pháp, không ai chịu dốc
sức hộ trì nên nước trong ao ngọt ngào mát mẻ như thế mới khô cạn. Nếu như
tất cả đều vâng theo lời Phật dạy, một lòng tín thọ phụng hành như lúc
Ngài còn tại thế thì tôi bảo đảm rằng nước trong ao sẽ không bao giờ khô.
Nghe
Phạt-xà-la-phất-đa-la nói, mọi người vô cùng xúc động, ngọn lửa thâm tín
Phật pháp tiếp tục được thắp lên. Quả nhiên từ đó, nước trong ao luôn
trong xanh, tràn đầy không bao giờ cạn.
Sau đức Phật diệt độ hơn chín trăm năm, Phạt-xà-la-phất-đa-la chuyển kiếp
đầu thai làm thái tử nước Ma-kiệt-đà tên là Phạt-xà-la, phụ vương là vua
Bà-la-a-điệt-đa. Trong thời gian tại vị, ngài dốc sức hoằng dương Phật
pháp, kiến lập rất nhiều tự viện. Ðiều đó cho thấy, Tôn giả thường xuyên
lưu lại nhân gian hộ trì Phật pháp, hóa độ chúng sanh.
9. THÚ-BÁC-CA
Tôn giả
Thú-bát-ca là vị La-hán thứ chín trong mười sáu vị La-hán. Ngài cùng chín
trăm đệ tử trú trong núi Hương Túy. Ngài còn một tên nữa là Tôn-đà-la
nhưng người đời thường gọi ngài là Thú-bát-ca.
Trước khi
tin Phật, Thú-bát-ca là một vị Bà-la-môn đạo cao đức trọng. Ngài nghe
nói thân Phật cao một trượng sáu thì trong lòng hoài nghi nên đến rừng
trúc chặt cây trúc dài một trượng sáu, rồi đi tới chỗ Phật. Ngài muốn đích
thân mình đo mới tin.
- Ông muốn
đo thân tôi cao bao nhiêu phải không? – Ðức Phật ôn tồn hỏi.
- Ðúng vậy,
tôi không tin Ngài cao đến thế. - Thú-bát-ca đáp.
- Ðược
thôi, ông đo đi!
Ðược đức
Phật đồng ý, Thú-bát-ca cầm sào đến đo. Lạ thay, ngài đo bất cứ cách nào
thân Phật cũng cao hơn sào một chút. Chưa chịu tin, ngài đi tìm một cái
thang dài rồi leo lên thang đo lại. Thế nhưng, thân Phật cũng cao hơn sào
một chút. Ðo đến mười mấy lần như vậy, không còn cái thang nào dài hơn nữa
mà thân Phật vẫn cao hơn sào. Lúc này, ngài mới tâm phục khẩu phục, thừa
nhận đức Phật có thân cao trượng sáu và xin qui y làm đệ tử.
Sau khi
xuất gia, trải qua bảy năm khổ hạnh tu hành, cuối cùng Ngài cũng chứng quả
A-la-hán.
Vì muốn kỉ
niệm chuyện tin Phật ngộ đạo của mình, ngài tìm lại cây sào lúc trước dùng
đo thân Phật, rồi đi đến chỗ cũ nói:
- Nếu như
Phật pháp là chân lý bất di bất dịch thì xin cây sào này mọc lại và sinh
trưởng nơi đây để làm chứng tích cho muôn đời sau.
Nói xong,
ngài dùng sức cắm mạnh sào xuống đất, lập tức cây sào ra lá xanh biếc. Về
sau nó mọc thêm rất nhiều măng, măng lớn lên thành trúc. Ðến nay mọc lan
thành cả một rừng trúc lớn tại phía
đông bắc núi Kê-túc. Có được rừng trúc như bây giờ là do từ cây trúc ngày
trước của ngài cắm xuống. Thế nên có người còn gọi đây là Trượng Lâm (rừng
gậy).
Tin này lập
tức được truyền khắp bán đảo Ấn Ðộ. Hay tin nhiều quốc vương đại thần, chư
Tăng, Phật tử tấp nập kéo đến chiêm bái. Nhưng lân cận vùng này là một
hoang dã, cỏ cây thưa thớt không đủ che mát, nghiêm trọng nhất là không có
nước uống, do đó rất nhiều người ngã bệnh. Thấy vậy, Thú-bát-ca liền vận
thần thông biến ra hai suối nước, một nóng một lạnh để mọi người giải
khát, nấu nướng, tắm rửa, giặt giũ. Vì vậy, ai cũng hoan hỷ tán thán cho
rằng rất tiện lợi.
Hai suối
nước này nằm cách hơn mười dặm về hướng tây nam rừng Trượng Lâm. Mãi đến
nay, dân chúng gần đó vẫn còn nhớ mãi ân đức cao dày của Thú-bát-ca.
10. BÁN-THÁC-CA
Tôn giả Bán-thác-ca là vị
La-hán thứ mười trong mười sáu vị
La-hán và cũng chính là anh của Chú-trà-bán-thác-ca. Hiện tại, ngài
đang cùng một ngàn ba trăm vị đệ tử trú tại cõi trời Ðao-lợi, nơi thân mẫu
đức Phật ở. Vì ra đời ngay bên đường nên ngài được đặt tên là
Bán-thác-ca, tên này tiếng Hán dịch là Ðại Lộ Biên Sanh (sanh bên đường
lớn). Vì sao ngài bị sanh bên đường? Nguyên nhân như vầy:
Mẹ ngài
vốn là một thiên kim tiểu thư, con nhà hào phú trong thành Vương-xá ở Ấn
Ðộ. Cô ta đem lòng yêu một người đầy tớ trong nhà mình, nhưng cha mẹ không
đồng ý hôn sự của họ. Không còn cách nào hơn, cô ta bỏ nhà đi theo chàng
đầy tớ đến nơi khác cưới nhau. Sau một thời gian sống bên nhau, mẹ ngài
mang thai ngài. Theo phong tục Ấn Ðộ đương thời thì người phụ nữ khi sanh
nhất định phải về lại nhà mẹ mình. Nhưng vì bỏ nhà đi, về lại sợ cha mẹ
mắng nên mẹ ngài không dám về.
- Làm
sao đây? - Vì chuyện này mà ngày nào mẹ ngài cũng sầu muộn lo âu.
- Ðợi
qua một tuần nữa hãy hay! - Lần nào cha ngài cũng trả lời như vậy. Thật
ra, ông ta cũng không biết phải làm sao.
Thấy
bụng ngày càng lớn, mẹ ngài sốt ruột lo lắng. Nhưng cách tính dây dưa kéo
dài ngày này qua ngày kia ra thì còn có thể làm gì bây giờ?! Cuối cùng,
cận kề ngày sanh không thể nấn ná thêm nữa, mẹ ngài quyết định về lại nhà.
Nhưng khi vừa đi đến nửa đường thì sanh ngài, nên chẳng bao lâu họ quay về
lại chỗ cũ.
Năm năm
sau, mẹ ngài tiếp tục mang thai, lần này chính là Châu-lợi-bàn-đà-già.
Giống như anh mình, Châu-lợi-bàn-đà-già cũng được sanh giữa đường lúc mẹ
về nhà ngoại. Do đó, gia đình họ lại dọn về chỗ cũ, rốt cuộc không đến
thành Vương-xá.
Vì mưu
sinh nơi tha phương khó khăn, sinh hoạt thường nhật vất vả, cha ngài không
lo nổi cuộc sống cho gia đình, nên mẹ ngài quyết định đưa hai anh em ngài
về nhà ông bà ngoại.
Ông ngoại ngài nghe tin con gái về, bực tức
trong lòng chưa nguôi nên cự tuyệt không cho vào nhà. Tuy nhiên, ông đồng
ý cho cô ta để lại hai đứa cháu và bằng lòng nuôi chúng tử tế. Như vậy,
hai anh em ngài từ nhỏ đã theo sống với ông bà ngoại. Vì ông ngoại là một
hào phú nên cuộc sống hai huynh đệ ngài rất sung túc thoải mái. Mặc dù là
anh em ruột nhưng họ lại khác nhau rất xa. Bán-thác-ca thì thông minh lanh
lợi, nhiều kinh sách chỉ xem qua một lần là thuộc lòng, không bao giờ
quên. Còn Châu-lợi-bàn-đà-già thì ngu đần ngốc nghếch ngay cả cây chổi
cũng không nhớ.
Năm tháng
thắm thoát trôi qua, mới đó mà Bán-thác-ca đã là một thanh niên trí thức.
Ngài thường theo ông ngoại đến nghe đức Phật thuyết pháp, rồi trong lòng
ôm ấp ý định xuất gia.
Một hôm,
ngài quyết định thưa với ngoại:
- Thưa
ông, cháu muốn xuất gia, ông cho phép cháu đi nha!?
- Tốt
lắm! Xuất gia tu hành được là phước báo nhiều kiếp, ông vui mừng không gì
bằng, sao lại không đồng ý cơ chứ!.
Không
ngờ mới nói qua một tiếng mà ông ngoại ngài liền chấp thuận. Sau khi xuất
gia, nhờ tư chất thông minh cộng với sự dũng mãnh tinh tấn đêm ngày, nên
không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán.
Sau khi
chứng quả, ngài nhớ đến đứa em ngu dốt ở nhà, trong lòng nghĩ: “Nếu như
Châu-lợi-bàn-đà-già cũng được xuất gia thì hay biết mấy nhỉ?”. Vì thế nên,
sau khi thưa thỉnh và được ông ngoại đồng ý, ngài dẫn Châu-lợi-bàn-đà-già
đến Phật xin quy y xuất gia làm Sa-môn.
Mặc dù
đã xuất gia nhưng vì quá tối trí nên đạo nghiệp Châu-lợi-bàn-đà-già vẫn
không chút tiến triển. Do đó, Bán-thác-ca khuyên ngài nên hoàn tục (chuyện
này xin xem phần Tôn giả Chú-trà-bán-thác-ca). Bán-thác-ca đối xử với em
mình như thế cũng là vì tình thương và trách nhiệm sâu sắc. Huống gì sau
này Châu-lợi-bàn-đà-già cũng chứng quả, công dẫn dắt ngài đầu tiên đến với
Phật của Bán-thác-ca không phải không có.
Có lần
danh y thành Vương-xá là Kỳ-bà thỉnh đức Phật và các vị đã chứng quả
A-la-hán đến nhà thọ trai. Bán-thác-ca được giao phụ trách việc kiểm số
lượng xem có bao nhiêu vị La-hán tham gia buổi trai tăng này, còn Kỳ-bà
chỉ căn cứ vào danh sách mà Bán-thác-ca đưa ra để chuẩn bị chỗ ngồi.
Lúc đó,
Châu-lợi-bàn-đà-già vừa ngộ đạo nhờ pháp tu quét rác. Nhưng ngài không
thích phô trương nên chẳng ai biết, ngay cả Bán-thác-ca cũng không hay. Do
đó, khi lên danh sách, Bán-thác-ca không ghi Châu-lợi-bàn-đà-già. Vì vậy,
đến ngày trai tăng chỉ có một mình Châu-lợi-bàn-đà-già ở lại tinh xá.
Ðợi mọi
người đều ngồi vào đại sảnh nhà Kỳ-bà, khi chuẩn bị thọ trai thì đức Phật
bảo:
- Chờ một chút, còn một vị La-hán chưa đến.
Nghe đức Phật nói, Bán-thác-ca thấy lạ hỏi:
- Dạ
sao? Ðể con kiểm tra lại một tí.
Bán-thác-ca đối chiếu danh sách cẩn thận một lần nữa thấy những người có
tên đều đến đầy đủ, ngài cung kính bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Tất cả đã đến đầy đủ rồi.
- Có
thật tất cả đã đến đầy đủ rồi không? - Ðức Phật từ ái hỏi.
- Dạ
vâng, không sót một ai! – Bán-thác-ca đáp rất chắc chắn.
- Ông về
lại tinh xá xem còn vị La-hán nào chưa đến không!
- Thưa
vâng, bạch Thế Tôn! – Nói xong, Bán-thác-ca vội ra đi.
Biết
trước anh mình sẽ về nên Châu-lợi-bàn-đà-già muốn bày trò đùa với anh, và
luôn tiện để cho anh biết sự bất ngờ rằng đứa em ngu ngốc cũng ngộ đạo. Do
đóù, ngài vận thần thông biến ra hơn một ngàn vị Hòa thượng khác nhau, mỗi
vị tọa thiền mỗi nơi.
Khi trở
về, Bán-thác-ca thấy ngạc nhiên, thầm nghĩ: “Sao lại có nhiều vị Hòa
thượng đến thế này?”. Ngài liền tọa thiền nhập định dùng thiên nhãn quán
xét tường tận thì mới vỡ lẽ: “Ồ, thì ra là em mình bày trò đây!”.
Bán-thác-ca vui mừng khôn xiết, liền xuất định đứng dậy ôm chầm lấy em xúc
động nói:
- Sư đệ!
Chúc mừng! Chúc mừng! Hóa ra em đã chứng quả.
Châu-lợi-bàn-đà-già cũng vui mừng ôm lấy anh xúc động nói:
- Sư
huynh! Cảm ơn anh! Cảm ơn anh đã lân mẫn dẫn dắt, dạy bảo em!
Khi hai
anh em ngài cùng đến đại sảnh, cả pháp hội ai cũng cảm động, nhiệt liệt
tán thán ngợi khen.
Ngay lúc
ấy, đức Phật bảo:
- Này
Bán-thác-ca và Châu-lợi-bàn-đà-già! Thật khó ai được như hai anh em các
ông vừa cùng xuất gia học đạo, vừa tận trừ tất cả phiền não lậu hoặc,
chứng quả A-la-hán, thọ hưởng pháp lạc thanh tịnh vô thượng, thật đáng
mừng đáng quí. Sau này, hai ông nên đồng tâm hiệp lực cùng nhau lưu lại
nhân gian hoằng dương Phật pháp, tạm thời không được rời xa!.
Khi đức
Phật tuyên bố hai ngài được chọn vào hàng mười sáu vị La-hán lưu lại thế
gian thì bầu không khí pháp hội càng trở nên tưng bừng hân hoan.
--- o0o ---
Mục Lục
|
Phần 1
|
Phần 2
|
Phần 3
|
Phần 4
--- o0o ---
Mục Lục Pháp Tạng- 20
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-04-2004