Hễ nói
đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên
khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa). Vì pháp Duyên khởi là
nguyên lý cơ bản và thiết yếu của sự giác ngộ.
Đức Phật thành Phật là do Ngài
chiêm nghiệm hai mặt lưu chuyển và hoàn diệt của nguyên lý 12 Duyên khởi
mà thành tựu.
Trong kinh A-hàm đức Phật nói:
"Thế nào là nguyên lý Duyên khởi? Nghĩa là do duyên với Vô minh mà Hành
khởi sinh, dù Phật có ra đời hay không ra đời, nguyên lý ấy vẫn thường
trú, vẫn an trú trong pháp giới. Như Lai tự mình chiêm nghiệm nguyên lý ấy
để giác tri, để thành tựu Vô thượng Bồ-đề, rồi tuyên thuyết, rồi khai thị,
rồi hiển phát cho mọi người". (Tạp A-hàm, q.12 tr. 84b ĐTK2).
Do giác ngộ nguyên lý Duyên
khởi, đức Phật hiển nhiên trở thành Phật. Nên khi dạy dỗ, giáo hóa chúng
sanh, đức Phật đã khai thị nguyên lý này qua nhiều dạng thức, qua nhiều
cấp độ và qua nhiều phương tiện sâu cạn khác nhau.
Kinh Pháp Hoa nói: "Chư Phật là
đấng tôn kính, đầy đủ trí tuệ và từ bi, biết tất cả pháp luôn luôn là
không có tự tánh. Phật chúng cũng chỉ từ duyên mà khởi. Vì vậy mà tuyên bố
Nhất thừa. Sự an trú, sự định vị của tất cả pháp là vốn như thế. Nó vốn là
hình thái thường trú của thế gian, từ đạo tràng biết một cách chân xác như
thế rồi, đấng Đạo sư mới tùy phương tiện mà tuyên nói". (Kinh Pháp Hoa tr.
9b ĐTK9).
Giác ngộ một cách chân xác về
nguyên lý Duyên khởi là giác ngộ rằng, tất cả các pháp không bao giờ sinh
khởi cô độc, mà nó sinh khởi trong nguyên tắc tất yếu: "Nếu cái này hiện
hữu, thì cái kia hiện hữu; nếu cái này không hiện hữu, thì cái kia không
hiện hữu. Nếu cái này sinh khởi, thì cái kia sinh khởi. Nếu cái này không
sinh khởi, thì cái kia không sinh khởi".
Toàn bộ Giáo pháp của đức Phật
thuyết giảng chỉ trụ vào điểm này. Và cũng chính ở điểm này làm nguyên lý
phổ biến chung cho sự sinh khởi của tất cả khí thế gian và tình thế gian.
Khí thế gian là mọi sự kiện
hiện hữu và tồn tại hoàn toàn về vật lý. Tình thế gian là mọi sự kiện hiện
hữu và tồn tại gồm đủ cả tâm lý và vật lý, cũng có khi tồn tại thuần về
tâm lý.
Tính Duyên khởi đối với tình
thế gian, hay nói gọn lại nơi con người là Mười hai Duyên khởi, gồm có Vô
minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Sáu
xứ, Sáu xứ duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên
Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão tử.
Mười hai Duyên khởi này làm
nhân làm duyên cho nhau, sinh khởi liên tục trong vòng nhân quả, khiến con
người bị đắm chìm trong sinh tử luân hồi. Và nhân quả của 12 Duyên khởi
này cứ tiếp tục sinh khởi khắp cả ba thời gian tạo thành cả một dòng sông
vô tận.
Chẳng hạn, Vô minh và Hành là
nhân của quá khứ. Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu là nhân
của hiện tại; Sanh, Lão tử là quả của vị lai.
Nhân quả ba đời trong 12 Duyên
khởi, cứ cái này làm duyên cho cái kia, cái kia làm nhân cho cái này, cứ
như thế sinh khởi cho đến vô cùng vô tận.
Trong 12 Duyên khởi này, mỗi
yếu tố có thể là nhân, có thể là duyên, và không có yếu tố nào là nhân
hoàn toàn hay duyên hoàn toàn.
Chính 12 yếu tố Duyên khởi này
đã làm nhân làm duyên cho nhau, để sinh khởi và chi phối toàn bộ sinh
mệnh, cũng như đời sống của con người.
Khi nào con người hiểu được 12
yếu tố Duyên khởi này và quán chiếu thường trực về chúng, thì khi ấy, tùy
theo mức độ sâu cạn của quán chiếu mà tầm cỡ giác ngộ được khẳng định.
Kinh Đại Bát Niết-bàn nói:
"Có bốn hạng giác ngộ về nguyên
lý Duyên khởi: Bậc hạ trí quán chiếu mà không thấy được Phật tính, và do
vì không thấy được Phật tính, nên chỉ thành tựu được đạo quả Thanh văn mà
thôi.
Bậc trung trí quán chiếu mà
không thấy Phật tính, và do vì không thấy nên chỉ thành tựu được Duyên
giác mà thôi.
Bậc thượng trí quán chiếu thật
tính có sự thấy hiểu, nhưng không thấu triệt, và do vì thấy hiểu nhưng
không thấu triệt, nên chỉ an trú vào địa vị Thập trú của Bồ-tát mà thôi.
Bậc thượng trí, quán chiếu thật
tính, do vì thấy rõ và quán triệt, nên chứng đắc đạo quả Vô-thượng" (Đại
Bát Niết-bàn kinh - Vol 27, tr. 524b. ĐTK 12).
Nguyên lý Duyên khởi là một
thực tại tính (Tathata) là chơn như tính hay còn gọi là Phật tính
(Buddhata). Phật tính của giác ngộ. Phật do giác ngộ 12 Duyên khởi mà
thành Phật. Vậy, 12 Duyên khởi là tính ngộ của Phật.
Bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào,
con người giác ngộ được tính ấy, thì lúc đó và ngay đó, con người có thể
tự trả lời được câu hỏi, ta là ai? do đâu mà có? và tại sao ta bị khổ đau.
Cũng chính lúc đó, ngay đó, con người có thể tự giải cứu những khổ đau
đang triền buộc lấy chính mình.
Tùy thuận theo 12 Duyên khởi,
đây là điều kiện ắt có và đủ, để con người luân lưu trong sanh tử luân hồi
(Samsàra). Hoàn diệt và đình chỉ 12 Duyên khởi, đây cũng là điều kiện ắt
có và đủ, để con người dứt bỏ khổ đau, đi đến Niết-bàn (Nirvana).
Điều kiện ắt có và đủ hay còn
gọi là mệnh đề điều kiện (clause condition) của "nếu và thì"; "thì" luôn
luôn phản ảnh rất trung thực đối với "nếu". "Nếu" tác nhân như thế này,
"thì" hậu quả sẽ xảy ra như thế này; "nếu" tác nhân như thế kia, "thì" hậu
quả sẽ xảy ra như thế kia...
Nhân (heru) và quả (phala) gắn
liền và sinh khởi là do duyên (pràtitya). Nếu thiếu duyên nhân không thể
nào phát sinh ra quả được.
Trong quá trình sinh diệt để
biến thái từ nhân đến quả và biến thái từ quả trở thành nhân, thì duyên đã
đóng vai trò khá tích cực trong sự quan hệ này.
Duyên, tiếng Phạn gọi là
Pratitya và chữ Pratitya đã được Ngài Long Thọ (Nàgàrjuna) giải thích ở
trong Màdhyamika như sau: "Utpadyate pratìtyèmàn itìme pratyayah kìla"
(Màdhyamika pratyaya parìksa gàtha V). Nghĩa là, do làm điều kiện cho cái
kia sinh khởi, nhưng cái này người ta gọi nó là những duyên.
Duyên hay là pratitya ở trong
văn học Abhidharma, các luận sư Phật giáo đã phân chia thành nhiều loại,
nhưng sự phân chia có tính thống nhất, giữa các luận sư, thì duyên
(pratitya) gồm có 4 loại như sau:
a. Nhân duyên (Pratyàyàhetu):
Tất cả các pháp sinh khởi và tồn tại đều do quan hệ giữa nhân và duyên.
Nhân (hetu) là năng lực động chính; duyên (pratitya) là điều kiện hỗ tương
phụ, để cho năng lực tác động ấy được sinh khởi và hình thành.
b. Đẳng vô gián duyên (Anantara
pratitya): Đẳng vô gián duyên hay còn gọi là Thứ đệ duyên. Nghĩa là
tất cả các pháp làm nhân làm duyên cho nhau một cách liên tục, không bị
gián cách.
Hay nói khác đi, pháp trước làm
nhân cho pháp sau, pháp sau làm nhân cho pháp trước, các pháp cứ tuần tự
làm nhân làm duyên cho nhau, mà sanh khởi liên tục, nếu bị cách trở gián
đoạn tức là thiếu cái duyên này, pháp không sanh ra được.
c. Sở duyên duyên (Alambana
pratìtya): Sở duyên tiếng Phạn gọi là Alambana; Alambana đi từ động từ
gốc Lam, có nghĩa là leo, vin vào, dựa vào, nương vào, vướng vào... Như
vậy, Alambana là đối tượng để cho cái khác vin vào, dựa vào...
Alambana hay Sở duyên có thể là
thế giới khách quan, pratìtya hay duyên có thể là thế giới nội tại, thế
giới khách quan là đối tượng (sở duyên) để cho thế giới nội tại khởi sinh
sự nhận thức.
Bất cứ cái gì hàm đủ cả chủ thể
năng phân biệt (pratìtya) lẫn đối tượng được phân biệt (alambana), thì cái
ấy gọi là Sở duyên duyên (alambana pratìtya).
Hay nói theo trường phái Duy
thức (Vijnàptimàtrata Siddhi), cái nào có khả năng dẫn sinh sự nhận thức
và sự nhận thức ấy, mang ảnh tượng tương tợ với chúng, thì cái ấy gọi là
Sở duyên duyên.
d. Tăng thượng duyên
(Adhipateyam pratìtya): Tăng thượng duyên gồm có thuận duyên và nghịch
duyên.
- Thuận duyên: là duyên thuận
chiều để cho các pháp sinh khởi một cách nhanh chóng từ nhân đến quả.
- Nghịch duyên: là duyên đối
kháng làm trở ngại sự sinh trưởng của nhân.
Tất cả pháp có thể sinh khởi,
tồn tại hay hủy diệt, đều lệ thuộc vào bốn duyên này.
Trong bốn duyên, thì Đẳng vô
gián duyên, Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên là biệt tướng, còn Nhân
duyên là tổng tướng. Nên khi chúng ta nói nhân duyên, thì có thể hàm đủ cả
ba duyên kia.
Tất cả pháp là duyên khởi, thì
nhất định không có tự tính (asvabhava), do không có tự tính nên chúng mới
sinh động vô thường (anitya). Vô thường là tính thường trực của các pháp
Duyên khởi, tính thường trực của các pháp Duyên khởi là tính không có tự
tính, do tính không có tự tính nên các pháp luôn luôn sinh thành và luôn
luôn hủy diệt.
Bởi vậy, 12 Duyên khởi nó cũng
không có tự tính cho chính nó, nên nó có thể trở thành bất cứ tính nào.
Nếu duyên xấu, nó có thể trở thành tính xấu; nếu duyên tốt, nó có thể trở
thành tính tốt.
Do đó, trong 12 Duyên khởi,
chúng ta có thể thay thế Vô minh bằng chánh kiến, Thức bằng chánh trí,
Hành bằng chánh nghiệp v.v... để đi đến đời sống cao thượng.
Sở dĩ chúng ta có thể thay thế
được như vậy, vì tự thân của chúng ta là duyên khởi.
Đứng ở mặt nhận thức chung mà
nói, nếu chúng ta chiêm nghiệm về nguyên lý Duyên khởi, thì chúng ta có
thể thấy được toàn bộ cơ hợp của vũ trụ và chúng ta có thể chuyển đổi vũ
trụ tùy theo ý chí cá nhân và ý chí cộng đồng.
Đứng ở mặt nhân sinh mà nói,
nếu chúng ta chiêm nghiệm nguyên lý 12 Duyên khởi, chúng ta có thể thấy
được chính chúng ta, và chúng ta có thể sửa soạn cho chúng ta một cách
sống hợp lý.
Và đứng vào lập trường giác ngộ
mà nói, nếu chúng ta quán sát về nguyên lý Duyên khởi, chúng ta có thể
thấy được Phật, vì chúng là phẩm tính giác ngộ của Phật, chúng ta có thể
thấy được pháp thân của Phật, vì Phật lấy pháp làm bản thân và bản thân
của pháp là duyên khởi.
Chúng ta quán sát lý Duyên
khởi, chúng ta có thể thấy được thực trạng đau khổ của cuộc đời và nguyên
nhân phát sinh những đau khổ ấy, có thể nhìn thấy con đường đi đến
Niết-bàn và cảm nhận sự tịch tịnh của Niết-bàn.
Ngài Long Thọ (Nàgàrjuna) ở
trong Trung quán luận, đã mượn một thành ngữ nổi tiếng của Trung A-hàm để
nói lên ý nghĩa này:
"Thị cố kinh trung thuyết,
Nhược kiến nhân duyên pháp,
Tốc vi năng kiến Phật,
Kiến khổ, tập, diệt, đạo".
(Trung Quán Luận, tr. 334c. ĐTK 30)
Tạm dịch:
"Vì thế trong kinh nói,
Nếu thấy pháp Duyên khởi,
Có thể là thấy Phật,
Thấy khổ, tập, diệt, đạo".
Đức Phật đã thấy pháp Duyên
khởi bằng hai cách quán chiếu. Đó là cách quán chiếu lưu chuyển và cách
quán chiếu hoàn diệt.
Cách quán chiếu lưu chuyển là
cách quán chiếu mà đức Phật đã giác ngộ nó theo chiều thuận - nghĩa là cái
này sinh nên cái kia sinh - vì Vô minh sinh khởi nên Hành sinh khởi...
Cách quán chiếu hoàn diệt là
cách quán chiếu mà đức Phật đã giác ngộ duyên khởi theo cách đình chỉ và
diệt tận. Nghĩa là do cái này diệt nên cái kia diệt. Vì do Vô minh diệt
nên Hành cũng diệt...
Do giác ngộ duyên khởi đủ cả
hai mặt lưu chuyển và hoàn diệt mà đức Phật thành Phật.
Bất cứ ai, thấy được pháp Duyên
khởi cả hai mặt, người đó có thể thấy Phật, có thể thấy được pháp thân của
Phật và ngay trong Duyên khởi có thể thấy được khổ, tập, diệt, đạo.
Chẳng hạn, quán chiếu 12 Duyên
khởi theo lưu chuyển, đó là cách quán chiếu về khổ và tập, cách quán chiếu
Duyên khởi theo hoàn diệt, đó là quán chiếu về diệt và đạo.
Hay nói theo ngài Uất-lăng-ca,
thấy Vô minh, Hành, Ái, Thủ, Hữu là thấy Tập đế; thấy Thức, Danh sắc, Lục
nhập, Thọ, Sanh, Lão tử là thấy Khổ đế; hủy diệt 12 chi phần của Duyên
khởi ấy, là Diệt đế; hiểu biết tính chất như thật của 12 Duyên khởi ấy, là
Đạo đế (Duyên sanh luận tr. 468a ĐTK 32).
Như vậy, chúng ta có thể nói,
chủ yếu của giáo pháp đức Phật chính là pháp Duyên khởi và pháp Tứ đế cũng
chỉ được trình bày qua những giác khác, dễ hiểu hơn của pháp Duyên khởi mà
thôi.
Đối với tất cả loài hữu tình,
tính Duyên khởi là Phật tính (Buddhata), đối với tất cả loài vô tình, tính
Duyên khởi là Pháp tính (Dharmata).
Phật tính hay Pháp tính đối với
tình (sattva) hay phi tình (asattva) đều là tính thường trú, tính quyết
định và tính y tha.
a. Tính thường trú: Nguyên
lý Duyên khởi là nguyên lý có tính thường trú - Nghĩa là tất cả pháp trong
quá khứ cũng do duyên mà khởi, hiện tại cũng do duyên mà khởi, nơi này
cũng do duyên mà khởi, nơi kia cũng do duyên mà khởi. Bất cứ ở đâu và bất
cứ lúc nào, pháp vốn là như thế, pháp vốn là duyên khởi, nên tính duyên
khởi là tính thường trú của tất cả pháp.
Lại nữa, tính ấy, nếu đứng ở
mặt thuần giác ngộ mà nói, thì chư Phật trong quá khứ, như đức Phật
Tỳ-bà-thi (Nipasì), Phật Thi-khí (Sikhì), Phật Tỳ-xá-phù (Vessàbhù), Phật
Câu-lưu-tôn (Kakusandha), Phật Câu-na-hàm (Konàgamana), Phật Ca-diếp
(Kassapa), tất cả chư Phật đều do quan sát chiêm nghiệm về lý Duyên khởi
mà thành tựu Vô thượng Bồ-đề (Anuttara Samyaksambodhi).
Ngay trong hiện tại, đức Phật
Thích-ca Mâu-ni (Sakyamuni) cũng do quán sát, chiêm nghiệm lý Duyên khởi
mà thành Phật. Và vị lai chư Phật cũng sẽ như thế, thì không thể không
quán sát nguyên lý Duyên khởi. Vì thế nguyên lý Duyên khởi ở quá khứ nó đã
xảy ra và hiện hữu như thế. Vị lai nó sẽ xảy ra và nó sẽ hiện hữu như thế
ở nơi này, hoặc nơi kia; nó đã, đang và sẽ xảy ra; và nó cũng đã, đang và
sẽ hiện hữu như thế.
Vì do bất cứ ở đâu và bất cứ
lúc nào, chính Duyên khởi cũng xảy ra như vậy cả, nên gọi chúng là pháp có
tính thường trú, siêu việt và bất tư nghị.
b. Tính chất quyết định:
Pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi, là nguyên lý có tính cách quyết
định sự hiện hữu và không hiện hữu của tất cả pháp hay của tất cả sự vật.
Nếu đủ duyên thì các pháp sinh khởi; không đủ duyên thì các pháp tán loạn.
Nói cách khác, nếu không có
duyên, thì không có một pháp nào tự thân nó duyên khởi được.
Bởi vậy, Kinh nói: "Tất cả pháp
tự nhân duyên sinh khởi, nếu không có nhân duyên thì không có sự sinh khởi
của tất cả pháp". (Quán Thế Âm Bồ-tát thọ ký kinh. Tr. 353c, ĐTK 12).
Do đó, nguyên lý Duyên khởi có
tính cách quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của tất cả pháp hay của
tất cả sự vật.
c. Tính y tha: Pháp Duyên
là pháp có tính nương tựa lẫn nhau để sinh khởi. Do tính này, nên các pháp
không bao giờ có sự tồn tại độc lập nếu có chăng là có ở cách nói, chứ
không bao giờ thực sự có ở bản chất.
Vì tự bản chất của chúng là hỗ
tương, là nương tựa, là tác động qua lại lẫn nhau để sinh thành và hủy
diệt. Nên một sự hủy có thể kéo theo muôn ngàn sự hủy; một sự sinh có thể
kéo theo muôn ngàn sự sinh. Và nếu chúng ta biết lắng nghe, thì chỉ cần
một cánh bướm vỗ nhẹ, cũng nghe chao động cả ba ngàn đại thiên thế giới.
Và nếu chúng ta biết ngắm nhìn, thì chỉ cần nhìn thẳng vào một hạt cát,
cũng đủ để thấy rõ bản chất của thế giới mười phương.
Nói tắt, tính của các pháp là
tính luôn luôn nương tựa, luôn luôn tác động lẫn nhau để sinh khởi. Vì
vậy, tính y tha là tính của pháp.
Ba tính vừa nêu, có thể nói đó
là ba tính hệ trọng của pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi.
Pháp Duyên khởi có thể nói là
giáo pháp chủ yếu của Phật giáo, vì pháp ấy bao hàm đủ cả các pháp ấn vô
thường (anitiya), khổ (dukkha), không (sùnya), vô ngã (àntama).
Các pháp ấy, không có trường
phái nào trong Phật giáo, không xem chúng là giáo lý có tính cách ngăn để.
Đành rằng, các pháp ấy, được
các trường phái Phật giáo xem chúng là giáo lý có tính cách ngăn để, nhưng
tại sao Duyên khởi lại là giáo lý nội hàm các pháp ấn ấy? Giáo lý Duyên
khởi nội hàm các pháp ấy, vì tất cả pháp là duyên khởi, cái gì do duyên
khởi, thì cái ấy là vô thường, cái gì vô thường, thì cái ấy phải có thành,
trụ, hoại, không. Nếu chấp chặt và cảm thọ vào những thành, trụ, hoại,
không ấy, thì nhất định phải khổ đau.
Tất cả pháp là duyên khởi nên
không có tự tính, vì không có tự tính cho nên vô ngã, do vô ngã nên không
có thần ngã nào gọi là bất biến và vĩnh cữu. Do không có một thần ngã nào
gọi là bất biến và vĩnh cửu, nên con người có thể tu tập, có thể cải tạo,
có thể chuyển đổi từ ngu dốt đến trí tuệ, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ ác
sang thiện, từ ích kỷ đến vị tha, từ phàm tục đến thánh giả.
Dựa vào chừng ấy lý do, cũng đủ
để cho chúng ta có thể kết luận rằng, nguyên lý Duyên khởi là giáo pháp
chủ yếu của đạo Phật. Chúng ta thường trực quán chiếu và thường trực thấu
triệt nguyên lý ấy, thì nhất định chúng ta sẽ là Phật như chư Phật đã làm.