Phật
Học Cơ Bản
Tập Một
Ban
Hoằng pháp Trung ương
GHPGVN
Chương
trình Phật học Hàm thụ (1998-2002)
Nguyệt san Giác Ngộ
--- o0o ---
Phần
II - Bài đọc thêm
Phật giáo, Triết lý
sống thời đại
HT Thích Trí Quảng
Ngày nay, nói đến
Phật giáo, người ta thường xem như một tôn giáo nặng phần cúng bái, cầu
nguyện. Thiết nghĩ việc cúng lễ, cầu nguyện là điều
đương nhiên không thể thiếu đối với tôn giáo.
Tuy nhiên, thực chất của đạo Phật đặt
nặng vấn đề tu hành hơn; vì vậy cầu nguyện, lễ bái cũng là một
trong những phương pháp tu hành, không phải là cứu cánh. Thật vậy, Ðức Phật
khẳng định Ngài đưa ra vô số phương tiện, thường được tiêu biểu
bằng con số 84.000 pháp tu, để giúp mọi người đạt đến cứu cánh
giác ngộ, giải thoát.
Pháp phương tiện Ðức Phật chỉ dạy
nhiều như vậy, vì tùy hoàn cảnh, khả năng của từng người khác nhau; tùy
phong tục, tập quán, luật lệ thay đổi theo từng địa phương và tùy thời
điểm mà Ngài hướng dẫn pháp tương ưng thích hợp cho người chấp nhận
được.
Một cách khách quan, chúng ta thấy rõ nhu
cầu tín ngưỡng là đòi hỏi thiết yếu, không thể thiếu được
trong cuộc sống con người ở thời Ðức Phật. Vì vậy, với trí tuệ của bậc
Chánh Biến Tri, Ngài chấp nhận thực tại khách quan ấy; nhưng thực sự,
Ðức Phật ít nói đến việc cầu nguyện, mà thường đề cập
đến vấn đề tu tập để làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm
chủ thiên nhiên : đó là mục tiêu chính trong việc giáo hóa của Ðức
Phật.
Ðiều này thể hiện rõ nét trong
hầu hết các kinh điển, Ðức Phật thường hướng dẫn người thực
hiện 3 việc: làm chủ bản thân, làm chủ xã hội và làm chủ thiên
nhiên; nói khác, Ngài khẳng định con người không lệ thuộc thần linh,
nhưng buộc thần linh phải phục vụ cho người.
Trước nhất, Ðức Phật dạy rằng mọi
người đều có khả năng thành Phật, tức đạt đỉnh cao của tri thức và
việc làm siêu việt, nhưng chúng ta tự đánh mất khả năng cao quý
ấy, kinh gọi là đánh mất bản tâm. Tự mình đánh mất khả năng làm chủ
bản thân và tự van xin cầu nguyện, đem trao vận mạng cho thế lực thần
quyền quyết định giùm, mà không hề biết họ là ai. Từ đó,
con người tưởng tượng ra đủ các thứ thần có quyền năng chi phối cuộc
sống họ, cần phải cầu nguyện: từ thần sông, thần núi, thần cây...,
thậm chí đến thần vôi, thần bếp. Vì không thấy được khả năng vô
tận của mình, nên cảm thấy nhỏ bé trước thiên nhiên bao la, sợ hãi thế
lực siêu nhiên đè bẹp, nên tự hạ thấp mình, cầu nguyện các thế lực
khác. Và thực tế cho thấy các thế lực đó chẳng giúp được gì cho
con người, nên không mấy người cầu nguyện được kết quả.
Phải chăng người cầu nguyện có kết
quả là nhờ họ biết kết hợp việc cầu nguyện với sự phát
huy khả năng mình. Trên tinh thần ấy, Phật giáo chủ trương có vấn đề
tha lực chi phối ta, nhưng bản thân ta cũng cần hướng về đối tượng
để tự phát huy khả năng. Ðiển hình như người tu pháp môn Tịnh độ,
nương vào Ðức Phật Di Ðà ở cảnh giới Tây phương. Phật A Di Ðà tiêu
biểu cho vị đã thành đạt vô lượng quang, vô lượng thọ, vô lượng
công đức; nói khác, Ngài có đầy đủ trí tuệ, sức khỏe và phương
tiện.
Khi Ðức Phật Thích Ca dạy chúng ta tu nương
với Phật Di Ðà hay mười phương Phật, Ngài đều đưa ra những đức tánh
tốt của những vị đó, nhằm gợi ý cho chúng ta phát huy những đức tánh
ấy ở chính cuộc sống chúng ta. Nương Phật Di Ðà tu cũng có nghĩa là đánh
thức khả năng hiểu biết, khả năng sống lâu, khả năng sử dụng phương
cách độ sanh, giúp người. Nhờ nương với vị sáng suốt, tuổi thọ cao,
nhiều phước đức như Phật Di Ðà, từng bước mình cũng khắc phục được
mặt yếu và phát huy được bản thân.
Khi kết hợp tha lực với tự lực, tạo
được sức mạnh cho bản thân, lúc ấy, chủ động được cuộc sống, nên không
cần phải nhờ đến sự giúp đỡ bên ngoài nữa, và giảm thiểu việc
cầu nguyện để tự giải quyết. Quá trình tiến tu này đạt
kết quả nhờ khéo kết hợp cầu nguyện và tu hành. Trái lại, chỉ
cầu nguyện mà không tu, giao phó toàn bộ cho Phật làm giùm ta, chắc chắn
không thể được và cũng không phải là điều Phật muốn.
Ngày nay, chúng ta nương theo Ðức Phật A Di
Ðà tu, suy nghĩ về vô lượng thọ của Ngài, tức vấn đề sức khỏe,
tại sao Ngài sống đạm bạc mà lại khỏe mạnh, trường thọ. Từ đó, chúng
ta tu, làm chủ bản thân hay làm thế nào để xây dựng cuộc sống mình
không bị khổ sở vì bịnh tật thể xác lẫn tinh thần hành hạ.
Kinh nghiệm cho thấy ốm đau sanh ra vì
sống không hợp lý, như người tu khổ hạnh ép xác, không đủ dinh dưỡng,
tất phải bịnh. Ngược lại, các vị Thiền sư sống rất đơn giản nhưng lại
rất khỏe, tuổi thọ cao. Quan sát thấy rõ các Ngài thường sống ở môi
trường không khí trong lành, yên tĩnh, lượng thực thực phẩm đủ dinh dưỡng
dùng cho cơ thể và sống không tổn hại cho các loài, không tranh chấp tính
toán vơ vét lợi cho mình. Phương cách sống như vậy hoàn toàn phù hợp với
tinh thần khoa học ngày nay. Thật vậy, qua các kiểm nghiệm khoa
học cho biết không khí ô nhiễm, ăn uống quá độ, ăn nhiều thứ
độc tố, cùng với đủ thứ stress vì lo toan, thủ lợi cho cá nhân một cách
quá tham lam, mù quáng, cộng với vô số tiếng động đinh tai nhức óc, hoặc
chạy theo biết bao bận rộn không cần thiết trong cuộc sống..., tất cả
đã tác hại rất nhiều cho sức khỏe, gây ra đủ thứ bịnh tật, làm giảm
tuổi thọ con người.
Vì vậy, trên bước đường tu theo Phật
giáo, làm chủ lấy mình, tự lành mạnh hóa thân tâm, cố làm sao bớt lệ
thuộc vật chất, ăn mặc, giảm tiêu hao năng lượng, tránh gây ồn náo, bớt
tác hại ô nhiễm môi sinh, hạn chế tranh giành hơn thua, đừng quá tham lam
ích kỷ. Thực hiện được phần nào những điều ấy, tinh thần chúng
ta chắc chắn có được phần nào sảng khoái, cơ thể tươi vui, khỏe mạnh.
Bước thứ hai của người tu phát tâm Ðại
thừa, giáo hóa chúng sanh, thường nghĩ chúng ta không thể nào sống một
mình và không thể tốt với xã hội không tốt. Chúng ta ý thức sự tác
hại lớn lao của ô nhiễm môi sinh, không dám làm gì tổn hại, nhưng người
khác không nhận thức như vậy hoặc quá tham lam cứ gây ô nhiễm, tất nhiên
cuộc sống ta cũng bị vạ lây. Hoặc chúng ta đạo đức trong một xã hội tuột
dốc, sa đọa, nhiều tệ nạn nhiễu nhương, thì cũng khó lòng an ổn.
Vì vậy, Bồ Tát hành đạo không tìm chỗ
trong lành, yên tĩnh, an nhàn như giai đoạn một, mà tiến một bước xa hơn
nhằm tịnh hóa xã hội và thiên nhiên, tức con người và thế giới con
người. Bấy giờ, Bồ Tát lo giải quyết việc cho người, làm sao giúp
họ hiểu được gây ô nhiễm tác hại cho sự sống của họ, của tất
cả mọi người, mọi vật trên hành tinh này. Bồ Tát đã lo xong phần tự
giác và đến giai đoạn giác tha, dùng vô số phương tiện để nâng
hiểu biết của người, khiến họ ý thức được tốt xấu, lợi
hại, điều đáng làm và điều không nên làm.
Trên tinh thần ấy, bước thứ hai, Bồ Tát
đã thực hiện công việc giáo dục người, vì theo Phật dạy, tất cả
thành bại đều do con người quyết định. Hướng dẫn cho người đồng
tình với mình trong việc bảo vệ thiên nhiên, làm cho xã hội lành
mạnh, đó chính là xây dựng Tịnh độ ở Ta bà.
Với ý thức như vậy, Bồ Tát dấn thân
không biết mệt mỏi, giúp người an lành là giúp mình an lành, cứu
người thoát khổ là cứu mình khỏi khổ. Mang tinh thần giáo dục rộng lớn vô
cùng ấy mà Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi cho biết tất cả chúng sanh thành Phật,
thì Ngài mới thành, hoặc Ðịa Tạng Bồ Tát phát nguyện nếu còn chúng
sanh trong địa ngục thì Ngài không thành Phật.
Tóm lại, Phật giáo hướng dẫn triết
lý sống hiểu biết đúng đắn, lành mạnh, đạo đức cho riêng bản
thân mỗi người, được hàng Thanh Văn tu tập, ứng dụng ở giai đoạn một.
Sau khi đạt được thành quả tốt đẹp ở bước đường tự giác xong, Thanh Văn
tiến tu Bồ Tát đạo, giáo dưỡng cho người hướng thiện, xây dựng xã
hội tốt đẹp, thế giới hòa bình, an lạc. Triết lý sống tròn đủ
chân thiện mỹ của Phật giáo đã trường tồn hơn 25 thế kỷ và
cũng sẽ là mô hình lý tưởng hiện đại và trong tương lai cho nhân
loại nương theo để kiến tạo ngôi nhà chung xanh sạch, đầy cảm thông,
hiểu biết, đầy tình thương, hạnh phúc, ấm no./.
-oOo-
[^]
Bài trước
| Mục lục |
Bài kế
-oOo-
| Toàn
bộ | | Tập Một
| | Tập Hai |
|Tập Ba|
--- o0o ---
Trình bày : Nhị
Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |