1)- Con đường du nhập của PG vào
Trung Quốc:
Về mặt địa lý, PG đã theo chân các nhà sư truyền
giáo Phạm Tăng được truyền đến Trung Quốc theo hai ngả đường là
đường bộ và đường thủy. Về đường bộ, chủ yếu là hai con đường
giao thông lớn: phía Bắc và phía Nam của các nước Tây vực. Về sau, giữa
hai con đường trên, còn có con đường "Nhập Trúc cầu pháp" của
ngài Pháp Hiển. Về đường thủy thì chủ yếu là từ các hải cảng
ở tỉnh Quảng Ðông (1).
2)- Niên đại du nhập:
Hiện nay, có rất nhiều thuyết khác nhau đề cập
đến niên đại du nhập của PG vào Trung Quốc. Có hai thuyết đáng tin
tưởng hơn cả là thuyết Khẩu truyền PG của Y Tồn được chép trong
sách Ngụy thư Thích Lão Chí và thuyết Niên hiệu Vĩnh Bình năm
thứ 10 (67 TL) chép trong sách Hậu Hán Kỷ và sách Phật Tổ Thống
Kỷ.
- Theo thuyết thứ nhất thì PG được biết đến ở Trung
Quốc sớm nhất cũng từ năm thứ 2 trước Tây lịch (niên hiệu Nguyên
Thọ năm đầu - đời vua Ai Ðế nhà Tiền Hán).
- Theo thuyết thứ hai thì PG có mặt ở Trung Quốc từ năm 67
Tây lịch (niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 - đời vua Minh Ðế nhà Hậu
Hán).
Từ hai thuyết trên, có thể nói PG được truyền vào
Trung Quốc rất sớm, chủ yếu là theo hai con đường thủy - bộ từ phía Bắc
và phía Nam của các nước Tây vực vào thế kỷ đầu Tây lịch.
II- Ðại cương lịch sử phát triển
của PGTQ
1)- Năm thời đại phát triển của PGTQ:
Trên đại cương, một số nhà nghiên cứu sử học PG hiện
nay (2) đã theo những nét đặc trưng của quá trình hoạt động PG mà phân
lịch sử phát triển của PGTQ thành 5 thời đại là:
a/- Thời đại phiên dịch: từ khi PG bắt đầu truyền tới cho
đến đầu đời Ðông Tấn.
b/- Thời đại nghiên cứu: từ đầu đời Ðông Tấn cho đến
thời đại Nam - Bắc triều.
c/- Thời đại kiến thiết: từ đời Tùy đến đời
Ðường.
d/- Thời đại kế thừa: kể từ đời Ngũ đại đến
đời nhà Minh.
e/- Thời đại suy vi: từ đời Thanh trở về sau.
Ðến thời đại Trung Hoa Dân quốc thì nhiều phong trào
chấn hưng PG nổi lên tạo cho PG Trung Hoa cận đại có nhiều bước phát
triển.
2)- Các danh tăng và các sự kiện Phật giáo nổi bật
của PGTQ qua 5 thời đại:
a/- Thời đại phiên dịch:
PGTQ thời kỳ này bao gồm PG ở các đời Hậu Hán (25-220 TL); Tam
quốc (220-280 TL) gồm hai nhà Ngụy (220-265 TL), Ngô (222-280 TL) và Tây Tấn
(265-317 TL).
PGTQ giai đoạn này chủ yếu lấy việc phiên dịch làm công
tác Phật sự chính. Tuy ở mỗi triều đại, mức độ phát triển của
PG có khác nhau, nhưng nhìn chung sự thành tựu của các công trình phiên dịch
đã dần định hình, tạo tiền đề cho các công trình nghiên cứu ở
thời đại sau. Trong thời đại này có các danh tăng kiệt xuất xuất
hiện với các công trình phiên dịch giá trị như sau:
* Ðời Hậu Hán (25-220 TL): Ca Diếp Ma Ðằng (Kàsyapamátanga)
và Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa) là hai vị Tăng Ấn Ðộ đầu tiên đến
Trung Quốc vào niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 (67 TL) thời vua Minh Ðế
Hậu Hán. Trong khi truyền đạo tại miền Bắc Ấn, hai Ngài đã sang
Trung Quốc theo lời thỉnh cầu của phái đoàn 18 người do vua cử đến Tây
Trúc tìm đạo. Khi hai Ngài tới Trung Quốc, vua Minh Ðế rất tôn kính, vua
cho dựng chùa Bạch Mã, là ngôi chùa đầu tiên ở Trung Quốc, để hai Ngài
phiên dịch kinh điển. Tứ Thập Nhị Chương là bộ kinh đầu tiên
được hai Ngài dịch tại chùa Bạch Mã.
Sau hai ngài Ca Diếp Ma Ðằng và Trúc Pháp Lan, được sự ủng
hộ của Sở Vương Anh - người em khác mẹ của Hán Minh Ðế, nhiều vị
Tăng và cư sĩ người Ấn khác cũng tới Trung Quốc và tiếp tục các
công trình phiên dịch kinh điển từ tiếng Phạn (chủ yếu là Bắc
Phạn, Sanskrit) sang Hán ngữ như ngài Trúc Phật Sóc (Sangha Buddha), cư sĩ An
Huyền - người nước An Tức (Parthia), ngài Ðàm Quả (Dharmaphàla) - người
Tây vực... Nổi bật trong số đó là các ngài An Thế Cao (Arsakes) và Chi
Lâu Ca Sấm (Lokaraksa), đến Trung Quốc vào đời vua Hoàn Ðế cuối đời
Hậu Hán. Ðặc biệt, có ngài Nghiêm Phật Ðiều là vị tu sĩ người
Trung Quốc đầu tiên tham gia vào công trình phiên dịch kinh điển. PG đã
dần dần được phổ cập trong dân gian.
* Ðời Tam quốc (220-280 TL): Sau đời Hậu Hán, Trung Quốc chia
thành ba nước là Ngụy, Thục, Ngô. PG trong thời kỳ này phổ cập chủ yếu
ở hai nước Ngụy và Ngô. Cũng như thời kỳ mới du nhập, các hoạt động PG ở
thời kỳ này chủ yếu vẫn là các công trình phiên dịch kinh điển.
Ở nước Ngụy, có các bậc cao tăng có công phiên dịch và
quảng bá giới luật đầu tiên là các ngài Ðàm Ma Ca La (Dharmakàla) và ngài
Ðàm Ðế. Bộ Tăng kỳ giới bản của ngài Ðàm Ma Ca La và bộ Ðàm
vô đức Yết ma là hai bản giới pháp căn bản đầu tiên của người
xuất gia. Tuy vào thời Hậu Hán đã có tu sĩ người Hán, nhưng người Trung
Quốc được thọ giới luật theo các pháp Yết ma đầu tiên lại là ngài
Chu Sĩ Hành, người nước Ngụy. Cũng chính Ngài là Tăng sĩ Trung Quốc đầu
tiên sang Tây vực để cầu pháp, là người mở đường cho các chuyến
"nhập Trúc cầu pháp" của các thời đại sau này.
Các bậc cao tăng thạc học của PG nhà Ngô nổi bật là ngài
Khương Tăng Hội và cư sĩ Chi Khiêm. Trước khi sang Ngô, ngài Khương Tăng
Hội (Kang Seng-Hui) là một trong những vị Tăng sĩ Ấn Ðộ đã có công đưa
PG vào Việt Nam (thời đó gọi là Giao Chỉ). Tác phẩm kinh điển của
Ngài phiên dịch nổi bật còn lại đến ngày nay là Lục độ tập kinh,
cũng là nguồn sử liệu giá trị cho việc xác định niên đại du nhập
của PG Việt Nam (3).
* Ðời Tây Tấn (265-317 TL): Theo bộ sách Khai nguyên Thích
giáo lục, PG đời Tây Tấn có nhiều vị Tăng sĩ rất có công trong
việc phiên dịch Tam tạng, nhưng nổi bật hơn cả là ngài Ðàm Ma La Sát
(Dharmaraksa - Hán dịch âm là Trúc Pháp Hộ).
Sau hơn 3 thế kỷ, PG đã phổ cập trong nhân dân. Các cơ
sở vật chất của PG như chùa, tháp được xây dựng, số lượng Tăng Ni và tín
đồ Phật tử tuy chưa nhiều nhưng đã đặt nền móng vững chắc cho các
thời đại PG sau này. Nét đặc trưng chủ yếu của PGTQ thời đại này là
các công trình phiên dịch kinh điển của các vị Tăng sĩ Ấn Ðộ cũng
như Trung Quốc.
b/- Thời đại nghiên cứu:
Về phương diện lịch sử, thời đại PG này bao gồm trong
hai thời đại lịch sử Ðông Tấn và Nam - Bắc triều. Trong cả hai thời đại
lịch sử này, PGTQ ngoài công tác phiên dịch, đã dần bước vào nghiên cứu
những giáo nghĩa trong kho tàng kinh luận PG. Xu hướng nghiên cứu này được
bắt đầu từ thời Ðông Tấn. HT Thích Thanh Kiểm đã nhận định: "Trong
thời đại Ðông Tấn, PG đều được phát triển trên cả hai phương
diện hình thức tín ngưỡng và tư tưởng giáo học. Vì trong thời đại
này có nhiều bậc Phạm tăng từ Tây phương tới, lại có nhiều bậc cao
tăng của Trung Quốc xuất hiện" (4).
Các bậc cao tăng của thời Ðông Tấn có rất nhiều. Nổi bật
là các ngài Phật Ðồ Trừng (Buddhasimha), Ðạo An, Cưu Ma La Thập (Kumarajiva),
Ðạo Sinh, Tăng Triệu, Tăng Duệ, Ðạo Dong... của các nước Ngũ hồ ở
phía Bắc Trung Quốc. PG nhà Ðông Tấn ở phương Nam có các ngài Tuệ Viễn,
Giới Hiền, Phật Ðà Ba La (Buddhabhadra)... Về tổng quan, PGTQ thời đại
này có các sự kiện nổi bật là:
* Phong trào "nhập Trúc cầu pháp": Theo bước chân của
ngài Chu Sĩ Hành của thời Tam quốc sang Tây vực học đạo, phong trào du
học trong thời đại này đã phát triển khá mạnh với các vị nổi
tiếng như ngài Pháp Hiển, ngài Trí Nghiêm, ngài Bảo Vân. Nhưng đáng
kể nhất vẫn là ngài Pháp Hiển. Ngoài những kinh sách phiên dịch, tác
phẩm Phật quốc ký (còn gọi là Cao tăng Pháp Hiển
truyện) là bộ sách tư liệu PG sử đầu tiên của PGTQ.
* Giáo đoàn của PGTQ hình thành: Kể từ ngài Chu Sĩ Hành,
vị Tăng sĩ thọ giới đầu tiên của PGTQ, đến thời Ðông Tấn, số
lượng Tăng sĩ đã phát triển rất nhanh và theo sau đó là sự gia tăng số
lượng chùa cảnh. Ðã có 1.768 ngôi chùa lớn với 23.000 Tăng Ni trong thời kỳ
này. Các tổ chức Tăng đoàn do vậy cũng nhanh chóng được thành lập. Giáo
đoàn PGTQ được hình thành đầu tiên là tổ chức giáo đoàn của ngài Phật
Ðồ Trừng và sau đó là của các ngài Thích Ðạo An, ngài La Thập ở phía Bắc
Trung Quốc. Về phương Nam có tổ chức giáo đoàn "Bạch Liên xã"
của ngài Tuệ Viễn. Các chức vụ Tăng như Tăng chính, Tăng lục... cũng
bắt đầu có trong thời kỳ này.
* Phiên dịch bốn bộ kinh điển trọng yếu và sự phát
huy của giáo lý Ðại thừa - nền tảng cho sự thành lập các tông phái:
Có thể nói PGTQ là nơi triển khai mạnh mẽ tư tưởng Ðại thừa PG. Các
kinh luận thuộc hệ thống Ðại thừa PG được phiên dịch và trở thành
những bộ sách căn bản cho giới học Phật nghiên cứu. Trong thời PG Ðông
Tấn (kể cả 16 nước thuộc Ngũ hồ ở phương Bắc Trung Quốc), có 4 bộ kinh
quan trọng được phiên dịch là kinh Bát Nhã (bao gồm đại phẩm Bát Nhã
và tiểu phẩm Bát Nhã) và kinh Pháp Hoa do ngài La Thập dịch, kinh Ðại Bát
Niết Bàn do ngài Ðàm Vô Sấm dịch, kinh Hoa Nghiêm do ngài Giác Hiền
dịch. Các bộ luận liên quan đến Bát Nhã được dịch trong thời kỳ này
là Ðại Trí Ðộ luận, Trung luận, Thập Nhị Môn luận đều do ngài La Thập
dịch. Các kinh luận nêu trên cùng với một số kinh luận Ðại thừa khác, sau
khi phiên dịch đã là các tác phẩm y cứ cho tư tưởng Ðại thừa và ảnh
hưởng mạnh mẽ đến giáo nghĩa của các tông phái PGTQ các thời kỳ sau.
PGTQ trong thời kỳ Nam - Bắc triều (420-588 TL) (5) tuy chịu
nhiều thăng trầm do hai lần bị "phế Phật" vào đời vua Võ
Ðế - Bắc Ngụy và vua Võ Ðế - Bắc Chu, cũng như các nghịch duyên
về chiến tranh, nhưng nhìn chung PG vẫn phát triển về mọi
phương diện từ tư tưởng - tín ngưỡng, tổ chức giáo đoàn và các mặt
văn hóa vật chất như kiến trúc, điêu khắc, hội họa...
Các bậc danh tăng của Nam triều có các ngài Phật Ðà Thập
(Buddhajìva), Cương Lương Da Xá (Kàlayàsas), Câu Na Bạt Ma (Gunavarman), Cầu Na
Bạt Ðà La (Gunabhadra)... của nhà Tống. Ở nước Tề có các ngài Tăng
Tuệ, Huyền Xướng, Tăng Già Bạt Ða La (Sanghabhadra)... Ðến đời
Lương, vua Lương Võ Ðế rất thâm tín PG. Do vậy, PG ở Nam triều thịnh
phát nhất trong giai đoạn này. Các bậc danh tăng trong và ngoài nước có rất
nhiều như Trí Tạng, Pháp Vân và Tăng Mân đều là những bậc cao tăng
người Trung Quốc .; Bồ Ðề Ðạt Ma (Bodhidharma), Tăng Già Bà La
(Sanghapàla), Ba La Mật Ða (Paramàntha) tức ngài Chân Ðế. Ðiểm đặc
biệt là trong thời nhà Lương, nhiều bộ luận PG quan trọng cũng
được dịch, giảng, và không khí nghiên cứu học thuật ấy còn được kéo
dài cho đến PG đời Trần.
PG ở Bắc triều khá phát triển trong quảng đại quần
chúng. Do ảnh hưởng của hai pháp nạn dưới thời vua Thái Võ Ðế nước
Bắc Ngụy (466 TL) và sau đó hơn 100 năm là của vua Võ Ðế nước Bắc Chu
(560 TL), nên sự phát triển của PG không có tính ổn định như PG Nam
triều. Tuy vậy, không khí sinh hoạt của PG không vì thế mà bị tắc
trệ. Hàng ngàn bậc danh tăng từ Tây vực và Ấn Ðộ vẫn đến Trung
Quốc. Nhiều bộ kinh, luận được phiên dịch từ thời Ðông Tấn hoặc trong
đương đại đã trở thành kim chỉ nam lập tông cho các tông phái PG như
Niết Bàn tông lấy giáo nghĩa kinh Niết Bàn làm chỗ y cứ, Thành
Thật tông theo bộ luận Thành Thật để lập tông. Các tông phái PG khác
cũng theo khuynh hướng trên mà thành lập như Tỳ Ðàm tông, Tam Luận tông,
Tịnh Ðộ tông, Ðịa Luận tông, Thiền tông...
Như vậy, có thể nói không khí nghiên cứu học thuật của
PG dưới thời Nam - Bắc triều đã được nâng lên ở mức độ cao hơn và
cũng phức tạp hơn. Ðặc biệt là sự xuất hiện của Thiền tông do
Sơ tổ Bồ Ðề Ðạt Ma với tuyên ngôn "bất lập văn tự, giáo ngoại
biệt truyền" (không dựa vào văn tự, chỉ truyền riêng ngoài
giáo) thành lập. Ðiều này dường như phản ánh thái độ cách mạng tư
tưởng của PG giai đoạn này. Bởi lẽ, khi nghiên cứu học thuật trong PG một
khi đã trở thành lối mòn trí thức, gây nhiều tranh cãi luận lý,
thiếu hẳn hơi thở của sự chứng nghiệm thì sự ra đời của tinh thần
chú trọng vào thực nghiệm tâm linh của Thiền tông hẳn là hết
sức cần thiết.
PGTQ thời Ðông Tấn và Nam - Bắc triều đã phát triển
khá mạnh về mặt nghiên cứu học thuật, thành lập tông phái và đặt
nền tảng cho sự thăng hoa của PG trong các thời đại sau. Ðến thời Tùy
- Ðường, sự ổn định trong cơ cấu kinh tế - văn hóa xã hội đã tạo
điều kiện cho PG thực hiện những công trình Phật sự quan trọng.
c/- Thời đại kiến thiết:
Cuối thời Nam - Bắc triều, PG do ảnh hưởng của nạn
"phế Phật" nên suy yếu trầm trọng. Bước sang đời nhà
Tùy, được sự ủng hộ của các vị minh quân Tùy Văn Ðế và Tùy Dạng
Ðế nên được phục hưng nhanh chóng. Sách Lịch sử Phật giáo Trung Quốc
viết: "Ngay sau khi tức vị, vua (Văn Ðế) hạ chiếu dựng chùa ở
các danh sơn thuộc Ngũ Nhạc, và dựng một chùa công cộng lớn ở mỗi châu,
gồm có 45 châu, đều lấy tên là "Ðại Hưng Quốc", công hứa cho
dân gian được tự do đi xuất gia, nên số Tăng Ni đã có tới 100.000
người" (sđd, tr.135-136). Sau khi Văn Ðế băng hà, tiếp nối
truyền thống của vua cha, Tùy Dạng Ðế cũng tận lực hưng long PG. Năm
Khai Hoàng thứ 11 (năm 591 TL), vua thọ giới Bồ tát với ngài Trí Khải, tổ
chức hội "Thiên Tăng trai" cúng dường cho 1.000 vị Tăng và sau đó
đặt tên hiệu "Trí Giả Ðại sư" cho ngài Trí Khải. Tông Thiên
Thai (Pháp Hoa tông) do vậy cũng được hoằng truyền mạnh mẽ kể từ
đời vua Tùy Dạng Ðế. Các học phái, tông phái có từ trước như Tam
Luận tông có từ thời Ðông Tấn giờ đây được cách tân thành Tân Tam Luận
tông do công của ngài Cát Tạng.
Các danh tăng của các học phái nổi bật là các ngài Ðàm
Thiên của Nhiếp Luận tông, ngài Ðàm Diên, ngài Tuệ Viễn của Niết
Bàn tông... Các công trình phiên dịch kinh tạng vẫn tiếp tục với các
ngài Na Liên Ðề Xá (Nàrendrayasas), Xà La Quật Ða (Jnanagupta) và Ðạt Ma
Cấp Ða (Dharmagupta). Ðặc biệt PGTQ đời Tùy có các công trình biên soạn
để chỉnh lý những kinh điển đã phiên dịch từ trước như Chúng
kinh mục lục, Lịch đại Tam bảo ký của các ngài Pháp Kinh, Phi Trưởng
Phòng, Ngạn Tôn đều là các tư liệu rất giá trị cho việc nghiên
cứu lịch sử PGTQ.
Từ nền tảng của PG nhà Tùy, PGTQ đời Ðường đã phát
triển vượt bậc. Có thể nói đây là thời kỳ PG phát triển mạnh
mẽ nhất trong lịch sử PGTQ. Gần 300 năm (618-907 TL), PG được các đế
vương bảo hộ nên nhiều bậc cao tăng thạc đức cũng xuất hiện tổ
chức các tông phái PG mang tính quy củ ảnh hưởng không những trong đương
đại mà còn đến tận các thời kỳ sau; không những trong phạm vi Trung Quốc
mà còn quảng bá đến các nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên,
Việt Nam... Ðó là Tịnh Ðộ tông của ngài Ðạo Xước, Thiện Ðạo; Nam
Sơn Luật tông của ngài Ðạo Tuyên; Pháp Tướng tông của ngài Huyền Trang
và Từ Ân; Hoa Nghiêm tông của ngài Pháp Tạng; Thiền tông của ngài Thần
Tú và Huệ Năng; Mật giáo của ngài Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí và
Bất Không. Sự nghiệp phiên dịch kinh điển và các tác phẩm trước tác
của ngài Huyền Trang đã vượt quá khuôn khổ PG trở thành một công trình
văn hóa - lịch sử của toàn nhân loại. Tác phẩm Ðại Ðường Tây vực
ký (Tây du ký) của Ngài là nguồn tư liệu vô giá cho khoa văn
bản học, văn hiến học... và các ngành khoa học lịch sử
hiện nay. Có thể nói PGTQ kể từ đời Ðường đã thoát ra khỏi các
tư tưởng PG từ thời đại Ðông Tấn và Nam - Bắc triều và phát triển
thành một hệ tư tưởng mới mà về sau các ngài Nghĩa Tịnh, Bát Nhã,
Thiện Vô Úy... kế thừa. Tuy nhiên, cuối đời Ðường, do chịu pháp nạn
Võ Tôn phế Phật (năm 842 TL) nên PG đã kém phát triển, không còn rực
rỡ như các giai đoạn lịch sử PG sơ Ðường và thịnh Ðường trước đó.
d/- Thời đại kế thừa:
Sau thời kỳ PG toàn thịnh của đời Ðường, PG ở các thời Ngũ
đại (gồm Hậu Lương, Hậu Ðường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu), Tống, Liêu -
Kim, Nguyên, Minh vẫn phát triển nhưng không được rực rỡ như trước. Chủ
yếu tư tưởng của PG các thời đại lịch sử nêu trên là kế thừa các
thành tựu của PG đời Ðường. Lần thứ tư trong lịch sử PGTQ, PG lại gặp pháp
nạn "phế Phật" vào đời Hậu Chu theo lệnh của vua Thế Tôn
Anh Mại (năm 955 TL). Ngoài ra, xu hướng thoái hóa trong tổ chức giáo đoàn
phần nào cũng tác động khiến PG thời đại này hầu như không tạo ra các
giai đoạn thăng hoa tư tưởng nào như PG đời Ðường. Tuy nhiên, có thể
nói PG từ Ngũ đại đến đời Minh vẫn kế thừa được tư tưởng cơ
bản của PG thịnh Ðường. PG trong thời đại này có các sự kiện nổi bật
như sau:
- Sau suốt 200 năm gián đoạn, kể từ đời vua Ðức Tôn cuối
nhà Ðường, công tác phiên dịch kinh điển đến đời Tống lại được
phục hưng. Dưới các triều đại Bắc Tống và sau đó là Nam Tống, PG đã
tiến hành công trình khắc in Ðại tạng kinh PG. Trong suốt đời Tống, tổng
cộng có 5 lần khắc ván ấn hành Ðại tạng kinh. Bản Ðại tạng kinh (thục bản)
khắc vào năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 8 (năm 983 TL) là bộ Ðại tạng kinh
lịch sử đầu tiên của PGTQ.
Về sinh hoạt của các tông phái PG thì trong các tông phái PG
có từ trước, chỉ Thiền tông vẫn duy trì và phát triển qua các thời
kỳ lịch sử. Các tông phái còn lại vẫn hiện diện nhưng không đạt
đến tầm vóc quốc tế như Thiền tông. Ðến đời Nguyên - Minh,
Lạt Ma giáo của Mật tông Tây Tạng trở thành tông phái chính và có ảnh
hưởng khá mạnh trong xã hội. Vào đời nhà Minh, Ðại tạng kinh Tây Tạng cũng
truyền vào và được chuyển ngữ sang chữ Hán. Tuy nhiên, chính do khuynh
hướng quá chú trọng các hình thức lễ nghi và biểu tượng hư ảo cộng
thêm sự thoái hóa trong tổ chức giáo đoàn đã khiến PG thời đại Nguyên
- Minh dần dần thu hẹp sự phát triển và khởi đầu cho thời đại suy vi của
PG trong các giai đoạn sau.
e/- Thời đại suy vi và công cuộc chấn hưng Phật giáo
của Thái Hư Ðại sư:
Trong 12 đời vua nhà Thanh từ Thế Tổ Hoàng đến đời vua
cuối cùng là vua Tuyên Thống, suốt gần 250 năm (1622-1911 TL), PG vẫn được xem
như tôn giáo chính thống. Trong các đời vua Thế Tổ Thuận Trị, Thánh Tổ
Khang Hy, Thế Tôn Ung Chính và Cao Tôn Càn Long, tông phái PG được chú
trọng đặc biệt là Lạt Ma giáo (Mật tông). Thiền tông và Tịnh Ðộ
tông là hai tông phái còn có ảnh hưởng trong quần chúng. PG dưới thời bốn
vị vua trên đã có một số công trình Phật sự quan trọng mà nổi bật nhất
là công tác ấn hành và xuất bản Ðại tạng kinh. Vào đời Thanh có ba bản
Ðại tạng kinh được khắc in là Tục tạng kinh vào đời vua Khang Hy, Long tạng
bản khắc in kéo dài trong hai đời vua Thế Tôn Ung Chính và Cao Tôn Càn
Long; Mãn Châu văn Ðại tạng kinh là bản Ðại tạng kinh Hán được chuyển
ngữ sang chữ Mãn Châu, cũng hoàn thành trong thời vua Càn Long. Trong ba bản
Ðại tạng kinh trên, hai bộ đầu được xem là có nhiều giá trị nghiên
cứu.
Tình hình giáo đoàn PG dưới thời nhà Thanh tuy đông đảo
về số lượng tự viện và Tăng Ni, nhưng về thực chất, tổ chức
giáo đoàn khá lỏng lẻo, việc độ người xuất gia tùy tiện khiến
cho PG rơi vào tình hình "có lượng mà không chất". Sách Lịch sử
Phật giáo Trung Quốc viết: "Riêng về giáo học của PG thì
không có gì phát triển mới lạ, chỉ là duy trì các học thuyết của
tiền nhân. Trong giới PG lại không có nhân tài xuất hiện, Tăng Ni
không có chí hoằng pháp. Hơn nữa, PG lại bị tai nạn phá hủy của loạn
"Thái Bình thiên quốc" nên PG ở đời nhà Thanh đã bước xuống dốc
suy vi" (6).
Sau loạn Thái Bình thiên quốc, ngày 25-12-1911, Cách mạng Tân
Hợi thành công đã mở ra một thời đại mới cho nhân dân Trung Quốc, PG cũng
theo đó mà có cơ hội phục hưng. Ngay từ năm 1912, Hiệp hội Trung Quốc PG
Tổng hội được thành lập tại Thượng Hải; năm 1913, Trung ương PG Công hội
cũng ra đời tại Bắc Kinh. Tuy nhiên, mãi đến năm 1924, sự nghiệp vận
động hộ pháp mới bắt đầu phát triển mạnh mẽ do công lao của các ngài
Thái Hư, Ấn Quang, Ðế Nhàn, Ðạo Giai, Viên Anh, Nhân Sơn, Vương Nhất
Ðình, Ðại Bi... Ðến tháng 8-1931, PG mới chính thức được sự bảo hộ
của Chính phủ. Kể từ đó, PGTQ nhanh chóng được phục hưng về mọi
phương diện, từ tổ chức giáo đoàn, tông phái đến các công trình
Phật sự kiến thiết, trùng tu danh lam, văn hóa học thuật, xuất bản
Ðại tạng kinh... Công cuộc vận động phục hưng PGTQ không những thành công
trong nước mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến PG trên thế giới. PG
Việt Nam cũng do đó mà thành lập nhiều tổ chức hội đoàn PG - Phật
học trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
C- Kết luận