Kinh Hoa Thủ
(hay Nhiếp Chư Thiện Căn)
Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu quyển 16, số 657
Đời Hậu Tần, nước Quy Tư
Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Phụng chiếu dịch từ chữ Phạn sang
chữ Hán
Tỳ Kheo Thích Bảo Lạc
dịch ra chữ
Việt
Pháp Bảo ấn hành 1990
---o0o---
Quyển IX
30 - Phẩm bất thối
chuyển thứ ba mươi
Phật bảo Xá Lợi Phất, nay Như Lai phải
trừ nghi cho các vị, cũng như khiến người đọc tụng, diễn nói, thọ trì kinh
này trong tương lai đều dứt hết nghi ngờ.
Này Xá Lợi Phất, Như
Lai là bậc trí sâu thấy rộng, là kẻ thuyết đạo, không pháp nào chẳng thấy,
không pháp nào chẳng nghe, không pháp nào chẳng biết, không pháp nào chẳng
hiểu, nên thấu suốt rõ ba đời không còn ngăn ngại. Xá Lợi Phất, Như Lai là
bậc không ai sánh bằng, trong các pháp đều giải đúng, tự nhiên, tự tại
không cần thầy. Nay Như Lai muốn vang lên tiếng gầm sư tử giữa đại chúng,
để cho người ngu hành pháp tà đạo biết, chẳng cần nói rộng. Như có người
thiện nam thiện nữ phát tâm vô thượng Bồ Ðề, ở trong giáo pháp ta phải
nhất tâm thực hành. Tại sao? Phải nghĩ thế này: chư Phật đã tu tập pháp vô
thượng Bồ Ðề trong vô số kiếp. Trong các pháp ấy nếu ta sanh tâm giải đãi
thì chắc không thể tin; còn như đi ngược lại không thọ trì, thì không hiểu
biết. Này Xá Lợi Phất, nếu Bồ Tát hành bốn pháp sau là làm hủy hoại đạo vô
thượng của chư Phật. Những gì là bốn?
1) Xa
lánh bạn lành, tiếp xúc thân cận bọn ác tri thức, theo chỗ học mà phá pháp
Ðại Thừa .
2) Bồ Tát
có sở đắc, thấy được thân tâm mình, nghe kinh sâu mầu bèn sinh ra khiếp
sợ, nên đọa vào đại địa ngục.
3) Bồ Tát
học kinh luận phức tạp của ngoại đạo, giỏi việc tranh luận, được nhiều
người tôn kính; không điều phục được tâm, cũng không điều phục được pháp.
Vì không điều phục được nên không thực hành pháp Ðại Thừa.
4) Bồ Tát
phá hủy các giới cấm Phật chế không theo kịp nổi. Nghe những giới thanh
tịnh vi diệu tuyệt vời ấy tâm không hiểu thấu nên không tin; ngược lại,
không thọ trì.
Bồ Tát bị bốn pháp ấy
nên không thể tin thọ, còn làm phá hủy đạo Bồ Ðề. Lúc bấy giờ đức Thế Tôn
muốn cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:
Nếu gần ác tri
thức
làm theo chúng
thất đức
nên không ưa
Phật pháp
hủy diệt đạo
vô thượng.
Học kinh điển
ngoại đạo
ưa giỏi việc
tranh luận.
Nếu có kẻ phát
ngôn
đều là bọn phá
hoại.
Dù tự xưng
người trí
kỳ thật lại
ngu si.
Nhân duyên đó
là vì
không tin đạo
Bồ Ðề.
Như người tham
chấp ngã
theo chỗ hiểu
biết đã
nghe pháp
nhiệm mầu này
sanh tâm sợ
hãi ngay;
chẳng hiểu một
mảy may:
pháp thật
không, tịnh thảy.
Không hiểu Bồ
Ðề đạo
nên không niệm
tin tưởng.
Do vì phá giới
tướng
nên tạo nghiệp
tội chướng
không thể theo
học được,
những giới cấm
Phật lược.
Ác khẩu và
lưỡng thiệt
ưa nêu lỗi của
người.
Kẻ bất thiện
dẫy đầy
không ác nào
chẳng tạo;
vì thế nên
tránh xa.
Ðạo Bồ Ðề
thiết tha
thuận pháp ta
xưng tán
học tu chuyên
tinh tấn.
Như người muốn
thấy Phật
muốn hiểu pháp
như thật
nên giữ giới
cẩn mật
từ đó được trí
Phật.
Nếu người tịnh
giới luật
tâm Bồ Ðề cao
tột
do giữ giới
tịnh thanh
hay diệt ác
quán lành.
Nên người cầu
đạo giác
phải tịnh tu
giới luật.
Khi ấy trong
Phật pháp
không còn thấy
điểm nghi.
Lại nữa, Xá Lợi Phất,
Bồ Tát có bốn pháp để hộ trì Phật pháp. Những gì là bốn ?
1) Tự giữ
giới thanh tịnh, phát tâm an trú trong giới,
2) Rộng
nghe giáo pháp, không bàn tạp luận
3) Nghe
kinh pháp của Phật chuyên cần trì tụng
4) Thường
ưa ở một mình, thích hạnh thanh tịnh.
Xá Lợi Phất, nếu Bồ
Tát hoàn thành bốn pháp ấy có thể hộ trì Phật pháp. Lúc bấy giờ đức Thế
Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ:
Bồ Tát chuyên
giữ giới
không lấy giới
tự cao
để cầu pháp
nhiệm mầu
quyết định
nghĩa thẩm sâu.
Pháp tịnh đệ
nhứt này
cầu vô thượng
Bồ Ðề.
Chỉ tu chánh
pháp Phật
luận ngoại đạo
chẳng tập;
và cũng không
tụng đọc
kinh điển Lộ
Già Da
chẳng thích
luận trích qua.
Phật pháp hộ
thiết tha
thường tu nơi
vắng lặng
thích ở chỗ
không nhàn.
Các sắc dục
không còn
làm não loạn
tâm thần.
Nay ta đã tán
dương
bốn pháp vi
diệu này
vì muốn Phật
đạo thành.
Các vị gắng tu
hành
ta trong nối
tiếp đời
đều thực hành
pháp ấy
ủng hộ Phật
pháp thảy
sớm đạt thành
đại trí
Phật pháp luôn
hộ trì.
Ác nạn chẳng
đọa vào
thường sanh
nơi tôn quí
làm chỗ để dựa
nương
nên được đại
giàu sang
tâm vẫn chẳng
phế hoang
sớm tạo phước
nghiệp đoàn.
Biết của cải
vô thường
bố thí là một
phương
nên cho chẳng
giữ thường.
Thân ta và tài
sản
lúc chết đều
thỏng buông.
Chỉ người
thiện quyến thuộc
cùng kẻ thiện
tri thức
cha mẹ và thân
tộc
khiến họ tin
Phật pháp.
Thích thực
hành việc tốt
cũng như khiến
người tin.
Nhờ đó đại vui
mừng
để tu hành
chánh pháp.
Ðược sanh
trong thế gian
dòng quí tộc
giàu sang
tâm vẫn không
phóng đãng
ưa làm việc
thiện sáng
với thân mạng,
tài sản
chẳng nghĩ
tưởng tiếc tham.
Gặp chư Phật
thậm nan
chỗ không nạn
cũng vậy
Gặp Phật hết
nạn thảy
lợi ích thật
lớn thay!
Tâm hằng tưởng
xuất gia
trí huệ phát
sanh là
đại hoan hỷ
thuần hòa.
Cầu trí huệ
cao vời
ở trong pháp
an thường
phát sanh đạo
vô thượng.
Này Xá Lợi Phất, Bồ
Tát có bốn pháp tâm thường hoan hỷ tu hành an ổn, nên biết chắc sẽ thành
Phật, danh đồn khắp mười phương. Những gì là bốn?
1) Có
những sở hữu trong (thân thể), ngoài (của cải) đều vui lòng bố thí
2) An trụ
trong giới, tu các công đức lành
3) Trong
hàng tri thức, là người được tôn kính hơn cả
4) Vì
hiểu giáo pháp mầu nhiệm nên không tiếc thân mạng. Nếu có ai đọc tụng kinh
này thì nên gia tâm lễ bái cúng dường ủng hộ. Ðầy đủ bốn pháp như thế thì
tâm thường vui vẽ, nên tự tìm được niềm an lạc, ta tin chắc vị ấy thành
Phật, danh đồn khắp mười phương.
Lúc bấy giờ đức Thế
Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ:
Quyết bỏ mọi
tài sản
an trụ trong
tịnh giới
hơn hẳn trong
người trí
chẳng ngờ pháp
vắng lặng.
Nếu thấy người
đọc tụng
hành trì và
diễn nói
kinh điển
nghĩa thâm huyền
đem mọi vật
cúng dường.
Ðây là Bồ Tát
tướng
tâm hằng vui
bố thí
làm Phật được
thọ ký
trong đời đáng
được tôn
hoặc quá khứ,
vị lai
cùng chư Phật
hiện tại
thọ ký được
giác ngộ
ngươi sớm
thành Phật ngay.
Nếu người tu
pháp này
chính lời chư
Phật dạy.
Bồ Tát nên
biết thế
an trụ đạo Bồ
Ðề.
Pháp này Phật
xưng tán
Chư Bồ Tát
thực hành.
Người nào trụ
trong ấy
vị lai Phật ắt
thành
Ví như lấy
bình sốp
từ cao thả
xuống đất
khoảng giữa
chẳng chi ngăn
biết chắc vỡ
tan hoang.
Bồ Tát cũng
như thế
chuyên tu hành
đạo giác
khoảng giữa
không chi ngăn
được thành
Phật chắc chắn.
Giống người
dệt cửi hẳn
đường ngang
dọc ngay thẳng
khoảng giữa
chẳng dự phòng
mà vải vẫn
thành công.
Bồ Tát cũng
như thế
thường tu đạo
Bồ Ðề
tâm không hay
biếng trễ
Phật quả được
chứng nên.
Như người có
ruộng tốt
trồng tỉa lúa
mạ lên
luôn luôn năng
tưới bón
xanh tươi hạt
chắc bền.
Tùy thời lo
giữ gìn
lạnh nóng, gió
khó gần
cây dần dần
lớn mạnh
mùa lúa kết
sung thạnh
nhờ che chở
mát sạch
cho người được
nghỉ ngơi
hạt chắc cấp
chúng xơi
là công việc
ích lợi.
Bồ Tát cũng
như vậy
đầu phát tâm
Bồ Ðề
dần tu Bồ Tát
đạo;
muốn hiểu rộng
thấu đáo
tùy thực hành
huệ thí
thường giữ gìn
cấm giới,
các pháp giải
thoát thời
cũng chẳng hề
biếng lười.
Thực hành theo
lớp lang
được ngồi tòa
đạo tràng
trừ diệt chúng
ma quân
chứng vô
thượng Bồ Ðề
tùy thời
chuyển pháp luân.
Không ngăn
ngại thế gian
để độ thoát
chúng sanh
dẫn đạo vô số
chúng
bậc trí huệ
xứng đáng
phát tâm vô
thượng quang
đời đời không
lui hàng
cho đến khi
thành Phật.
Vì thế các vị
nay
nên tu pháp
diệu này
chắc được
thành Phật ngay
tùy thời
chuyển pháp luân.
Xá Lợi Phất, Bồ Tát có
bốn pháp trọn đời không thối chuyển đạo vô thượng Bồ Ðề, xã thân làm được
chuyển luân thánh vương phước đức tự tại, thân thể cường tráng như đại lực
sĩ. Làm chuyển luân vương bỏ bốn châu thiên hạ mà xuất gia, khi đã xuất
gia thường được tự tại tu bốn phạm hạnh. Sau khi chết được sanh lên cõi
trời Phạm Thế làm Ðại Phạm Thiên. Những gì là bốn?
1) Nếu Bồ
Tát thấy chùa tháp hư nát nên ra sức sửa sang lại, dù chỉ còn một đống hay tan ra từng mãnh
vụn. Ðó là pháp thứ nhất, cho đến khi làm được Phạm Thiên Vương.
2) Nếu Bồ
Tát ở giữa con đường thông sang bốn bên có nhiều người qua lại mà lập chùa tháp hay hình
tượng Phật. Làm việc Phật, tạo công đức ấy, hoặc chuyển pháp luân và xuất
gia, hoặc ngồi đạo tràng, phá diệt ma quân, hoặc hiện thần thông hay nhập
Niết Bàn, hoặc từ thiên thượng hiện xuống trần... là pháp thứ hai, cho đến
khi được làm Phạm Thiên Vương.
3) Nếu Bồ
Tát thấy tỳ kheo tăng tan rã, hai chúng tranh tụng, hiềm giận đôi co nhau lỗi quấy. Lúc đó Bồ
Tát phải có cách khéo léo làm cho họ hòa hợp. Ðó là pháp thứ ba cho đến
khi làm được Phạm Thiên Vương.
4) Nếu Bồ
Tát thấy Phật pháp sắp hoại diệt thường phải tụng kinh, thuyết pháp dù một bài kệ bốn
câu, làm cho giáo pháp không mất; tinh tấn tu hành để hộ trì Phật pháp,
cúng dường pháp sư, một lòng hộ pháp không tiếc thân mạng. Ðó là pháp thứ
tư, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp như thế đời đời chuyển thân làm
vua chuyển luân, thân tướng cao lớn như đại lực sĩ. Bỏ cả bốn châu thiên
hạ mà xuất gia. Khi xuất gia thì tùy ý tu bốn phạm hạnh. Khi chết được
sanh lên cõi trời Phạm Thế làm vua Ðại Phạm Thiên.
Lúc đó đức Thế Tôn
muốn làm rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:
Nếu thấy tháp
Phật hư
ra công tu bổ
lại
Bồ Tát làm như
vậy
nên được thân
cao đại
Ở giữa bốn ngã
đường
tạo lập chùa,
tháp, tượng
biểu hiện Phật
đức tướng
khiến chúng
tâm thanh tịnh
được đại phước
báu sinh
danh vang khắp
lưu truyền.
Với quyến
thuộc đông vầy
được nhiều
người xưng tán.
Hoặc thấy tăng
ly tan
cốt chỉ lo
tranh tụng
chước khéo làm
họ hối
cho hòa hợp ở
chung.
Nhờ phước đức
nhân duyên
sức mạnh không
ai bằng
thân cao lớn
đẫy đà
đại lực sĩ
khác nào...
Thấy Phật pháp
tiêu hao
không có người
tín thọ
nên nhứt tâm
ủng hộ
chẳng mến tiếc
thân mạng.
Thấy ai hộ trì
pháp
thêm cung
phụng kính trọng
làm chư thiên
hộ vệ
nên chư Phật
gia bị.
Giúp chấn hưng
Phật lý
nên làm được
quốc vương
dạo đi khắp
bốn phương
đem pháp dạy
chư cường
Tuy trị quốc
an dân
tâm chẳng chút
buông lung.
Hay khéo đè
các dục
xuất gia lìa
tổ quốc
chuyên tu tập
tứ thiền
đủ thần thông
thiên biến
bốn phạm hạnh
tu tiến
thường ưa điều
phước thiện
cho đến lúc
mạng diệt
được sanh lên
Phạm Thiên
các cõi trời
Phạm Thế
được làm Tự
Tại Vương
Bốn pháp đây
tối thượng
chư Phật đều
tán dương.
Xưa ta là Bồ
Tát
cũng thân cận
tu thường
theo chỗ thấy
nghe pháp
như thuyết tu
học tường
được đến bờ
giác ngộ
sớm thành đạo
vô thượng.
Nếu người
chuyên tu dưỡng
thực hành pháp
của ta
đời đời được
tôn quí
sức mạnh khó
chuyển lay
thường được
người kính lạy.
Các vua trời
Ðao Lợi
trong cõi dục
cũng vậy
được làm Tự
Tại vương
và ngay cõi
sắc được
làm Tự Tại
quốc vương
khắp nơi đều
tôn ngưỡng.
Ai chẳng tu
chánh đạo
giữ giới cấm
thanh tịnh.
Tâm luôn biết
hổ thẹn
đều thành tựu
sở nguyện
trụ nơi điều
phước thiện
tinh tấn không
trễ biếng.
Tập nhẫn nhục,
tu thiền
được trí huệ
vô biên
hiểu thông tất
cả pháp.
Hằng trăm
nghìn vạn ức
pháp phương
tiện không lường
thảy đều thông
suốt cả
thấu rõ nghĩa
tinh tường.
Chỉ trong mỗi
một câu
diễn nghĩa mầu
vô lượng
Khéo biết các
thuật hay
vượt hơn hẳn
trong đây
là được đại
trí huệ.
Biện luận giỏi
vô ngại
chuyên tu đạo
giác ngộ.
Xã bỏ trí huệ
thừa
thường giữ tâm
ngay thẳng
khéo tu tập
chánh kiến
nên được gặp
Như Lai
lìa xa bao
chướng ngại
Ấy là thừa
trọng đại
chư Phật đều
ngợi khen.
Trong thừa vi
diệu đây
chẳng còn các
lỗi quấy
Chẳng hạn
người mù thảy
cũng chẳng hạn
điếc ngây
Lưng gù trăm
hoạn nạn
câm, ngọng,
xấu xí thay.
Cũng chẳng hạn
bần cùng
Và người mất
phước báu.
Chẳng hạn tạo
nghiệp dữ
nhân duyên đọa
ác thú.
Ai nghe khen
thừa ấy
chẳng tạo điều
ác quấy
mà cũng chẳng
học tu
chỉ trừ kẻ ác
tâm.
Người trí nên
chuyên cần
cầu Phật tuệ
quyết lòng
tu tập trí huệ
này
Giác ngộ đạt
đến bờ
Ta sanh ra đời
đời
thường trong
dòng tôn quí
tướng đẹp sức
bền bỉ
đầy đủ quyến
thuộc thảy.
Lúc đầu ta
chẳng trể
chuyên tu hành
tinh nhuệ
giữ gìn tịnh
giới để
nhất tâm cầu
trí huệ.
Ðời quá khứ
như thế
do tu tập pháp
lành.
Nay được thọ
nhận tốt.
Các vị chớ có
xét
qua trăm nghìn
vạn ức
vô số na do
tha
thế giới như
hà sa
trí ta đều
thông suốt;
cũng biết rõ
mồn một
tâm niệm của
chúng sanh
còn biết việc
chúng hành
và thâm tâm
chúng muốn.
Ta biết tìm
phương kế
giáo hóa Bồ Ðề
phần;
cũng biết điều
phục tâm
làm cho không
phừng cháy.
Ta dùng Phật
nhãn thấy
thế giới tâm
chúng sanh
giáo hóa phải
có cách
gốc sanh tử
nhổ sạch
tùy thời mà
thuyết pháp,
dạy bảo hướng
dẫn đường
hiển hiện sức
thần thông
khiến chúng
đều vui mừng.
Nếu chúng ưa
tham chấp
tài sản và
thân sắc;
chỉ rõ các lỗi
thất
để đạt đến
Niết Bàn.
Nếu kẻ bị buộc
ràng
vấn vương các
tà kiến
cũng làm cho
trông thấy
khiến họ biết
lỗi lầm.
Tùy chúng được
quí tôn
tướng hình
thân đủ loại.
Ta liền theo
biến hóa
chánh đạo chỉ
rõ cho.
Người kia đắc
pháp rồi
tâm hân hoan
gấp bội.
Nói, nghĩ tức
Phật ngôi
ta thương giáo
hóa đời;
quy y ta tức
thời.
Cũng nương
theo Thánh pháp
rồi sau dần
chứng đắc;
phiền não khổ
nhổ bạt
vì người mà
thuyết pháp
khiến được đạo
tịch diệt.
Người ấy nghe
pháp ta
Niết Bàn đạt
không xa
như ta trong
hiện tại;
các pháp đều
vô ngại.
Quá, hiện và
vị lai
trí huệ chẳng
còn ai (hơn)
Thân Phật thật
cao đại
không thể có
hạn lượng.
Kẻ thần thông
đạt được
còn chưa thể
thấy nghe
Phật lực nhiệm
mầu thay
không biên
cương giới hạn
đem Phật lực
vô lượng
che chở cõi
Hằng sa
Những gì của
Như Lai
sắc tướng thân
hiện tại
chúng sanh
trong các loại
không còn có
hạn lượng.
Nếu chúng sanh
nào tưởng
muốn thấy Phật
sắc tướng
thì nhìn đủ
loại thân
không có định
tướng hình
Thấy Phật thân
biến liền
tâm hân hoan
khôn xiết.
Chúng nhiệt
liệt khen ta
đều là sai lầm
cả.
Loài chúng
sanh hết thảy
Phật thân khó
thấy rõ
thậm chí dùng
thiên nhãn
cũng khó có
thể tường.
Các vị nay
thấy được
là Phật lực
thần thông
thân tướng
Phật trang nghiêm
thật khó thể
nghĩ cùng.
Phật ở mỗi
chân lông
biến hóa sức
thần thông
vì lợi ích
chúng sanh
còn khó thể
bàn suông.
Trong mỗi lỗ
chân lông
phóng vô số
hào quang
hơn số các
sông Hằng
các thế giới
đâu bằng.
Ta được các vị
khen
an tọa giữa
chúng tăng
trong mười
phương thế giới
cũng xưng tán
như đây.
Ta dùng trí
hết thảy
Phật lực trí
huệ bày
còn chưa hết
được thay
huống gì được
nghe thấy.
Phật còn khó
bàn vậy;
Pháp xét nghĩ
khó hơn.
Nếu ai tin hết
lòng
quả báo được
khó lường.
Lúc bấy giờ trong
chúng có một đồng tử (1) bảy tuổi tên là Tuyển Trạch từ chỗ
ngồi đứng dậy chấp tay hướng về đức Phật nói bài kệ rằng:
Thế Tôn, con
phát tâm
mong mỏi đấng
pháp vương (2)
nghe pháp khó
nghĩ lường
trang nghiêm
tâm cao thượng.
Vì chúng sanh
thương tưởng
lập pháp thí (3) hội trường
làm tiếng sư
tử gầm
như đã nói tất
thành.
Thế Tôn, con từ nay
không tham gia
quyến thảy.
Theo y lời
Phật dạy
xuất gia tu
chánh đạo,
tinh tấn hành
chu đáo
thiền định và
trí não
chánh giác sớm
đạt vào.
Nay con tu học
dạo
vì nhiễm sâu
dục hão
mong sớm được
xuất gia
cạo tóc, mặc
cà sa;
thường tu hành thượng pháp.
Nên dùng sức
hiểu biết
chọn lựa ở thế
gian
Thế Tôn nên vì
con
mong mỏi cho
xuất gia.
Con không
tưởng chúng sanh
vì nghĩ tưởng
khó thành
tức giáo pháp
hiểu rành
nên vì chúng
sanh thuyết
chúng ma quân
phá diệt;
làm ngoại đạo
tê liệt
lưới tà kiến
trừ dẹp
làm lợi chúng
tốt đẹp.
Con hành đạo
an lạc
chân Niết Bàn
tu đạt
vô hình tướng
đạo giác
nên khó thể
nghĩ bàn.
Ðoạn mê si
loạn cuồng
pháp sáng soi
thế gian.
Pháp chân thật
truyền giảng
tùy theo pháp
tánh tướng
đại thần thông
đạt được
hy hữu hiện
các việc.
Chúng sanh
được thấy nghe
đoạn dứt những
mối nghi...
Lúc bấy giờ đức Thế
Tôn bảo Tuyển Trạch rằng: hay thay, hay thay đồng tử! Con ở trong pháp ta
mà muốn xuất gia chăng? Mong thay Thế Tôn! Như Lai liền nói bài kệ rằng:
Tuy đang mặc
nhiễm y (4)
mà tâm không
đắm nhiễm
thì trong Phật
pháp thảy
mới chân thật
xuất gia.
Trang sức tuy
chưa xã
mọi mối buộc
lìa xa.
Không kết, tâm
không mở
ấy là chân
xuất gia.
Tuy không thọ
giới cấm
Tâm xa
hẳn ác tà
mở định
huệ công đức
ấy là
chơn xuất gia
Tuy
không thọ giới cấm
mà phá pháp
chẳng chấp
lìa hết thảy
mọi pháp
ấy là chân
xuất gia.
Nếu chẳng phân
biệt ngã
cũng không
chúng sanh thảy
mà tâm bất
thối chuyển
ấy là chân Bồ
Ðề.
Nếu phát tâm
Bồ Ðề
chẳng đạt hết
tướng tâm
không được mà
chẳng động
là người không
thể mất.
Lúc bấy giờ Xá Lợi
Phất nghĩ như thế này: đồng tử đây từ khi phát tâm đến nay cũng đã lâu,
Phật vì đồng tử thuyết pháp mầu. Lúc đó Xá Lợi Phất dùng kệ hỏi Phật rằng:
Ðồng tử Tuyển
Trạch đây
đã thực hành
đa thiểu
nhờ nghe pháp
thâm diệu
mà tâm không
kinh sợ.
Người ấy đời
quá khứ
từng thấy bao
đức Phật
nghe pháp thâm
diệu này.
Nay nghe Thế
Tôn nói
phát
tâm tín thọ ngay
Tùy
theo chư Như Lai
nghe
pháp thâm diệu này
tâm chẳng chút
đổi thay?
Liền đó đức Thế Tôn dùng
bài kệ đáp rằng:
Ðồng tử
Tuyển Trạch đây
từng ở thế
giới này
theo hầu vô số
Phật
được nghe vi
diệu pháp.
Ðồng tử như ta
biết
ở Ương Già Ma
quốc
đã nghe qua
Phật pháp
tu hành đạo Bồ
Tát
và hiểu rõ
thông đạt
ấm giới cùng
các nhập
biết ba môn
giải thoát
là xứ hay phi
xứ
Ca Thi, Kiều
Tất La
nơi đây pháp
nghe qua
ta thảy đều
thấy biết
cũng như hai
xứ trên.
Ðồng tử Tuyển
Trạch đây
bờ giác thẳng
tiến lên
pháp lành càng
tăng thêm
được trí huệ
thuần thiện
toán số, kỹ
thuật tiến
văn từ thế
gian thiển
hiểu rõ việc
như trên
thảy đều chẳng
mất quên.
Hết thảy trí
thế gian
cũng khó làm
phế vong
trí huệ xuất
thế thông
nên gọi các
pháp ‘không’.
Nếu kẻ am hiểu
tường
hết thảy pháp
không tướng
trải số kiếp
vô lượng
trọn chẳng mất
trí này
Ðại trí huệ là
đây
hay trừ mọi
phiền não.
người thích
trí không này
trong pháp
chẳng lo buồn.
Lúc đó Xá Lợi Phất hỏi
đồng tử rằng, ông ở trong Phật pháp muốn xuất gia chăng? Ðồng tử đáp:
chẳng muốn xuất gia nữa. Nay tôi đã xuất gia rồi. Xá Lợi Phất dùng bài kệ
hỏi rằng:
Nay tôi
không thấy ông
mặc pháp phục
nơi thân
cũng chẳng cạo
râu tóc
sao gọi xuất
gia được?
Ông cũng chẳng
hợp pháp
được Hòa
Thượng (5), Xà Lê (6)
giới cấm chưa
truyền trao
sao gọi nghĩa
xuất gia?
Thọ giới chúng
ở đâu?
Ai bạch pháp
yết ma (7) ?
theo đúng pháp
Phật đà
hợp qui cách
xuất gia.
Việc này ông
chưa qua
xuất gia làm
sao được.
Nên phải thật
tâm đáp
những câu hỏi
như trên.
Lúc đó đồng tử Tuyển Trạch
nói kệ trả lời rằng:
Dù không mặc
ca sa
hay có mặc
chăng là
không bỏ,
không thọ pháp
danh chính
thật ca sa.
Tôi thọ pháp
xuất gia
chẳng khởi tạo
phiền hà
là áo sạch vô
cấu.
Tôi thường mặc
áo ấy
mọi buộc kết
đoạn xa
Cạo râu tóc
đây là
gươm huệ cắt
đứt lìa
sau này chẳng
thọ sanh.
Tài tôi khó
nghĩ cùng
thọ nhận các
pháp mầu
không vơi cũng
không đầy.
Thường tu
thiện pháp này
tôi thực hành
thế ấy
trọn chẳng thọ
pháp quấy
Tự thành đầy
đủ trí
là thọ giới
hoàn bị (8)
Phật, thầy ta
yết ma
Do quán pháp
như kia
Phật đạo chẳng
tách lìa
Tùy thuận nơi
Phật đà
ấy là ta xuất
gia.
Cũng là giới
của ta
thì là y bát
cả
đó là pháp yết
ma.
Ta thực hành
sâu xa
trọng pháp tạo
chánh nghiệp
từ một cõi
Phật ra
lại đến một
cõi khác
ở yên nơi đạo
tràng
bố thí khó
nghĩ bàn
nên cùng vô số
chúng
thọ thực chẳng
riêng màng...
Lúc bấy giờ đức Thế
Tôn quán sát rất kỹ đồng tử, thì đồng tử tự nhiên râu tóc trụi hết, áo cà
sa mặc vào như người mới cạo tóc. Qua bảy ngày sau chứng được 5 phép thần
thông, lúc đó tự nhiên không ai còn trông thấy đồng tử đâu cả. Bấy giờ cả
thế giới này đại địa đều chấn động, chúng sanh khiếp hãi, trống trời tự
nhiên vang, trăm nghìn nhạc khúc đồng thời trổi lên, ánh sáng rực rỡ chiếu
khắp trời đất.
Lúc Phật mỉm cười, từ
miệng phóng ra muôn tia hào quang đủ màu sắc rực rỡ, xoay quanh thế giới
ba vòng rồi thâu về nơi đỉnh đầu. Lúc đó A Nan trịch áo bày vai bên mặt
chấp tay hướng về phía Phật dùng kệ hỏi rằng:
Thầy cao tột
trong chúng ai hơn
tu hành phước
đức sùng sùng tôn
trí huệ rõ
suốt không chướng ngại
Bậc vô thượng
trí giác hỏi Ngài
Nhân duyên gì
Như Lai mỉm cười?
Phật mỉm cười
đây hẳn có nhân
thọ ký từ Phật
ai được phần?
Mong Thế Tôn
giải rõ cho con.
Thế Tôn miệng
phóng đại hào quang
ánh sáng chiếu
soi khắp thế gian
vòng quanh thế
giới lớp lớp hàng
thâu về đảnh
thượng khó ai trông
vì người nào
thành công lợi ích?
Ai nơi Phật
huệ thích thọ ký
khiến Thế Tôn
phấn chí mỉm cười?
Phóng hào
quang Phật chiếu khắp nơi
rực rỡ trang
nghiêm các thế giới
Hết thảy chúng
sanh đều phấn khởi
được tâm an
tịnh khó nghĩ ngợi.
Ấy nhờ Phật
lực hiện thần thông.
Phật bảo A Nan rằng,
nay ông có trông thấy đồng tử Tuyển Trạch thân đang mặc pháp phục rồi bỗng
nhiên trong chúng đây biến mất không? A Nan đáp: thưa con đã trông thấy. A
Nan ông nên biết rằng, đồng tử đang biến ở đây, nhưng hiện ở thế giới Diệu
Hỷ, nơi cõi Phật A Súc. Ðồng tử dốc lòng chuyên tu phạm hạnh nên thân thọ
mạng dài lâu như Thiên Ðế, Thích Ðề Hoàn Nhân và trong hiện thân tăng thêm
tuổi thọ. Ðồng tử Tuyển Trạch dùng thân ấy từ cõi Phật này đến cõi Phật
kia, cũng như nơi các cõi khác tiếp tục tăng thêm tuổi thọ. Dần dà trải
qua vô số kiếp chưa bao giờ rời xa Phật, ở chỗ chư Phật dùng hiện thân với
tuổi thọ mạng dài lâu trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp, rồi sau mới đạt
được vô thượng Bồ Ðề, tức thành Phật hiệu là Ðại Trí Tuyển Trạch. Thế giới
của Phật Ðại Trí tên là Thường Chiếu Minh.
Này A Nan, chúng sanh
ở cõi đó không thọ thai mà do hóa sanh, đều ngồi kiết già trên hoa sen
báu. Ở cõi Phật ấy đầy đủ phước đức trang nghiêm tuyệt vời như thế. Này A
Nan, Bồ Tát có bốn pháp khi chuyển thân được làm thiện lai (9)
tỳ kheo, không thọ thai nữa mà do hoa sen hóa sanh, tức là hiện thân tiếp
tục tăng thêm tuổi thọ. Những gì là bốn?
1) Bồ Tát
ưa thích xuất gia, cũng như khuyến khích người khác xuất gia và giúp đỡ
người xuất gia, tức xuất gia xong thuyết pháp giáo hóa làm lợi lạc chúng
sanh.
2) Bồ Tát
chuyên cần tinh tấn cầu học Phật, cũng như khuyên người khác tinh tấn cầu
pháp.
3) Bồ Tát
thực hành nhu hòa, nhẫn nhục, cũng như khuyên người khác nhẫn nhục.
4) Bồ Tát
tự tu tập các phương tiện, phát nguyện rộng lớn, cũng như khuyên người
khác thực hành phương tiện và phát đại nguyện.
Này A Nan, nếu Bồ Tát
thành tựu được bốn pháp ấy khi chuyển thân được làm tỳ kheo chân chánh,
không còn thọ thai mà do hoa sen hóa sanh, tức là thân hiện tại tiếp tục
tăng thêm tuổi thọ. Lại này A Nan, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp sau
đây, sẽ đạt vô thượng Bồ Ðề, không còn thối tâm lui sụt nữa. Những gì là
bốn?
1) Bồ Tát
phát tâm vô thượng Bồ Ðề kiên cố.
2) Thường
ưa trông thấy Phật
3) Thích
nghe pháp không chán
4) Hay
nói lời chân thật, không lừa dối.
Này A Nan, nếu Bồ Tát
thành tựu được bốn pháp ấy, không còn thối chuyển đạo vô thượng Bồ Ðề.
Liền khi đó đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:
Phát tâm sâu
kiên thật
thường ưa
trông thấy Phật
nghe pháp
không nhàm chán.
Luôn nói lời
chân thật
thấy chúng
sanh khổ não
hay đem tâm
thương xót
tâm chúng đều
suốt biết
tùy thời mà
nói pháp.
Người kia nghe
thọ nạp
thân tâm không
mỏi mệt
hành tinh tấn
trước hết
trí huệ càng
phát kết.
Vì người giữ
niềm tin
nói lời lẽ
chân thành.
Có nói ra điều
gì
sai lầm không
hề bị.
Như trong bốn
pháp đây
tu học nên tùy
nghi
Phật quả đắc
thành ngay
chuyển pháp
luân vô thượng
Ta nói qua
pháp này
quả báo thật
lớn thay.
Ai nghe được
pháp ấy
mà chẳng muốn
tập tu.
Lại nữa A Nan, còn có
bốn pháp, nếu thành tựu cho đến khi thành đạo vô thượng không quên mất
được chư thiên, long thần đều trợ lực, nên thường không rời xa phước điền
thánh hiền. Nếu không có thánh hiền ở trong chúng hội tự tạo phước điền.
Những gì là bốn?
1) Ðại Bồ
Tát chuyên cần tinh tấn giáo hóa chúng sanh khiến phát tâm vô thượng Bồ
Ðề.
2) Tinh
tấn không giải đãi cúng dường Như Lai để cầu pháp
3) Ðem
tâm cung kính hầu hạ pháp sư
4) Nếu
thấy chúng sanh bị khủng bố, khổ não, ban cho sự vô úy.
Này A Nan, nếu Bồ Tát
thành tựu được bốn pháp ấy đời đời không lui sụt tâm Bồ Ðề.
Lúc bấy giờ đức Thế
Tôn muốn lập lại nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:
Cung phụng chư
Phật
tôn kính Phật
pháp
nhất tâm kính
trọng
qui thuận pháp
sư
thấy chư phiền
não
vây hãm chúng
sanh
ban cho vô úy
cứu bao khổ
lụy.
Ðích thị thiện
căn
thấy Phật
thường hằng
Thiên Thần
khuyên nhắc
tu hành tấn
đắc.
Nếu chẳng thấy
Phật
đệ tử chúng
tất
Bích Chi Phật
thành
Nhờ thánh
phước điền
xuất gia tu
hành
đạt trí tịnh
thanh
thiền định
thực hành
được năm phép
thông.
Thần thông đã
đạt
dạo chơi chư
quốc
vào các làng
mạc
khiến chúng
hiểu pháp.
Chúng nghe lợi
lạc
xa bạt bất
thiện
nghiệp ác
chẳng tiến
được người
thuận kính
chúng sanh
tưởng tin
an lạc vững
bền
vì tôn trọng
pháp.
Ta cũng tôn
theo.
Tự người tu
pháp
nên được phước
đức
lợi kỷ, lợi
tha
ai chẳng bỏ
qua
cầu thành Phật
đà
nên hành pháp
bảo
quả Phật không
xa
thật là đại
trí...
Ta vốn tu pháp
ấy
vượt khỏi qua
bờ giác
pháp nhờ đã
thấu đạt
được vô thượng
Bồ Ðề
Ta là đấng Thế
Hùng
các cõi chẳng
ai bằng
ban cho các
thế giới
trí huệ vĩnh
thường hằng.
Này A Nan, vì nhân
duyên đó, ông nên biết Bồ Tát thực hành giáo pháp lợi lạc chúng sanh phải
tu tập Phật pháp đầy đủ. A Nan, lui về quá khứ dài lâu vô số kiếp, lúc đó
cõi Diêm Phù Ðề này có một vị đại quốc vương tên là Phương Âm Vương, bà
phu nhân sinh được một thái tử. Lúc đó có các thiên thần đồng thanh xướng
rằng: người thực hành thiện pháp nay đã ra đời. Nhà vua nghe thế lấy làm
lạ không biết việc gì. Những gì gọi là pháp? Những gì là phi pháp?
Này A Nan, thái tử con
vua Phương Âm dần dần khôn lớn tới năm lên bảy bèn đến chỗ vua cha, cúi
đầu lễ dưới chân, rồi đứng qua một bên. Thái tử hỏi vua cha rằng: pháp là
gì? Thế nào là phi pháp? Lúc đó nhà vua dùng kệ trả lời rằng:
Bố thí giữ
giới, đoạn ái dục
tu hành phước
thiện do nhẫn nhục
lìa sát sanh,
tà dâm, trộm cắp
pháp Thánh
hiền chư Phật tán dương.
Lúc đó thái tử dùng kệ
hỏi rằng:
Như cha đã nói
pháp
Nếu ở đời trị
quốc
có nghe nhiều
rộng khắp?
Rõ nghĩa này
mong đáp:
thế nào hành
chẳng hành?
mong mỏi đáp
thật tình.
Lời thật xa
nẻo ác
không sợ đọa
địa ngục
nói dối rơi ác
thú
thọ các khổ
không dứt.
Vì thế chớ nói
sai
chân thật giải
con nghe.
Lúc đó vua Phương Âm
dùng kệ đáp rằng:
Nếu ở đời trị
quốc
không thể đủ
biện pháp.
Dao gậy hãm
hại người
làm sao có
pháp lành?
Nếu người
không tuân mệnh
ta sân buông
lời ác
tài sản cưỡng
chiếm đoạt
bít lối thêm
thâm độc.
Nếu ta đi thị
sát
dân chúng sợ
tán loạn
nghĩ rằng: vua
ngoại xuất
chắc họ làm gì
ác?
Nếu ta xử
chánh tòa
tội nhân hỏi
xét tra
trước mặt ta
phân trần
nói: vua cư xử
phân
ta xét thấy
lỗi lầm
liền gia hình
án tội
chỉ tại người
lầm lỗi
mình tự tạo
nghiệp thôi.
Có biến phải
phòng ngừa
đất nước loạn
diệt suy.
Ta khổ tâm cai
trị
dân đồ thán
lâm ly.
Nói: vua thế
lực lớn
kỳ thật chẳng
từ tâm
trong nước ai
người dân
dám chẳng tuân
mệnh lệnh.
Lúc thái tử
phát nguyện
nghe vua
thuyết xong kệ
tâm nhàm chán
thưa rằng:
con muốn quyết
tu hành
nên chẳng ham
vương vị.
Vì người tạo
thêm tội
nên xa lìa cha
mẹ
xuất gia tu
Phật đạo.
Nếu vua không
thuận hão
con phải tự
hủy thân
độc dược hoặc
nhảy cao
hay tự sát
bằng dao.
Vua nghe con
thề xong
bảo rằng, buồn
trong lòng
tùy ý con tự
chọn
việc nước cha
lo trị
muốn tài sản
cho con
dạo chơi khắp
non sông
tại sao lại
xuất gia
làm trò cười
thiên hạ
tuổi xuân thọ
dục thỏa
già, hẳn tính
xuất gia
thân khó mong
bảo trọng
khuyên chớ có
chán xa.
Ðáp rằng: vui
tạm giả
không, chán,
thêm giận phiền
xuất gia lìa
ác duyên
thường tu hành
trí huệ
riêng ở nơi
vắng vẽ
an lạc vui
tịnh cảnh
nương về đạo
tràng để
giữ giới tu
hạnh sáng.
Vua có chí
xuất gia
làm sao dân
lợi ích?
Vì người tạo
nghiệp ác
tự thọ khổ địa
ngục
nhai nuốt vòng
sắt nóng
và uống nước
đồng sôi
tà hạnh tạo
nghiệp tội
phải rơi vào
ngục tối
đinh sắt đóng
vào mình
sắt nóng dí
quanh thân
dùng trâu sắt
kéo cày
bới xoi hủy
thân này
đáng sợ bọn
ngục tốt
mắt xanh, vàng
đầu tóc
dắt người tới
vạc sôi
tỏa khắp thân
chói lòa
trải qua nghìn
vạn năm
thọ nhận các
khổ quả
tội nghiệp sâu
khó tả
cầu chết chưa
được thỏa.
Nếu từ vạc sôi
ra
lại rơi hầm
lửa dữ
thân cháy xém
nhuyễn nhừ
như tre khô
cháy lan.
Nếu hầm lửa
vừa tàn
liền rơi vào
núi lửa.
Từ hỏa sơn ra
khỏi
lại vào hầm
phẩn sôi
đang sùng sục
bốc hơi
móc nhọn câu
móc thân
vô lượng nghìn
ức năm
chìm ngập
trong tối tăm
hoặc được
thoát khỏi đây
lại rơi rừng
chông nhọn
lửa bừng cháy
cao ngọn
tro nóng thiêu
đốt thân
lúc ở trong
hầm chông
bốn bề gió lớn
thổi
khua động
những cây chông
đâm chích vào
nơi thân.
Hoặc từ đó
được ra
lại rơi vào
rừng dao
bốn bề gió
mạnh thổi
mũi nhọn đỗ
mưa xối
cắt xẻo thân
rã rời
xối đao kiếm
thế rồi
cắt xẻ thân
từng phần
trải qua nghìn
ức năm
khổ não hết
chịu nổi
hoặc được
thoát ra khỏi
lại rơi vào
sông tro
da thịt hầm
dày vò
chỉ còn xương
cốt trơ
qua vô số năm
dài
thọ các khổ
não nề.
Hoặc từ đó
khỏi rồi
lại vào sông
đồng sôi
nước đồng tràn
khắp nơi
chạm nhau
tiếng lớn vang
xoáy quanh
trăm nghìn vòng
sóng mòi cuốn
ba đào
chảy qua địa
ngục hào
rước tội nhân
vào đó.
Lúc rơi vào
trong ấy
sóng cuộn vây
phủ che
không biết đâu
bờ mé
tấp dạt giữa
dòng sâu
hoặc từ đây
được thoát
nằm trên bờ la
liệt
răng dài và
vàng mắt
hoàn toàn bị
trói chặt
trói xong hỏi
cộc lốc:
mi muốn cầu
điều chi?
Ðáp rằng: tôi
đói khát
chỉ cần ăn
trước nhất.
Liền đó ác la
sát
đè sắt nóng
bên trên
buộc nuốt hoàn
sắt liền
ngũ tạng cháy
như thiêu
trong ngoài rã
tan hoang.
Ngoáy trông
đại sông tàn
gọi là suối
băng lạnh.
Ném thân vào
bỏ chạy
nếu thoát khỏi
nơi đó
lại vào ao
phẩn nóng
núi dao và hầm
lửa
các thống khổ
không dừng
vua, giàu có,
vô thường
chẳng bao lâu
biến hoại
thân mạng còn
chưa quí
Phật nói đều
vô thường.
Nghe lời ta tỏ
tường
xuất gia nuôi
chí hướng
khi chết sanh
thiên thượng;
và khổ não lìa
xa
nơi vắng vẽ
xuất gia
chuyên tu giới
định đã
từ bi hạnh
nhẫn hòa
tịnh tu: không
vắng lặng.
Bấy giờ tự
biết rõ
không ai cho
việc đó
được vắng lặng
lạc an
cũng như Ðại
Phạm Vương.
Thái tử nói
tận tường
thời vua và
hoàng hậu
thần dân cùng
tể tướng
không ai cản
ngăn đường.
Thái tử xuất
gia được
cầu pháp,
thiền định thường
được năm phép
thần thông.
Vì chúng diễn
pháp âm
tu hành tâm
vắng lặng
thích pháp
‘không’, vô ngã.
Không bị pháp
trói, mở
nên nói pháp
như thế.
Mọi người cùng
một thể
nhứt tâm chánh
quán về
ấm, giới và
lục nhập
sao còn ngã,
ngã chấp?
Chúng sanh
trăm nghìn ức
nghe pháp
quyết xuất gia
Mẫu hậu cùng
vua cha
cũng bỏ tục
lìa nhà.
Mấy người xuất
gia xong
phát thệ
nguyện một lòng
cầu pháp theo
vương tử
mong mỏi được
hiểu thông
theo học đạo
thậm thâm
Bồ Tát hạnh
phát tâm
theo chỗ nói
và làm
thành Phật
nhập Niết Bàn.
Vương tử, kìa
A Nan
độ mẹ cha
thoát nạn
khiến trụ Phật
Pháp tạng.
Ông cho ai lạ
chăng?
A Nan chớ nghi
xằng
ấy chính thân
ta đây
vì chúng làm
lợi đầy
khiến ở trong
Phật đạo
Từ ngày ta
phát khởi
cầu pháp nhất
tâm mãi
tinh tấn lực
bền vững
trọn không hề
giải đãi.
Ta thường tu
pháp ấy
tâm không hề
chán mỏi
nên chẳng niệm
nghi ngờ
thường được
Phật đạo chăng?
chí cầu đạo Bồ
Ðề
tinh tấn không
biếng trễ.
Ðem tâm vui
cầu pháp
nên được tối
thắng huệ
nên tu học như
thế
đạo tâm luôn
bất thối
thành Phật
chuyển pháp luân.
31 - Phẩm Vị Pháp
thứ ba mươi mốt
Phật bảo A Nan, Bồ Tát
có bốn pháp, nghe thuyết pháp hiểu rõ nghĩa thú nên được trí huệ, nhận
được pháp, được niệm kiên cố, đầy đủ oai nghi. Những gì là bốn?
1) Phát
tâm chuyên cần tu hành pháp Ðại Thừa mầu nhiệm
2) Hiểu
được kinh pháp, thực hành đúng giáo pháp
3) Tự
thực hành giáo pháp cũng như khuyến khích, hướng dẫn chúng sanh hướng về
giáo pháp.
4) Khi
chúng sanh đã vào trong giáo pháp nên giải rõ, chỉ bày những điều lợi lạc.
Lúc bấy giờ đức Thế
Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:
Bồ Tát cầu
pháp mầu
nên được vui
vô thượng.
Pháp như thế
chưa được
giữa đường
không chán chường.
Nghe pháp sâu
mầu này
suy tư ngẫm
một mình.
Nghe pháp như
thế rồi
luôn nhứt tâm
tu học
thường giáo
hóa tha nhân
hành như ta đã
hành
không những
chỉ nói suông
còn đích thân
chỉ đạo.
Lại nữa A Nan, Ðại Bồ Tát
vì pháp đây nên thường theo pháp sư, và suy nghĩ thế này: pháp ta chưa
được nghe, chưa biết, nếu trái ngược lại mất hết lợi lớn. Lúc đó đức Thế
Tôn liền nói bài kệ rằng:
Nếu có nhiều
người nghe
thường theo
sát thân cận
xem ta đấng
pháp vương
vì tu pháp vô
thượng
như chưa hề
từng được
nghe, hiểu
nghĩa thú kinh
nhân đó trái
hủy khinh
mất lợi lạc
phước đức.
Nếu kiên cố
chuyên tinh
xa hẳn nhiễm
dục tình
thường cầu
pháp quyết định
làm tăng thêm
trí tuệ
thiện tri thức
thân cận
nghe nhiều và
hiểu rộng.
Vì chúng đáng
tôn kính
đọc tụng thọ
trì kinh.
Lại này A Nan, Ðại Bồ
Tát như đã nghe pháp đem giảng rộng cho người, không làm cho giáo pháp bị
tổn hại. Này A Nan, sao là pháp bị tổn hại ?. Nếu có tỳ kheo tham đắm danh
lợi, y phục, ăn uống, giường tòa, thuốc thang... những thứ nhu cầu lợi
dưỡng. Vì người mà khoe rằng tôi tu hạnh đầu đà, giữ giới thanh tịnh đúng
pháp ‘không tướng’. Thật ra thì không theo đúng Pháp tu hành. Ấy là tỳ
kheo làm tổn hại giáo pháp.
Lúc bấy giờ đức Thế
Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:
Bồ Tát nghe
pháp xong
vì đại chúng
giảng truyền
nên thực hành
như Phật
chớ làm hại
giáo pháp
cũng đừng vì
lợi dưỡng
cũng chớ vì
tán dương
tâm từ bi niệm
thường
để thuyết pháp
vô thượng.
Trong chúng
sanh khổ não
khởi lòng đại
từ bi
thuyết pháp
quyết tâm vì
làm lợi lạc
hữu tình.
Nếu người lấy
lợi dưỡng
vì đại chúng
thuyết giảng
nương theo lợi
thế gian
thì tổn pháp
nguy nàn.
Người trí nên
chuyên gần
học hỏi những
điều hay
không làm pháp
hoại suy
ấy là ủng hộ
pháp
mười phương
chư tôn Phật
đều xưng tán
người này
nói pháp
tuyệt! lành thay!
thực hành pháp
cùng nhau...
Lại này A Nan, lúc cầu
pháp Ðại Bồ Tát không nên xem pháp sư bằng cặp mắt thiếu thiện cảm như
khinh khi, ngạo mạn mà nên theo đúng cách trong việc nhứt tâm cầu pháp.
Này A Nan, thế nào là Bồ Tát cầu pháp đúng cách ?
Nếu các bậc sư
trưởng có dạy bảo giáo pháp nên an trụ trong đó mà thực hành đầy đủ tinh
tấn tu hành, đem các thứ vải vóc, thức ăn, đồ mặc, giường nệm, thuốc thang
sửa sang đem cúng dường pháp sư. Ấy là Bồ Tát cầu pháp đúng cách.
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn nói bài kệ rằng:
Lúc Bồ Tát cầu
pháp
không chỉ lỗi
pháp sư
nên vì người
giảng thuyết
mình cũng trụ
trong pháp.
Lúc Bồ Tát cầu
pháp
theo như
thuyết an trụ
đúng pháp mà
cầu pháp
là an trụ
trong pháp.
Vì thế người
cầu pháp
nên trụ như
trên đây
Ấy là pháp ban
đầu
gọi là hành
đúng pháp.
Pháp vắng lặng
chứng đạt
như ta đã
tuyên thuyết
pháp như thế
học được
chứng Bồ Ðề vô
thượng.
Cần cầu pháp
niệm thường
tâm trọng kính
phát sinh
Nghe pháp xong
nhất tâm
nên nghĩ tới
Thế Tôn.
Suy nghĩ như
thế luôn
là thầy ta
chẳng khác.
Người này chỉ
đạo ta
khiến an trụ
chánh đạo
ấy là Thế Tôn
ta
tâm càng thêm
tôn kính
Ðó là đại sư
ta
vui thế gian
lánh xa.
A Nan ông nên
biết
lui về thời
quá khứ
quá vô lượng
vô biên
số kiếp không
thể cùng
có đức Phật ra
đời
là Tu Di Sơn
Vương
Sau khi Phật
diệt độ
đệ tử Vi Ðầu
La
lợi căn, trí
huệ sáng
vì chúng, pháp
xưng tán
hiểu rõ nghĩa
sâu mầu
thông suốt ấm,
giới, nhập
nên đạt đến bờ
giác
phân biệt A Tỳ
Ðàm (10)
khéo tu học ba
môn (11)
kiên trì tạng
Phật pháp
Tu Di Sơn
Vương Phật
càng thêm thần
thông lực
cầu đại trí
chư Phật
thấu đạt pháp
vi diệu.
Ấy tỳ kheo
phước đức
nói khó thể
hết được.
Trong thành
Hoa Ðại kia
có một vị
trưởng giả
giàu có nhiều
của cải
phước đức tột
cao sang
ông thích ưa
làm thiện
được nhiều
người kính trọng
giữ giới có
đức hạnh
nghe nhiều
truyền bá rộng
Một hôm đích
thân ông
đến chỗ Vi Ðầu
La
nên được trí
văn đa
tùy thời mà
thuyết pháp.
Trưởng giả
nghe thâm nhập
lòng vui phát
nguyện rằng:
tài sản của ta
sẵn
đem hết cúng
dường tăng.
Lúc đó tỳ kheo
rằng
lành thay! bố
thí đặng
nghe pháp tin
hiểu hẳn
là căn bản
Phật pháp.
Ðem tài sản,
của vật
dâng cúng pháp
sư xong,
vào năm tuổi
hai mươi
theo hầu làm
thị giả
trưởng giả Lạc
Thiện đã
lúc gần gủi
pháp sư
được nghe pháp
nhiều thứ
tâm không hề
mỏi chán.
Lại cũng phát
tâm thêm:
muốn cúng
dường đủ loại.
Lúc cúng như
thế đó
tâm chẳng hề
giải đãi
một lần đến
thăm hỏi
cầm hai mươi
ức tiền
để dâng cúng
pháp sư
thọ nhận chẳng
chối từ
Như thế cứ
tuần tự
tùy thời cung
cấp đủ
cúng dường với
lòng từ
đại hoan hỷ
tâm tư
Vi Ðầu La pháp
sư
có nuôi các đệ
tử
đều được cung
cấp đủ
mỗi vị ngàn
lạng vàng.
Cúng dường như
thế xong
cùng ba y mỗi
vị
mỗi một y giá
trị
hai mươi ức
lạng vàng
cũng vì Vi Ðầu
La
và tăng đoàn
xuất gia
xây cất mỗi
phòng xá
cao rộng đẹp
xinh lạ;
cũng như xây
tháp quá
mỗi hai mươi
ức lạng
giường gối và
mùng màn
đều đầy đủ
nghiêm trang.
Pháp sư tùy
thời gian
mà thuyết pháp
cúng dàng
làm lợi ích
chúng nhân
trọn cuộc đời
dấn thân.
Lạc Thiện
trưởng giả đây
càng cung
phụng hầu hạ
chứa hương
thơm quí lạ
dựng tháp trăm
do tuần.
Tháp báu cao
bảy tầng
toàn chứa xá
lợi Thầy
tôn quí đại
tháp này
đem hương hoa
phụng nạp.
Lạc Thiện
trưởng giả đây
đã thiết cúng
thế này
gặp được vô
lượng Phật
chẳng sa vào
đường ác
nhân duyên tạo
phước đức
trong tám mươi
ức kiếp
thường làm Ðại
Phạm Vương
hằng thấy chư
Phật luôn
tám mươi ức
kiếp tròn
làm vua trời
Ðao Lợi
thường được
gặp chư Phật
dâng cúng
dường đủ loại;
cũng trong
nhiều kiếp nữa
làm chuyển
luân thánh vương
chư Phật được
thấy thường
cũng thâm tín
cúng dường.
Từ đó theo thứ
tự
lại gặp được
vô lượng
vô số a tăng
kỳ
na do tha chư
Phật.
Gặp chư Phật
thế xong
cũng cung
phụng một lòng
hay hỏi qua
Phật đạo
Phật tùy nghĩa
chỉ giáo:
A Nan con chớ
bảo
ở trong thành
Hoa Ðại
Ðại Danh
trưởng giả kia
là người nào
khác lạ?
Hoài nghi con
nên xóa
nay đây chính
thân ta.
Bấy giờ ta
cung cấp
pháp sư Vi Ðầu
La
vì muốn nghe
Phật pháp
mà làm việc
cúng dường
do nhờ phước
nhân duyên
được Bồ Ðề vô
thượng
Ta cung cấp
pháp sư
tạo căn lành
công đức
đại quả báo
hoàn tất
đến nay vẫn
không hết.
Ta nhờ nhân
duyên trước
đời đời được
tôn quí
gặp chư Phật
như thế
để cùng nghe
Phật pháp
chư Phật cũng
giải đáp
như ta nay
không khác
Ấy là chân đạo
Phật
Các vị nên tu
học.
A Nan bạch Phật rằng:
thật là hy hữu, Như Lai từ vô thỉ đến nay tích chứa phước đức sâu dày,
trong đời quá khứ thường được người tôn quí. Thế Tôn, Vi Tu La tỳ kheo
trong hiện tại đã nhập Niết Bàn. Phật bảo A Nan, vị tỳ kheo này tới nay
chưa nhập Niết Bàn mà đang ở trong pháp của ta hành Bồ Tát đạo. A Nan nói:
hy hữu thay Thế Tôn! Lạc Thiện trưởng giả cúng dường pháp sư, do nhờ phước
đức ấy sớm được vô thượng Bồ Ðề mà pháp sư nay mới hành Bồ Tát đạo. Phật
bảo A Nan: Vi Tu La không thể phát tâm Bồ Ðề như ta; chỉ lấy cái vui của
đạo mà cầu Bồ Ðề nên bỏ tu khổ hạnh. A Nan, ta ở trong đêm dài thường tu
hành cần khổ để cầu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ta trong lúc tu
hành đạo Bồ Tát có phát nguyện như thế này: nếu có chúng sanh nào theo
nghiệp tạo ác đọa trong ba đường ác chịu các khổ não, lúc ta thành chánh
giác sẽ độ thoát mọi khổ ách cho chúng sanh. A Nan, Vi Tu La đã tu tập
hạnh nguyện sâu nói không thể hết, dùng toán số, thí dụ cũng không thể nào
rõ hết được, là do phát tâm đại bố thí trong đạo vô thượng Bồ Ðề. Do thiện
căn ấy mà phát nguyện rằng: nếu lúc ta tu tập đạo Bồ Ðề mà có chúng sanh
nào chưa vào được pháp vị, người cầu quả Thanh Văn, Bích Chi Phật. Những
chúng sanh này được thấy thân ta hoặc nghe tên ta thì nhất định chứng được
đạo vô thượng Bồ Ðề.
A Nan bạch Phật rằng, bạch đức Thế Tôn:
Vi Tu La pháp sư nhận sự cúng dường của Lạc Thiện trưởng giả, nay đang ở
trong đại chúng đây. Phật bảo A Nan: tỳ kheo Vi Tu La trong chúng đây hiện
đang đứng trước ta đó.
32 - Phẩm Ca ngợi gặp
gỡ thứ ba mươi hai
A Nan bạch Phật rằng,
hy hữu thay Thế Tôn! Nay đây trong đại chúng mọi người đều thanh tịnh.
Phật bảo: đúng thế, đúng thế, A Nan! Như ông đã nói: trong chúng đây đều
là những người thanh tịnh gặp nhau. Họ là chúng đại Bồ Tát cả.
A Nan, đại chúng trong
hội này là hội sư tử, không còn sợ hãi, là hội đại long, hội đặc biệt, hội
không thể so sánh. A Nan bạch Phật rằng, bạch Thế Tôn tại sao gọi là hội
đại nhân, là hội sư tử? Này A Nan, vì trong các pháp đã phá hết vô minh
làm lợi ích cho vô số chúng sanh, do phát đại nguyện nên gọi là hội đại
nhân. Chư Bồ Tát phát nguyện trang nghiêm khéo thu nhiếp được Phật pháp
nên gọi là hội sư tử. Lại nữa, A Nan như chúa sư tử trong hang sâu. Ở đó
loài trùng thú không thể nào dám lại gần, vì không thể chịu được cái oai
dũng của loài sư tử. Nếu có con nào lại gần chỉ nghe oai sư tử cũng đủ
trốn mất dạng.
Này A Nan, đây là sự
gặp nhau của chư Bồ Tát nên là hội đại nhân, hội đại sư tử, hội đặc biệt,
hay còn gọi là hội không thể nào sánh được. Tùy theo chỗ ở hoặc ma, thiên
ma làm cho người không dám lại gần, hay nếu có đến gần liền bị khốn đốn
ngay, tâm sợ sệt, ẩn núp chẳng dám chườn ra, vì không thể chịu được đại
oai đức của Bồ Tát. A Nan, như chúa sư tử hống lên ba lần, tiếng vang của
nó lan xa trên một do tuần; trên và dưới mỗi nơi cũng đều nghe xa một do
tuần. A Nan, tiếng sư tử chúa gầm làm cho những sư tử nhỏ khác đều phải
khiếp sợ, huống gì loài chim muông. Voi chúa bạch tượng nghe tiếng gầm của
sư tử cũng phải khiếp sợ không thể kềm chế được nên phát lên tiếng kêu
thất thanh. Này A Nan, hội chư Bồ Tát là hội đại sư tử, hội không còn sợ
hãi. Những người mới học mượn danh Bồ Tát như sư tử con nghe tiếng gầm lớn
liền lẫn trốn. Này A Nan, trong đại chúng này, có những Bồ Tát bất thiện
tham đắm, lợi dưỡng, mong được danh thơm lan rộng, nghe Ðại Bồ Tát nói
pháp nhiệm mầu đều sợ sệt nên rơi vào hố sâu. Tại sao thế? Vì Ðại Bồ Tát
nói pháp ‘không’, ‘vô tướng’, ‘vô tác’, những vị tiểu Bồ Tát chấp vào cái
‘NGÃ’, vào năm ấm, 12 nhập, 18 giới, cũng như chấp giữ giới, tu thiền
định, trí huệ, chấp quả vị, cũng như Niết Bàn và Phật quả nên không thể
kham nổi. A Nan, trong Phật pháp, sao gọi là không, vô tướng, vô tác? Tuy
ta nói không mà kỳ thật trong đó không có pháp nào là không, cũng như
không có chỗ nương tựa; KHÔNG là KHÔNG chứ không phải rỗng không. Này A
Nan, ta nói vô tướng, trong đó không có pháp gọi là vô tướng, cũng không
có chỗ để nương tựa; cũng không có pháp nào là vô tướng, cũng không là
rỗng không. A Nan, ta nói vô tác trong đó không có một pháp nào gọi là vô
tác cả, cũng như không có chỗ nương tựa, cũng không có pháp vô tác. A Nan,
tuy Như Lai nói pháp có thể đoạn diệt mà kỳ thật trong đó không có pháp
nào đoạn diệt cả, cũng không người đoạn, không có pháp đoạn, không có chỗ
để đoạn. A Nan, tuy Như Lai nói có pháp có thể chứng mà trong đó kỳ thật
không có pháp để chứng, không có người chứng, không dùng pháp để chứng,
cũng không có chỗ chứng. A Nan, tuy Như Lai nói có pháp tu mà trong đó
không có pháp nào được tu cả, cũng như không có người tu, không xử dụng
pháp tu, cũng không có chỗ để tu. A Nan, tuy Như Lai nói pháp biến hoại mà
trong đó không có pháp nào hoại cả, không người hoại, không dùng pháp để
hoại, cũn g như không chỗ hoại. Tuy Như Lai nói pháp hữu vi mà trong đó
không pháp nào là hữu vi cả, không có chỗ nương tựa, cũng không có chỗ
dùng, đó là pháp hữu vi. A Nan, tuy Như Lai nói pháp vô vi mà trong đó
không có pháp nào là vô vi, không chỗ nương tựa, cũng không có chỗ dùng,
đó là pháp vô vi. A Nan, tuy Như Lai nói pháp bất tịnh mà trong đó không
một pháp nào bất tịnh, không chỗ nương tựa, cũng không chỗ dùng, đó là
pháp vô cấu vậy. A Nan, tuy Như Lai nói pháp tịnh mà trong đó không có
pháp nào tịnh, không chỗ nương tựa, cũng không chỗ dùng, đó là pháp tịnh.
A Nan, đó là tất cả pháp ấn (12) không hoại, không biến đổi,
trong pháp ấn ấy không có tướng ấn. A Nan, nếu chư Bồ Tát đạt được pháp ấn
gọi là người chân thật trong hàng sư tử, người độc hành, kẻ không sợ hãi.
Ðem tiếng gầm sư tử mà dọa chúng ngoại đạo thì bọn họ tìm chỗ lẫn trốn
hết, hàng phục bọn ma, những người tham chấp không thể sánh kịp, làm kinh
đỡm kẻ tăng thượng mạn, làm kinh động người chấp ngã. Không tin có ma mà
vui trong tinh thần người Phật tử, có thể vì chúng sanh trong mười phương
mà khai tỏ Phật pháp, lập pháp tràng, gióng trống đại pháp, thổi ốc pháp
làm các hàng Phật tử thấm nhuần pháp vị, phân biệt pháp thí hay diễn nói
pháp cho người đủ căn lành. Này A Nan, như con sư tử chúa từ trong hang
sâu đi ra gầm lên ba tiếng. Sư tử con nghe tiếng gầm ung dung thư thả
không hề sợ sệt ngó dáo dác tứ bề. A Nan, đây là hội của các bậc đại trí
sư tử, hội không sợ sệt, hội của những bậc đại trí. Vì các bậc chân Bồ Tát
phát tâm vô thượng Bồ Ðề, căn lành đã thuần thục, nếu nghe được những pháp
như thế, như sư tử con nghe tiếng gầm của chín loài sư tử thì không còn
khiếp sợ, lại còn làm cho tâm thêm hoan hỷ. A Nan, như sư tử chúa theo chỗ
ở đi đứng một mình không sợ sệt. Như thế hội đại sư tử là hội không còn sợ
hãi, trong Phật pháp họ phát tâm đại trang nghiêm, là bạn lành khó sánh.
Cái trang nghiêm bậc nhất vô nhị, suy nghĩ thế này: ta phải đạt thành vô
thượng Bồ Ðề nên không có ai nào hơn, chứng đắc Phật pháp. A Nan, như sư
tử chúa có sư tử cái đang thời kỳ thọ thai, một lần không có hai.
A Nan, hội sư tử, hội
không sợ hãi, hội đại Bồ Tát có chư Bồ Tát phát tâm Ðại Thừa, nghĩ rằng
chẳng thọ thừa nào khác. A Nan, như sử tử chúa muốn làm hại các loài thú
hoặc lớn hay nhỏ đều phải vận dụng sức lực cả. A Nan, hội sư tử, hội không
sợ hãi, hội Ðại Bồ Tát có thuyết pháp đều do nhứt tâm làm cho mọi người
được hiểu rõ. Vì thế, A Nan, đại hội này gọi là hội sư tử vậy.
33 - Phẩm thượng kiên
đức thứ ba mươi ba
Lúc bấy giờ trong
chúng hội có một vị tỳ kheo tên là Kiên Ý từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo
bày vai bên mặt chắp tay cung kính bạch Phật rằng, bạch Thế Tôn, con muốn
phụng thờ kinh pháp, cũng như muốn cúng dường ba đời chư Phật và chư Bồ
Tát đã học qua giáo pháp; cũng như muốn khuyến nhắc nhau làm tăng thêm căn
lành. Do việc như trên nên nay được tôn phụng đức Thế Tôn, được lấy y trùm
lên Như Lai, cũng như cầm y mà bạch Phật rằng: nay con đem chiếc y này
dâng lên đức Thế Tôn, mong đời sau con sanh ra ở bất cứ nơi đâu đều được
nghe pháp. Theo ý Phật con dâng hiến y này. Liền lúc đó Kiên Ý đến chỗ tỳ
kheo Tinh Ðắc nói rằng: này Ngài thiện tri thức! Phật tán dương tôi nên
tôi đem y này dâng cúng Như Lai, liền trao y cho Tinh Ðắc cầm, làm tăng
thêm thiện căn của việc dâng y cúng Phật, trong lúc Như Lai hiện đại thần
thông. Bấy giờ A Nan và bốn chúng (13) trong y đều thấy Như Lai
hiện đủ lực thần thông biến hóa. A Nan bạch Phật rằng, hy hữu thay đức Thế
Tôn! Như Lai biết rộng nên mới hỏi. A Nan, ông thấy nghĩa gì là hy hữu?
Lúc đó ngài A Nan
muốn làm cho rõ việc trên nên dùng bài kệ bạch Phật rằng:
Với y này
chúng con
thấy vô
số Bồ Tát
Bồ Ðề tâm
mãnh liệt.
Chẳng
hành khen pháp Phật
cũng thấy
chư Bồ Tát
đều từ y
này phát
gần vô
lượng trăm nghìn
a tăng kỳ
loại y
gìn giữ
các y xong
đem dâng
mười phương Phật.
Ta thấy
hiện đây kia
vô lượng
thần thông lực
người
dâng y cúng Phật
được Phật
thọ ký cho.
Người ấy
hành đạo theo
đều sẽ
được làm Phật.
Tùy chỗ ở
nơi đâu
làm cõi
Phật tịnh thanh
và mỗi
một chúng sanh
Phật quả
được viên thành.
Lại thấy
vô lượng ức
đủ các
loại kỹ nhạc
tiếng
pháp âm vừa phát
Từ không
trung Phật nói
ta thấy
ba nghìn cõi
chư Phật
hiện đầy đủ
Thế Tôn,
nay con nghĩ
tự cho
chẳng Thanh Văn
lực thần
thông hy hữu
làm
choáng ngợp mắt con
dùng
thánh trí vẹn tròn
xem ba
cõi đều không.
Con nơi
‘không’ trí này
và ‘vô
sanh trí’ thảy
trong các
trí như thế
thường
không mất chánh niệm
chỉ do
nghiệp báo chuyển
trong đó
có sai lầm
bốn chúng
đều vui mừng
bay ở
giữa không trung
đều ngồi
trên đài sen
trên
nghìn cánh sen xinh.
Lại cũng
từ y kia
thấy mười
phương thế giới
chư Phật
thầy trong đời
đại chúng
vây khắp nơi
Cũng thấy các thượng nhơn
bố thí khó nghĩ bàn
để cầu
đạo Bồ Ðề
nên chưa
hề xa Phật
Do nhờ
nhân phước đức
chúng
sanh được lợi lạc
Hay tự
mình hóa hiện
thuyết
pháp khắp mười phương.
Trong y
ta thấy tường
việc ấy
nói không cùng
Chư Bồ
Tát khó lường
tâm hoan
hỷ kính nhường
như Tự
Tại Phạm Vương
thấu rõ
lực thần thông
đa văn,
biện luận tài
đều được
đà la ni
chuyển
xoay Phật huệ trí
khắp mười
phương châu biến
Chư Bồ
Tát cũng thấy
dạo chơi
các thế giới
đều hóa
thành vật quí
hương hoa
để trang bị
Thấy Phật
ngồi đạo tràng
chuyển
pháp luân vô thượng
thần lực
của Phật hiện
đều từ
nơi y biến
dạo qua
các thế giới
đủ thân
hình biến hóa
thuyết
pháp làm lợi chúng
khiến trụ
đạo Bồ Ðề.
Thật là
hy hữu thay
việc ấy
khó thể tin
Thần lực
Phật vô biên
cho chúng
sanh thấy rõ
Phật làm
ruộng phước báu
đệ nhất
pháp nhận thí.
Kẻ thí
đuợc quả quí
các khổ
não trừ hủy.
Ta trong
nghìn vạn kiếp
xưng tán
cũng không hết.
Vì ai thị
hiện tiếp
việc thần
thông thiên biến.
Ai làm
tịnh cõi Phật
tu tập
đạo Bồ Tát.
Ai được
thần lực này
mong Phật
trừ nghi con
Hoa sen
bảy báu tròn
cánh hình
bánh xe lăn.
Bồ Tát
ngồi ở trên
dạo đi
khắp mười phương.
Quán Phật
xong trở về
liền
chứng đạo Bồ Ðề.
Thế giới
tịnh nghiêm thế
hiện việc
khó có thể
Con trong
thế giới này
thấy có
một Bồ Tát
khuyên
người tu đạo giác
tay cầm y
đạo đạt
việc này
ngưỡng mong Phật
làm sao
tu học được?
Ðây chắc
xưa từng bố thí nhiều
thực hành
tâm tùy hỷ rộng sâu
cùng
chúng sanh tu pháp nhiệm mầu
đều an
lạc như nay trông thấy.
Thế Tôn
vì con nói việc này;
trừ sạch
chúng sanh tâm nghi ngờ.
Tỳ kheo
phát nguyện được như vầy
ấy là
Tinh Ðắc vì Kiên Ý.
Phật bảo ngài A Nan
đợi trong giây lát, Kiên Ý Bồ Tát có điều nghi vấn nên ta nhân đây mà đáp.
Lúc đó Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: bạch đức Thế Tôn, con có điểm nghi
muốn hỏi, nếu Phật chấp thuận con mới dám thưa. Phật bảo Kiên Ý: ông cứ
việc hỏi, ta sẽ tùy nghi đáp cho ông được hài lòng. Lúc đó Kiên Ý thưa:
bạch Thế Tôn, có pháp môn để nhập. Như thế pháp là gì? Môn là thế nào?
Nhập là nghĩa làm sao? Ngưỡng mong đức Thế Tôn phân biệt đây là pháp, kia
là môn, nên nhập như thế nào mới là nhập? Lúc đó Kiên Ý dùng bài kệ hỏi
rằng:
Sao gọi là
thượng pháp
cái gì gọi
pháp môn ?
Làm sao vào
cửa này
mong Phật giải
đáp cho.
Làm sao vào
cửa này
được đắc quả
Bồ Ðề?
Làm sao lúc
thuyết pháp
biện luận đều
thông suốt
từ đâu đến gọi
pháp?
Ðến đây trụ
chỗ nào?
Trong các pháp
làm sao
mà nghĩ đúng
không sai?
Thế nào là sắp
nhập?
và sao gọi đã
vào?
Thuyết pháp
phải làm sao
ở trước pháp
hiện ra?
Lúc nói đủ
pháp cả
làm sao tâm
không loạn?
trong vô lượng
muôn kiếp
biện tài không
gián đoạn?
Chư Bồ Tát
thành tựu
làm sao có chí
cầu?
Nói pháp không
bến bờ
mà tâm không
thượng mạn?
Bồ Tát đây đời
trước
thí, hồi hướng
thế nào?
Ðời đời lúc
thuyết pháp
biện tài không
gián đoạn?
Và giữ giới
thế nào
giới thanh
tịnh làm sao?
Sao lấy giới
hồi hướng
mà tâm không
liệt nhược?
Làm sao tu
nhẫn nhục
và tập nhẫn
thế nào?
Do nhân đó cho
đến
vô tận không
bến bờ.
Làm sao khởi
tinh tấn
tu pháp ấy thế
nào?
đời đời được
sanh ra
đạo Bồ Ðề
không xa.
Làm sao tu
thiền định
thế nào tập an
tĩnh?
Trong định
quán pháp gì
để được biện
luận tài?
Cầu trí huệ
thế nào
gần gũi tu tập
đạo?
Huệ ấy ở tại
đâu
mà không đoạn
mất được?
Trụ pháp thiện
vô thượng
thuyết các
pháp thật tướng
trí tuệ Phật
suy lường
không, vắng
lặng vi diệu
đọc tụng đủ
các kinh
hiểu rõ được
nghĩa thú.
Song không
muốn diễn nói
để lìa trí huệ
thật.
Nghĩa này con
hỏi Phật
trừ hết thảy
chúng nghi
đời vị lai trở
đi
cầu có các
pháp sư
làm sao được
thân cận?
Phải hỏi pháp
thế nào?
tu tập phải
làm sao?
Ủng hộ pháp
cách nào?
Mong Phật dùng
thần lực
vì con nói
nghĩa thực
khiến cho đời
vị lai
dứt trừ các
lưới nghi.
Lúc đó Phật bảo Kiên Ý
Bồ Tát rằng: lành thay! lành thay! ông khéo hỏi Như Lai nghĩa sâu mầu ấy.
Trong đời quá khứ ông đã ở nơi vô lượng các đức Phật gieo trồng phước đức,
cúng dường, lễ bái, thọ sự hỏi đáp.
Này Kiên Ý, ta nhớ ông
lúc xưa trong hư không của thế giới này đã từng theo hỏi sáu vạn tám nghìn
đức Phật cũng nghĩa như thế. Lúc chư Phật trả lời những câu hỏi có vô số
chúng sanh được nhiều lợi ích. Vì thế, nên biết ông trong quá khứ đã sâu
trồng căn lành nơi các đức Như Lai rồi. Này Kiên Ý, lui về thời quá khứ vô
lượng vô số a tăng kỳ kiếp có đức Phật ra đời hiệu là Xuất Bảo Quang Như
Lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, vô
thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn sống lâu nửa
kiếp. Phật có bảy mươi ức chúng A La Hán tâm được lậu tận tự tại. Phật
Xuất Bảo Quang cùng đại chúng dạo qua các quốc độ để cùng an cư. Lúc đó
cõi Diêm Phù Ðề đất đai rộng rãi ngang rộng bảy vạn do tuần. Lúc đó ở đời
có người sát lợi Chuyển Luân Thánh Vương tên là Thượng Kiên Ðức, cai trị
bốn châu thiên hạ. Này Kiên Ý, lúc đó cõi Diêm Phù Ðề có tám mươi ức
thành, các thành đều rộng lớn: chiều dài 40 do tuần, rộng 30 do tuần. Nhân
dân ở đó được thái bình hưng thịnh. Trong cõi Diêm Phù Ðề có một thành lớn
chiều ngang rộng đúng 80 do tuần, đường đi ngay thẳng chạy dọc theo tương
đương. Mỗi đường rộng năm dặm, bên trong có một thành nhỏ gọi là An Ổn.
Vua Thượng Kiên Ðức ở trong thành ấy. Này Kiên Ý, bên thành lớn có bảy vạn
vườn rừng không thuộc về của ai cả. Chúng sanh ở đó có thể tha hồ vui chơi
trong thành đó. Trong số có một vườn lớn ngang rộng 80 do tuần, chỗ vua
dạo chơi có cây báu bảy lớp bao quanh vườn, cũng như có bảy lớp lưới giăng
che phủ bên trên. Có bảy tầng lâu đài cũng bằng bảy báu, bảy lớp tường vây
kín, bảy lớp hào bao bọc quanh vườn. Lúc đó Phật Xuất Bảo Quang cùng với
bảy mươi ức A La Hán cung kính vây quanh, dạo khắp chư quốc đến thành An
Ổn. Vua Thượng Kiên Ðức nghe Phật cùng đại chúng dạo khắp các nước đến
thành này, tâm rất lấy làm hoan hỷ đi đến chỗ Phật, đầu mặt lạy sát dưới
chân Phật rồi ngồi qua một bên. Lúc đó Phật quán xét tâm nhà vua có túc
duyên đời trước, bèn nói pháp trừ nghi chúng sanh làm cho chúng hoan hỷ
nơi kinh tạng Ðại Thừa. Vua Thượng Kiên Ðức nghe pháp tâm rất hoan hỷ liền
nghĩ rằng, nay ta nên đem những đồ tốt đẹp trang hoàng khu vườn này dâng
cúng Như Lai làm sao cho Ngài thọ nhận. Tức khắc trong vườn hiện lên 70 ức
chư tăng, phòng xá, y đẹp che phủ mặt đất. Có 70 ức chỗ đi kinh hành,
giường gối, tọa cụ cũng có 70 ức. Vua sẵn sàng đi đến nơi đức Phật đầu mặt
lạy dưới chân Phật rồi bạch rằng: cúi mong đức Thế Tôn thương xót con, và
đại chúng mà nhận lời mời đến nhà ngày mai. Phật Xuất Bảo Quang yên lặng
nhận lời. Vua biết Phật đã nhận lời nên đảnh lễ dưới chân rồi đi vòng
quanh phía bên hữu. Trong đêm đó, vua lo liệu đầy đủ mọi thứ đồ ăn trân
quí của bậc chuyển luân thánh vương đem cúng Phật và chúng tăng.Vào sáng
sớm hôm sau vua đến bạch Phật rằng: cơm nước đã xong ngưỡng mong Phật biết
thời. Phật Xuất Bảo Quang đắp y mang bát cùng bảy mươi ức vị đại A La Hán
cung kính cùng đi đến vườn ấy ngồi theo thứ tự. Vua Thượng Kiên Ðức thấy
Phật và chúng tăng đã ngồi yên ổn rồi, tự tay ông mang thức ăn đủ vị sớt
cho từng vị làm cho ai nấy đều được no nê. Biết Phật và chư tăng dùng cơm
và rửa tay, rửa bát xong, Vua đem dâng Phật và chư tăng mỗi vị một chiếc
y. Cúng y xong chính nhà vua cầm chén vàng múc nước rửa tay Phật, rồi bạch
rằng: con đem vườn này, và các phòng xá, chỗ kinh hành, giường gối, ngọa
cụ sắp đặt sẵn sàng trong vườn để cúng Phật và chúng tăng, cúi mong Ngài
thọ dụng, cũng như đích thân vua hầu hạ Phật. Phật bảo Kiên Ý rằng, vua
Thượng Kiên Ðức cúng dường Phật Xuất Bảo Quang, đêm ngày tùy thời thường
đến nghe pháp như thế cho đến nửa kiếp để hỏi Phật các Pháp về Nhân Quả
liên tục. Phật tùy thời hỏi mà đáp làm lợi ích cho vô số chúng sanh. Này
Kiên Ý, ông cho rằng vua Chuyển Luân Thượng Kiên Ðức thuở đó đâu phải
người nào lạ chăng? Ông chớ nghĩ như thế mà chính là ông đấy! Này Kiên Ý,
ta nghĩ ông trước đây thuộc đời quá khứ đã hỏi pháp như thế, đem đồ trân
quí cúng dường hằng ngàn đức Phật. Nay Như Lai cũng vì ông mà nói pháp môn
này, là pháp nhập pháp tướng vậy.
Chú
thích:
(1)
Ðồng tử: đứa bé có khí phách của bậc hiền nhân, căn tánh
thông tuệ mẫn lợi
(2)
Ðấng Pháp Vương: bậc vua các pháp, chỉ cho đức Phật. Vì Phật
mới biết rõ vạn pháp trong vũ trụ và tìm ra chân lý giải thoát cho chúng
sanh.
(3)
Pháp thí: ban bố giáo pháp đến tất cả những nơi cần
(4)
Nhiễm y: áo bẩn, áo thế tục bị nhiễm bụi trần lao phiền não
(5)
Hoà Thượng: Tàu dịch là Lực Sanh hay Thân giáo sư. Lực Sanh
là có đạo lực làm cho dệ tử phát sanh trí huệ; thân giáo sư là bậc thầy
thân cận đệ tử. Vị Tăng sĩ từ 40 tuổi hạ trở lên và tuổi đời trên 60 tuổi
mới được gọi Hòa Thượng.
(6)
Xà Lê hay A Xà Lê, Tàu dịch nghĩa là Giáo Thọ, tức Thầy dạy
đạo. Trong đạo tràng truyền giới có ba vị trưởng lão hòa thượng chứng
minh: trong đó có một thầy giáo thọ để hỏi về giới luật, kiến thức Phật
pháp của những người thọ giới.
(7)
Pháp yết ma: phép hỏi đáp của các vị tỳ kheo trong giới đàn
hay những ngày bố tát, được đại chúng tỳ kheo đồng lòng hoan hỷ chấp
thuận, phép tác bạch mới thành tựu đúng pháp.
(8)
Giới hoàn bị: đầy đủ giới tướng (250) của thầy Tỳ kheo và
cũng đủ khả năng cung cách để làm việc đạo.
(9)
Thiện lai: lời nghinh đón những vị tỳ kheo danh đức từ xa
đến viếng thăm tự viện, đàm đạo Phật sự với một vị trưởng lão khác. Ngay
như đức Phật cũng dùng từ ấy xưng tán tỳ kheo thiện đức.
(10)
A Tỳ Ðàm: còn gọi là A Tỳ Ðạt Ma (Abhidharma) là một trong ba tạng
thánh điển: kinh , luật, luận của Phật giáo. A Tỳ Ðàm chỉ về phần luận
tạng bao hàm nghĩa mầu thâm diệu trong giáo pháp của Phật.
(11)
Ba môn: nói đủ là ba môn học là giới, định, huệ hay còn gọi là văn,
tư, tu; giữ giới, tu thiền, phát sanh trí huệ hoặc nghe hiểu, suy xét,
thực hành phát sanh trí huệ.
(12)
Pháp ấn: trong Phật pháp là dấu hiệu của một ý định như đã hằn sâu
trong tâm thức mà nhà tu hành quyết đạt tới quả Phật. Ðó còn là cách bắt
ấn của các vị tăng phái chân ngôn, mật giáo Tây Tạng thường thực hành để
truyền đạt đạo lý với nhau giữa thầy trò. Là sự ấn chứng huyền diệu của
Phật cho các đệ tử có căn cơ thâm nhập diệu lý của những lời Phật dạy; là
sự trao truyền tâm pháp giữa Phật với Phật, Tổ với Tổ để ấn định việc duy
trì giáo pháp.
(13)
Bốn chúng: bốn chúng đệ tử của Phật. Xuất gia có hai chúng: tỳ
kheo, tỳ kheo ni và tại gia có hai chúng: ưu bà tắc hay cận sự nam và ưu
bà di hay cận sự nữ, tức là những người Phật tử đã phát nguyện quy y tam
bảo và thọ giữ 5 giới.
(14) Thượng
nhơn:
người đạo cao đức trọng được người đời kính phục tôn xưng.
---o0o---
Mục Lục
Quyển I |
Quyển II
|
Quyển III |
Quyển IV |
Quyển V
Quyển VI |
Quyển VII |
Quyển VIII |
Quyển IX |
Quyển X
---o0o---
Vi tính: Giác Anh
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-09-2003