PHẬT GIÁO DƯỚI CÁC
TRIỀU ĐẠI NHƯ ŚUNGA, KANVA, SATAVAHANA VÀ CÁC VỊ VUA KẾ VỊ CỦA SATAVAHANA.
Thích Thông Lý
---o0o---
I- Các vị vua thuộc
triều đại Śunga:
1- Vua
Pusyamitra:
Dựa vào
một số tác phẩm Purāna (văn học của Bà-la-môn giáo)
và Harsacarita, chúng ta thấy rằng, vua Brhadratha chính là vị hoàng đế
sau cùng thuộc triều đại Maurya. Vị vua này bị vua Pusyamitra xác hại để
cướp ngôi. Vua Pusyamitra là người đã từng nắm chức tổng tư lệnh trong
quân đội dưới triều đại của vua Brhadratha. Ông đã cướp lấy ngôi vua thuộc
vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà) và sáng lập nên triều đại Śunga. Kinh
Divyāvadāna (A-dục-vương truyện) còn ghi lại rằng, vua Pusyamitra là người
thuộc triều đại Maurya. Một số tác phẩm Purāna (văn học của Bà-la-môn
giáo) cũng ghi rằng, vua này xuất thân từ dòng dõi Śunga. Một đoạn trích
dẫn trong tác phẩm Mālavikāgnimitra của ông Kālidāsa có đề cập đến người
con trai của vua Punyamitra, là thái tử Agnimitra. Ông ta là con cháu của
bộ tộc người Naimbika thuộc dòng dõi Kāsyapa (Ca-diếp). Tác phẩm Punini
còn đề cập đến các vị vua Śunga xuất thân từ dòng dõi Bà-la-môn (Brāhmana)
thuộc bộ tộc người Bhāradvāja. Thủ phủ của vua Punyamitra là Pātaliputta
(Hoa-thị-thành). Vua này thống lãnh một số thành phố như Pātaliputta
(Hoa-thị-thành), Ayodhyā, Vidīsā và Vidarbha (Berar). Ông đã mở rộng bờ
cõi của mình trải dài đến tận miền Nam của con sông Narmadā. Vị vua này
còn bành trướng nhằm thống trị ở một số nơi như Jālandhar và Sākala nằm
trong tiểu bang Punjab.
Divyāvadāna (A-dục-vương truyện) và Tāranātha (Pháp-tạng bộ) còn đề cập
đến vua Pusyamitra, người được xem như là một kẻ ngược đãi tàn bạo đối với
Phật giáo. Vị vua này chính là kẻ thù tàn bạo của Phật giáo. Ông đã hủy
diệt nhiều ngôi tháp, đốt nhiều tu viện từ Madhyadesa chạy dài cho đến
Jālandhar nằm trong địa phận của tiểu bang Punjab và đã sát hại nhiều Tăng
sĩ uyên bác của Phật giáo. Vị vua này cố phá hủy tu viện Kukkutārāma, một
tu viện nổi tiếng tại Pātaliputta (Hoa-thị-thành), nhưng ông lại không dám
tiến vào bên trong khi nghe có tiếng la hét ầm ĩ và ông đã phải trở lui mà
không phá hủy bất cứ một thứ gì bên trong ngôi chùa này cả.
Divyāvadāna (A-dục-vương truyện) còn ghi thêm rằng, vua này đã loan báo
một giải thưởng trị giá hàng trăm đồng tiền vàng cho những ai lấy được thủ
cấp của bất kỳ một vị Sa-môn
của Phật giáo nào tại nước Sākala thuộc tiểu bang Punjab.
Sau khi
lên ngôi vua tại thủ phủ Pātaliputta (Hoa-thị-thành), vua Pusyamitra đóng
một vai trò rất có ý nghĩa đối với công cuộc phát triển của Bà-la-môn
giáo. Vị vua này là người ủng hộ đắc lực cho Bà-la-môn giáo và đã đóng góp
tích cực cho tiến trình phát triển của Bà-la-môn giáo. Dưới triều đại của
vị vua này, Bà-la-môn giáo trở thành một tôn giáo nổi bật tại vương quốc
của ông.
Nhìn
chung, trong suốt triều đại của các vị hoàng đế Śunga,
người ta tin rằng, nhiều công trình của Phật giáo được xây dựng tại
Bharhut. Dựa theo các dữ kiện này, thì hầu hết giới trí thức hoàn toàn phủ
nhận lại truyền thuyết được ghi trong Divyāvadāva (A-dục-vương Kinh) mà
cho rằng, vua Pusyamitri được xem như là một kẻ ngược đãi tàn bạo đối với
Phật giáo. Hơn nữa, họ còn khẳng định Phật giáo được thịnh hành trong suốt
giai đoạn thuộc triều đại Śunga. Một số vùng như Sāñcī, Bodh-gayā (Bồ-đề
Đạo-tràng), Sārnāth (Ba-la-nại) và Lauriyā Nandangarh chính là những trung
tâm quan trọng của Phật giáo trong suốt thời gian mà các vị vua thuộc
triều đại Śunga đã từng thống trị. Thậm chí từ những chỉ dụ được khắc tại
Bharhut và Sāñcī, chúng ta thấy rằng, những chủ nhân trong hoàng gia cũng
như các thường dân đã cúng dường nhiều phẩm vật cốt yếu để xây dựng các
công trình của Phật giáo. Nhưng một số giới trí thức khác lại cho rằng,
cổng ra vào tại Bharhut được xây dựng không phải dưới triều đại của vua
Punyamitra, mà là dưới triều đại thuộc những vị vua kế ngôi sau này của
ông. Các vị vua sau đã áp dụng chính sách khoang dung của họ đối với Phật
giáo và hàng Tăng lữ của Phật giáo. Họ còn cho rằng, vua Punyamitra đã
sáng lập triều đại của ông vào khoảng năm 187 tr TL, và các cổng ra vào
được xây dựng cho đến cuối giai đoạn thuộc triều đại Śunga.
2- Những người kế vị sau vua
Punyamitra:
Vua
Punyamitra đã trị vì trong suốt 36 năm (từ năm 187 đến năm 151 tr TL). Sau
cái chết của vua Punyamitra, vua Agnimitra, người đã từng nắm chức tổng
trấn tại Tỉnh Vidisā (hay còn gọi là Miền Đông của Mālavā) trong suốt
triều đại của phụ vương ông và lên ngôi vua thuộc triều đại Śunga.
Vị vua này trị vì trong một thời gian suốt khoảng 8 năm. Sau đó, vua
Jyestha (hoặc Sujyestha), vua Vasumitra (hoặc Sumitra) và vua Bhadraka
(hay Andhraka hoặc Antaka hoặc Ardraka hay Odraka) là những người lần lượt
chiếm ngôi sau vua Agnimitra và đã trị vì suốt 19 năm. Sử liệu được khắc
trên đá tại Pabbosā gần tiểu bang Allahabad có đề cập tới vua Udāka, người
được nhiều học giả xác định với tên gọi là Bhadraka, vị vua thứ năm thuộc
triều đại Śunga.
Sử liệu còn diễn tả rằng, “…Một hang động được khởi xướng làm vào năm thứ
10 thuộc giai đoạn trị vì của vua Udāka để cho các vị A-la-hán thuộc
trường phái Kāsyapīya (Ẩm-quang-bộ) dùng làm nơi tĩnh tu.” Nếu sự xác định
trên đây được công nhận, thì sử liệu đó chỉ cho chúng ta thấy được tiến
trình phát triển của Phật giáo dưới sự ủng hộ của thần dân trong suốt
triều đại của vua Śunga, tước hiệu là Udāka. Sử liệu còn cho chúng ta biết
thêm về sự ngưỡng mộ của quần chúng đối với trường phái Kāsyapīya
(Ẩm-quang-bộ) trên khắp lãnh thổ Ấn Độ. Ba vị vua kế tiếp là Pulindaka,
Ghosa (hoặc viết là Ghosavasu) và Vajramitra. Nhưng lại không có một sử
liệu nào đề cập đến các sự kiện của ba vị vua này cả. Vị hoàng đế thứ 9
thuộc triều đại Śunga, hiệu là Bhāgavata đã trị vì trong suốt 32 năm.
Vị vua này được nhiều giới học giả khẳng định với tên gọi là Mahārāja
Bhāgavata và ông được đề cập trong một đoạn văn thuộc sử liệu của vua
Bhāgavata mà đã được tìm thấy tại Bhilsā thuộc tiểu bang Madhya Pradesh.
Sử liệu này cho chúng ta thấy được tình trạng thịnh hành của đạo
Vaisnavism (Bà-la-môn giáo) và sự ảnh hưởng của nó dựa trên tiếng Hy Lạp.
Devabhūti, vị hoàng đế sau cùng thuộc triều đại Śunga đã lên ngôi sau vua
Bhāgavata. Vị vua này đã trị vì trong suốt 10 năm. Các vị vua Śunga tiếp
tục duy trì quyền lực của họ tại Vidiśā thuộc miền Trung Ấn mãi cho đến
khi các vị vua thuộc triều đại Sātavāhana tràn vào và đã lật đổ triều đại
Śunga.
Nhiều sử
ký được khắc trên một số vách tường và các cổng ra vào của ngôi tháp Phật
giáo tại Bharhut thuộc miền Trung Ấn Độ cung cấp cho chúng ta một sự mô tả
về công cuộc phát triển của Phật giáo dưới sự ủng hộ của thần dân trong
suốt triều đại Śunga. Các bản văn này cho chúng ta thấy rằng, Phật giáo
không chỉ hưng thịnh mà nhiều chấn song lan can đặt trên các hàng rào và
các cổng ra vào của ngôi tháp Phật giáo tại Bharhut được xây dựng trong
suốt thời kỳ thuộc triều đại Śunga.
II- Các vị vua dưới
triều đại Kānva:
Triều
đại Kānva hay còn viết là Kānvāyana thống trị bao trùm khắp cả miền Bắc Ấn
Độ trong một thời gian dài khoảng suốt 45 năm và đã xuất hiện trong lịch
sử Ấn Độ sau sự sụp đổ của triều đại Śunga. Dựa theo truyền thuyết kể lại
thì vua Devabhūti, vị hoàng đế cuối cùng của triều đại Śunga bị một tỳ nữ
giết chết theo sự sai khiến từ một viên tướng của ông, là Vāsudeva.
Viên tướng này sau đó chiếm lấy ngôi vua và sáng lập nên triều đại Kānva
vào năm 75 tr TL.
Một số tác phẩm Purāna (văn học của Bà-la-môn giáo) còn đề cập đến các vị
vua Kānva không khác gì với một số vị vua Sungabhrtya hay còn gọi là những
trung thần của các vị hoàng đế thuộc triều đại Śunga, có lẽ, điều này là
do sự trợ giúp của họ trong bộ máy triều đình cho những vị vua thuộc triều
đại Śunga. Nhìn chung, người ta tin rằng, các vị hoàng đế thuộc triều đại
Kānva chỉ thống lãnh toàn bộ vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà) mà thôi. Vua
Vāsudeva là vị hoàng đế đầu tiên của triều đại này. Ba vị vua kế tiếp lần
lượt lên ngôi sau vị vua này, đó là vua Bhūmimitra, vua Nūrāyana và vua
Suśarman.
Các vị
vua của triều đại Kānva đều là tín đồ của Bà-la-môn giáo. Nhưng không có
một sử liệu nào đề cập tới Phật giáo tại vương quốc của những vị hoàng đế
thuộc triều đại Kānva cả.
*
Bảng phả hệ:
(1)-
Triều đại Śunga:
- Vua
Pusyamitra.
- Vua
Agnimitra.
- Vua
Sujyestha hay Vasujyestha.
- Vua
Vasumitra (hay Sumitra).
- Vua
Andhraka (Bhadraka, Odraka, Ardraka, Antaka).
- Vua
Pulindaka.
- Vua
Ghosa (hay Ghosavasu).
- Vua
Vajramitra.
- Vua
Bhāgavata hay Bhaga.
- Vua
Devabhūmi hay Devabhūti.
(2)-
Triều đại Kānva:
- Vua
Vāsudeva.
- Vua
Bhūmimitra.
- Vua
Nārāyana.
- Vua
Suśarman.
III- Các vị vua
thuộc triều đại Sātavāhana:
Những vị
hoàng đế thuộc triều đại Sātavāhana là những nhà lãnh đạo lỗi lạc và tài
ba xuyên qua Núi Vindhyan (Bửu-đà-lâm) của Ấn Độ trong suốt thời gian đầu
của triều đại Maurya và họ đã chiếm được một vị trí rất quan trọng về
chính trị cũng như lịch sử thuộc tôn giáo của Ấn Độ. Các vị vua này đã trị
vì trong suốt gần 3 thế kỷ. Nhiều tác phẩm Purāna (văn học Ấn giáo) mô tả
những vị vua này giống như những vị vua Andhrabhrtya (Án-phùng-la).
1-Vua Simuka:
Vua
Simuka được xem là người có công sáng lập nên triều đại Sātavāhana. Dựa
theo các sử liệu Purāna (văn học Ấn giáo), chúng ta có thể đi đến kết luận
rằng, vua Simuka còn được biết với nhiều tước hiệu khác nhau như Sisuka,
Sīpraka, Sindhaka… và vị vua này chính là người đã lật đổ vua Suśarman, vị
hoàng đế cuối cùng thuộc triều đại Kānva.
Vua Suśarman dường như trị vì giữa năm 40 và năm 30 tr TL. Như vậy, các sử
liệu thuộc Purānic (Bà-la-môn giáo) cho thấy rằng, vua Simuka trị vì trong
thời kỳ đầu của năm thứ III thuộc thế kỷ thứ I tr TL. Nhưng theo ông V.A.
Smith và ông E.J. Rapson, thì vua Simuka trị vì cho đến cuối thế kỷ thứ
III tr TL.
Mặc dù trường phái Vaisnavism, trường phái Śaivism (Thấp-bà-vịnh) và một
số trường phái thuộc Purānic (Bà-la-môn) khác được phồn thịnh trong triều
đại của ông, nhưng Phật giáo và đạo Kỳ-na giáo chiếm một vị trí rất quan
trọng trong lịch sử tôn giáo thuộc triều đại Sātavāhana và được hưng thịnh
dưới sự bảo trợ đắc lực của vị vua này. Nhà vua đã xây dựng nhiều ngôi
chùa Phật giáo và Kỳ-na giáo.
Gần cuối cuộc đời, nhà vua đã được Phật giáo ảnh hưởng rất sâu đậm đến đời
sống tâm linh của ông và ông ta đóng góp đắc lực cho tiến trình phát triển
của Phật giáo.
2- Vua Kānha:
Vua
Kānha (hay còn viết là Krsna) chính là một người em ruột của vua Simuka và
lên ngôi vua thuộc triều đại Sātavāhana sau vị hoàng đế này. Một sử liệu
được phát hiện tại hang động số 19 tại Nāsik thuộc Thành phố Bombay và nó
có đề cập đến triều đại của vị vua này với những từ ngữ như
“Sādavāhana-kule kane rājini”. Sử liệu chỉ cho thấy được sự mở rộng triều
đại của vị vua này cho đến tận Nāsik nằm về hướng Tây. Sử liệu này còn ghi
rằng, “dưới sự trị vì của vua Kānha (Krsna) thuộc triều đại Sātavāhana,
hang động tại Nāsik được một viên sĩ quan giám sát trong số những Tăng sĩ
làm nên.”
Bản văn này cho chúng ta biết thêm rằng, vua Kānha có một viên sĩ quan
đứng ra quản lý công việc của những vị sa môn, và chính điều này làm cho
chúng ta nhớ lại, Vua Asoka, vị hoàng đế của triều đại Maurya chỉ thị cho
các Dharmamahāmātra (Đại thần đảm trách về Tôn giáo), là những người nắm
giữ một số chức vụ mang tính tôn giáo. Như vậy, bản văn trên cung cấp cho
chúng ta một ý tưởng khá rõ ràng về sự phồn thịnh của Phật giáo tại vương
quốc Sātavāhana dưới sự trị vì của vua Kānha.
3- Vua Sātakarni I:
Vua
Sātakarni I là người kế vị sau vua Kānha (từ năm 27 đến năm 17 tr TL) và
ông là một vị hoàng đế rất hùng mạnh thuộc triều đại Sātavāhana. Dựa theo
sử liệu Hāthigumpha được tìm thấy tại Khāravela, chúng ta thấy rằng, nhiều
khu vực sát biên giới nằm về hướng Đông đều thuộc dưới quyền thống trị của
vua Sātakarni I và ông đã mở rộng quyền thống trị đó mãi cho đến biên giới
thuộc hướng Tây Khāravela nằm trong địa phận Kalinga (Ca-lăng-giới).
Vị vua này còn mở rộng quyền lực của mình bao trùm một phạm vi rộng lớn
thuộc vùng Deccan cũng như một số nơi thuộc miền Trung và Tây Ấn. Vua này
là một tín đồ của Bà-la-môn giáo. Ông đã cử hành hai buổi lễ Aśvamedha(Mã
sát), nghĩa là tế thần bằng ngựa, đó là Rājasūya (Tức-giảo-lễ-sát), và
Agnyādheya (Trí-hoả-sát), Anvārambhanīya, Gavāmayana, Angirasāmayana,
điều đó đã chứng tỏ cho chúng ta thấy được sự hưng thịnh của Bà-la-môn
giáo dưới sự bảo trợ của vị vua này, và điều này còn chứng tỏ cho thấy
được sự phục hồi nhanh chóng của Bà-la-môn giáo (với Kinh điển Vệ-đà) tại
Deccan sau một thời gian dài Phật giáo đã ảnh hưởng mạnh và chiếm ưu thế.
4- Vua Gautamīputra Sātakarni:
Theo các
nhà sử học thì vua Gautamīputra Sātakarni (trị vì từ năm 106 đến năm 30
TL) là một vị hoàng đế vĩ đại nhất trong những vị hoàng đế thuộc triều đại
Sātavāhana.
Vị vua này đã tiêu diệt những vị vua dưới triều đại Scythian, Ấn-Hy Lạp và
Parthian (nước Pa-thi xưa ở Tây Á). Ông đã diệt trừ tận gốc triều đại
Khaharāta hoặc Kahaharāta.
Vua này đã mở rộng quyền thống trị của ông trùm khắp cả vương quốc Asika
(thị trấn bao quanh Rishika-nagara nằm sát cạnh Krsnā), Assaka (hay còn
gọi là Asmaka nằm bên cạnh Godāvarī), Mulaka (dưới triều đại Paithan nằm
bên cạnh Godāvarī), Suratha (hay còn viết là Surashatra), Kukura (nằm về
mạn Tây của vùng Rajputana), Aparānta (nằm về mạn Bắc của Konkan), Anupa
(châu thổ Narmadā), Vidarbha (còn gọi là Berar), Akara (nằm về mạn Đông
của Mālavā) và Avantī nằm về mạn Tây của Mālavā. Một số tỉnh Ksatrapa
thuộc những nơi như Anarta, Svabhra và Maru đều dưới quyền thống trị của
vị vua này.
Vị vua này được xem như là vị hoàng đế thống lãnh toàn bộ các dãy núi từ
những vùng Vindhya kéo dài mãi đến một số đồi núi Malaya hay Travancore và
từ mạn Đông của Mahendra kéo dài đến mạn Tây của ghats (Sahya).
Bản văn
còn đề cập đến vua Gautamīputra Sātakarni như là “Ekabamhana” (Tín đồ
thuần thành của Bà-la-môn giáo). Điều này chứng tỏ cho thấy vị vua này là
một trong những tín đồ của Bà-la-môn giáo và đã làm nên một sự đóng góp
rất có ý nghĩa cho tiến trình phát triển của Bà-la-môn giáo. Nhưng nhiều
bản văn lại cho chúng ta thấy rằng, vua, hoàng hậu và một số người khác
trong hoàng cung đã ủng hộ rất đắc lực cho công cuộc phát triển của Phật
giáo, và nó đã trở nên một tôn giáo nổi bật trong suốt triều đại của vị
vua này. Một bản văn khác
lại xác nhận vào năm trị vì thứ 24 của vua Gautamīputra Sātakarni được
phát hiện tại bức tường thành nằm về mạn Đông thuộc hang động số 3 tại
Nāsik. Bản văn này mô tả rằng, vua Gautamīputra Sātakarni và mẫu hậu
Mahādevī Jīvasutā Rājanātā đã cúng dường hang động này cho các Tăng sĩ
Phật giáo đang ẩn tu trong các hang động tại thị trấn Govardhana (tức là
Nāsik). Một bản văn khác
lại xác nhận vào năm trị vì thứ 19 của vua Vāsisthiputra Pulumāvi được tìm
thấy trong một hang động tại Nāsik và nó cho rằng, vị vua này là người
khởi xướng việc xây dựng một hang động trên đỉnh của ngọn núi Tiranhu và
mẫu hậu Mahādevī Gotamī Balaśrī, tức là mẹ của vua đã cúng dường hang động
này cho các vị Tăng sĩ thuộc trường phái Bhaddayāniya hay còn viết là
Bhadrayāniya. Điều này chứng tỏ được sự hưng thịnh của trường phái này và
chắc chắn nó chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử tôn giáo thuộc
vương quốc của vua Gautamīputra Sātakarni.
5-Vua Vāsisthiputra Pulumāvi:
Vua
Vāsisthiputra Pulumāvi (trị vì từ năm 130 đến 159 TL) đã lên ngôi sau phụ
vương của ông là vua Gautamīputra Sātakarni. Bản văn của ông và một số
đồng tiền được tìm thấy tại Amarāvatī thuộc vương quốc Deccan. Bản văn
thừa nhận rằng, vị vua này đã bành trướng quyền lực của ông mãi cho đến
cửa sông của xứ Krsnā.
Một số sự kiện được khắc trên đá và những đồng tiền chỉ cho chúng ta thấy
rằng, vùng Krsnā Godāvarī cũng như Mahārāstra đều dưới quyền cai trị của
vị vua này. Baithan hay Paithan hoặc Pratisthāna nằm bên cạnh con sông của
vùng đất Godāvarī chính là thủ phủ của vị vua này.
Triều
đại của vua Vāsisthīputra Pulumāvi là một thời kỳ quan trọng trong lịch sử
của Phật giáo. Vua, hoàng hậu, hoàng tử, các công nương tỳ nữ thuộc hoàng
gia, những nhà quý tộc và các thần dân đều bảo trợ cho Phật giáo. Một bản
văn thuộc triều đại của vua Vāsisthīputra Pulumāvi ghi lại rằng, vào năm
thứ 22, nhà vua truyền sắc lệnh cho vị tướng lĩnh của vùng Goverdhana (hay
còn gọi là Nāsik) phải giao nạp ngôi làng có tên là Sudasaṇa cho ngôi làng
có tên là Sāmalipāda vào năm thứ 19 để tiếp ứng vật thực cho hang động của
hoàng hậu và chính tại đây các Tăng sĩ thuộc trường phái Bhadrayāniya
(Tiểu-thừa-nhị-thập bộ) đang tu tập. Một bản văn khác thuộc triều đại của
vị vua này ghi rằng, vua Gautamīputra Sātakarṇi đã cho xây một hang động
trên đỉnh núi Tiraṅhu và nó được hoàng hậu Gautamī Balaśrī giao cho các vị
Tăng sĩ thuộc trường phái Bhadrayāniya (Tiểu-thừa-nhị-thập bộ). Nhưng dựa
theo bản văn này, chúng ta thấy rằng, vua Vāsiṣṭhīputra Pulumāvi cúng
dường ngôi làng Pisājipadaka nằm về mạn Tây Nam của núi Tiraṅhu cho hang
động.
Điều này rõ ràng cho chúng ta thấy được vua Vāsiṣṭhīputra Pulumāvi đã thực
hiện nhiều sự đóng góp rất có giá trị của ông cho tiến trình phát triển
của Phật giáo. Nhiều bản văn khác đã chứng tỏ cho chúng ta thấy được tiến
trình phát triển của Phật giáo dưới sự hỗ trợ của thần dân trong suốt
triều đại của vua Vāsiṣṭhīputra Pulumāvi. Nhiều trường phái của Phật giáo
như Mahāsaṃghika (Đại-chúng-bộ), Bhadrayāniya (Tiểu-thừa-nhị-thập-bộ)…
được phồn thịnh tại vương quốc của vị vua này. Một bản văn được phát hiện
trong một hang động tại Karle ghi rằng, vào năm trị vì thứ 24 của vua
Vāsiṣṭhīputra Pulumāvi, một Đạo hữu của Phật giáo, pháp danh là Harpharana
đã xây dựng một sảnh đường và ông đã cho bao xung quanh nó bằng 9 bức
tường thành để cúng dường cho Tăng già Phật giáo làm chỗ nghỉ ngơi đặc
biệt của các trường phái thuộc Đại chúng bộ.
Một bản văn khác
tại Karle thì mô tả rằng, Mahārathī Somadeva cúng dường một ngôi làng
tương đương với các khoản thuế thông thường và đặc biệt với tổng thu nhập
bình quân đầu người được ấn định cho tăng đoàn Tỳ Kheo thuộc trường phái
Valūraka.
6-Vua Yajñaśrī Sātakarṅi:
Thái tử
Vāsiṣṭhīputra Pulumāvi được vua Śiva Śrī Pulomā Sātakarṅi truyền ngôi (từ
năm 159 đến năm 66 TL).
Vị hoàng đế kế tiếp chính là Śivaskanda Sātakarṇi (trị vì từ năm 167-74
TL).
Sau vị vua này, vua Yajñaśrī Sātakarṇi lên ngôi. Vua này là vị Đại đế cuối
cùng thuộc triều đại Sātakarṇi.
Các bản văn của vị vua này được phát hiện tại những nơi như Nāsik thuộc
tiểu bang Mahāraṣṭra, Kanheṛi thuộc tiểu bang Aparānta (thuộc Miền Bắc
Konkan) và Chinna-Ganjam ở thị trấn Kṛṣṇā và các đồng tiền đúc của vị vua
này được khai quật tại các tiểu bang như Gujarat, Kāṭhiāwar, Aparānta, thị
trấn Chaṇḍa thuộc tiểu bang Madhya Pradesh và thị trấn Kṛṣṇā thuộc tiểu
bang Madras. Sự khai quật về các bản văn và những đồng tiền đúc của vị vua
này tại các khu vực đó đã khơi dậy cho chúng ta có được một sự nhận định
là vị hoàng đế này đã để mất tiểu bang Mahārāṣṭra, vương quốc Andhra, tiểu
bang Gujarat và một số nơi thuộc châu thổ Narmada dưới sự trị vì của ông,
nhưng trong cùng một thời điểm, nhà vua đã chiếm lại vùng Aparānta từ
những vị vua Saka thuộc vương quốc Rudradāman I. Những đồng tiền đúc của
ông in dấu hình dáng của một chiếc tàu, điều này đã xác nhận cho chúng ta
thấy rằng, vị vua này thậm chí còn mở rộng thêm quyền lực của ông bao trùm
cả đại dương.
Ông Bāṇa cho rằng, vị vua này là một người bạn rất thân của một Tăng sĩ,
pháp hiệu của Ngài là Nāgārjuna (Long-thọ Bồ-tát).
Một bản
văn
được tìm thấy trong hang động tại Nāsik và nó ghi lại rằng, vào năm thứ 7
của vua Lord Śrīyajña Sātakarṇi, một hang động được làm xong và nó được
cúng dường chung cho Tăng già Phật giáo. Một tảng đá trong ngôi tháp có
khắc lại một đoạn văn về triều đại của vua này và nó được phát hiện tại
Chinna-Ganjam.
Bản văn này ghi lại tiến trình phát triển của Phật giáo trong triều đại
của vị vua này tại nơi đó. Bản thân nhà vua quan tâm rất sâu sắc về những
vấn đề của Phật giáo và đã ủng hộ rất đắc lực cho tiến trình phát triển
của Phật giáo. Người cháu ruột của ông còn tạc hai tượng Phật. Một số vị
danh Tăng như: Acala, Gopāla, Vijayamitra, Bo, Dharmapāla, Aparnu, Sahao
rất được nhiều người ngưỡng mộ về tài năng trong việc viết và phiên dịch
nhiều tác phẩm và Kinh sách Phật giáo. Các Ngài thường tu tập trong hang
động tại dãy núi thiêng, có tên là Kaṇha. Tất cả những sự kiện này chứng
tỏ cho chúng ta thấy rằng, Phật giáo rất được hưng thịnh tại vương quốc
của vua Yajñaśrī Sātakarṇi.
*
Bảng phả hệ:
-
Triều đại Sātavāhana:
1- Vua
Simuka.
2- Vua
Kaṇha (Kṛṣṇā).
3- Vua
Sātakarṇi.
4- Vua
Pūrṇotsaṅga.
5- Vua
Skandhastambhu.
6- Vua
Sātakarṇi.
7- Vua
Lambodara.
8- Vua
Apilaka.
9- Vua
Meghasvāti.
10- Vua
Svāti
11- Vua
Skandasvāti.
12-Vua
Mṛgendra Svātikarṇa.
13-Vua
Kuntala Svātikarṇa.
14-Vua
Svātikarṇa.
15-Vua
Pulomāvi.
16-Vua
Ariṣtakarna.
17- Vua
Hāla.
18- Vua
Mantalaka hay Pattalaka.
19- Vua
Purikaṣena hay Purindraṣeṇa.
20- Vua
Sundara Sātakarṇi.
21- Vua
Chakora Sātakarṇi.
22- Vua
Śivāti.
23- Vua
Gautamaputra.
24- Vua
Pulomā.
25- Vua
Śivaśrī Pulomā.
26- Vua
Śivaskandha Sātakarṇi.
27- Vua
Yajñaśrī Sātakarṇi.
28- Vua
Vijaya.
29- Vua
Chandaśrī Sātakarṇi.
30- Vua
Pulomāvi.
IV-Những vị vua kế
vị thuộc triều đại Sātavāhana:
1- Các vị vua Ikṣvākus:
Rất có
thể các vị vua Ikṣvāku là chư hầu của một số hoàng đế Sātavāhana. Đến cuối
một phần tư thế kỷ thứ III TL, những vị vua này đã xâm chiếm nhiều khu vực
nằm rải rác xung quanh các cửa của những con sông Kṛṣṇā và con sông
Godāvarī.
Các vị vua Ikṣvāku thuộc bang Andhra có sự bang giao với các vị vua
Ikṣvāku thuộc bang Ayodhyā, thủ phủ của vương quốc Kosala Janapada nằm về
mạn Bắc.
2- Vua Vāsiṣṭhīputra Cāṃtamūla I
(Santamūla):
Vua Vāsiṣṭhīputra Cāṃtamūla I trị vì vào giữa thế kỷ thứ III TL và
được xem là một vị vua sáng lập triều đại Ikṣvāku thuộc bang Andhra.
Một số tác phẩm Purāṇa (văn học Ấn giáo)
đề cập đến những vị vua Ikṣvāku giống như Śrī Pārvatiya Andhra. Thành phố
thuộc Vijayapurī nằm tại ngôi làng Nāgārjunikoṇḍa chính là thủ đô của
những vị vua này. Vua Cāṃtamūla I là một đệ tử thuần thành của Svāmi
Mahāsena, có nghĩa là Skanda Kārtikeya là một tín đồ của Bà-la-môn giáo.
3- Vua Māṭharīputra Vīrapurīṣadata:
Vua
Māṭharīputra Vīrapurīṣadata (Vīrapuruṣadatta) sau phụ vương của ông là vua
Vāsiṣṭhīputra Cāṃtamūla I lên ngôi thuộc triều đại Ikṣvāku vào đầu thế kỷ
thứ III TL (ba phần tư của thế kỷ này).
Phật
giáo chiếm một vị trí nổi bật trong lịch sử tôn giáo thuộc Miền Nam Ấn Độ
trong suốt triều đại của vua Māṭharīputra Vīrapurīṣadata. Vị vua này là
một người bảo trợ đắc lực của Phật giáo và đã mang lại nhiều sự đóng góp
có giá trị cho công cuộc phát triển của Phật giáo. Từ một bản văn của vua
Vīrapurīṣadata,
chúng ta thấy rằng, bản văn có đề cập đến một lời thỉnh cầu của vua thuộc
bộ tộc Thích Ca giống như Đức Phật. Bản văn không chỉ xác nhận niềm tin
mạnh mẽ của vị vua này mà nó còn cho biết vị vua này chính là người luôn
ngưỡng mộ Đức Phật. Một số bản văn thuộc triều đại của vị hoàng đế này
được tìm thấy tại Jaggayyapeta thuộc thị trấn Kṛṣṇā và Nāgarjunikoṇḍa
thuộc thị trấn Guntur và chúng đề cập tới những sự cúng dường riêng của
các cận sự nam và cận sự nữ cho nhiều ngôi chùa của Phật giáo tại
Jaggayyapeta và Nāgārjunikoṇḍa. Các bản văn này cung cấp cho chúng ta một
số sự kiện phong phú để chứng tỏ cho thấy rằng, Phật giáo hưng thịnh trong
triều đại của vua Māṭharīputra Vīrapurīṣadata, và thủ đô của vị vua này
trở thành một trung tâm lớn về các hoạt động của Phật giáo. Bản văn được
khắc trên trụ đá số 3 tại Ayaka thuộc triều đại của vua Śrī Vīrapurīṣadata
ghi lại rằng, tại ngôi chùa Mahācetiya, bà Mahātālavarī Cāmtaśrī chính là
người chị cùng mẹ khác cha của vua Mahārāja Vāsiṣṭhīputra Śrī Cāṃtamūla đã
cho xây dựng trụ đá này vào năm thứ VI thuộc triều đại của vua Śrī
Vīrapurīṣadata. Bản văn được khắc trên trụ đá Ayaka số 2 C thuộc triều đại
của vua Śri Vīrapurīṣadata
khẳng định rằng, tại ngôi chùa Mahācetiya, bà Mahādevī Bapasirinikā chính
là con gái của vua Hammasiriṇikā, chị gái cùng cha khác mẹ của vua
Mahārāja Vāsiṣṭhīputra Ikṣvāku Śrī Cāṃtamūla đã xây dựng trụ đá này vì lợi
ích của những vị Thầy thuộc trường phái Aparamahāvinaseliya. Hầu như,
trường phái Aparamahāvinaseliya hay còn viết là Aparamahāvanaśailiya chính
là Aparaśaila là một trường phái nhỏ thuộc trường phái Mahāsaṃghika
(Đại-chúng bộ).
Bản văn được khắc trên trụ đá Ayaka số 2 B thuộc triều đại của vua Śri
Vīrapurīṣadata ghi rằng, bà Mahātalavarī Adavichātistrī chính là con gái
của vua Mahārāja Vāsiṣṭhiiputra Ikṣvāku Śrī Cāṃtamūla, đã xây dựng trụ đá
này tại ngôi chùa Mahācetiya của đức Thế Tôn, Đấng giác ngộ hoàn toàn.
Bản văn được khắc trên trụ đá Ayaka số 4 B thuộc triều đại của Śri
Vīrapurīṣadata mô tả rằng, tại ngôi chùa Mahācetiya, bà Mahāsenāpatini
Chulachātasiriṇik đã đạt được sự hạnh phúc trọn vẹn trong cuộc sống thế
tục và nguồn an lạc trong cảnh giới Niết bàn và bà còn cho xây dựng một
trụ đá này vào năm thứ 6 thuộc triều đại của vua Śri Vīrapurīṣadata.
Còn có một số bản văn khác thuộc triều đại của vua Mātharīputra
Vīrapurīṣadata nhưng chúng cung cấp cho chúng ta một sử liệu về các phẩm
vật cá nhân được nhiều nam và nữ cư sĩ tín tâm cùng một số các cung tần mỹ
nữ thuộc hoàng gia cúng dường và ủng hộ cho nhiều ngôi chùa của Phật giáo.
Bản văn F của ngôi chùa thứ hai thuộc triều đại của vua Śri Vīrapurīṣadata
thật rất quan trọng đối với sự nghiên cứu về lịch sử của Phật giáo. Bản
văn này còn ghi rằng, vì sự lợi ích và hạnh phúc dài lâu của chư Thiên và
loài người, một sảnh đường tại ngôi chùa Kulaha, một điện Phật đặt trước
cây bồ đề tại ngôi chùa Sihala, một cái am thất tại Dhammagiri lớn, một
trụ đá maṇḍava tại Mahāvihāra (ngôi chùa lớn), một sảnh đường dành cho
việc tu tập tại Devagiri, một hồ nước, hành lang và maṇḍava tại
Kaṇṭakaśaila, ba cái am thất tại Hiramuṭhuva, bảy cái am thất nhỏ tại
Papilā (Bồ đề), một maṇḍava làm bằng đá tại Puṣpagiri và một maṇḍava bằng
đá tại vihāra (ngôi chùa), tất cả đều được làm để tưởng nhớ.
Dựa theo bản văn này, chúng ta biết rằng, Nāgārjunikoṇḍa tại Śri Parvata
gần Dhānyakaṭaka và nhiều nơi kế đó ở miền Nam Ấn đã trở thành những trung
tâm quan trọng của Phật giáo mà được nhiều nhà hành hương từ mọi miền khác
nhau ở Ấn Độ và nhiều nước khác đến chiêm bái. Nhiều Tăng sĩ từ những nơi
này đã từng đi nhiều nơi khác nhau để truyền bá Phật giáo. Nhiều vihāra
(ngôi chùa), tháp và đền thờ được xây dựng nên và được sửa chữa lại và hầu
hết những bản văn Ikṣvāku được tìm thấy tại Nāgārjunikoṇḍa và Jaggeyyapeta
được khắc chạm với nhiều bia ký có tính cách đề tặng trong thời đại của
vua Māṭharīputra Vīrapurīśadata.
4- Vua Ehuvula Cāṃtamūla II:
Vua
Vāsiṣṭhīputra Bāhubala Cāṃtamūla hay còn viết là Ehuvula Cāṃtamūla II
chính là con trai của vua Sri Māṭharīputra Vīrapurīśadata và ông đã lên
ngôi vào cuối một phần tư của thế kỷ thứ III TL (tức là cuối thế kỷ thứ
III). Ông đã trị vì ít nhất là 11 năm. Phật giáo tiếp tục đóng một vai trò
quan trọng trong lịch sử tôn giáo của đất nước này trong suốt triều đại
của vị vua này. Một vài sử liệu thuộc triều đại của vị vua này được tìm
thấy và chúng chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng, vùng Kṛṣṇā Guntur thuộc
bang Andhra trở nên một trung tâm về những hoạt động của nhiều trường phái
khác nhau như Bahuśrutīya (Tiểu-thừa Thập-nhị bộ) và Mahīśāsaka (Đại chúng
bộ) rất được hưng thịnh dưới sự ủng hộ của những người thuộc hoàng gia. Mẹ
của nhà vua là bà Bhaṭṭidevī đã xây một ngôi chùa Devī và người con gái
của ông là bà Kaṇḍabiśrī đã xây dựng một ngôi chùa cho những nhà Ẩn tu.
Nhiều
sử liệu được khắc trên trụ đá Ayaka số 2 G và số 3 G thuộc triều đại của
vua Ehuvula Cāṃtamūla II ghi lại rằng, bà Mahādevī Bhaṭṭidevī đã xây dựng
một tu viện vì lợi ích của tất cả các Tăng sĩ thuộc trường phái
Bahuśrutīya.
Một sử liệu khắc trên trụ đá G đứng riêng lẻ thuộc triều đại của vua
Ehuvula Cāṃtamūla II cung cấp chúng ta một sử liệu về những phẩm vật cúng
dường cho trường phái Bahuśrutīya.
Ba sử liệu này đã làm khơi dậy sự ngưỡng mộ của quần chúng đối với trường
phái Bahuśrutīya trong lịch sử Phật giáo tại bang Andhra trong suốt triều
đại của vua Cāṃtamūla II. Một sử liệu khác thuộc năm thứ 11 dưới triều đại
của vua này ghi lại rằng, em gái của vị vua này là bà Kaṇḍabiśrī
(Kodabalisarī) đã xây dựng một trụ đá và một tu viện vì lợi ích cho các
Tăng sĩ thuộc trường phái Mahīśāsaka.
Trường phái Mahīśāsaka là một trường phái khác rất được hưng thịnh trong
triều đại của vua Ehuvula Cāṃtamūla II. Một sự phát hiện của một vài sử
liệu tại Nāgārjunikoṇḍa cung cấp cho chúng ta những chứng cứ khá đầy đủ
nhằm chứng tỏ rằng, Nāgārjunikoṇḍa đưa tầm quan trọng của nó trở thành một
trung tâm lớn của Phật giáo dưới sự trị vì của các vị vua Ikṣvāku mà họ
lại là những hộ pháp đắc lực của Phật giáo, mặc dù dựa theo các sử liệu,
chúng ta không biết gì về vai trò trực tiếp của họ đối với sự phát triển
của Phật giáo.
*
Bảng phả hệ:
-
Triều đại Ikṣvāku:
1- Vua
Vāsiṣṭhīputra Cāṃtamūla I.
2- Vua
Māṭharīputra Vīrapurīṣadata.
3- Vua
Ehuvula Cāṃtamūla II hay Bahubala Cāṃtamūla.
V- Những vị hoàng
đế Ânanda thuộc vương quốc Kaṇḍarapura:
Các vị
vua Ânanda (A-nan-đà) trị vì tại những nơi xung quanh thị trấn Guntur giữa
năm thứ hai của thế kỷ thứ IV và giữa năm thứ nhất của thế kỷ thứ V TL.
Kaṇḍara
(hay còn viết là Kanhdara hoặc Kanhara hoặc Kannara) chính là vị vua sáng
lập triều đại Ânanda. Kaṇḍarapura
được nhiều nhà học giả đồng nhất với tên gọi là Kantaru tại thị trấn
Guntur và nó là thủ đô của vị vua này. Sử liệu Goraṇṭla
thuộc triều đại của vua Attivarman được phát hiện tại thị trấn thuộc
Guntur còn ghi rằng, các vị hoàng đế Ânanda đều là tín đồ thuần thành của
Ấn giáo và là dòng dõi của Thượng-đế. Vua Attivarman nối ngôi sau vua
Kaṇḍara. Ông chính là vị hoàng đế hùng mạnh và là một tín đồ thuần thành
của Ấn giáo. Ông Dāmodaravarman cướp ngôi sau vua Attivarman. Những tấm
bảng bằng kim loại Mattepad của vua Dāmodaravarman được tìm thấy tại ngôi
làng thuộc Mattepad tại vùng Ongole taluk thuộc thị trấn Guntur có đề cập
đến vua này như là “Mahārāja Śrī Dāmodaravarmano”, “Mahārāja
Dāmodaravarman vĩ đại”. Những tấm bảng bằng kim loại đó còn diễn tả vị vua
này như là “bhagavataḥ samyaksaṃbuddhasya pādānudhyāta - nhà vua đã ngồi
nhập định trên hai bàn chân của đức Phật Samyaksaṃ”. Điều này chứng tỏ cho
chúng ta thấy rằng, vị vua này chính là một Phật tử tín tâm của Phật giáo.
*
Bảng phả hệ:
-
Triều đại Ânanda:
1- Vua
Kaṇḍara (Kanhadāra hay Kanhara hoặc Kannara).
2- Vua
Attivarman.
3- Vua
Dāmodaravarman.
VI- Những vị vua
dưới triều đại Bṛhatphalāyana thuộc vương quốc Kudarāhāra hay Kudūra.
Các vị
vua Bṛhatphalāyana đã làm cho vùng Masulipatam hoặc ngày nay được gọi với
tên là taluk thuộc thị trấn Kṛṣṇā và vùng lân cận đều nằm dưới sự thống
trị của họ mãi cho đến cuối thế kỷ thứ III TL.
Pithuṇḍa hay Pitundra chính là thủ phủ đầu tiên của những vị vua này và về
sau Kudūra (hiện nay là Gudura gần Masulipatam) là thủ phủ của họ. Dựa
theo sử liệu được khắc trên đá hay thuộc khảo cổ học, chúng ta không thể
biết được tước hiệu của các vị vua tiền nhiệm trước vị vua này hoặc những
người kế vị trị vì trước hay sau vua Jayavarman. Từ những tấm bảng kim
loại Kondamudi của vua Jayavarman
được phát hiện tại Kondamudi tại vùng Tenali Taluk thuộc thị trấn Kṛṣṇā,
chúng ta biết được vua Jayavarman là một tín đồ thuần thành của Maheśvara
(Śiva) (Ấn giáo). Điều này làm cho chúng ta có một sự nhận định là Ấn-giáo
(Śaivism) chiếm một vị trí rất quan trọng trong lịch sử tôn giáo của đất
nước này trong suốt triều đại trị vì của vị vua này. Không có một sử liệu
nào đề cập đến sự hưng thịnh của Phật giáo tại vương quốc của các vị hoàng
đế Bṛhatphalāyana cả.
*
Bảng phả hệ:
Các
vị vua Bṛhatphalāyana:
1-
Vua Jayavarman.
VII- Các vị vua
dưới triều đại Śālaṅkāyana thuộc vương quốc Veṅgī:
Người
sáng lập triều đại Śālaṅkāyana thuộc vương quốc Veṅgīpura chính là vua
Devavarman hay còn gọi là Vijayavarman. Theo một số học giả, thì Veṅgīpura
hay Veṅgī chính là Peddavegi và Chinnavegi nằm gần sát với hang động
Ellore tại thị trấn Godāvarī thuộc Nam Ấn.
Các vị vua dưới triều đại Śālaṅkāyana thống trị bao trùm miền Tây Godāvarī
và thị trấn Kṛṣṇā cùng với một vài vùng lân cận.
Các tấm bảng bằng kim loại tại hang động Ellore thuộc năm trị vì thứ 13
của vua Devavarman
đề cập đến vị vua này như là một người biểu diễn cho việc tế thần
(Aśvamedha) có lẽ vì sự thành công của ông để chống lại những người
Pallava. Vua Hastivarman kế ngôi sau vua Devavarman. Ấn giáo (Śaivism)
phát triển mạnh tại vương quốc của một số hoàng đế Śālaṅkāyana và các vị
vua này chính là những tín đồ thuộc Maheśvara hoặc Śiva (Ấn giáo).
*
Bảng phả hệ:
Các vị
vua dưới triều đại Śālaṅkāyana:
1- Vua
Devavarman (hay Vijayavarman).
2- Vua
Hastivarman.
VIII- Các vị vua
dưới triều đại Âbhīra:
Nhìn
chung, người ta tin rằng, các vị vua dưới triều đại Âbhīra đến Ấn Độ từ
một vài nơi thuộc miền Đông Iran và đã lấy tước hiệu của họ từ Âbīravan
được nằm giữa Heart và Kandakar.
Sau đó, chính những vị vua này đến định cư tại mạn Tây Bắc của Deccan và
miền Bắc Konkan. Dựa theo một số sử liệu được khắc trên đá, chúng ta có
thể biết được các vị vua này chính là những đại thần của triều đình dưới
triều đại của các vị hoàng đế S’aka Mahākṣatrapa thuộc miền Tây Ấn.
Từ
sử liệu được khắc trên đá, chúng ta chỉ biết được tước hiệu của vua
Māṭharīputra Īśvarasena, người chính là con trai của vua Âbhīra Śivadatta
(hay còn viết là Śivadata). Vị vua này là người sáng lập nên triều đại
Âbhīra và thành công vào giữa thời kỳ đầu của thế kỷ thứ III TL. Bản văn
của vị vua này được tìm thấy tại Nāsik mà có thể là một nơi thuộc vương
quốc của vị vua này. Dựa vào bản văn đó, chúng ta thấy rằng, Phật giáo
thịnh hành trong suốt triều đại của vua Māṭharīputra Īśvaravena dưới sự
bảo trợ của thần dân. Nó còn giúp chúng ta nhận thấy một cách rõ ràng,
Phật giáo là một tôn giáo được nhiều người ngưỡng mộ tại Nāsik trong triều
đại của vị vua này và Phật giáo chắc chắn chiếm một vị trí quan trọng tại
Deccan dưới sự trị vì của triều đại Âbhīra.
*
Bảng phả hệ:
1- Vua
Abhīra Śivadatta (Śivadata).
2- Vua
Māṭharīputra Īśvarasena.
IX- Những vị vua
dưới triều đại Bodhi:
Các vị
vua Bodhi là những người rất lỗi lạc vào thế kỷ thứ III TL và họ đã thống
trị bao trùm một số nơi thuộc miền Tây Bắc Deccan. Dựa vào một số đồng
tiền, chúng ta biết đến tước hiệu của một vị vua, tên của ông là Bodhi hay
còn viết là Śrībodhi mà được xem như là một vị vua sáng lập nên triều đại
này.
Ông D.C. Sircar cho rằng: “Từ Bodhi không chắc là để ám chỉ đến cây Bồ đề
và các vị vua Bodhi chính là những Phật tử tín tâm...”
Có thể, Phật giáo hưng thịnh tại vương quốc của các vị hoàng đế Bodhi.
Śivabodhi, Chandrabodhi và Vīrabodhi là những vị hoàng đế quan trọng khác
thuộc triều đại Bodhi.
*
Bảng phả hệ:
1- Vua
Bodhi hay Śribodhi.
2- Vua
Śivabodhi.
3- Vua
Chandrabodhi.
4- Vua
Vīrabodhi.
X- Những
vị hoàng đế Vākāṭaka:
Vào giữa
thế kỷ thứ VI TL, các vị vua Vākāṭaka là những người lỗi lạc và là những
vị hoàng đế rất hùng mạnh trong lịch sử của Ấn Độ cổ đại. Những vị vua này
chiếm cứ nhiều khu vực rộng lớn thuộc tiểu bang Madhya Pradesh và tiểu
bang Berar và họ còn mở rộng sự ảnh hưởng của họ mãi cho tới một số nơi
thuộc bang Deccan. Vua Vīndhyaśakti chính là người sáng lập nên triều đại
Vākāṭaka. Ông ta là một vị hoàng đế hùng mạnh. Bản văn tại hang động
Ajantā của vua Harisena
có đề cập đến vị vua này như là một dvija (Brāhmaṇa (Bà-la-môn)). Puranic
(Văn học Ấn giáo) ghi lại rằng, vua Mahārāja Pravarasena I hay còn viết là
Pravira đã chiếm lấy triều đại Vākāṭaka sau phụ vương của ông là vua
Vindhyaśakti.
Vua Pravira mở rộng quyền lực của ông từ Bundelkhand tại miền Bắc thuộc
tiểu bang Hyderabad ở miền Nam Ấn.
Ông ta chính là một tín đồ của Bà-la-môn giáo và đã cử hành các buổi lễ
Aśvamedha (mã sát), Agniṣṭoma, Âptoryāma, Bṛhaspatiśava.. Từ sự cử hành
những buổi lễ mang tính tế thần linh thuộc vệ đà (Vedic), chúng ta kết
luận rằng, các vị hoàng đế Vākāṭaka chính là những tín đồ của Bà-la-môn
giáo. Nhưng không có một sử liệu nào được khắc trên đá đề cập đến tiến
trình phát triển của Phật giáo dưới sự thống trị của những vị hoàng đế
Vākāṭaka trong thời kỳ đầu. Nhưng chúng ta biết rằng, một số hang động đẹp
nhất cùng với những bức tranh (tại hang động Ajantā) có được nguồn gốc của
chúng đối với tính hào phóng của những đại thần và các chư hầu thuộc triều
đại của những vị hoàng đế Vākāṭaka thuộc vương quốc Vatsagulma (hiện nay
gọi là Basin, thị trấn Akola, Berar).
Chính tại đây, một số hang động tráng lệ tại hang động Ajantā với nhiều tu
viện được tu bổ và xây dựng dưới sự bảo trợ của những vị vua Vākāṭaka sau
này và một số tướng lĩnh và các chư hầu của họ.
Trích
dịch từ nguyên tác “Buddhism During the Reign of the Śuṅgas, the Kāṇvas,
the Sātavāhanas and the Successors of the Sātavāhanas” chương IV trong tác
phẩm “The Rise and Decline of Buddhism in India” của Kanai Lal Hazra
(Delhi, Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd. 1998, pp. 46-61).
Bodhgaya ngày 23 tháng 03 năm 2004.
Ghi chú: Xem tốt nhất với font Arial
Unicode MS
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật: 01-05-2004