CHUẨN ĐỀ PHẬT MẪU
		
		
		Huyền Thanh dịch
		
		 
		
		I _ DANH TỰ:
		
		Chuẩn Đề được dịch âm từ các tên Phạn là 
		Cundì , Cunïtïi , Cunïdïhi , Kunïdïi , Cunõdhe , Cunde,  Cumïdi , 
		Cumïdhe , ‘Suddhe ( Trong các tên Phạn này thì 2 tên thường được dùng là 
		Cunõdhe với ‘Suddhe )  và được phiên dịch theo các ý nghĩa là Khiết Tĩnh, 
		Thanh Tịnh, Diệu Nghĩa, Minh Giác, Hộ Trì Phật Pháp. Đây là vị Bồ Tát 
		hay hộ mệnh và tế độ các chúng sinh khiến cho ngộ giải Phật Quả .
		
		Theo Truyền Thuyết của Ấn Độ thì Cunïtïi 
		hay Cunïdïhi là tên của một Apsara và có ý nghĩa là Nguồn suối nhỏ, cái 
		giếng nhỏ, may mắn, tốt giỏi, người có tài ba lỗi lạc.
		
		Theo Truyền Thuyết khác thì Chuẩn Đề ( 
		Kunïdïi ) là một tên gọi của Durga ( Hóa thân của Hắc Mẫu Thiên Kàli ) 
		với bài Chú xưng tán là:
		
		OMÏ _ KÀLI  KULI  KUNÏDÏI _SVÀHÀ
		
		( Quy mệnh Hắc Mẫu Thiên. Nguyện tuân 
		theo sự tôn kính ‘Sakti mà thành tựu Pháp của Durga ).
		
		Theo Truyền Thống Hoa Văn thì  Chuẩn Đề 
		còn có các tên gọi khác là: Thất Câu Chi Phật Mẫu hay Thất Câu Đê Phật 
		Mẫu ( Sapta_Kotïi  Buddha  màtrï ) , Chuẩn Đề Phật Mẫu ( Cunõdhe  Màtrï 
		) , Thất Câu Đê Phật Mẫu Chuẩn Đề (Sapta_Kotïi  Buddha  Màtrï  Cunõdhe 
		), Chuẩn Đề Bồ Tát ( Cunõdhe Bodhisatva ), Chuẩn Đề Quán Aâm hay Chuẩn 
		Đề Quán Tự Tại ( Cunõdhe Avalokite’svara )
		
		Hiện Đồ Thai Tạng Giới Man Đa La ghi nhận 
		Chuẩn Đề là một trong 3 vị Phật Mẫu thuộc Biến Tri Viện với Tôn Tượng 
		màu vàng lợt, mặc áo lụa mỏng như Thiên Y , đầu đội mão báu có ngọc lưu 
		ly rũ treo, mặt có 3 mắt, ngồi trên tòa sen, toàn thân có 18 tay, mỗi 
		tay có đeo vòng xuyến khảm Xà Cừ và mỗi tay đều cầm các loại khí cụ biểu 
		thị cho các Tam Muội Gia ( Bản Thệ_ Samaya ). Trong Viện này thì Chuẩn 
		Đề biểu thị cho sự thanh tĩnh vô nhiễm cấu là đặc tính của Liên Hoa Bộ ( 
		Padma Kulàya ) nên Chuẩn Để được xem là Mẫu ( Màtrï ) của Liên Hoa Bộ 
		trong Phật Bộ ( Buddha Kulàya ) nghĩa là từ Tôn này sinh ra các Tôn 
		trong Liên Hoa Bộ.
		
		Trong Kim Cương Giới Man Đa La thì  Chuẩn 
		Đề được nhận biết dưới danh hiệu Kim Cương Hộ Bồ Tát ( Ràksïa 
		Bodhisatva ) là một trong 4 vị Bồ Tát thân cận của Đức Phật Bất Không 
		Thành Tựu ( Amoghasiddhi Buddha ) [ tức là Đức Phật Thích Ca ( 
		‘Sàkyamunïi Buddha ) ] ở phương Bắc. Tôn này được sinh từ Môn Giáp 
		Trụ Đại Từ của tất cả Như Lai vì thế Chuẩn Đề được dịch ý là Hộ 
		Trì Phật Pháp và là vị Bồ Tát thường đi lại trong Thế Gian để đập 
		nát các Hoặc Nghiệp của tất cả chúng sinh, khiến cho kẻ đoản mệnh được 
		thọ mệnh lâu dài, tăng tiến Phước Tuệ , đời đời xa lìa nẻo ác, mau chóng 
		phát Tâm Bồ Đề ( Bodhicitta ) và viên mãn mọi ước nguyện. Ý nghĩa này 
		thường được đại chúng nhận biết nhiều qua các công năng của Thần Chú 
		Chuẩn Đề ghi trong các Kinh Quỹ.
		
		Dựa trên hai truyền thống này mà các Dòng 
		Phái Mật Giáo đã có sự nhận định khác nhau về Bồ Tát Chuẩn Đề.
		
		_ Chuẩn đề thuộc Quán Aâm Bộ ( hay Liên 
		Hoa Bộ )
		
		Căn cứ và chủng tử BU (            ) 
		nghĩa là “ Ngộ Giải chẳng thể đắc”: của Bồ Tát Chuẩn Đề trong 
		Biến Tri Viện và Quán Tự Tại Bồ Tát ( Avalokite’svara Bodhisatva ) ở 
		cánh hoa Đông Bắc trong Trung Đài Bát Diệp Viện cũng có chủng tử là BU  
		, đồng thời cả 2 Tôn này đều biểu thị cho Tâm Tính thanh tịnh nên người 
		đời hợp xưng thành danh hiệu Chuẩn Đề Quán Aâm và hồng danh này biểu thị 
		cho Hạnh Nguyện của Tâm Bồ Đề với Đức Tự Chứng. 
		
		Dựa trên ý nghĩa này nên Hệ Đông Mật của 
		Nhật Bản đem Chuẩn Đề làm một Tôn trong 6 vị Quán Aâm và nhiếp vào trong 
		6 vị Quan Aâm của Liên Hoa Bộ. 6 vị Quán Aâm này chia vào 6 nẻo tác thân 
		ứng hóa để tế độ các chúng sinh.
		
		Theo Ma Ha Chỉ Quán thì  6 vị Quán Aâm 
		với hình sắs, danh hiệu như sau đều hiển tướng Từ Bi cứu độ chúng sinh 
		trong 6 nẻo , gồm có :
		
		1 ) Đại Từ Quán Aâm là Biến Thân của 
		Chính Quán Aâm có chủng tử là JAHÏ (            ) cứu Địa Ngục Đạo , 
		Thân màu xanh, tay trái cầm hoa sen xanh, tay phải Thí Vô Úy . 
		
		
		Kết Đại Tam Cổ Ấn , dùng Bản Chú.
		
		2 ) Đại Bi Quán Aâm là Biến Thân của 
		Thiên Thủ Quán Aâm có chủng tử là HRÌHÏ (            ) Cứu Ngạ Quỷ Đạo. 
		Thân màu vàng ròng , 6 mặt có tướng Từ Bi. Tay trái cầm hoa sen hồng, 
		tay phải Thí Vô Úy. 
		
		Kết Liên Hoa Hợp Chưởng, tụng Chú là:
		
		OMÏ _ VAJRA  DHARMA _ HRÌHÏ
		
		3 ) Sư Tử Vô Úy Quán Aâm là Biến Thân của 
		Mã Đầu Quán Aâm có chủng tử là KHÌ (            ) hoặc  HÙMÏ 
		(            ) cứu Súc Sinh Đạo. Thân màu xanh, tay phải cầm hoa sen 
		trên hoa có Phạn Khiếp , tay trái Thí Vô Úy.
		
		Kết Phạn Khiếp Ấn, tụng Chú là:
		
		OMÏ _ VAJRA  KHÌ _ SVÀHÀ
		
		4 ) Đại Quang Phổ Chiếu Quán Aâm là Biến 
		Thân của Thập Nhất Diện Quán Aâm có chủng tử là KA (            ) cứu A 
		Tu La Đạo. Thân màu thịt. Tay phải cầm hoa sen hồng trên hoa có bình 
		hoa, miệng bình dứng báu Độc Cổ. Tay trái Thí Vô Úy.
		
		Kết Bất Động Ấn, tụng Chú là:
		
		OMÏ _ MAHÀ  PRABHA _ SVÀHÀ
		
		5 ) Thiên Nhân Trượng Phu Quán Aâm là 
		Biến Thân của Chuẩn Đề Phật Mẫu có chủng tử là SU (            ) cứu 
		Nhân Đạo. 
		
		Hợp 2 ngón út, 2 ngón vô danh cài chéo 
		nhau bên trong. Dựng 2 ngón giữa , đem 2 ngón trỏ phụ lưng ngón giữa, 
		đem 2 ngón cái phụ bên cạnh 2 ngón trỏ. Tụng Chú là:
		
		OMÏ _ SURE  SURE  SUNÏE _ SVÀHÀ
		
		6 ) Đại Phạm Tấn Tốc Quán Aâm là Biến 
		Thân của Như Ý Luân Quán Aâm có chủng tử là HRÌHÏ (            ) cứu 
		Thiên Đạo. Thân màu trắng. Tay trái cầm hoa sen, trên hoa dựng chày Tam 
		Cổ. Tay phải Thí Vô Úy
		
		Kết Đại Tam Cổ Ấn, ngón trỏ như hình báu. 
		Tụng Chú là:
		
		OMÏ _ HRÌHÏ  MAHÀ  PRA _ SVÀHÀ
		
		. ) Thắng Quân Bất Động Quỹ ghi :” Trùy 
		Chung Ca Thái La Vương là thân sở biến của Chuẩn Đề Quán Aâm”
		
		. ) Quỹ ghi :” Tu Pháp Chuẩn Đề đều thấy 
		tượng của Quán Tự Tại”
		
		. ) Tiểu Dã Sao ghi:” Thiên Nhân Trượng 
		Phu là Chuẩn Đề Phật Mẫu cứu độ Nhân Gian”
		
		. ) Khuyến Tu Tự Sao ghi:’ Chuẩn Đề là 
		Quán Aâm”
		
		. ) Thạch Sơn ghi:” Chuẩn Đề Quán Tự Tại 
		Bồ Tát”
		
		. ) Thiền Tông cũng dùng Chuẩn Đề là một 
		Tôn trong Quán Aâm Bộ
		
		Lại nữa Chuẩn Đề dịch là Thanh Tịnh
		tức Thanh Tĩnh Quán Aâm , Vì Bất Không Quyến Sách Quán Aâm cũng có 
		tên là Thanh Tịnh và cũng là một Hóa Tôn cứu độ tất cả chúng sinh 
		trong Nhân Đạo nên Chuẩn Đề chính là Bất Không Quyến Sách . 
		
		Do nhận định Chuẩn Đề là một Tôn trong 
		Quán Aâm Bộ nên các hệ phái này đều dùng Kết Giới Minh Vương là Mã Đầu 
		hoặc Quân Trà Lợi.
		
		_Chuẩn Đề thuộc Phật Bộ
		
		Theo Hiện Đồ Thai Tạng Giới Man Đa La thì 
		Chuẫn Đề là một Tôn trong Biến Tri Viện biểu thị cho đức Năng Sinh 
		của chư Phật  và từ Tôn này sinh ra các Tôn của Liên Hoa Bộ. Lại nữa 
		Chuẩn Đề còn biểu thị cho Tâm Tính Thanh Tĩnh là khuôn mẫu để 
		sinh ra các Phật Tử ( Buddhaputra ) nên Chuẩn Đề được tôn xưng là Phật 
		Mẫu ( Buddha Màtrï ). Do Biến Tri Viện là một Viện trong Phật Bộ thuộc 
		Thai Tạng Giới nên Chuẩn Đề phải là một Tôn trong Phật Bộ.
		
		Cao Huệ nói:” Chuẩn Đề là Hộ Bồ Tát, một 
		trong 4 Bồ Tát thân cận của Đức Bất Không Thành Tựu Như Lai mà Bất không 
		Thành Tựu Như Lai lại là Đức Phật Thích Ca. Do đó Chuẩn Đề là một Hóa 
		Thân của Đức Phật Thích Ca”
		
		Khẩu nói:” Bất Động là Hóa Thân của Thích 
		Ca Mâu Ni mà Thắng Quân Bất Động Quỹ ghi: Hiện Thân thứ năm 
		trong 8 loại thân là thân sở biến của Chuẩn Đề. Do đó Chuẩn Đề là 
		hóa thân của Đức Phật Thích Ca” 
		
		Khẩu nói:” Tu Pháp Chuẩn Đề thì dùng Ô Sô 
		Sa Ma ( Ucchusïma ) làm Kết Giới Minh Vương mà Ô Sô Sa Ma là thân sở 
		biến của 2 Tôn Thích Ca và Bất Động. Do đó Chuẩn Đề là một hóa Thân của 
		Thích Ca”.
		
		Quỹ ghi :” Dùng Ô Sô Sa Ma hay Vô Năng 
		Thắng làm Kết Giới Kim Cương” vì Ô Sô Sa Ma và Vô Năng Thắng 
		(Aparajita ) đều là thân sở hóa của Thích Ca nên Chuẩn Đề phải là Hóa 
		Thân của Thích Ca
		
		Bạch Bảo Khẩu Sao ghi nhận:” Chuẩn Đề là 
		hoá thân của Thích Ca biểu thị cho Đức Thuyết Pháp “
		
		Hệ Thai Mật của Nhật Bản đem Chuẩn Đề 
		nhập vào Phật Bộ, dùng làm một Tôn trong Phật Bộ.
		
		Do nhận định Chuẩn Đề là một Tôn trong 
		Phật Bộ nên các Hệ Phái  này thường dùng Ô Sô Sa Ma hay Vô Năng Thắng 
		làm Kết Giới Minh Vương.
		
		II_ TRÚ XỨ:
		
		Chuẩn Đề Phật Mẫu cư ngụ tại Trời Sắc Cứu 
		Cánh.
		
		III _ TÔN TƯỢNG:
		
		Tôn Tượng Chuẩn Đề có nhiều dạng: 4 tay, 
		6 tay, 14 tay, 18 tay… nhưng thông thường người ta hay thờ phụng Tượng 
		18 tay.
		
		Tượng Chuẩn Đề Quán Aâm của Trung Hoa
		: Tượng có 4 cánh tay, trên 
		đỉnh đội Định Ấn là một vị Hóa Phật. Bên trái : Tay thứ nhất để trước 
		eo, tay thứ hai cầm Bảo Châu ( Viên ngọc báu ). Bên phải: Tay thứ nhất 
		cầm chày Độc Cổ, tay thứ hai nâng cao lên đem ngón cái và ngón vô danh 
		cùng vịn nhau, Nhũ phòng ( hai vú ) sung mãn lộ xuất biểu thị cho tướng 
		Phật Mẫu.
		
		Tượng Chuẩn Đề Quán Aâm của Tây Tạng: 
		Tượng có 4 tay, ngồi Kiết Già trên hoa sen. Hai tay trái phải thứ nhất 
		đặt ở trên rốn cầm Bình Bát. Tay phải thứ hai rũ xuống tác Thí Vô Uý Ấn, 
		tay trái thứ hai co ở trước ngực cầm hoa sen trên hoa an trí một rương 
		Kinh Phạn.
		
		Tôn Tượng Chuẩn Đề Phật Mẫu 18 tay 
		được ghi nhận rất rõ trong Kinh 
		Quỹ.Nay dựa vào Bạch Bảo Khẩu Sao  ghi nhận lại sự minh họa ý nghĩa của 
		Tôn Tượng này .
		
		Tượng có thân màu vàng trắng: 
		Màu vàng ( A ) tượng trưng cho Thai Tạng Giới, màu trắng ( VAMÏ ) tượng 
		trương cho Kim Cương Giới. Màu vàng trắng biểu thị cho nghĩa “ Lý Trí 
		chẳng hai, Định Tuệ một Thể” và biểu thị cho Đức Năng Sinh của 
		chư Phật.
		
		Mặt Tượng có 3 mắt: 
		3 mắt là Phật Nhãn, Pháp Nhãn, Tuệ Nhãn biểu thị cho nghĩa “ 3 Đế 
		chẳng dọc chẳng ngang, nhất như bình đẳng”
		
		Thân Tượng có mọi loại trang nghiêm tỏa 
		ánh hào quang tròn sáng rực lửa:
		Sắc Pháp biểu thị cho nghĩa của Thai Tạng Giới. Mọi loại 
		biều thị cho các Pháp như cát bụi. Trang Nghiêm biểu thị cho 
		nghĩa Bồ Tát dùng phiền não làm Bồ Đề.Ánh hào quang tròn sáng rực lửa
		biểu thị cho nghĩa Tâm Pháp của Kim Cương Giới, là Trí hay phá mọi 
		ám chướng của Tâm hư vọng.
		
		Thân Tượng có 18 tay:
		
		Hai tay bên trên tác Tướng Thuyết Pháp:
		Tôn này vào Nhân Đạo hay làm 
		vị Hóa Chủ phá 3 Chướng nên đặt biệt hiện ra 3 mắt Trí nói Pháp lợi sinh 
		nên y theo giáo vì Pháp Cơ khiến cho chứng quả vị của 3 Thân
		
		Bên Phải: 
		
		Tay thứ hai tác Thí Vô Úy: 
		5 ngón tay bên phải biểu thị cho 5 Trí là nghĩa của Quang Minh. Tôn này 
		là Hóa Chủ của Nhân Đạo nên ở Thế Giới Sa Bà có hiệu là Thí Vô Úy ( 
		Abhayamïdada ) . Do hiển nghĩa Đại Bi chân thật sạu rộng nên hiện tay 
		này.
		
		Tay thứ ba cầm cây Kiếm: 
		Cây Kiếm biểu thị cho Trí Tuệ giáng 4 Ma , trừ 3 Chướng, hại 3 Độc , dứt 
		5 Dục.
		
		Tay thứ tư cầm Sổ Châu ( Tràng Hạt )
		: Tràng Hạt biểu thị cho Trí 
		Tuệ mang nghĩa Chuyển Pháp Luân. Mẫu Châu là Bản Tôn A Di Đà. Manh mối 
		của tràng hạt là Quán Aâm, đây là manh mối Đại Bi của Quán Aâm xâu suốt 
		108 phiền nảo. Mỗi lần chuyển dời một hạt ắt dứt bỏ một phiền não, nên 
		đoạn 108 phiền não chứng 108 Tam Muội, mỗi mỗi đều đủ cho Pháp,  như Đức 
		Thần Lực chẳng thể nghĩ bàn,mỗi mỗi đều đủ vô lượng Bản Thệ Tam Muội của 
		thân khẩu ý.
		
		Tay thứ năm cầm quả Vĩ  Nhạ Bố La Ca ( 
		Bìjapùraka): Bìja 
		là hạt, Pùraka là tràn đầy nên
		Bìjapùraka được dịch là Tử Mãn Quả, quả này chí có ở Thiên 
		Trúc.Quả này biểu thị cho hạt giống mãn vạn hạnh vạn thiện, hiển nghĩa 
		công đức viên mãn của Phật Quả.
		
		Tay thứ sáu cầm cây búa (Phủ Việt ): 
		Cây búa phá tất cả, không có gì không tồi phá được là tồi phá nạn Vô 
		Minh, cắt đứt Hoặc Chướng biểu thị không dư sót.
		
		Tay thứ bảy cầm móc câu: 
		Móc câu ( Anõku’sa ) có nghĩa là vua, 4 biển đều triều tôn nhà vua nên 
		vạn đức đều quy vào Tôn này, nghĩa là vua của các Tôn nên gọi là Phật 
		Mẫu. Sở Thuyên Câu Triệu tất cả chúng sinh khác vào cung Pháp Giới Nội 
		Chứng vốn có là có triệu vào Như Lai Tịch Tĩnh Trí Đức. Do vậy hiện tay 
		cầm móc câu.
		
		Tay thứ tám cầm Bạt Chiết La ( Vajra )
		: Đường gọi Độc Cổ Xử là chày 
		Kim Cương, Tam Cổ Xử  là Bạt Chiết La ( Vajra ). Tam Cổ Xử hay tồi diệt 
		3 Độc hiển chư Tôn của 3 Bộ nên là Phật Mẫu của 3 Bộ.
		
		Tay thứ chín cầm vòng hoa báu ( Bảo Man)
		: Hoa Man xâu suốt hoa lá biểu 
		thị cho nghĩa Vạn Đức Trang Nghiêm, là công đức của Bình Đẳng Tính Trí.
		
		Bên trái:
		
		Tay thứ hai cầm cây phướng báu Như  Ý: 
		Phướng báu Như Ý là phướng báu của Tâm Bồ Đề ( Bodhicitta ) có địa vị 
		cao tột. Đối với chúng sinh không có Phước Tuệ , bần cùng thì ban cho 
		Nguyện Thế Xuất Thế. Viên ngọc báu ( Bảo châu ) là gốc rễ của mọi thiện, 
		đáy nguồn của vạn hạnh.
		
		Tay thứ ba cầm hoa sen hồng: 
		Hoa sen hồng  tên Phạn là Padma. 
		
		Hoa sen là tự tính thanh tĩnh biểu thị 
		cho nghĩa Tự Tính Thanh tĩnh của tất cả các Pháp. Là Pháp tĩnh 3 Độc , 5 
		Dục, tất cả tội của Nhân Gian. 
		
		Màu hồng biểu thị cho màu sắc khả ái ( 
		đáng yêu )
		
		Tôn này vào Nhân Đạo làm vị Hóa Chủ nên 
		đặc biệt dùng hoa sen hồng biểu thị cho Đức này
		
		Tay thứ tư cầm bình Táo Quán: 
		Cái Bình mang nghĩa chứa đầy tất cả vật. Phật Mẫu Tôn sinh ra các Tôn 
		trong 3 Bộ là Đức chứa đầy. Do vậy hiện thị tay cầm bình Táo Quán.
		
		Tay thứ năm cầm sợi dây: 
		Sợi dây biểu thị cho nghĩa giáng phục Ác Ma. Các Tôn Phẫn Nộ ( Krodha 
		Nàtha ) hay cầm sợi dây. Tôn này trói buộc kẻ khó phục khiến cho khuynh 
		động dẫn vào cung Pháp Giới vốn có. Trong 4 Nhiếp Phương Tiện thì đây là 
		phương tiện Đại Bi cực vị vậy.
		
		Tay thứ sáu cầm bánh xe: 
		Bánh Xe ( Luân_ Cakra ) nghĩa là chuyển hoặc tồi phá, biểu thị cho sự 
		lưu chuyển sinh tử trong 25 Hữu. Khi luân chuyển đã diệt thì bánh xe 
		dừng lại vậy.
		
		Tay thứ bảy cầm loa 
		: Loa là vỏ ốc ( ‘Sanõkha ) mang nghĩa 
		nói tịch tĩnh như Pháp. Lại biểu thị cho tiếng rống của sư tử, khi sư tử 
		rống thì muôn thú trong sơn dã đều bị giáng phục. Nay dùng tiếng vang 
		lớn của loa khiến giáng phục loại phiền não hoặc chướng của chúng 
		sinh.
		
		Tay thứ tám cầm Hiền Bình: 
		Hiền Bình là Tam Muội Gia ( Samaya ) biểu thị sự chứa đầy 4 Trí Cam Lộ 
		ban cho chúng sinh đều khiến mở Hoa Giác vốn có.
		
		Tay thứ chín cầm rương Kinh Bát Nhã :
		Rương Kinh Bát Nhã biểu thị 
		cho Thể của Trí Tuệ. 10 phương 3 đời Phật Bồ Tát đều y theo Bát Nhã này 
		thành Chính Giác. Do Tôn này là Phật Mẫu của chư Phật nên cầm rương Kinh 
		Bát Nhã.
		
		Để giúp cho Đồ Chúng dễ ghi nhớ Tôn Tượng 
		18 tay của Chuẩn Đề Phật Mẫu, các vị Đạo Sư Trung Hoa đã biên soạn bài 
		tán Chuẩn Đề Phật Mẫu là:
		
		Khuôn mặt Bồ Tát như trăng đầy
		
		Sắc tướng trắng vàng rất đoan nghiêm
		
		Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
		
		Nguyện thấy Tôn nhan thường cúng dường
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Trên mặt Bồ Tát có ba mắt 
		
		Như bốn biển lớn thật lặng trong
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện được năm loại mắt thanh tịnh
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Tai Bồ Tát đeo báu trang sức
		
		Mọi thứ thù thắng rất trang nghiêm
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện được Nhĩ Thông , nghe Diệu Pháp
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Lồng ngực Bồ Tát hiện chữ Vạn
		
		Như trăng tròn diệu hiển quang minh
		
		Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
		
		Nguyện được Tâm Thông, nghe liễu ngộ
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Bồ Tát đội mão hoa trên đỉnh
		
		Trong mão hóa hiện năm Như Lai
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện được Từ Tôn ban quán đỉnh
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Bồ Tát khoác áo màu trắng tinh
		
		Sáu Thù đeo thể thật trang nghiêm
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện được quần áo khéo giải thoát
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		 
		
		Thân Bồ Tát đeo Châu Anh Lạc
		
		Tay, ngón đeo vòng báu trang nghiêm
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện đủ băm hai ( 32 ) tướng Như Lai
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Bồ Tát  ngồi thẳng trên hoa sen
		
		Lớn cao chẳng động tựa núi vàng
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện sau sẽ ngồi tòa Bồ Đề
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Mọi chi phần trên thân Bồ Tát
		
		Thường phóng vô lượng ánh sáng lớn
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện được Từ Quang đến hộ niệm
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Tay Bồ Tát kết Ấn Thuyết Pháp
		
		Biểu thị khéo nói tất cả Pháp
		
		Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
		
		Nguyện được các Pháp đều thông đạt
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm Phướng báu diệu
		
		Biểu thị Thế Gian là Tối Thắng
		
		Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
		
		Nguyện con hay dựng Phướng Đại Pháp
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Bồ Tát kết Ấn Thí Vô Úy
		
		Dìu dắt chúng sinh bị hiểm nạn
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con mau lìa sự đáng sợ
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm hoa sen diệu
		
		Biểu thị sáu căn thường thanh tịnh
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con lìa dơ ( ly cấu ) như hoa sen
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm kiếm Trí Tuệ
		
		Hay chặt trói buộc của phiền não
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con chặt đứt Tham, Sân, Si
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Tay bồ Tát cầm bình Táo Quán ( rưới vảy )
		
		Tuôn nước Cam Lộ thấm chúng sinh
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con thường được Phật quán đỉnh
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Bồ Tát cầm tràng hoa màu nhiệm
		
		Mọi thứ trang điểm thật thù thắng
		
		Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
		
		Nguyện con được buộc lụa Diệu Pháp
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Bồ Tát cầm sợi dây Kim Cương
		
		Khéo hay dẫn nhập vào tất cả
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con được vào Pháp tương ứng
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm quả Thiên Diệu
		
		Biểu thị viên thành quả Bồ Đề
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con rộng tu các quả lành
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Bồ Tát cầm bánh xe tám căm
		
		Uy quang chiếu diệu khắm Tam Giới ( 3 cõi 
		)
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con thường chuyển Đại Pháp Luân
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm cây búa lớn
		
		Hay phá Pháp Bất Thiện bền chắc
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con đập nát núi Nhân Ngã ( Người 
		và Ta )
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm Loa Đại Pháp
		
		Âm thanh chấn động ba ngàn cõi
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con hay nói tất cả Pháp
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Bồ Tát cầm móc câu Kim Cương
		
		Khéo hay câu triệu khắp tất cả
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con thành tựu Pháp Câu Triệu
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm Bình Như Ý
		
		Tuôn ra Tạng báu với Kinh Điển
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con thọ dụng thường như ý
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm chày Kim Cương
		
		Tám Bộ Trời Rồng đều quy ngưỡng
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con điều phục kẻ khó phục
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm Kinh Bát Nhã
		
		Hàm chứa nghĩa vi diệu thâm sâu
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con không Thầy tự nhiên ngộ
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Bồ Tát cầm viên ngọc Ma Ni
		
		Hào quang tròn trắng không tỳ vết
		
		Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
		
		Nguyện Tâm Địa con luôn lanh lợi
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ĐẠI BỒ TÁT
		
		 
		
		Phật Mẫu Chuẩn Đề Đại Bồ Tát
		
		Hiện mười tám tay ngồi trên Đàn
		
		Tám Đại Bồ Tát hộ tám phương
		
		Đệ Tử một lòng quy mệnh lễ
		
		NAM MÔ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ  ĐẠI BỒ TÁT
		
		IV- CHÂN NGÔN:
		
		Theo truyền thống Hoa Văn thì Chuẩn Đề có 
		Mật hiệu là Tối Thắng Kim Cương ( Vijaya Vajra ) hay Kim Cương 
		Mẫu ( Vajra Màtrï )
		
		Chủng tử 
		là : BU (            ) hay  SA 
		(            ) hay  CA (            )
		
		Tam Muội Gia hình 
		là : Hiền Bình, Hoa sen, Giáp trụ, chày 
		Tam Cổ, chày Ngũ Cổ.
		
		Phạn Hiệu 
		là ÀRYA  BUDDHÀ  BHAGAVATI ( Thánh Phật 
		Thế Tôn ) hay ÀRYA  BUDDHÀ  BHAGAVATI  BODHISATVA ( Thánh Phật Thế Tôn 
		Bồ Tát )
		
		Tam Mật Phòng ghi là: NAMO  ÀRYA  
		‘SUDDHA  BODHISATVA  MAHÀ  SATVA ( Kính lễ Thánh Thanh Tịnh Bồ Tát Ma Ha 
		Tát )
		
		Tâm Chú của Chuẩn Đề được ghi nhận qua 
		nhiều bản khác nhau:
		
		_ Hiển Mật Viên Thông ghi là:
		
		OMÏ _ CALE  CULE  CUMÏDE _ SVÀHÀ
		
		_ Thắng Định Phòng ghi là:
		
		OMÏ _ ‘SALE  ‘SULE  ‘SUDDHE _ SVÀHÀ
		
		_ Thất Câu Chi Viện ghi là:
		
		OMÏ_ ‘SALE  ‘SUDDHE _ SVÀHÀ
		
		_ Pháp Tự Luân Quán ghi là;
		
		OMÏ _ CARE  SURE  ‘SUDE _ SVÀHÀ
		
		_ Bạch Bảo Khẩu Sao ghi là:
		
		OMÏ_ ‘SALE  ‘SULE  ‘SUNTE _ SVÀHÀ
		
		_ Tự Luân Quán ghi là:
		
		OMÏ _ CALE  SULE  ‘SUDDHA _ SVÀHÀ 
		
		
		_ Đồ Tượng 10 ghi nhận là:
		
		OMÏ _ ‘SALE  ‘SULE  CUMÏDE _ SVÀHÀ
		
		Hay OMÏ_ CALE  SURE  ‘SUNDHE _ SVÀHÀ
		
		_ Bản thường dùng ghi là;
		
		OMÏ _ CALE  CULE  CUNÕDHE _ SVÀHÀ
		
		_ Bản khác ghi là:
		
		OMÏ_ ‘SARI  ‘SÙRI  ‘SUDDHE _ SVÀHÀ 
		
		
		Nay theo sự khảo cứu của chúng tôi thì 
		chỉ có 3 bài Chú biểu thị rõ nghĩa của Phạn Văn là:
		
		1 ) OMÏ : Cảnh Giác
		
		‘SARI : Thú tính hoang dã, người hung 
		bạo, loài thú hoang
		
		‘SÙRI : Biến đổi trở thành anh hùng
		
		‘SUDDHE : Thanh tịnh
		
		SVÀHÀ : Quyết định thành tựu.
		
		 
		
		2 ) OMÏ : Nhiếp triệu
		
		‘SALE : Cây thương , cây giáo
		
		‘SÙLE: Tay cầm cây thương, quyền lực với 
		cây thương
		
		‘SUDDHE : Thanh tịnh
		
		SVÀHÀ : Quyết định thành tựu
		
		3 ) OMÏ : 3 Thân quy mệnh
		
		CALE : lay động. Nghĩa bóng là Giác động 
		tức là chuyển động sự Giác Ngộ.
		
		CULE : Nghi thức cạo tóc Quy Y, đỉnh cao 
		của căn nhà, trung tâm của sao chổi. Nghĩa bóng là Trực  khởi  tức là đi 
		thẳng đến
		
		CUNÕDHE ( hay CUNÏDÏHI ) là nguồn suối 
		nhỏ, cái giếng nhỏ, nguồn hạnh phúc.Nghĩa bóng là Tự Tính thanh tĩnh của 
		Tâm Bồ Đề.
		
		SVÀHÀ : Quyết định thành tựu, hay thành 
		tựu tự tính an lạc của Đại Niết Bàn.
		
		Nếu dựa theo nghĩa đen thì bài Chú trên 
		hàm chứa nhiều ý nghĩa thô tục nên một số Học Giả đã loại bỏ câu Chú này 
		và thay bằng câu Chú thứ hai bên trên (Nhật Bản thường dùng câu Chú thứ 
		hai ) . Tuy nhiên dựa theo thói quen tu tập và nghĩa bóng thì người ta 
		thường dùng câu Chú thứ ba này với ý nghĩa là:
		
		“ Khi thân khẩu ý hợp nhất với sự giác 
		ngộ Phật Tính sẽ đi thẳng vào Tự Tính Thanh Tĩnh của Tâm Bồ Đề và thọ 
		nhận mùi vị an lạc tịch tĩnh của Đại Niết Bàn”
		
		CÔNG NĂNG CỦA THẦN CHÚ CHUẨN ĐỀ:
		
		Công Năng của Thần Chú Chuẩn Đề được ghi 
		nhận rất nhiều trong các Kinh Quỹ. Nay chúng tôi chỉ ghi nhận thêm một 
		số công năng mà Kinh Quỹ ghi thiếu như sau:
		
		_ Trừ Khẩu Thiệt: Đoạn 5 Tân, đủ 
		Trai Giới, trong 14 ngày vào Đạo Trường này liền tăng lộc ép buộc oan 
		gia tai hoạnh vì khẩu thiệt. Mỗi đêm 3 thời hướng về Bản Tôn tụng Chân 
		Ngôn 108 biến, cứ một biến thì xưng tên gọi của kẻ ấy một lần liền giải 
		oán kết, thân như cha mẹ.
		
		Trừ Khẩu Thiệt Lợi Quan Trị Tất Trúng Chú 
		là:
		
		“ Phu phu, túc bà túc bà, a kính bà a 
		kính bà, cứu tra cứu tra, sa ha”
		
		BHUHÏ  BHUHÏ_ ‘SUBHA  ‘SUBHA _ AKAMÏPA  
		AKAMÏPA _ KUTÏA  KUTÏA _ SVÀHÀ
		
		_ Cầu Thông Minh: Nếu muốn cầu 
		thông minh. Lấy Thạch Xương Bồ, Ngưu Hoàng mỗi thứ nửa lạng, đảo quết  
		làm bụi nhỏ rồi hòa với bơ. Ở trước Phật làm Man Trà La, niệm tụng 5000 
		biến rồi uống vào liền được thông minh. 
		
		Thông Minh Chú là:
		
		“ Mỵ đế mỵ đế, ưu đế ưu đế, ưu đà đế , sa 
		ha”
		
		MITI  MITI_ UTTI  UTTI _ UDÀTTI _ SVÀHÀ
		
		_ Thấy cha mẹ đã chết và diên mệnh:
		Nếu muốn thấy cha mẹ đã quá vãng với nam nữ đã quá vãng kèm biết nơi 
		thọ sinh. Trong 14 ngày y theo Pháp niệm tụng đều được thấy biết.
		
		Lại Quỹ ghi rằng: Cha mẹ gặp Pháp này, 
		được vào Quán Đỉnh hay khiến cho con cháu đều cùng được phước. Nếu nam 
		nữ được vào Quán Đỉnh hay khiến cho cha mẹ sống lâu tăng phước, vĩnh 
		viễn không có tai nạn, mong cầu vừ ý.
		
		_ Cầu mưa: Nếu có đại hạn. Vào 
		giữa đêm đốt An Tất Hương , kết Ấn rồi Sắc cho Rồng ở 5 phương mau khiến 
		tuôn mưa. Nếu 21 ngày mà chưa tuôn mưa, liền lấy Trầm Thủy Hương khắc 5 
		vị Rồng dài 9 thốn, tùy phương vẽ 5 màu đều an trên Đàn. 7 ngày y theo 
		Pháp niệm tụng liền được tuôn mưa. Nếu muốn tạnh mưa liền ngửa mặt hướng 
		lên Trời tụng Đà La Ni 81 biến tức tạnh mưa.
		
		_ Hiện Thanh Y Đồng Tử phụng sự: 
		Mỗi ngày đêm 6 thời tụng Đà La Ni này 1080 biến. Trải qua 49 ngày như 
		Niệm Tụng này tức Thanh Y Đồng Tử sẽ hiện thân phụng sự người niệm tụng. 
		Hai Đồng Tử ấy đều tự có Sứ Giả ( 7 người ) . Đồng Tử bên trái biết việc 
		sinh sống, thiện ác, cát hung của Nhân Gian. Vị Đồng Tử bên phải biết 
		việc thiện ác trong Minh Đạo ( Cõi Aâm ) . Muốn biết việc Quan Lộc, tuổi 
		thọ, cát hung của người liền Sắc cho Đồng Tử bên phải khiến nơi Minh Đạo 
		sao chép Tính ( Họ Tên )  sắc cho Tư Mệnh với Diêm La mau chóng báo . 
		Mỗi lần Sắc thời kết Ấn tụng Đà La Ni 7 biến liền ở trong cõi Aâm biết 
		đủ thiện ác. Vị Đồng Tử bên phải ấy tự hiện thân có thể hỏi gốc rễ.
		
		Thầy nói: Nếu có thể 49 ngày như 6 thời 
		này niệm niệm xong. Sau đó tụng thêm 108 biến, cũng chẳng khác biến số. 
		Hai vị Đồng Tử ấy hỏi lấy Danh Tự, cần sai khiến liền sai khiến.
		
		V_ ẤN KHẾ :
		
		Ấn Khế của Chuẩn Đề có rất nhiều. Nay chi 
		ghi nhận 2 Ấn với ý nghĩa cơ bản của Ấn Khế.
		
		Đệ Nhất Căn Bản Ấn: 
		Hai Luân Địa , hai Luân Thủy cài nhau đặt 
		trong lòng bàn tay. Hai Luân Hỏa dựng đứng thẳng cùng vịn nhau. Hơi co 
		hai Luân Phong vịn trên lóng thứ nhất trên lưng hai Luân Hỏa. Hai luân 
		Không đặt bên cạnh hai Luân Phong
		
		Ấn này gọi là Tam Cổ Ấn, Tam Năng Sinh 
		Phật Mẫu Ấn tức là Phật Đỉnh Ấn biểu thị cho nghĩa của Phật Mẫu.Trong 
		đó:
		
		Hai Luân Địa ( 2 ngón út ) cài bên trong 
		biểu thị cho Thành Sở Tác Trí, làm nghiệp Đức bên trong là Phật 
		Đỉnh Ấn nên tác nghiệp chẳng lộ ra ngoài.
		
		Hai Luân Thủy ( 2 ngón vô danh) cài bên 
		trong biểu thị cho Diệu Quan Sát Trí là Đức Thuyết Pháp Đoạn Nghi 
		nên thường ở bên trong
		
		Hai Luân Hỏa ( 2 ngón giữa ) là Pháp Thể 
		của Pháp Nhĩ căn bản
		
		Hai Luân Phong ( 2 ngón trỏ ) là Giới Tuệ 
		của Tu Sinh Thủy Giác, thường hay khai mở nghĩa Tâm Bồ Đề của chúng sinh
		
		Hai Luân Không ( 2 ngón cái ) là nghĩa 
		Nhất Đức Thành Tựu của Pháp Giới Thể Tính Trí
		
		Kết Ấn này , tụng Chân Ngôn:
		
		NAMO  SAPTÀNÀMÏ  SAMYAKSAMÏBUDDHA  
		KOTÏINÀMÏ
		
		OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ SVÀHÀ
		
		Đệ Nhị Căn Bản Ấn: 
		Hai tay hướng ra ngoài cài chéo nhau, kèm 
		dựng 2 ngón trỏ, 2 ngón cái liền thành
		
		Ấn này thường dùng để Hộ Thân. Khi kết Ấn 
		Hộ Thân thì khởi Tâm Đại Bi duyên khắp 4 loài sinh trong 6 nẻo. Nguyện 
		cho tất cả Hữu Tình đều mặc áo giáp Kim Cương bền chắc trang nghiêm Đại 
		Thệ mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề.
		
		Kết Ấn này, tụng Chân Ngôn là:
		
		OMÏ _ KAMALE  VIMALE  CUNÕDHE _ SVÀHÀ
		
		Ý nghĩa của tay Ấn này là:
		
		6 ngón ( 2 ngón út, 2 ngón vô danh, 2 
		ngón giữa ) cùng cột buộc nhau biểu thị cho sự ràng buộc sinh tử trong 6 
		nẻo
		
		2 ngón trỏ chỉ cho Thể ngưng nghỉ của 
		Mệnh mà chúng sinh cột buộc trong Tả Đạo đã trở thành mệnh ngắn ngủi vô 
		thường. Do Phật Giới thuận Hữu Đạo nên Tuệ Mệnh thường trụ bất biến. Như 
		vậy 2 ngón trỏ hợp nhau biểu thị cho sự hòa dung của Phật Giới và Sinh 
		Giới khiến cho chúng sinh đoản mệnh được hòa hợp với Tuệ Mệnh thường trụ 
		của Phật Giới.
		
		2 ngón cái hợp dựng biểu thị cho sự Quy
		Pháp Giới Đại Không.
		
		Riêng Ấn này tập Giáp Trụ Ấn. Do Tôn này 
		là sở biến của Bắc Phương Hộ Bồ Tát , mặc giáp trụ Kim Cương bền chắc hộ 
		Phật, hộ mệnh cho chúng sinh. Bên trong tồi phá phiền não của nẻo ác, 
		bên ngoài giáng phục 3 chướng nạn của Ma. Duyên khắp 4 loài trong 6 nẻo 
		thành tựu diên mệnh cho Hữu Tình. Nếu cầu Diên Mệnh Tất Địa thời quán 
		nghĩa lý này.
		
		VI_Ý NGHĨA PHÁP VẼ TƯỢNG CHUẨN ĐỀ PHẬT 
		MẪU:
		
		Thất Câu Đê Phật Mẫu Sở Thuyết Chuẩn Đề 
		Đà La Ni Kinh ( Do Tam Tạng BẤT KHÔNG dịch ) có ghi:
		
		“ Tượng Chuẩn Đề Phật Mẫu với thân màu 
		trắng vàng, ngồi Kiết Già trên hoa sen, thân tỏa hào quang tròn có dính 
		hạt thóc nhẹ như áo của 10 Ba La Mật Bồ Tát, phía trên bên dưới đều tác 
		màu trắng. Lại góc áo khoác ngoài ( Thiên Y ) có quấn anh Lạc, đội Mão 
		Trời, cánh tay đều đeo vòng xuyến. Đàn Tuệ ( 2 bàn tay ) đều đeo vòng 
		báu. Mặt Tượng ấy có 3 mắt, 18 cánh tay.
		
		Hai tay bên trên tác tướng Thuyết Pháp
		
		Bên phải: Tay thứ hai tác Thí Vô Úy, tay 
		thứ ba cầm cây Kiếm, tay thứ tư cầm vòng hoa báu, lòng bàn tay thứ năm 
		cầm Cụ Duyên Quả, tay thứ sáu cầm cây Búa, tay thứ bảy cầm Móc Câu, tay 
		thứ tám cầm chày Kim Cương, tay thứ chín cầm Tràng Hạt.
		
		Bên trái: Tay thứ hai cầm cây Phướng báu 
		Như Ý, tay thứ ba cầm Hoa Sen hồng hé nở, tay thứ tư cầm Quân Trì, tay 
		thứ năm cầm Sợi Dây, tay thứ sáu cầm Bánh Xe, tay thứ bảy cầm Thương Khư 
		(‘Sanõkha_Vỏ ốc ) , tay thứ tám cầm Hiền Bình, tay thứ chín cầm rương 
		Kinh Bát Nhã.
		
		Bên dưới hoa sen vẽ ao nước. Trong ao có 
		Long Vương Nan Đà ( Nanda Nàga ràja ) , Long Vương Ổ Ba Nan Đà ( 
		Upananda Nàga ràja ) nâng tòa hoa sen.
		
		 Bên trái vẽ người Trì Minh , tay cầm lò 
		hương chiêm ngưỡng Thánh Giả. Chuẩn Đề Phật Mẫu thương xót người Trì 
		Minh, hướng mắt nhìn xuống.
		
		Bên trên vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên Tử, một vị 
		tên là Cụ Sách Đà Thiên Tử, tay cầm vòng hoa hướng xuống dưới, nương 
		theo trên hư không đến cúng dướng Thánh Giả”.
		
		Ý nghĩa của Tranh Tượng này là:
		
		_ Thân màu trắng vàng: Biểu thị 
		cho nghĩa Lý Trí chẳng hai, Định Tuệ một Thể hàm chứa Đức Năng Sinh của 
		chư Phật.
		
		_ Ngồi Kiết Già: Biểu thị cho tính 
		Nhất Như của sinh tử và Niết Bàn
		
		_ Hoa sen 
		: Biểu thị cho Tâm Đại Bi
		
		_ Thân tỏa hào quang: Biểu thị cho 
		Trí phá ám chướng của Tâm hư vọng.
		
		_ Phía trên bên dưới toàn là màu trắng: 
		Biểu thị cho sự hiển bày Pháp Đại Bi trắng tịnh để hóa độ chúng sinh
		
		_ Mọi thứ trang sức trên thân: 
		Biểu thị cho hiện tượng Bồ Tát đi vào dòng sinh tử dùng phiền não để 
		hiển thị Bồ Đề.
		
		_ Mặt có 3 mắt : Hiện Phật Nhãn, 
		Pháp Nhãn, Tuệ Nhãn biểu thị cho nghĩa Ba Đế chẳng dọc chẳng ngang, 
		nhất như bình đẳng.
		
		_ Thân có 18 tay:
		
		
		Hai tay thứ nhất 
		:  tác tướng thuyết Pháp biểu thị cho 
		sự hiển bày Phật Pháp hóa độ chúng sinh . Còn lại tám tay bên trái biểu 
		thị cho Mê Giới và tám tay bên phải biểu thị cho Phật Giới .
		
		
		Hai tay thứ hai 
		:  Tay trái cầm Phướng báu tượng trưng 
		cho Tâm Bồ Đề vốn có nơi mọi chúng sinh mà chẳng tự biết . Nay dùng tay 
		Thí Vô Úy bên phải gia trì khiến cho hiển đắc Tâm Bồ Đề đó .
		
		
		Hai tay thứ ba 
		:  Tay trái cầm hoa sen tượng trưng cho 
		Bản Thể vô cấu nhiễm vốn có của mọi chúng sinh, nhưng do dựa vào phiền 
		não ngăn trệ mà dư Tập khí chưa hết nên chẳng hiển lộ được vạn đức . Nay 
		dùng cây kiếm sắc bén bên phải tượng trưng cho Đẳng Giác của Phật giới, 
		một lần chuyển kiếm chém đứt dư Tập khí ấy khiến cho hoa sen thanh tịnh 
		nở bày những cánh hoa vạn đức vạn thiện .
		
		
		Hai tay thứ tư 
		:  Tay trái cầm bình Quân trì chứa nước 
		Táo quán      ( Nước rưới vảy  ) tượng trưng cho Trí Tuệ vốn có của 
		chúng sinh . Nhưng do không có Phước, không có trí như đất khô cằn chẳng 
		có nước thấm ướt nên mầm giống Bồ Đề chẳng thể sinh trưởng được, đây tức 
		là dựa vào phiền não mà chẳng thể phát sinh Trí Tuệ . Nay dùng tay phải 
		cầm Tràng hạt gia trì khiến cắt đứt 108 phiền não để cho hiển đắc được 
		nước Trí Tuệ của Như Lai rưới thấm ướt đất tâm khô cằn . Nước ấy là Đức 
		của Trí Thủy chứa trong bình Quân Trì vậy .
		
		
		Hai tay thứ năm 
		:  Tay trái cầm sợi dây tượng trưng cho 
		sự ràng buộc cột trói chúng sinh trong nhà sinh tử, sự ràng buộc này 
		thiên về Thức thứ tám (Alàya  vijnõàna). Tay phải cầm Cụ Duyên Quả ( 
		Bìja pùraka_ Tử Mãn Quả ) tượng trưng cho thức thứ tám là thức của tâm . 
		Nhiều hạt giống của Pháp ở ngoài Tâm được thu nạp vào mà chẳng bị hư 
		hoại hao tổn, lại tùy ý khiến sinh ra sự xoay chuyển làm cho Thức thứ 
		tám lưu chuyển, chứng đắc được cảnh giới Đại Viên . Khi ấy tất cả năm ấm 
		thuộc chủng tử  trong Thức thứ tám đều bị thiêu hủy hết nên A lại gia 
		hiển bày Tâm Tĩnh Bồ Đề vô cấu nhiễm giống như đẳng hư không . Như vậy, 
		dùng Cụ Duyên Quả gia trì chuyển Thức thành Trí thì dây nghiệp bị 
		thiêu cháy hết mà ngưng nghỉ sự luân chuyển của sinh tử bản hữu .
		
		
		Hai tay thứ sáu 
		:  tay trái cầm Bánh xe tượng trưng cho 
		sự luân chuyển trong ba cõi sáu đường của các chúng sinh . Tay phải cầm 
		cây búa là lợi khí  đập nát . Nay dùng búa lớn đập nát bánh xe luân 
		chuyển khiến nó trở thành Đức Luân Viên Cụ Túc của Như Lai .
		
		
		Hai tay thứ bảy 
		:  Tay trái cầm Thương Khư  ( ‘Sanõkha 
		) là vỏ ốc trong biển tượng trưng cho chúng sinh đang trầm luân trong 
		biển khổ sinh tử . Nay tay phải cầm Đại Bi Câu ( Móc câu Đại Bi 
		)  tiếp dẫn khiến cho đến được bờ bên kia là Niết Bàn an lạc .
		
		
		Hai tay thứ tám 
		:  tay trái cầm Hiền Bình tượng trưng 
		cho sự hòa hợp của Sắc ( Rùpa ) Tâm ( Citta )  là nẻo sinh tử, nước 
		trong bình tượng trưng cho sự nắm giữ tội của ba nghiệp mà lưu chuyển 
		không cùng . Nay tay phải dùng Bạt Chiết La Tam Cổ Xử ( Chày Tam Cổ 
		Kim Cương ) phá nát ba nghiệp ấy mà chặn đứng dòng sinh tử .
		
		
		             Hai tay thứ chín 
		
		:  Tay trái cầm Bát Nhã Phạm Khiếp  là Trí Thức sở nạp trong Tâm, do 
		chẳng tự biết nên phải bị trầm luân trong biển khổ . Nay tay phải dùng 
		Bảo Man ( Vòng hoa báu ) gia trì khiến khai phát Bản Trí ấy . Bảo 
		Man là Tâm Tính Nghiêm vậy 
		
		
		Do các nghĩa này mà Chuẩn Đề ( Cunõdhe ) còn được dịch ý là MINH hoặc 
		Diệu Giác . Đây là thành quả của Tuệ Ba La Mật và là điều 
		kiện căn bản để phát sinh Chư Phật vậy .
		
		_ Trong ao nước có 2 vị Long Vương Nan 
		Đà, Ô Ba Nan Đà cùng nâng đỡ tòa sen: 
		Tòa sen tượng trưng cho núi Tu Di ( 
		Sumeru ) 2 anh em Long Vương Nanda và Upananda là 2 Long Vương quấn 
		quanh chân núi ấy.
		
		Khi Đức Thích Ca đản sinh thời Long Vương 
		dùng nước nóng tắm gội nên 2 vị Rồng này biểu thị cho Đẳng Giác Vị hay 
		Vô Cấu Vị . Dùng nước Vô Cấu tắm gội khiến thành Diệu Giác, mãn Quả Diệu 
		Giác này thì Thích Ca và Chuẩn Đề đồng Thể. Sau khi mãn Quả dùng Đẳng 
		Giác Vô Cấu nên hai vị Rồng làm Tòa biểu thị cho nghĩa này.
		
		Hai vị Rồng nâng đỡ cọng sen:  
		Bồ Tát Đạo theo thứ tự tu hành  Địa Ba La Mật từ Địa thứ nhất  cho đến 
		Địa thứ mười một. Nên biết Địa sau dùng Địa trước làm thềm bậc nên nói
		Như Lai dùng Thân Bồ Tát làm Tòa Sư Tử. Nay 2 rồng nâng đỡ cọng 
		sen được biểu thị cho nghĩa này
		
		Hoa sen sinh từ nước: 
		Nước biểu thị cho nước Định ( Định Thủy ) mang ý  nghĩa Dưỡng Nuôi 
		Thủ Hộ . Do đó hoa sen sinh từ nước được hiểu là Dùng nước Định 
		nuôi dưỡng tự tính thanh tịnh bất nhị .
		
		_Bên trên vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên: 
		Chúng Tĩnh Cư  gồm có 5 vị Thiên Tử 
		là: Tự Tại Thiên Tử, Phổ Hoa Thiên Tử, Quang Man Thiên Tử, Ý Sinh Thiên 
		Tử, Danh Xưng Viễn Văn Thiên Tử. Các vị Thiên này đều biểu thị cho nghĩa
		Trong Sạch ( ‘Suddha ) đều là Pháp căn bản để sinh ra Thánh Giả. 
		Nay đề cử 2 vị Thiên này đều là Thánh Giả thân cận Đức Phật, lắng nghe 
		nói Pháp để hóa độ phương khác. Vì Chuẩn Đề Phật Mẫu hay vào Nhân Đạo 
		nói Pháp lợi sinh, xoay chuyển Pháp Luân tồi phá tội ác của chúng sinh. 
		Nên trong tranh tượng vẽ 2 vị Thiên này.
		
		               _ Bên trái vẽ người Trì 
		Minh , tay cầm lò hương chiêm ngưỡng Thánh Giả. Chuẩn Đề Phật Mẫu thương 
		xót người Trì Minh, hướng mắt nhìn xuống:
		
		               Người Trì Minh cầm lò 
		hương chiêm ngưỡng Thánh Giả: Biểu thị cho sự đem nhiệt tâm chân thành 
		quán sát rõ ràng Pháp Yếu của Bản Tôn  nhằm chuyên chú thực hành
		
		               Chuẩn Đề Phật Mẫu thương 
		xót người Trì Minh , hướng mắt nhìn xuống: 
		Biểu thị cho lực gia trì của Bản Tôn luôn 
		luôn hiện hữu. Nếu Hành Giả biết cách thọ nhận sẽ thành tựu Tất Địa mong 
		cầu.
		
		Ngoài ra trong Kinh còn ghi rằng bên dưới 
		trang tượng nên viết Bài Kệ Pháp Thân Duyên Khởi  nhằm giúp cho 
		Hành Nhân chuyên chú quán niệm sẽ mau chóng thực chứng được Pháp Duyên 
		Khởi mà chứng Đạo Bồ Đề.
		
		Pháp Thân Duyên Khởi Kệ 
		là:
		
		“ Chư Pháp tùng Duyên Khởi
		
		Như Lai thuyết thị Nhân
		
		Bỉ Pháp Nhân Duyên tận
		
		Thị Đại Sa Môn thuyết”
		
		Dịch là:
		
		“ Các Pháp theo Duyên khởi
		
		Như Lai nói là Nhân
		
		Pháp ấy Nhân Duyên hết
		
		Là Đại Sa Môn nói”
		
		Các Bậc Đạo Sư Tây Tạng thì thay bài Kệ 
		trên bằng Thần Chú Duyên Khởi là:
		
		OMÏ_YE  DHARMA  HETU  PRABHÀVA  HETUN 
		
		
		          TESÏÀMÏ  TATHÀGATO  HYA  
		VADATA  
		
		          TESÏÀMÏ  CHAYO  NIRODHA.
		
		          EVAMÏ  VÀDI  MAHÀ  ‘SRAMANÏAHÏ  
		YE _ SVÀHÀ
		
		
		                                                         Mùa Xuân năm 
		Giáp Thân ( 2004 )
		
		
		                                                 HUYỀN THANH (Nguyễn Vũ 
		Tài) kính ghi
		
		
 
		Mật Tạng Bộ 3_ No.1075 ( Tr.173_ Tr.178 )
		
		 
		
		PHẬT THUYẾT THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ 
		ĐẠI MINH ĐÀ LA NI KINH
		
		 
		
		Hán dịch : Đời Đường_ Thiên Trúc Tam Tạng 
		KIM CƯƠNG TRÍ 
		
		Việt dịch : HUYỀN THANH
		
		 
		
		Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già 
		Phạm ( Bhagavan_Thế Tôn ) ngự tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc trong đại thành 
		Danh Xưng.Bấy giờ Đức Thế Tôn suy tư quán sát thương lo cho các chúng 
		sinh đời vị lai nên nói Quá Khứ Thất Câu Đê Chuẩn Đề Như Lai Đẳng 
		Phật Mẫu Chuẩn Đề Đà La Ni cho đến nay Ta cũng nói. Liền nói Đại 
		Minh là:
		
		“ Ná ma táp đa nam, tam miệu tam bột đà, 
		câu đê nam. Đát điệt tha: Aùn_ Chiết lệ chủ lệ chuẩn đề, sa phộc ha”
		
		NAMO  SAPTANÀMÏ  SAMYAKSÏAMÏBUDDHA  
		KOTÏINÀMÏ.
		
		TADYATHÀ : OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ 
		SVÀHÀ
		
		Nếu có Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Sách Ca, Ô 
		Ba Tư Ca thọ trì đọc tụng Đà La Ni này mãn 90 vạn biến thì 5 tội Vô Gián 
		với tất cả tội nặng trong vô lượng kiếp sau đều diệt hết không sót. Ở 
		nơi sinh ra đều gặp thẳng chư Phật, Bồ Tát, hết thảy tư cụ tùy ý sung 
		túc, vô lượng trăm ngàn đời thường được xuất gia, thường là nơi chư 
		Thiên yêu kính cũng thường thủ hộ. Nếu sinh vào chốn nhân gian sẽ làm 
		con của nhà Đế Vương, hoặc sinh vào nhà quý tộc. Nhà đó không có tai 
		hoạnh, bệnh khổ gây não hại, chẳng bị đọa vào 3 nẻo ác, mọi việc tạo tác 
		trong chư Hữu (các cõi ) không có gì không có đồng bạn, nói ra lời dạy 
		thì người đều tin nhận.
		
		Tụng Đà La Ni này 10 vạn biến thì được 
		thấy Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật, nếu có tội nặng chẳng được 
		nhìn thấy. Liền tụng đủ 10 vạn biến tức trong Cảnh Giới nôn mửa cơm màu 
		đen. Hoặc thấy lên cung điện. Hoặc lên núi cao với trên cây. Hoặc thấy 
		biển lớn xoáy nước. Hoặc bay trên hư không tự tại. Hoặc thấy Thiên Nữ 
		ban cho Diệu Ngôn Biện. Hoặc thấy ở trong Đại Tập Hội nghe nói Diệu 
		Pháp. Hoặc thấy nhổ tóc, tự mình cạo đầu. Hoặc ăn Lạc Phạn ( Cơm có trộn 
		lạc ), uống Cam Lộ màu trắng. Hoặc vượt qua biển lớn. Hoặc nổi trên sông 
		nhỏ sông lớn.Hoặc lên Tòa Sư Tử. Hoặc thấy cây Bồ Đề. Hoặc ngồi trên 
		thuyền. Hoặc thấy Sa Môn. Hoặc mặc áo trắng, áo vàng dùng áo che phủ 
		đầu. Hoặc thấy mặt trời, mặt trăng. Hoặc thấy đồng nam, đồng nữ. Hoặc 
		thấy trên thân của mình có cây sữa. Hoặc lên cây có hoa quả. Hoặc thấy 
		trong miệng của Hắc Trượng Phu phun ra lửa mạnh, sợ hãi chạy đi. Hoặc 
		thấy ngựa, trâu ác có dạng tựa như đánh nhau. Hoặc thấy tự ăn cháo sữa. 
		Hoặc thấy hoa trắng có mùi thơm. Nếu thấy tướng như trên liến biết 
		Diệt tội sinh phước.
		
		Nếu bị 5 tôi nghịch , nghiệp cực nặng 
		chẳng được thấy tướng trên. Cần phải tụng đủ 70 vạn biến ắt được thấy 
		tướng mạo như trước.
		
		Lại nữa, nay Ta nói công năng, việc tạo 
		tác của Đà La Ni này.Nếu ở trước tượng Phật hoặc ở trước tháp xá Lợi hay 
		nơi thanh tĩnh, dùng Cù Ma Di xoa tô đất rồi làm Man Trà La ( Manïdïala 
		_ Đàn ) hình vuông rộng 4 khuỷu tay. Lại đem hương , hoa, phướng, lọng, 
		thức ăn uống, đèn sáng, đuốc lửa tùy theo sức bày biện y theo Pháp cúng 
		dường.
		
		Nếu muốn cầu nguyện. Trước tiên 
		nên niệm tụng, gia trì vào nước thơm rải 8 phương, trên, dưới để Kết 
		Giới. Kết Giới xong, ở 4 góc và chính giữa Man Trà La đều để một cái 
		bình nước thơm. Hành Giả ở mặt Tây hướng về phương Đông, quỳ dài niệm 
		tụng 1080 biến. Bình nước thơm ấy liền tự chuyển động, tùy ý Đông Tây 
		nhận dùng cao thấp.
		
		Hoặc dùng cái bát sành sứ sạch, đốt hương 
		xông ướp, trong ngoài bôi xoa hương thơm, chứa đầy nước thơm và hương 
		hoa tốt rồi đặt ở trong Mạn Trà La. Y theo Pháp cái bình lúc trước mà 
		tác niệm tụng thì cái bát ấy liền chuyển động cùng với cái bình không 
		khác.
		
		Nếu muốn biết tất cả việc : Thành Tựu, 
		Chẳng Thành Tựu. Liền đốt hương, phát nguyện, khải bạch Thánh Giả, 
		Nguyện Tâm quyết nghi. Nếu chuyển bên phải thì biết thành tựu, chuyển 
		bên trái tức chẳng thành tựu
		
		Lại lấy hoa tốt, niệm tụng 108 biến. 
		Khiến một Đồng Tử tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch. Dùng bột hương xoa 
		tay, nâng hoa án khôn mặt. Lại đưa tay của mình liền lấy hoa riêng niệm 
		tụng. Cứ một biến thì một lần ném lên thân Đồng Tử, đồng tử liền nghe 
		việc thiện ác và nói lại. Tùy ý múa cười, đứng ngồi, đi lại.
		
		Hoặc ở mặt gương sáng sạch, dùng hoa tốt 
		niệm tụng 108 biến rồi rải lên trên gương thì Sứ Giả liền hiện trong 
		gương.
		
		Lại dùng Pháp trước, liền lấy hoa tốt rải 
		trên mặt gương liền có tướng thiện ác hiện trong gương. Hoặc dùng Chu Sa 
		, hoặc dùng dầu thơm bôi móng ngón tay cái ( Dầu thơm dùng hoa Tô Ma Na 
		xâm trong dầu Hồ Ma ) niệm tụng 108 biến liền hiện Thiên Thần với hình 
		tượng chư Tăng, Bồ Tát,Phật. Nếu Tâm có sự nghi ngờ việc trong ba cõi, 
		mỗi mỗi thỉnh hỏi đều biết thiện, chẳng thiện tức đều tự hiện trên ngón 
		tay cái.
		
		Nếu người bị bệnh ác. Dùng cành Thạch 
		Lựu, mầm non màu trắng, cỏ thơm… niệm tụng, dùng roi phất phẩy liền 
		khỏi.
		
		Hoặc dùng cỏ mầm để trong bơ, niệm tụng 7 
		biến ném vào trong lửa thiêu đốt rồi xông khói vào người bệnh, liền trừ 
		khỏi.
		
		Hoặc nhờ Đồng Nữ xe sợi thành dây chỉ, 
		niệm tụng một biến thì kết một gút. Như vậy đủ 21 gút đem cho người 
		bệnh, trẻ con nam nữ cột buộc trên đỉnh đầu thì bệnh do hàng Ma. Quỷ, Mỵ 
		ác gây ra đều được trừ khỏi.
		
		Hoặc dùng hạt cải trắng để trong bơ. Lấy 
		chút ít hạt cải, niệm tụng một biến thì một lần ném trong lửa, 21 lần 
		như vậy thì bệnh liền khỏi.
		
		Lại dùng Cù Ma Di xoa tô đất làm Mạn Trà 
		La. Dùng tro vẽ đất làm hình ấy, dùng roi gậy bằng cành Thạch Lựu đánh 
		thì Quỷ đó kêu khóc cầu xin, tự bỏ chạy chẳng dám đến. Hoặc dùng Đồng, 
		Thiếc, Gỗ làm chày Kim Cương để bên cạnh người bệnh, niệm tụng dùng gậy 
		đánh thì Quỷ cũng liền bỏ chạy.
		
		Lại có Pháp. Nếu có người bị Quỷ ám thân, 
		lại ở nơi xa không thể tự đến, hoặc Hành Giả chẳng thể tự đi. Nên lấy 
		cành Dương Liễu, niệm tụng 108 biến rồi sai người mang đến chỗ ấy, nói 
		rằng:” Ngươi ở hay ngươi đi. Ta tên (….. ) sai mang gậy roi này cho 
		ngươi. Nếu ngươi chẳng đi sẽ tổn hại cho ngươi”. Nếu chẳng đi , dùng 
		roi đánh thì Quỷ liền bỏ đi.
		
		Lại có Pháp. Nếu đi đêm trên đường, niệm 
		tụng không thiếu sẽ không bị vướng nạn sợ hãi về giặc cướp, trộm cắp, 
		cọp, sói, Quỷ, Mỵ ác. Giữ Tâm niệm tụng và tác Hộ Thân thì các nạn thuộc 
		nhóm ấy đều tự tiêu diệt, hoặc phát Tâm Bồ Đề hoặc sinh sợ hãi, hoặc có 
		lời nói Tâm cầu miễn nạn, nếu bị cột trói liền tự giải thoát.
		
		Nếu muốn vượt qua sông hồ, biển lớn mà 
		trong nước có hàng Rồng, Cù đáng sợ. Niệm tụng như Pháp trước liền được 
		chẳng sợ.
		
		Hoặc bị rắn cắn, liền khiến người ấy 
		nhiễu vòng quanh người Niệm Tụng một số vòng, liền khỏi.
		
		Hoặc bị Đinh Sang, ung thư, ghẻ nhọt, 
		bệnh lác, bệnh lậu. Lấy Huân Lục Hương, đất sạch cùng hòa với nước, niệm 
		tụng 21 biến rồi xoa bôi lên trên, liền khỏi.
		
		Hoặc quốc thổ bị khô hạn, nguồn nước 
		chẳng đều. Nhóm trâu, ngựa, súc vật vướng dịch độc lưu hành. Nên dùng Du 
		Ma, Đại Mạch, gạo tẻ, hạt dẻ, đậu, bơ, mật, sữa, lạc, cây có nhựa trắng, 
		các loại hương tạp… đều để một bên, đốt hương phát nguyện:” Vì tất cả 
		chúng sinh trừ khử tai nạn” . Liền tác Thủ Khế ( Tay Ấn ) Hộ Thân, 
		tưởng niệm. Lấy các vật lúc trước niệm tụng gia trì rồi ném vào trong 
		lửa thiêu đốt. Như vậy 7 ngày, mỗi ngày 3 thời tác Pháp, mỗi thời 1080 
		biến liền được mãn nguyện, tất cả an vui, tất cả Tam Bảo thảy đều hộ trợ 
		cũng hay thành tựu tất cả Đại Nguyện.
		
		Nếu muốn giáng phục các Đại Quỷ Thần, 
		nhìn thấy liền tâm phục. Lấy 7 hạt xương Xá Lợi để trong cái bát Lưu Ly 
		trắng. Lấy nửa thăng Đề Hồ đổ đầy cái bát. Vào đêm thuộc ngày 15 của kỳ 
		Bạch Nguyệt, trước Đài Hương với trước tháp Suất Đổ Ba, dùng bùn xoa tô 
		Mạn Trà La hình vuông rộng một, hai khuỷu tay. Đặt cái bát ở trong, lấy 
		hoa tốt cúng dường, mặt Tây để một lò hương, thiêu đốt An Tất Hương, gấp 
		rút niệm tụng thì Xá Lợi trong cái bát ấy sẽ tỏa ánh sáng, hoặc sinh ra 
		Xá Lợi thời Hành Giả cầm lò hương phát nguyện lễ bái. Liền lấy Xá Lợi 
		ra, uống hết Đề Hồ. Lấy cái bình Lưu Ly chứa Xá Lợi ấy, dùng lụa ngũ sắc 
		phủ đầy rồi đội trên đầu, tức vô lượng câu đê Phật thường toại hạnh, các 
		hàng Quỷ Thần tự nhiên giáng phục. Lúc tác Pháp thời một ngày một đêm 
		chẳng ăn.
		
		Nếu cầu giàu có. Dùng gạo tẻ, Du Ma để 
		trong bơ, lạc. Tay nhúm chút ít, phát nguyện niệm tụng 7 biến rồi ném 
		vào trong lửa thiêu đốt. Tùy sức từ 7 ngày đến 49 ngày , liền như nguyện 
		ấy.
		
		Nếu cầu con. Ở trên lá, vỏ cây hoa viết 
		Đà La Ni này và vẽ Đồng Tử. Dùng áo lót màu tím, niệm tụng 1080 biến rồi 
		để trong búi tóc, liền mang thai.
		
		Nếu muốn kẻ khác kính nhớ thì xưng tên 
		gọi của người ấy, niệm tụng Bản Bộ 1080 biến liền được kính nhớ.
		
		Nếu chồng chẳng thích vợ. Lấy cái bình 
		sạch chứa đầy nước thơm, đặt riêng ở Tĩnh Xứ. Dùng Cù Ma Di xoa làm Mạn 
		Trà La, niệm tụng 108 biến. Như vậy 7 cái bình đều tác Pháp này. Ở Tĩnh 
		Xứ dùng hương hoa làm Đạo Trường, lấy nước thơm bên trong bình tắm gội 
		thì người chồng liền yêu thích, cũng được mang thai. Vợ chẳng thích 
		chồng cũng như Pháp lúc trước.
		
		Nếu muốn giáng phục Xả Đổ Lô ( ‘Satrù: 
		Oan Gia ) Lấy một Kiếp Ba La, nước nóng thơm tắm gội sạch sẽ. Lấy Hoàng 
		Đan hòa với bơ xoa bôi trên Kiếp Ba La liền xoa tô khắp rồi đặt trong 
		một Mạn Trà La nhỏ. Xong lấy 5 chén đèn bơ đặt ở 4 góc và chính giữa, 
		xưng Na Ma (Nàma: Tên gọi ) trước tiên, niệm tụng , một lần xưng một lần 
		tụng, gia trì vào hạt cải trắng. Để một chén sữa trên Mạn Trà La cúng 
		dường Kiếp Ba La này, một đêm đổi một lần, nói rằng:” Vì Con lấy Chất 
		Đa (Citta: Tâm ) ấy đến “. Cái đó tức Chất Đa Nậu Khư ( Citta 
		duhïkha : Sự khổ não bất toàn của tâm ) Muốn Mẫu Đà ( Buddha: Giác Tuệ ) 
		thì Xả Đổ Lô ( ‘Satrù : Oan gia) ấy liền phục thật. Chớ khiến hết, vì 
		hết tức nhiều kiếp chất chồng sẽ trừ bỏ Đạo.
		
		Nếu muốn cầu thông minh. Lấy Thạch Xương 
		Bồ, Ngưu Hoàng, mỗi thứ nửa lạng, giã thành bụi, dùng bơ hòa. Ở trước 
		Phật làm Mạn Trà La, niệm tụng 5000 biến rồi uống vào, liền được thông 
		minh.
		
		Muốn được thấy tất cả Quỷ Thần. Lấy Ngưu 
		Hoàng niệm tụng khiến cho khói, lửa hiện ra. Liền bôi con mắt và uống 
		vào, liền nhìn thấy.
		
		Lại có Pháp. Ở bên cạnh biển lớn hoặc 
		trên bãi cát bên sông, sông dùng ấn hình tượng cái Tháp. Ấn cát trên đầm 
		làm hình tượng Tháp, niệm tụng một biến thì ấn thành hình cái Tháp, như 
		vậy đủ số 60 vạn biến liền được nhìn thấy Tượng của Thánh Giả Quán Tự 
		Tại, hoặc thấy Đa La Bồ Tát, Kim Cương Tạng Bồ Tát, tùy theo tâm nguyện 
		ấy đều được mãn túc. Hoặc thấy trao cho Thuốc màu nhiệm của Tiên Thần, 
		hoặc thấy trao cho Bồ Đề thọ ký, hoặc hiện trước mặt đến hỏi thì tùy 
		theo điều cầu nguyện đều được địa vị của hàng Bồ Tát.
		
		Lại có Pháp. Nếu nhiễu quanh Tượng của 
		cây Bồ Đề, hành Đạo niệm tụng mãn 100 vạn biến liền thấy Phật, Bồ Tát, 
		La Hán vì mình nói Pháp. Ý muốn tùy Bồ Tát liền được làm tùy tòng, sự 
		mong cầu như nguyện cho đến thân đời này thành Đại Chú Tiên, liền được 
		đi đến Tĩnh Thổ ở 10 phương phụng sự chư Phật, được nghe Diệu Pháp.
		
		Lại có Pháp. Nếu lúc khất thực thời 
		thường trì Đà La Ni này thì chẳng bị người ác, chó ác… xâm hại, khất 
		thực dễ được.
		
		Lại có Pháp. Nếu ở trước Tháp hoặc trước 
		tượng Phật hoặc trước Tháp Xá Lợi tụng trì Đà La Ni này 30 vạn biến. Lại 
		vào ngày mồng một cho đến ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, bày cúng dường 
		lớn, một nhày một đêm chẳng ăn, chính niệm tụng thời được thấy Kim Cương 
		Tạng Bồ Tát liền đưa người ấy đến trong cung của mình.
		
		Lại có Pháp. Nếu vướng Vương Nạn ( Nạn 
		vua chúa ) bị cột trói, nhốt cùm, xiềng xích, cấm đoán thân ấy. Tụng Đà 
		La Ni này liền được giải thoát.
		
		Lại có Pháp. Nếu ở trước Tháp Chuyển Pháp 
		Luân , hoặc trước Tháp nơi Phật sinh ra, hoặc trước Tháp ở thềm báu mà 
		Đức Phật từ Trời Đao Lợi đi xuống, hoặc trước Tháp Xá Lợi . Ở trước các 
		Tháp của nhóm như vậy niệm tụng nhiễu theo bên phải 49 ngày liền thấy A 
		Bát La Thị Đa Bồ Tát ( Aparajita Bodhisatva: Vô Năng Thắng Bồ Tát ) và A 
		Lợi Đề Bồ Tát ( Hrïtye Bodhisatva_ Quỷ Tử Mẫu Bồ Tát ) , tùy theo sự cầu 
		nguyện đều được mãn túc. Nếu cầu Thuốc Tiên tức liền trao cho, lại vì 
		người ấy nói Pháp để hiển bày Đạo Bồ Đề.
		
		Nếu có người tụng Đà La Ni này cho đến 
		chưa ngồi Đạo Trường thì tất cả Bồ Tát sẽ làm bạn tốt của người ấy.
		
		Lại Chuẩn Đề Đại Minh Đà La Ni này được 
		chư Phật nói vì lợi ích cho tất cả chúng sinh về Đạo Trường Bồ Đề vô 
		biên.
		
		Nếu có chúng sinh bạc phước không có chút 
		căn lành, không có căn khí, không có Bồ Đề Phần. Nếu người đó được nghe 
		Chuẩn Đề Đà La Ni này hoặc đọc một biến liền được sinh mầm giống căn khí 
		của Bồ Đề Phần, huống chi tụng trì thường xuyên mà chẳng giải được sự vô 
		dụng ư ? !... Do căn lành này mau thành hạt giống Phật, đều được thành 
		tựu vô lượng công đức, vô lượng chúng sinh mau lìa trần cấu quyết định 
		thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ( Vô Thượng Chính Đẳng Chính 
		Giác ).
		
		 
		
		PHẬT THUYẾT THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU CHUẨN 
		ĐỀ ĐÀ LA NI NIỆM TỤNG PHÁP
		
		 
		
		Y theo bản Kinh Phạn có 10 vạn Kệ Tụng. 
		Nay Ta lược nói niệm tụng, Quán Hạnh, thứ tự cúng dường
		
		Nếu có Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Sách Ca, Ô 
		Ba Tư Ca phát Tâm Bồ Đề , hành Hạnh Bồ Tát , cầu mau ra khỏi sinh tử. 
		Trước tiên nên vào Tam Muội Gia Quán Đỉnh Đạo Trường, thọ trì Cấm Giới 
		bền chắc chẳng lui, yêu thích Giới Hạnh Bồ Tát Đại Thừa, nơi 4 Uy Nghi 
		tu 4 Vô Lượng, phát 4 Hoằng Nguyện, cầu mau lìa Tam Đồ ( 3 nẻo Địa Ngục, 
		Ngạ Quỷ, Súc Sinh ) . Đối nới tất cả sự nghiệp, tâm chẳng tán loạn thì 
		mới có thẩ vào Pháp Môn Bí Mật này
		
		Phàm Pháp Niệm Tụng Cúng Dường. Ở 
		nơi cư trú đều nên tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch, tùy sức bày biện 
		nghiêm sức Đạo Trường
		
		Pháp Đạo Trường ấy. Nên lựa chọn 
		Thắng Địa, Đông Tây Nam Bắc đều rộng 4 khuỷu tay làm Mạn Trà La hình 
		vuông, đào sâu xuống dưới một khuỷu tay trừ bỏ các loại: Xương, đá, 
		gạch, ngói, đất ác, tóc, lông, tro, than, trấu, cây nhiều gai, trùng, 
		kiến… Dùng đất sạch tốt lấp đầy và nện chặt cho bằng phẳng. Lấy Cù Ma Di 
		( Phân trâu trắng ở núi Tuyết ) và đất tốt hòa chung với nước thơm xoa 
		tô đất.
		
		Nếu ở lầu gác , hoặc ở trên Điện thì y 
		theo Pháp Nê Đồ ( dùng bùn xoa tô) Nếu ở trong núi với nhà sạch tốt thì 
		chẳng nên đào đất mà y theo trước xoa tô nghiêm sức. Liền giương Thiên 
		Cái ( Lọng Trời ) , 4 mặt treo phướng. Nếu có Tượng Bản Tôn Thất Câu Đê 
		Phật Mẫu thì đặt yên trong Mạn Trà La hướng mặt về phương Tây. Nếu không 
		có Bản Tôn mà có các Tượng Phật, Xá Lợi với Kinh Điển Đại Thừa thì cúng 
		dường cũng được. Mài Bạch Đàn Hương xoa tô làm Mạn Trà La có 8 góc ( Bát 
		Giác Mạn Trà La ) giống như trăng đầy hoặc tựa như hoa sen 8 cánh. Liền 
		đem vật cúng mới sạch là vật khí bằng vàng, bạc, đồng đã tôi luyện (Thục 
		Đồng)  Thương Khư ( ‘Sanõkha: Vỏ ốc ) , Bối ( vỏ sò ), Ngọc, đá, đồ sứ, 
		gỗ…chứa đầy các thức ăn uống với hương hoa tốt, đèn sáng, nước thơm Ứ 
		Già tùy theo sức mà đặt bày cúng dường.
		
		Nếu là Bật Sô, Bật Sô Ni . Trước tiên giữ 
		Giới Hạnh rồi mới vào Đạo Trường, lại nên Sám Hối liền tự thề phát 
		nguyện Thọ Giới.
		
		Nếu là Bồ Tát tại gia , mới đầu vào cũng 
		nên tự thề phát nghuyện tùy theo sức, thọ Tam Quy Ngũ Giới hoặc thường 
		giữ 8 Giới.
		
		Nếu thường 3 thời niệm tụng. Liền ở Tây 
		Nam của Đạo Trường hướng về phương Đông, chí Tâm chắp tay cúi 5 vóc sát 
		đất kính lễ chư Phật Bồ Tát ở 10 phương, Chân thành vận tưởng tràn khắp 
		Hư Không Giới. Liền quỳ gối phải sát đất, chắp tay, chí Tâm Sám Hối :
		
		” Từ Vô Thủy trở đi có bao nhiệu tội của 
		Thân Khẩu Ý. Nay đối trước chư Phật Bồ Tát, Đệ Tử ( họ tên… ) xin phát 
		lộ sám hối cho đến mọi loại Công Đức do viên mãn Phước Trí của chư Phật 
		Bồ Tát 3 đời quá khứ, hiện tại, vị lai . Nay con xin tùy hỷ”
		
		Liền an Tâm quyết định ngồi theo thế Kiết 
		Già hoặc Bán Già, trừ tất cả vọng tưởng, quán chúng sinh trong 6 nẻo 
		từ vô thủy đến nay ở trong biển sinh tử bị luân hồi 6 nẻo. Nguyện đều 
		phát Tâm Bồ Đề, hành Hạnh Bồ Tát, mau được ra khỏi.
		
		Liền dùng dầu thơm xoa tay rồi kết Thủ 
		Khế ( Tay Ấn ) . Lúc kết Khế thời dùng áo che tay đừng để người khác 
		nhìn thấy.Trước tiên kết 3 Bộ Tam Ma Gia Khế rồi kết các Khế.
		
		Khế thứ nhất 
		:” Phật Bộ Tam Ma Gia Khế”. Tướng 
		của Khế đó là: Đều ngửa tay Phước Trí ( 2 bàn tay ) hơi co Đàn ( ngón út 
		phải ) Giới ( Ngón vô danh phải ) Nhẫn Nhục ( ngón giữa phải ) Bát Nhã ( 
		ngón út trái ) Phương Tiện ( ngón vô danh trái ) Nguyện ( ngón giữa trái 
		) cùng trụ nhau. Tiến Lực ( 2 ngón trỏ ) đè lóng trên Nhẫn Nguyện ( 2 
		ngón giữa ) , Thiền Trí ( 2 ngón cái ) phụ bên cạnh Tiến Lực ( 2 ngón 
		trỏ ) liền thành. Tụng Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Đát tha nghiệt đổ phộc bá gia, 
		sa-phộc ha”
		
		OMÏ_ TATHÀGATA  UDBHÀVAYA _ SVÀHÀ
		
		(Tụng 3 biến, đem Khế bung trên đỉnh đầu. 
		Liên Hoa Bộ, Kim Cương Bộ đều dựa theo đây )
		
		Khế thứ hai 
		:” Liên Hoa Bộ Tam Ma Gia Khế”. 
		Hai Phước Trí (2bàn tay) cùng hợp nhau. Giới ( Ngón vô danh phải ) Nhẫn 
		( ngón giữa phải ) Tiến ( ngón trỏ phải ) Phương Tiện ( ngón vô danh 
		trái) Nguyện ( ngón giữa trái ) Lực ( ngón trỏ trái ) mỗi mỗi bung tán 
		rồi hơi co lại. Sáu Ba La Mật ( 6 ngón tay ) mở như hoa sen. Đàn ( ngón 
		út phải ) Tuệ ( ngón út trái ) Thiền ( ngón cái phải ) Trí ( ngón cái 
		trái ) cùng dính nhau, cũng hơi co lại liền thành. Tụng Diệu Ngôn là :
		
		“ Aùn _ Bát đầu mâu phộc bá gia, sa-phộc 
		ha” ( Tụng 3 biến )
		
		OMÏ_ PADMA  UDBHÀVAYA _ SVÀHÀ
		
		Khế thứ ba 
		: “ Kim Cương Bộ Tam Ma Gia Khế” 
		Úp Phước ( Bàn tay trái) ngửa Trí ( bàn tay phải ) Thiền ( ngón cái phải 
		) Bát Nhã ( ngón út trái ) Đàn (ngón út phải ) Trí ( ngón cái trái )cùng 
		cài nhau, liền thành. Tụng Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Phộc chiết lỗ bà bá gia, sa-phộc 
		ha” ( Tụng 3 biến )
		
		OMÏ_ VAJRA  UDBHÀVAYA _ SVÀHÀ 
		
		Khế thứ tư 
		:” Chuẩn Đề Phật Mẫu Căn Bản Thân Khế
		“. Tướng của Khế đó là: Trước tiên đem 2 ngón út , 2 ngón vô danh 
		cùng cài chéo nhau trong lòng bàn tay. Dựng thẳng 2 ngón giữa cùng dính 
		đầu ngón, 2 ngón trỏ phụ bên cạnh lóng trên của 2 ngón giữa, 2 ngón cái 
		đều phụ bên cạnh 2 ngón trỏ liền thành. Diệu Ngôn, tụng Căn Bản Đà La Ni 
		( Tụng 7 biến, đưa Khế  bung tán trên đỉnh đầu. Dùng các Khế bên dưới 
		kết thành, đè chạm Ấn xong cũng đều nên bung trên đỉnh đầu )
		
		Khế thứ năm 
		: “ Tịch Trừ Nhất Thiết Thiên Ma Aùc 
		Quỷ Thần Đẳng Khế”. Khế ấy: Trước tiên đem ngón giữa, ngón vô danh, 
		ngón út và ngón cái của tay phải nắm ngón giữa, ngón vô danh, ngón út 
		của tay trái. Tiếp đem ngón cái trái nắm trên móng của 3 ngón giữa, vô 
		danh, út của tay trái rồi hợp thành quyền, đem 2 ngón trỏ cùng dính đầu 
		ngón , liền thành. Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Câu lỗ đa na, hồng, nhạ”
		
		OMÏ _ KRODHANA   HÙMÏ   JAHÏ
		
		( Tụng một biến, đem Khế chuyển quanh 
		thân theo bên phải. Làm như thế 3 lần )
		
		Khế thứ sáu: 
		“ Kết Địa Giới Quyết Khế”. Tướng của Khế đó là: Đem 2 ngón giữa, 
		2 ngón vô danh cùng cài chéo nhau trong lòng bàn tay, bên phải đè bên 
		trái, co ngón trỏ trái như móc câu, dựng thẳng ngón trỏ phải. Khiến 2 
		ngón cái, 2 ngón út cùng dính mặt ngón, liền thành. Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Chuẩn nễ, nê, chỉ la dã, sa-phộc 
		ha”
		
		OMÏ_ CUNÕDHE _ DHE , KÌLÀYA _ SVÀHÀ
		
		( Tụng một biến, đem ngón cái của Khế 
		chạm đất một như thế đóng cọc. Làm 3 lần rồi nghỉ )
		
		Khế thứ bảy: 
		“ Kết Tường Giới Khế”. Tướng của 
		Khế là: Dựa theo Quyết Khế lúc trước, đem ngón trỏ phải co như móc câu, 
		dựng thẳng ngón trỏ trái, liền thành.Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Chuẩn nễ, nê, bát la ca la gia, 
		sa-phộc ha”
		
		OMÏ_ CUNÕDHE_ DHE,  PRAKARÀYA _ SVÀHÀ
		
		( Tụng ba biến, đưa Khế quơ theo bên phải 
		3 vòng )
		
		Khế thứ tám: 
		“ Kết Võng Khế” . Khế đó dựa theo Tường Khế, mở ngửa dính nhau, 
		ngón cái phải vịn đầu ngón trỏ trái, ngón cái trái vịn đầu ngón trỏ 
		phải, ngón út y như cũ cùng trụ nhau, liền thành. Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Chuẩn nể, nê, bán nhạ la, sa-phộc 
		ha”
		
		OMÏ_ CUNÕDHE _ DHE , PAMÏJALA _ SVÀHÀ
		
		( Tụng 3 biến , đưa Khế tùy theo mặt trời 
		quơ 3 lần )
		
		Khế thứ chín: 
		“ Kết Ngoại Hỏa Viện Đại Giới Khế”. Khế đó : Dùng tay trái đè kín 
		lưng tay phải, trùng nhau. Dựng thẳng 2 ngón cái cùng cách nhau khoảng 2 
		thốn, liền thành. Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ A tam ma nghĩ nễ, hàm, sa-phộc ha”
		
		OMÏ_ ASAMÀMÏGNI  HÙMÏ _ SVÀHÀ
		
		( Tụng 3 biến, đưa Khế chuyển bên phải 3 
		lần )
		
		Khế thứ mười: 
		“ Kết Xa Lạc Ấn”. Tướng của Khế đó là: Trước tiên, 2 tay hướng 
		vào bên trong cùng cài chéo nhau, bên phải đè bên trái. Liền ngửa mở 
		lòng bàn tay, duỗi thẳng 2 ngón trỏ dính đầu ngón, đưa 2 ngón cái bật 
		đầu 2 ngón giữa, đưa qua đưa lại, liền thành. Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ đổ lô, đổ lô, sa-phộc ha”
		
		OMÏ_ TURU  TURU _ SVÀHÀ
		
		( Kết Khế này, Tâm tưởng trong Tập Hội ở 
		cung Trời A Ca Ni Sắt Tra (Sắc Cứu Cánh ) 10 Địa Bồ Tát vây quanh Đức Tỳ 
		Lô Giá Na Như Lai. Thỉnh Chuẩn Đề Phật Mẫu ngồi trên Xa Lạc 7 báu trang 
		nghiêm. Trên Xa Lạc có tòa hoa sen trắng, trên Tòa có hình tượng như 
		mong cầu. Trong Tâm tưởng niệm như ở ngay trước mắt. Liền tụng Diệu Ngôn 
		3 biến )
		
		Khế thứ mười một: 
		“ Kết Nghinh Thỉnh Thánh Giả Khế” . Dựa theo Đệ Nhất Căn Bản Khế 
		lúc trước, đưa 2 ngón cái qua lại, triệu mời 3 lần, liền thành. Diệu 
		Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, ê hế 
		duệ tứ, bạc già phộc để, sa-phộc ha”
		
		OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ EHYEHI  
		BHAGAVATI _ SVÀHÀ
		
		( Kết Khế này, tưởng Thánh Giả từ trên Xa 
		Lạc đi xuống đến Đạo Trường trên tòa sen trắng. Liền tụng Diệu Ngôn 3 
		biến )
		
		Khế thứ mưới hai: 
		“ Kết Liên Hoa Tòa Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, kèm 2 
		ngón cái hướng về thân mở thẳng, liền thành. Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Ca ma la, sa-phộc ha”
		
		OMÏ_ KAMALA _ SVÀHÀ
		
		( Kết Khế này, Tâm tưởng trong Đạo Trường 
		có mọi loại lưới báu, trên Tòa Sư Tử nở sen trắng, an đặt Thánh Giả trên 
		hoa sen. Liền tụng Diệu Ngôn 3 biến )
		
		Khế thứ mười ba: 
		“ Kiết Ứ Già Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đem 2 ngón cái 
		đều vịn dưới cạnh lóng thứ nhất ở gốc ngón trỏ, liền thành. Diệu Ngôn 
		là:
		
		“ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, át 
		kiềm, bạc già phộc để, bát la để sai, sa-phộc ha”
		
		OMÏ _ CALE  CULE  CUNÕDHE _ ÀRGHÀMÏ  
		BHAGAVATI  PRATICCHA _ SVÀHÀ
		
		Khế thứ mười bốn:” 
		Kết Táo Dục Khế” Dựa theo Ứ Già Khế lúc trước, đem 2 ngón cái đều 
		vịn cạnh lóng giữa của 2 ngón giữa , liền thành. Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Chiết, sa-phộc ha”
		
		OMÏ_ CA _ SVÀHÀ
		
		Khế thứ mười lăm 
		: “ Kết Đồ Hương Khế”. Dựa theo 
		Căn Bản Khế lúc trước,đe 2 ngón cái nắm dính lóng dưới của ngón trỏ 
		phải, liền thành. Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Lệ, sa-phộc ha”
		
		OMÏ _ LE _ SVÀHÀ
		
		Khế thứ mười sáu 
		: “ Kết Hoa Man Khế”. Dựa theo Căn 
		Bản Khế lúc trước, đe 2 ngón cái để cạnh lóng dưới của ngón trỏ trái, 
		liền thành. Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Chủ, sa-phộc ha”
		
		OMÏ _ CU  _ SVÀHÀ
		
		Khế thứ mười bảy: 
		“ Kết Thiêu Hương Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, co ngón 
		trỏ phải vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Diệu Ngôn là;
		
		“ Aùn_ Lệ, sa-phộc ha”
		
		OMÏ _ LE _ SVÀHÀ
		
		Khế thứ mười tám 
		: “ Kết Cúng Dường Ẩm Thực Khế”. 
		Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đem ngón trỏ trái vịn đầu 2 ngón cái, 
		liền thành. Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Chuẩn, sa-phộc ha”
		
		OMÏ _ CUNÕ _ SVÀHÀ 
		
		Khế thứ mười chín: 
		“ Kết Đăng Khế”. Dựa theo Căn Bản Khế lúc trước, đem 2 ngón trỏ 
		đều vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn, đề, sa-phộc ha”
		
		OMÏ _ DHE _ SVÀHÀ
		
		( Nhóm Đồ Hương Khế bên trên, mỗi mỗi đều 
		dùng Khế chạm vào trên sắc vật thật rồi cúng dường )
		
		Khế thứ hai mươi 
		: “ Kết Bố Tự Khế”. Tướng của Khế 
		đó là: Đưa 2 ngón giữa, 2 ngón vô danh hướng vào bên trong  cùng cài 
		chéo nhau. Kè dựng thẳng 2 ngón cái, 2 ngón trỏ, 2 ngón út cùng dính đầu 
		ngón, liền thành. 
		
		Kết Thủ Khế này thành, liền tưởng thân 
		của mình giống như Thích Ca Như Lai với 32 tướng tốt 80 loại tùy hình 
		đẹp, thân tỏa ánh hào quang àu vàng tía ( Tử Ma Kim Sắc ) . Tưởng xong, 
		dùng Thủ Khế ( Tay Ấn ) chạm trên đầu an chữ Aùn (OMÏ 
		_            ) , chạm mắt an chữ Chiết ( CA_            ) mỗi mỗi 
		y theo thứ tự chữ cho đến đầy đủ và dùng Khế chạm bày.
		
		Nói Pháp Tưởng chữ của Đà La Ni an bày 
		ở thân:
		
		_ Aùn ( OMÏ _            ) tưởng 
		an trên đầu
		
		Màu sắc trắng như trăng
		
		Tỏa nơi vô lượng quang
		
		Trừ diệt tất cả chướng
		
		Liền đồng Phật Bồ Tát
		
		Xoa trên đỉnh người ấy
		
		_ Chữ Chiết ( CA_           ) an 
		hai mắt
		
		Màu sắc như Nhật Nguyệt
		
		Chiếu soi các ngu ám
		
		Hay phát Thâm Tuệ Minh ( Ánh sáng Tuệ 
		thâm sâu )
		
		_ Chữ Leä ( LE_           ) an 
		trên cổ
		
		Màu như Lưu Ly cam
		
		Hay hiển các sắc tướng
		
		Dần đủ Trí Như Lai
		
		_ Chữ Chủ (CU_            ) tưởng 
		an tim
		
		Màu sắc như trắng sáng
		
		Giống như Tâm thanh tĩnh
		
		Mau đạt Đạo Bồ Đề
		
		_ Chữ Leä ( LE_           ) an hai 
		vai
		
		Màu vàng như Kim Sắc
		
		Do quán sắc tướng ấy
		
		Hay mặc Giáp Tinh Tiến
		
		_ Chữ Chuẩn ( 
		CUNÕ_                    ) trưởng trong rốn
		
		Màu trắng vàng màu nhiệm
		
		Mau khiến lên Đạo Trường
		
		Được Bồ Đề Bất Thoái
		
		_ Chữ Đề ( DHE_            ) an 
		hai đùi
		
		Màu sắc như vàng lợt
		
		Mau chứng Đạo Bồ Đề
		
		Được ngồi Tòa Kim Cương
		
		_ Sa-Phộc ( SVÀ _            ) hai 
		bắp chân
		
		Dạng ấy màu vàng đỏ
		
		Thường hay tưởng chữ ấy
		
		Mau được chuyển Pháp Luân
		
		_ Chữ Ha ( HA_           ) hai bàn chân
		
		Màu sắc như trăng đầy
		
		Hành Giả tác tưởng đó
		
		Mau được đạt Viên Tịch
		
		Như vậy Bố Tự ( an bày chữ ) tưởng 
		niệm xong
		
		Liền thành Chuẩn Đề Thắng Pháp Môn
		
		Cũng là Bản Tôn Chân Thật Tướng
		
		Hay diệt các tội, được cát tường
		
		Giống như tụ Kim Cương bền chắc
		
		Gọi là Chuẩn Đề Thắng Thượng Pháp
		
		Nếu thường tu hành y như thế
		
		Nên biết người ấy mau Tất Địa ( 
		Siddhi_ Thành Tựu )
		
		Khế thứ hai mươi mốt:”
		Đệ Nhị Căn Bản Khế”. Tướng của Khế đó là: Đưa 2 tay hướng vào bên 
		trong cùng cài chéo nhau. Kèm dựng thẳng 2 ngón trỏ, 2 ngón cái, liền 
		thành. Diệu Ngôn là:
		
		“ Nam mô táp đá nẫm,tam miệu tam bột đà, 
		câu đê nam. Đát diệt tha: Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, sa-phộc ha”
		
		NAMO  SAPTÀNÀMÏ  SAMYAKSAMÏBUDDHA  
		KOTÏINÀMÏ
		
		TADYATHÀ : OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ 
		SVÀHÀ
		
		( Tụng 7 biến, đưa Khế lên đỉnh đầu bung 
		tán )
		
		Khế thứ hai mươi hai: 
		“ Kết Phụng Sổ Châu Khế” Tướng của Khế đó là: Trước tiên lấy Sổ 
		Châu ( Tràng hạt ) để trong 2 lòng bàn tay, liền để ngang trái tim rồi 
		chắp hai tay lại. Tụng Căn Bản Đà La Ni lúc trước 3 biến, đem tràng hạt 
		đội trên đỉnh đầu, liền tác Bả Sổ Châu Khế để Tĩnh Châu ( Làm cho 
		tràng hạt thanh tịnh )
		
		Khế thứ hai mươi ba: 
		“ Bả Sổ Châu Khế”. Tướng của Khế đó là: 2 ngón vô danh, 2 ngón 
		cái đều vịn trên hạt châu, 2 tay cùng cách nhau khoảng một thốn, bung mở 
		các ngón còn lại rồi hơi co lại, liền thành. Tụng Tĩnh Sổ Châu Diệu 
		Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Vi lô già na, a ma la, sa-phộc ha”
		
		OMÏ_ VAIROCANA  AMALA _ SVÀHÀ
		
		( Tụng 3 biến )
		
		Tĩnh Sổ Châu xong. Tự Tâm tưởng trong 
		miệng của Thất Câu Đê Phật Mẫu tuôn ra văn tự của Thất Câu Đê Đà La Ni, 
		mỗi một chữ phóng tỏa ánh sáng ngũ sắc nhập vào trong miệng của Hành Giả 
		rồi an trong vành trăng ngay trái tim của mình, xoay chuyển theo bên 
		phải đặt bày. Liền tụng Căn Bản Đà La Ni một biến, dùng ngón vô danh 
		phải lần qua một hạt châu, cứ thế giáp vòng trở lại hạt ban đầu, chẳng 
		gấp chẳng chậm, chẳng được cao giọng. Nên xưng chữ rõ ràng mà tự nghe 
		được chữ an bày trên thân với Bản Tôn đã quán.
		
		Niệm tụng Ký Số.Ở trong một niệm 
		và tu một thời, quán thấy chẳng được khiếm khuyết khiến Tâm tán loạn.Nếu 
		Quán Niệm mệt mỏi thì tùy sức niệm tụng hoặc 1000, 2000, 3000, 4000 cho 
		đến 5000 biến . Thường lấy một số làm hạn định. Nếu có duyên sự, cũng 
		chẳng được giảm số dưới 108 biến. Đây gọi là Thanh Niệm Tụng. Nếu 
		cầu giải thoát sẽ mau ra khỏi sinh tử.
		
		_ Tác Tam Ma Địa Quán Hạnh này thì 
		không có ký không có số. Người niệm liền tưởng trái tim của mình có một 
		mặt trăng đầy rất ư thanh tĩnh, trong ngoài rõ ràng. Đem chữ Aùn 
		(            ) để trong tâm mặt trăng. Đem các chữ Chiết lệ, chủ lệ, 
		chuẩn đề, sa-phộc ha(                     
		                                                              ) từ phía 
		trước chuyển theo bên phải, thứ tự giáp vòng an bày Luân Duyên. Thành 
		thật quán ( Đế quán ) nghĩa của mỗi một chữ, đem Tâm tương ứng chẳng 
		được khác biệt.
		
		Nói Nghĩa Bố Tự của Tam Ma Địa Quán 
		Niệm
		
		Aùn Tự Môn 
		(            ) có nghĩa là Lưu Chú chẳng 
		sinh diệt. Lại ở tất cả Pháp làm nghĩa Tối Thắng
		
		Chiết Tự Môn 
		(           ) Ở tất cả các Pháp làm nghĩa 
		Vô Hành ( không có lưu chuyển )
		
		Lệ Tự Môn 
		(            ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô 
		Tướng (không có tướng )
		
		Chủ Tự Môn 
		(            ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô 
		Khởi Trụ ( Không có khới trụ )
		
		Lệ Tự Môn 
		(            ) ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô 
		Cấu (không có bợn nhơ )
		
		Chuẩn Tự Môn 
		(                    ) ở tất cả Pháp làm 
		nghĩa Vô Đẳng Giác
		
		Đề Tự Môn 
		(             ) ở tất cả Pháp làm nghĩa 
		Vô Thủ Xả ( không có lấy, không có bỏ )
		
		Sa-phộc Tự Môn 
		(            ) ở tất cả Pháp làm nghĩa 
		Bình Đẳng Vô Ngôn Thuyết
		
		Ha Tự Môn 
		(            )ở tất cả Pháp làm nghĩa Vô 
		Nhân Tịch Tịnh Vô Trụ Niết Bàn
		
		Đã nói nghĩa của chữ. Tuy lập văn tự đều 
		là nghĩa không có văn tự. Để không có văn tự nên đế quán mỗi một nghĩa 
		tướng, vòng quanh rồi lại bắt đầu, không có ký không có số, chẳng được 
		cắt đứt ( đoạn tuyệt ) . Chẳng cắt đứt là nghĩa Tối Thắng lưu 
		chú chẳng sinh chẳng diệt. Do nghĩa tối thắng chẳng sinh chẳng diệt 
		cho nên là Vô Hành. Vì nghĩa Vô Hành cho nên là Vô Tướng. 
		Vì nghĩa Vô Tướng cho nên là Vô Khởi Trụ. Vì nghĩa vô khởi trụ 
		cho nên là Vô Đẳng Giác. Vì nghĩa vô đẳng giác cho nên là vô 
		thủ xả. Vì nghĩa vô thủ xả cho nên là Bình đẳng vô ngôn thuyết. 
		Vì nghĩa bình đẳng vô ngôn thuyết cho nên là vô nhân tịch tịnh vô trụ 
		niết bàn. Vì nghĩa Tịch Tịnh Vô Trụ Niết Bàn cho nên là bất sinh bất 
		diệt tối thắng vô đoạn tuyệt, vòng quanh rồi lại bắt đầu. Đây gọi là 
		Tam Ma Địa Niệm Tụng
		
		Nói Pháp Chuẩn Đề Cầu Nguyện Quán 
		Tưởng:
		
		Nếu cầu Vô Phân Biệt nên quán 
		Vô phân biệt vô ký niệm
		
		Nếu cầu Vô Tướng Vô Sắc nên quán
		văn tự vô văn tự niệm
		
		Nếu cầu Pháp Môn Không Hai ( Bất 
		Nhị Pháp Môn ) nên quán 2 cánh tay
		
		Nếu cầu  Bốn Vô Lượng nên quán 4 
		cánh tay
		
		Nếu cầu Sáu Thông nên quán 6 cánh 
		tay
		
		Nếu cầu Tám Thánh Đạo nên quán 8 
		cánh tay
		
		Nếu cầu Mười Ba La Mật, viên mãn Mười 
		Địa nên quán 10 cánh tay
		
		Nếu cầu Như Lai Phổ Biến Quảng Địa 
		nên quán 12 cánh tay
		
		Nếu cầu mười tám Pháp Bất Cộng nên 
		quán 18 cánh tay. Liền quán Pháp như tượng vẽ
		
		Nếu cầu 32 Tướng nên quán 32 cánh 
		tay
		
		Nếu cầu 84000 Pháp Môn nên quán 84 
		cánh tay
		
		Quán Niệm như trên sẽ vào Nhất Thiết 
		Như Lai Tam Ma Địa Thậm Thâm Phương Quảng Bất Tư Nghị Địa, là Chính 
		Niệm Xứ, là Chính Chân Như, là Chính Giải Thoát.
		
		Niệm Tụng Quán Hạnh xong. Muốn ra khỏi 
		Đạo Trường , lại nên y theo thứ tự trước. Liền kết Thủ Khế của nhóm: 
		Thiêu Hương, Đăng Minh, Aám Thực, Cúng Dường, Sám Hối, Tùy Hỷ, Phát 
		Nguyện. 
		
		Liền kết Đệ Nhất Căn Bản Khế lúc trước, 
		tụng Căn Bản Đà La Ni 7 biến rồi bung Ấn trên đỉnh đầu. 
		
		Lại kết Xa Lộ Khế lúc trước, đưa 2 ngón 
		cái hướng ra ngoài, bật đầu ngón giữa 3 lần, tụng Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Đổ lô, đổ lô, Sa-phộc ha”
		
		OMÏ_ TURU  TURU _ SVÀHÀ
		
		( Tụng 3 biến )
		
		Lại kết Nghinh Thỉnh Ấn lúc trước. Đem 
		ngón cái hướng ra ngoài, mở 3 lần liền thành Tống Thánh Giả Hoàn Bản 
		Cung. Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, nghiệt 
		xa nghiệt xa, bà nga phộc để, sa phộc bá nẫm, bố ná , a yết la nga, ma 
		na gia, sa-phộc ha”
		
		OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ GACCHA  
		GACCHA  BHAGAVATI  SVÀBHANÀMÏ  BUDDHA  ARGHA  MANÀYA_ SVÀHÀ
		
		Liền kết Ngoại Hỏa Viện Đại Giới Khế lúc 
		trước, tụng A Tam Ma Kỳ Neã Diệu Ngôn, chuyển bên trái 3 lần liền 
		thành.
		
		Liền kết 3 Bộ Tam Ma Gia Khế, đều tụng 
		Diệu Chân Ngôn một biến liền xong, tùy ý ra khỏi Đạo Trường, tùy ý Kinh 
		Hành. Đọc tụng Đại Bát Nhã hoặc Hoa Nghiêm, hoặc Vô Biên Môn, hoặc Pháp 
		Hoa, Lăng Nghiêm, Niết Bàn, Kinh Luận Đại Thừa…suy tư, tụng, nói hoặc 
		đem ấn Tháp Tượng Thất Câu Đê Phật, dùng ấn bùn thơm,trên cát, trên 
		giấy… tùy ý nhiều ít.
		
		Nếu niệm tụng có công đức như cảnh giới 
		đã nói trong Kinh, mỗi mỗi biết thứ tự thật rõ ràng.
		
		Muốn tác mọi loại phương pháp của nhóm 
		Phiến Để Ca ( ‘Sàntika_ Tức Tai ) hoặc vì tự thân hoặc vì người khác 
		liền dốc lòng y theo Pháp mà tác niệm tụng.Nếu muốn Tức Tai trừ 
		tất cả Quỷ Thần và được thông minh, trường thọ, cầu giài thoát. Liền ở 
		trong Đạo Trường, hướng mặt về phương Bắc, chéo 2 bắp chân dựng thẳng 
		đầu gối mà ngồi. Quần áo, thức ăn uống, hương, hoa, đèn, đuốc, đất đều 
		dùng màu trắng. Từ ngày mồng một đến ngày mồng 8 của tháng, một ngày 3 
		thời niệm tụng với Pháp của nhóm Hộ Ma. Nếu Niệm Tụng thời trước tiên 
		tụng Căn Bản Đà La Ni 7 biến xong, sau đó chỉ tụng từ chữ Aùn. 
		Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề ban cho
		( họ tên của mình hay người 
		khác) trừ tai nạn, sa-phộc ha”
		
		OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE  ( Khiến cho…. ) 
		‘SÀNTIMÏ  KURU _ SVÀHÀ
		
		Nói Pháp Bố Sắt Trí Ca ( Pusïtïika 
		_ Tăng Ích ) . Nếu muốn cầu tăng trưởng 5 Thông, Chuyển Luân, mọi loại 
		Bảo Tạng, Bố Xa Luân, Kiếm, Hiền Bình, Như Ý Bảo, An Thiện Na, Ngu Lý 
		Ca, Gương, Búa, Sợi dây, Tam Cổ Xoa… tất cả tài bảo, cỏ thuốc… cầu Pháp 
		thành tựu. Thân mặc áo vàng, hướng mặt về phương Đông, ngồi Kiết Già. 
		Mọi thứ cúng dường như hương, hoa, thức ăn uống, quả trái, đèn đuốc, 
		đất… đều dùng màu vàng. Từ ngày mồng 8 đến ngày 15 của tháng, mỗi ngày 3 
		thời niệm tụng, làm việc Hộ Ma, niệm tụng như trước. Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề ban 
		cho ( họ tên… ) sở cầu như ý, sa-phộc ha”
		
		OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE ( Khiến cho…. ) 
		PUSÏTÏIMÏ  KURU _ SVÀHÀ
		
		Nói Pháp Phạt Thí Ca La Noa ( 
		Va’sikaranïa_ Kính Aùi ) Nếu muốn hô triệu tất cả hàng Trời, Rồng, Quỷ , 
		Thần, Người, Phi Nhân…thì nên tác Pháp này. Thân mặc áo đỏ, hướng mặt về 
		phương Tây, ngồi theo thế Hiền Tọa. Hương, hoa, thức ăn uống, Quả trái, 
		đèn đuốc, đất… đều dùng màu đỏ. Từ ngày 16 đến ngày 23 , mỗi ngày 3 thời 
		niệm tụng, tác Pháp Hộ Ma. Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Chiết lệ,chủ lệ, chuẩn đề. Vì 
		con nhiếp triệu vị Thần ( tên là…. ) thành tựu nguyện của con, 
		sa-phộc ha”
		
		OMÏ _ CALE  CULE  CUNÕDHE ( Khiến cho…. ) 
		VA’SI  KURU _ SVÀHÀ
		
		Nói Pháp A Tỳ Già Lỗ Ca ( 
		Abhicàruka_ Giáng Phục ) Nếu muốn giáng phục tất cả Quỷ Thần với Người, 
		Trời… là tổn hoại Tam Bảo, chúng sinh có nhiệu tội nghiệp chướng nặng, 
		kẻ khó điều phục … hay khiến phát Tâm Bồ Đề, tu các nghiệp lành thì nên 
		khởi Tâm Từ Bi mà tác Pháp này. Thân mặc áo xanh, hướng mặt về phương 
		Nam, tác Tông Cứ Tọa ( chéo ống chân ngồi xổm ) ống chân phải đè ống 
		chân trái. Dùng hương, hoa, thức ăn uống, quả trái, đất… đều là màu xanh 
		đen. Từ ngày 23 đến ngày cuối tháng, mỗi ngày 3 thời niệm tụng, tác Pháp 
		Hộ Ma. Diệu Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, hồng, 
		phát tra”
		
		OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE  HÙMÏ  PHATÏ
		
		Tác Pháp xong, niệm tụng như thường
		
		Nói Pháp Vẽ Tượng Thất Câu Đê Phật Mẫu 
		Chuẩn Đề
		
		Lấy lụa trắng thanh tịnh chư bị cắt, loại 
		bỏ tóc người. Họa Sư thọ 8 Giới Tế, chẳng dùng keo nấu bằng da thú để 
		hòa màu sắc, mọi thứ trang nghiêm thân ấy. Từ eo trở xuống mặc áo trắng, 
		áo trên có hoa. Lại thân khoác áo ngoài ( Thiên Y ) bằng lụa mịn màng 
		mỏng nhẹ. Dùng đai ngũ sắc cột eo, mây sắc đỏ sáng sớm quấn quanh thân, 
		cổ tay đeo xuyến bằng vỏ ốc trắng, cánh tay đeo vòng xuyến dùng 7 báu 
		trang nghiêm. Trên mỗi một tay đeo Chỉ Hoàn ( Nhẫn ) . Thân có 18 tay, 
		mặt có 3 mắt.
		
		2 tay bên trên tác tướng Thuyết Pháp
		
		Bên phải: 
		tay thứ hai Thí Vô Úy, tay thứ ba cầm cây Kiếm, tay thứ tư cầm 
		tràng hạt, tay thứ năm cầm quả Vĩ Nhạ Bố La Ca ( Đường gọi là Tử Mãn 
		Quả, nơi này không có chỉ Tây Tạng mới có ) , tay thứ sáu cầm cây 
		búa, tay thứ bảy cầm móc câu, tay thứ tám cầm Bạt Chiết La ( Vajra_ Chày 
		Kim Cương ) , tay thứ chín cầm vòng hoa báu ( Bảo Man )
		
		Bên trái 
		: tay thứ hai cầm cây phướng báu Như Ý, 
		tay thứ ba cầm hoa sen, tay thứ tư cầm bình Táo Quán, tay thứ năm cầm 
		sợi dây, tay thứ sáu cầm bánh xe, tay thứ bảy cầm vỏ ốc ( Loa ) tay thứ 
		tám cầm Hiền Bình, tay thứ chín cầm rương Kinh Bát Nhã Ba La Mật.
		
		Phía dưới Bồ Tát làm ao nước. Trong ao có 
		2 vị Long Vương ( Nàga Ràja ) là Nan Đà ( Nanda ) và Ô Bạt Nan Đà ( 
		Upananda ) cùng nâng cuống hoa sen, ở trên hoa sen an Chuẩn Đề Bồ Tát ( 
		Cunõdhe Bodhisatva ) . Vòng tròng chung quanh Tượng ấy an lửa rực sáng. 
		Tượng ấy tác con mắt thương xót nhìn xuống. Hành Giả ngồi ngay bên dưới, 
		tay cầm lò hương, hướng mặt lên trên nhìn Bồ Tát. Ở phía trên Bồ Tát vẽ 
		2 vị Tĩnh Cư Thiên. Tượng Pháp như vậy, xong.
		
		PHẬT THUYẾT THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ 
		ĐÀ LA NI KINH ( Kèm Niệm Tụng Quán Hạnh Pháp ) 
		
		_ Hết_
		
		                     19/10/2002
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		            
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		
 
		Mật Tạng Bộ 3 _ No.1076 ( Tr.178 _ Tr. 
		185 )
		
		 
		
		THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU SỞ THUYẾT CHUẨN ĐỀ 
		ĐÀ LA NI KINH
		
		 
		
		Hán dịch: Chùa Đại Hưng Thiện_ Tam Tạng 
		Sa Môn Đại Quảng Trí 
		
		                BẤT KHÔNG phụng chiếu 
		dịch
		
		Việt dịch : HUYỀN THANH
		
		 
		
		Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già 
		Phạm ngự tại vườn Cấp Cô Độc trong rừng Thệ Đa thuộc Đại Thành Danh Xưng 
		cùng với chúng Đại Bật Sô, các vị Bồ Tát và 8 Bộ Trời Rồng trước sau vây 
		quanh.
		
		Đức Thế Tôn nghĩ thương chúng sinh kém 
		phước nhiều nghiệp ác ở đời vị lai, liền nhập vào Chuẩn Đề Tam Ma 
		Địa  ( Cunïdhi samàdhi ) nói Đà La Ni mà 7 câu đê ( 7 trăm triệu ) 
		Phật đời quá khứ đã nói là:
		
		“ Ná mạc tát đa nam, tam miệu tam một đà, 
		câu đê nam. Đát nễ dã tha: Aùn_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê, sa-phộc hạ”
		
		NAMAHÏ  SAPTÀNÀMÏ  SAMYAKSAMÏBUDDHA  
		KOTÏINÀMÏ
		
		TADYATHÀ: OMÏ _ CÀLE  CÙLE  CUNÏDHE _ 
		SVÀHÀ
		
		Nếu có Bồ Tát tại gia hay xuất gia tu 
		Hạnh Chân Ngôn, tụng trì Đà La Ni này mãn 90 vạn biến thì 10 tội ác, 4 
		tội nặng, 5 tôi nghịch, 5 tội Vô Gián đã gây tạo ra trong vô lượng kiếp 
		thảy đều tiêu diệt. Nơi sinh ra thường gặp chư Phật Bồ Tát, tài bảo 
		phong nhiêu, thường được xuất gia.
		
		Nếu là Bồ Tát tại gia tu trì Giới Hạnh 
		bền chắc chẳng thoái lui, tụng Đà La Ni này thường sinh vào cõi Trời. 
		Hoặc ở nhân gian làm quốc vương, chẳng bị đọa vào nẻo ác, gần gũi Thánh 
		Hiền, chư Thiên yêu kính ủng hộ gia trì. Nếu kinh doanh các việc ở đời 
		thì không có tai hoạnh, nghi dung đoan chính, lời nói oai vệ, Tâm không 
		lo lắng buồn phiền.
		
		Nếu là Bồ Tát xuất gia giữ đầy đủ các Cấm 
		Giới, 3 thời niệm tụng y theo Giáo tu hành. Đời này mong cầu Tất Địa 
		Xuất Thế Gian thì Định Tuệ hiện tiền, chứng viên mãn Địa Ba La Mật, mau 
		chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề.
		
		Nếu tụng mãn một vạn biến tức ở trong 
		mộng thấy Phật Bồ Tát, liền nôn ra vật màu đen. Nếu người ấy có tội rất 
		nặng , tụng hai vạn biến tức mộng thấy chư Thiên, nhà, chùa, phòng ốc. 
		Hoặc lên núi cao. Hoặc thấy trên cây, hoặc thất tắm gội ở trong ao lớn. 
		Hoặc thấy bay trên hư không. Hoặc thấy cùng các Thiên Nữ vui chơi khoái 
		lạc. Hoặc thấy nói Pháp. Hoặc thấy nhổ tóc, cạo tóc. Hoặc thấy ăn Lạc 
		Phạn ( Cơm trộn sữa nấu chín ), uống Cam Lộ màu trắng. Hoặc vượt qua 
		biển lớn, sông lớn, sông nhỏ. Hoặc lên Tòa Sư Tử. Hoặc thấy cây Bồ Đề. 
		Hoặc ngồi trên thuyền. Hoặc thấy Sa Môn. Hoặc thấy mặt trời, mặt trăng. 
		Hoặc thấy đồng nam, đồng nữ. Hoặc thấy trên cây có quả sữa. Hoặc thấy 
		trong miệng Hắc Trượng Phu phun ra lửa mạnh cùng chiến đấu với người ấy 
		và được thắng. Hoặc thấy trâu, ngựa ác muốn đến chạm húc, người trì tụng 
		hoặc đánh hoặc nạt làm cho chúng sợ hãi bỏ chạy. Hoặc ăn cháo sữa, lạc 
		phạn. Hoặc thấy hoa Tô Ma Na ( sumanïa_ Xứng Ý Hoa ) . Hoặc thấy quốc 
		vương.
		
		Nếu chẳng thấy cảnh giới như vậy nên biết 
		người này đời trước tạo 5 tội Vô Gián, cần phải tụng đủ 70 vạn biến tức 
		thấy cảnh giới như trên. Nên biết diệt tội liền thành Tiên Hạnh ( Pháp 
		hành trước tiên ) . Sau đó y theo Pháp vẽ Tượng Bản Tôn. Hoặc 3 thời, 4 
		thời hoặc 6 thời y theo Pháp cúng dường cầu Tất Địa Thế Gian Xuất Thế 
		Gian cho đến Vô Thượng Bồ Đề thảy đều đạt được.
		
		Nếu có tu trì Đà La Ni này sẽ biết ngày 
		sau thành tựu nơi chốn: có nạn, không có nạn, Tất Địa chậm hay mau. Nên 
		ở một Tĩnh Thất dùng Cù Ma Di (Phân Trâu Trắng núi Tuyết ) xoa tô một 
		cái Đàn nhỏ, tùy sức cúng dường. Dùng Kết Giới Chân Ngôn kết 10 
		phương Giới. Đem một cái bình nước thơm để trong Đàn, một lòng niệm 
		tụng. Nếu cái bình chuyển động thì biết thành tựu việc mong cầu cần làm 
		, nếu chẳng chuyển động thì việc ấy chẳng thành.
		
		Lại có Pháp. Lấy một cái chén sứ, dùng 
		hương xoa bôi rồi để trong Đàn, chuyên tâm niệm tụng. Nếu cái chén 
		chuyển động thì việc liền thành tựu, nếu chẳng chuyển động thì việc 
		chẳng thành.
		
		Lại có Pháp. Muốn biết việc vị lai. Trước 
		tiên xoa tô một cái Đàn nhỏ, sai một đồng tử có đủ tướng Phước Đức tắm 
		gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch. Dùng Thất Câu Đê Chân Ngôn gia trì 
		vào hương rồi xoa bôi 2 bàn tay của đồng tử. Lại gia trì vào hoa 7 biến 
		đặt trong tay đồng tử rồi sai đồng tử che mặt đứng trong Đàn. Lại lấy 
		hoa riêng, tụng Chân Ngôn gia trì, cứ một biến thì đánh một lần vào lưng 
		bàn tay đồng tử, cho đến 21 lần liền hỏi đồng tử về chuyện Thiện Aùc, 
		đồng tử liền nói.
		
		Lại có Pháp. Lấy một cái gương sáng để ở 
		trong Đàn. Trước tiên tụng Chân Ngôn gia trì vào hoa 108 biến, sau đó 
		lại tụng Chân Ngôn, cứ một biến thì ném đánh mặt gương một lần. Ở trên 
		mặt gương liền có văn tự hiện ra nói việc thiện ác.
		
		Lại có Pháp. Muốn biết việc Thiện, bất 
		thiện, thành tựu, chẳng thành tựu. Lấy hoa Tô Ma Noa ( Sumanïa ) , dầu 
		thơm, tụng Chân Ngôn gia trì 108 biến rồi xoa bôi mặt ngón cái phải. 
		Tụng Chân Ngôn chẳng dứt tiếng và sai đồng tử quán trên mặt ngón tay  sẽ 
		hiện hình tượng chư Phật Bồ Tát hoặc hiện văn tự nói đủ việc thiện ác.
		
		Lại có Pháp. Nếu người bị bệnh Quỷ Mỵ. 
		Lấy cành Dương Liễu hoặc cỏ tranh, tụng Chân Ngôn rồi phất phủi trên 
		thân người bệnh , liền trừ khỏi bệnh.
		
		Lại có Pháp. Nếu người bị bệnh nặng. Tụng 
		Chân Ngôn 108 biến, xưng tên người đó, dùng sữa bò Hộ Ma thì bệnh liền 
		khỏi.
		
		Nếu trẻ thơ bị Dạ Đề ( Khóc đêm ) . Sai 
		đồng nữ se chỉ bên phải, tụng Chân Ngôn gia trì, kết 21 gút rồi đeo ở 
		dưới cổ thì trẻ thơ liền khỏi bệnh Dạ Đề.
		
		Lại có Pháp. Trước tiên gia trì vào hạt 
		cải trắng 108 biến . Sau đó lấy hạt cải, tụng Chân Ngôn một biến thì ném 
		đánh người bị bệnh Quỷ Mỵ một lần, đủ 21 biến thì Quỷ Mỵ bỏ chạy và 
		người bệnh liền khỏi.
		
		Lại có Pháp. Nếu có người bị Quỷ Mỵ. Lấy 
		Cù Ma Di xoa tô một cái Đàn nhỏ. Dùng tro trấu vẽ đất làm hình Quỷ Mỵ. 
		Tụng Chân Ngôn, dùng Thạch Lựu làm cây roi đánh thì Quỷ Mỵ ấy khóc lóc, 
		đuổi đi sẽ bỏ đi.
		
		Lại có Pháp. Nếu người bị vướng Quỷ Mỵ. 
		Hoặc người bị bệnh ở nơi xa chẳng thể tự đến, hoặc người niệm tụng lại 
		chẳng đến nơi ấy được. Lấy cành Dương Liễu hoặc cành đào, hoặc hoa… gia 
		trì 108 biến rồi sai người đem đến chỗ người bệnh, dùng cành đó phủi 
		người bệnh. Hoặc đem hoa khiến người bệnh ngửi, hoặc dùng hoa đánh người 
		bệnh thì Quỷ Mỵ ấy liền bỏ đi, người bệnh được khỏi.
		
		Lại có Pháp. Nếu bị rắn cắn, hoặc bị Noa 
		Cát Nữ Quỷ ( Dïàkinïì ) nắm giữ. Thời chuyển quanh người bệnh, tụng Chân 
		Ngôn thì người ấy liền khỏi bệnh.
		
		Lại có Pháp. Nếu có người bị ung thủng 
		với bị các loại trùng độc cắn. Lấy nước cốt của Đàn Hương hòa với đất 
		làm bùn, tụng Chân Ngôn 7 biến rồi xoa lên vết thương thì bệnh liền 
		khỏi.
		
		Lại có Pháp. Nếu đi trên đường, tụng Chân 
		Ngôn này thì chẳng bị giặc cướp gây thương tổn cũng xa lìa các nạn do 
		loài cầm thú ác gây ra.
		
		Lại có Pháp. Nếu đấu tranh, kiện tụng, 
		luận lý và đàm luận cầu thắng . Tụng Chân Ngôn này sẽ thắng.
		
		Lại có Pháp. Nếu đi trên sông nước, tụng 
		Chân Ngôn này thì chẳng bị nước cuốn chìm và chẳng bị các loài Rồng, cá 
		Ma kiệt, Cù, Giao Long… ở trong nước gay thương hại.
		
		Lại có Pháp. Nếu bị tù cấm, cột trói. 
		Tụng Đà La Ni này sẽ mau được giải thoát.
		
		Lại có Pháp. Ở trong nước ( Quốc thổ ) có 
		bệnh dịch. 7 ngày dùng dầu mè, gạo tẻ hòa với bơ, mật làm Pháp Hộ Ma thì 
		bệnh dịch liền được tiêu diệt, đất nước được an ninh.
		
		Lại có Pháp. Nếu cầu phong nhiêu tài bảo. 
		Mỗi ngày đem mọi loại thức ăn tác Hộ Ma sẽ được tài bảo giàu có.
		
		Lại có Pháp. Nếu uốn khiến người yêu kính 
		vui vẻ thì xưng tên của người ấy trong Chân Ngôn cú liền được vui vẻ 
		thuận phục.
		
		Lại có Pháp. Nếu Vô Cầu ( không có mong 
		cầu ) thì niệm tụng liền được y nguyện.
		
		Lại có Pháp. Nếu có người mà thân thể chi 
		tiết bị đau nhức thì gia trì vào lòng bàn tay 21 biến rồi xoa chạm vào 
		chỗ bị đau, liền được trừ khỏi.
		
		Lại có Pháp. Nếu bị sốt rét với đau đầu ( 
		Đầu thống ) thì gia trì vào lòng bàn tay 21 biến rồi xoa chạm cũng được 
		trừ khỏi.
		
		Lại có Pháp. Xoa tô một cái Đàn nhỏ, lấy 
		một cái bát đồng chứa đầy tro sạch, khiến đồng tử dùng 2 tay đè trên cái 
		bát tro. Người Trì Tụng nên tụng Chân Ngôn thì Sứ Giả của Bản Tôn nhập 
		vào thân đồng tử, cái chén ấy liền chuyển động, giáng vào lời của đồng 
		tử. Tự kết Ấn Tam Muội Gia của 3 Bộ, tụng Chân Ngôn của 3 Bộ. Liền lấy 
		Cốt Thạch giao cho đồng tử. Đồng tử liền vẽ qua lại trên mặt đất nói 
		chuyện Thiện Ác , Cát Hung của việc vị lai với Kinh Luận bị thất thoát, 
		phát vọng vấn nạn nghĩa Chân Ngôn Ấn, liền được giải biết.
		
		Lại có Pháp. Quân lính hai bên đánh nhau. 
		Vẽ Đà La Ni này trên vỏ cây hoa rồi treo trên ngọn trúc  và sai người 
		cầm, tụng Chân Ngôn sẽ phá được quân địch ấy.
		
		Lại có Pháp. Người nữ cầu con. Dùng Ngưu 
		Hoàng vẽ Chân Ngôn này trên vỏ cây hoa rồi khiến đeo thì chẳng lâu sẽ có 
		con.
		
		Lại có Pháp. Hoặc người nữ chẳng được 
		chồng kính trọng. Lấy một cái bình mới chứa đầy nước sạch. Ở trong bình 
		bỏ 7 báu với các linh dược, ngữ cốc, hạt cải trắng. Dùng lụa màu cột cổ 
		bình, dùng Chân Ngôn gia trì 108 biến rồi khiến người nữ kết Căn Bản Ấn 
		đặt trên đỉnh đầu. Đem nước rưới đỉnh đầu liền được chồng thương yêu 
		kính trọng. Chẳng những được kính trọng lại còn có con nữa, thai nhi 
		được bền vững.
		
		Lại có Pháp. Hành Giả mỗi lúc niệm tụng 
		thời kết Đại Ấn tụng Chân Ngôn, ấn Tháp đủ 60 vạn biến thì việc mong cầu 
		liền được đầy đủ. Quán Tự Tại Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát, Đa La Bồ Tát 
		liền hiện thân khiến cho việc mong cầu được như ý. Hoặc vào trong cung A 
		Tô La, hoặc được Bồ Tát Địa, hoặc được thuốc trường thọ, hoặc được thành 
		tựu Pháp Kính Aùi.
		
		Lại có Pháp. Ở Bồ Đề Đạo Trường, ở trước 
		Đại Chế Để ( Mahà caitya_ Tháp miếu lớp ) tụng Đà La Ni này sẽ được thấy 
		Thánh Tăng đến đàm Đạo và trao cho Tất Địa thành tựu, được đi chung với 
		vị ấy liền được đồng với Thánh Tăng ấy.
		
		Lại có Pháp. Ở trên đỉnh núi cao, niệm 
		tụng một câu đê ( Kotïi_ 100 triệu) biến thì Kim Cương Thủ Bồ Tát cho 
		người ấy lãnh 560 người cùng vào cung A Tô La, sống lâu một kiếp được 
		thấy Di Lặc Bồ Tát, lắng nghe Chính Pháp. Nghe Pháp xong được Bồ Tát 
		Địa, được Bất Thoái Chuyển.
		
		Lại có Pháp. Phía trên núi Tỳ Bổ La có 
		núi cao cũng được, ở trước Tượng Tháp có Xá Lợi tùy sức niệm tụng, đem 
		hương hoa cúng dường. Khất thực để nuôi dưỡng thân mệnh. Từ ngày mồng 
		một của tháng cho đến ngày 15 tụng Đà La Ni đủ 30 vạn biến. Chọn ngày 
		mãn hạn ấy, một ngày một đêm chẳng ăn, cúng dường gấp đôi, đến đêm sau 
		liền thấy Kim Cương Thủ Bồ Tát đem Hành Nhân vào trong cung của mình, vì 
		Hành Giả hiển bày Môn A Tu La Quật ( Hang động của A Tu La ) vào trong 
		hang được Thiên Diệu Cam Lộ , thọ ngang bằng mặt trời mặt trăng. 
		
		
		Lại có Pháp.Ở thềm báu của 3 Đạo từ cõi 
		Trời xuống chỗ có Tháp báu. Hành Giả khất thực , nhiễu quanh, tụng một 
		Câu Đê biến liền thấy Vô Năng Thắng Bồ Tát ( Aparajita Bodhisatva ) ban 
		cho nguyện, vì người ấy nói Pháp màu nhiệm hiển bày Đạo Bồ Đề Vô Thượng. 
		Hoặc thấy Ha Lợi Để Mẫu ( Hàrïtye Màtrï _ Quỷ Tử Mẫu ) đem người ấy vào 
		trong cung của mình cho thuốc sống lâu , trở lại thành trẻ nhỏ đoan 
		chính đáng vui, đạt được phục tàng, đại nhân hứa khả, nên rộng làm lợi 
		ích Tam Bảo, được tất cả Bồ Tát an ủi, hiển bày Chính Đạo cho đến Đạo 
		Trường Bồ Đề.
		
		Lại có Pháp. Nếu người trước kia không có 
		căn lành, không có hạt giống Bồ Đề, vừa tụng một biến ắt sinh Pháp Thân 
		Bồ Đề huống chi thường hay niệm tụng, yêu mến gìn giữ.
		
		 
		
		THẤT CÂU ĐÊ CHUẨN ĐỀ ĐÀ LA NI. NIỆM TỤNG 
		NGHI QUỸ
		
		 
		
		Nếu có người tu tập Đà La Ni này cầu 
		thành tựu. Trước tiên nên tắm gội, ặc áo sạch, điểm tô Đạo Trường, an 
		trí Bản Tôn, tùy sức bày biện.
		
		Pháp của Đạo Trường ấy nên chọn Thắng 
		Địa, làm một cái Đàn rộng 4 khuỷu tay, đào sâu xuống 3 khuỷu tay. Trử bỏ 
		gạch, ngói, đất ác, lông, tóc với xương cốt, tro, than, trùng, kiến…Lấy 
		đất sạch tốt lấp đầy rồi nện chặt cho bằng phẳng. Khi đào xuống không có 
		đất ác liền lấy đất cũ đổ lại và nện chặt. Nếu đất có dư, nên biết đất 
		ấy là Đại Cát Tường, mau chóng thành tựu. Lấy đất dư, Cù Ma Di ( Phân 
		trâu trắng ở núi Tuyết ) , nước thơm hòa với đất tốt làm bùng. Tụng Vô 
		Năng Thắng Bồ Tát Chân Ngôn gia trì 21 biến, sau đó đắp Đàn. Đắp xong 
		lấy 5 món tịnh hòa với nhau. Năm món tịnh là: Nước cốt của Cù Ma Di, 
		Nước tiểu của trâu ( ? bò ) , lạc ( sữa chưng chín ) , nhũ ( sữa tươi ) 
		, bơ. Dùng Vô Năng Thắng Chân Ngôn gia trì 108 biến, xong theo bên phải 
		xoa tô khắp Đàn ấy.
		
		Nếu ở trên đá núi kiến lập Đàn hoặc tại 
		lầu gác hoặc ở trên thuyền, nơi Đắc Đạo của tất cả Hiền Thánh… thì chỉ 
		dùng 5 món Tịnh xoa lau. Hành Giả ngồi hướng mặt về phương Đông, kết Vô 
		Năng Thắng Ấn đè đất, tụng Chân Ngôn 7 biến gia trì chính giữa Đàn. Lại 
		lấy các thuốc, 7 báu, ngũ cốc, mỗi thứ một chút phần. Chính giữa Đàn đào 
		sâu xuống một khuỷu tay rồi bỏ các thuốc với 7 báu vào và lấy đất cũ lấp 
		đầy, nện bằng phẳng.
		
		Trị. 
		Dùng tay phải đè xuống, tụng Địa Thiên Kệ 
		3 biến. Cảnh Giác Thiên Thần Kệ là:
		
		Ngươi, Trời gần, hộ giúp
		
		Nơi các Phật Đạo Sư
		
		Tu hành Hạnh Thù Thắng
		
		Tĩnh Địa Ba La Mật
		
		Như phá chúng Ma Quân
		
		Thích Sư Tử cứu đời
		
		Ta cũng giáng phục Ma
		
		Ta vẽ Man Trà La
		
		Tụng Địa Thiên Chân Ngôn là:
		
		“ Nẵng mạc tam mạn đa một đà nam. Tất-lị 
		thể vi duệ, sa-phộc hạ”
		
		NAMAHÏ   SAMANTA  BUDDHÀNÀMÏ_ PRÏTHIVÌYE 
		_ SVÀHÀ
		
		Tụng Kệ gia trì xong. Sau đó dùng Đàn 
		Hương xoa tô 9 vị trí của Bậc Thánh như mặt trăng tròn. Đem vật cúng mới 
		sạch : vàng, bạc, đồng đã tôi luyện, thương khư ( Vỏ ốc ) , bối ( vỏ sò 
		) , ngọc, đá, sành sứ, gỗ , vật khí mới… chứa các thức ăn uống với hương 
		hoa tốt, đèn đuốc, nước thơm Ứ Già. Tùy sức mà sắp bày cúng dường.
		
		Nếu Bồ Tát Tại Gia Xuất Gia cầu Thành 
		Tựu. Mỗi lần vào Đạo Trường, trước tiên nên lễ Phật, Sám Hối, Tùy Hỷ, 
		Khuyến Thỉnh , Phát Nguyện. Nên thề thọ Bồ Đề Tâm Giới. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Một địa chỉ đa mẫu đát-bả ná dạ 
		nhĩ”
		
		OMÏ_ BODHICITTAM  UTPÀDA  YÀMI
		
		Tâm Bồ Đề (Bodhicitta ) lìa tất cả Ngã 
		Pháp. Mau lìa Uẩn, Xứ, Giới với lìa Năng Thủ, Sở Thủ. Nơi Pháp bình 
		đẳng, Tự Tâm vốn chẳng sinh, Tự Tính trống rỗng . Như thời Quá khứ tất 
		cả Phật Bồ Tát phát Tâm Bồ Đề, nay Ta cũng như vậy. Đây gọi là Tự Thệ 
		Thọ Bồ Đề Tâm Giới. Do tụng một biến suy tư Thắng Nghĩa Đế đắc được 
		vô lượng vô biên công đức Vô Vi trang nghiêm 3 nghiệp cho đến Bồ Đề Đạo 
		Trường. Phước ấy không bị gián đoạn, mau diệt tất cả nghiệp chướng, mau 
		được thành tựu Chân Ngôn, Bản Tôn hiện tiền như Hoa Nghiêm Nhập Pháp 
		Giới Phẩm: Từ Thị Bồ Tát vì Thiện Tài Đồng Tử nói công đức của Tâm 
		Bồ Đề.
		
		Tự thệ thọ Bồ Đề Tâm Giới xong. Tùy ý 
		ngồi Bán Già hay Toàn Già, thẳng thân nhắm mắt, liền kết Định Ấn.  Tưởng 
		trong Hư Không có Chuẩn Đề Phật Mẫu ( Cunõdhe Buddha Màtrï ) với 7 câu 
		đê ( 700 triệu ) Phật vây quanh tràn khắp hư không. Trong Định lễ tất cả 
		chư Phật với Chuẩn Đề Phật Mẫu, sao đó dùng hương xoa tay, nên kết Khế 
		Ấn.
		
		Phật Bộ Tam Ma Gia Ấn: 
		Chắp hai tay lại giữa trống rỗng ( Hư Tâm Hợp Chưởng ) mở 2 ngón trỏ co 
		phụ cạnh lóng thứ nhất dưới móng 2 ngón giữa, 2 ngón cái đều phụ dưới 
		gốc 2 ngón trỏ, liền thành. Để ngang trái tim, tụng Chân Ngôn 7 biến, 
		tưởng Đức Như Lai có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp. Tướng tốt rõ ràng như đối 
		trước mắt. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Đát tha nghiệt đô nạp-bà phộc dã, 
		sa-phộc hạ”
		
		OMÏ_ TATHÀGATA  UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
		
		Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn nên liền 
		cảnh giác tất cả Như Lai đều sẽ hộ niệm gia trì Hành Giả, dùng ánh sáng 
		chiếu chạm thì hết thảy tội chướng đều được tiêu diệt, mau tăng thọ 
		mệnh, tăng trưởng Phước Tuệ, Thánh Chúng của Phật Bộ vui vẻ ủng hộ, đời 
		đời kiếp kiếp lìa các nẻo ác, hóa sinh trong hoa sen, mau chứng Vô 
		Thượng Chính Đẳng Bồ Đề.
		
		Liên Hoa Bộ Tam Ma Gia Ấn: 
		Chắp hai tay lại giữa trống rỗng. Mở bung 2 ngón trỏ, 2 ngón giữa, 2 
		ngón vô danh rồi co lại như hình hoa sen> Để Ấn ngang trái tim, tụng 
		Chân Ngôn 7 biến. Tưởng Quán Tự Tại Bồ Tát có đầy đủ tướng tốt rồi bung 
		Ấn bên phải đỉnh đầu. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Bả ná-mô nạp bà phộc dã, sa-phộc 
		hạ”
		
		OMÏ_ PADMA  UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
		
		Do Kết Ấn này tụng Chân Ngôn liền cảnh 
		giác  Bậc cầm hoa sen của hàng Quán Tự Tại Bồ Tát. Ánh sáng của tất cả 
		Bồ Tát chiếu chạm thì hết thảy nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt, tất cả 
		Bồ Tát thường làm bạn tốt.
		
		Kim Cương Bộ Tam Ma Gia Ấn: 
		Lật bàn tay trái hướng ra ngoài, đem lưng bàn tay phải để trên lưng bàn 
		tay trái sao cho ngón cái, ngón trỏ của 2 tay trái phải đều trợ móc 
		nhau. Tưởng Kim Cương Thủ Bồ Tát, tụng Chân Ngôn 7 biến rồi bung Ấn bên 
		trái đỉnh đầu. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Phộc nhật-lô nạp bà phộc dã, 
		sa-phộc hạ”
		
		OMÏ_ VAJRA  UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
		
		Do kết Ấn này với tụng Chân Ngôn nên liền 
		cảnh giác tất cả Kim Cương Thánh Chúng gia trì ủng hộ, hết thảy tội 
		chướng đều được tiêu diệt, tất cả bệnh khổ rốt ráo chẳng dính vào thân, 
		thường được Thể Kim Cương bền chắc
		
		Tiếp kết Đệ Nhị Căn Bản Ấn ( Dùng 
		Hộ Thân ): Hai tay cùng cài chéo nhau bên ngoài, kèm dựng thẳng 2 ngón 
		trỏ, 2 ngón cái, liền thành. Tụng Phật Mẫu Tâm Chân Ngôn, ấn 5 
		nơi trên thân là: vầng trán, vai phải, vai trái, trái tim, cổ họng rồi 
		bung Ấn trên đỉnh đầu. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Ca ma lê, vĩ ma lê, chuẩn nê, 
		sa-phộc hạ”
		
		OMÏ_ KAMALE  VIMALE  CUNÕDHE _ SVÀHÀ
		
		Lúc kết Ấn Hộ Thân thời khởi Tâm Đại Bi 
		duyên khắp 4 loài trong 6 nẻo. Nguyện cho tất cả Hữu Tình đều mặc áo 
		giáp Đại Thệ Trang Nghiêm Kiên Cố Kim Cương, mau chứng Vô Thượng Chính 
		Đẳng Bồ Đề.
		
		Tiếp kết Địa Giới Quyết Ấn: Hai 
		tay cùng cài chéo nhau bên trong. Dựng thẳng 2 ngón cái, 2 ngón trỏ, 2 
		ngón út đều hợp nhau. Co ngón trỏ trái như móc câu, rút kéo ngón cái 3 
		lần chỉ mặt đất ,liền thành. Một lần rút kéo thì tụng Chân Ngôn một lần. 
		Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Chuẩn nễ, nễ, chỉ la dã, sa-phộc 
		hạ”
		
		OMÏ  CUNÏDHE _ DHE _ KÌLÀYA _ SVÀHÀ
		
		Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn gia trì Địa 
		Giới cho nên bên dưới đến Thủy Tế như  Tòa Kim Cương. Thiên Ma với các 
		loài gây chướng chẳng dám gây não hại, chỉ thêm chút công sức mà mau 
		được thành tựu.
		
		Người Trì Tụng tiếp nên ở trong Đàn. Tâm 
		tưởng hoa sen lớn có 8 cánh, bên trên có Tòa Sư Tử. Trên Tòa có lầu gác 
		báu rũ treo các Anh Lạc, lụa, phan, phướng, lọng, cột báu bày hàng, rũ 
		treo áo khoác ngoài màu nhiệm ( Diệu Thiên Y). Chung quanh bày mây hương 
		tuôn mưa đủ loại hoa, dâng tấu các kỹ nhạc, bình báu, Ứ Già, thức ăn 
		uống màu nhiệm của cõi Trời, Ngọc Ma Ni làm đèn. Nếu không có Mạn Trà La 
		thì chỉ quán tưởng ở trong hư không, liền thành. Tác quán này xong, niệm 
		tụng Kệ là:
		
		Dùng lực công đức Ta
		
		Lực Như Lai gia trì
		
		Cùng với lực Pháp Giới
		
		Cúng dường khắp mà trụ
		
		Tụng Kệ này xong, liền tụng Đại Hư 
		Không Tạng Bồ Tát Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Nga nga nẵng, tam bà phộc, phộc 
		nhật-la, hộc”
		
		OMÏ_ GAGANA  SAMÏBHAVA   VAJRA  HOHÏ
		
		Do tụng Chân Ngôn này gia trì nên tưởng 
		vật cúng dường đều thành vật chân thật không khác, tất cả Thánh Chúng 
		đều được thọ dụng.
		
		Tiếp kết Bảo Xa Lạc Ấn: Hai tay 
		cùng cài chéo nhau bên trong. Ngửa lòng bàn tay, đặt 2 ngón trỏ nằm 
		ngang cùng trụ nhau, 2 ngón cái đều vịn dưới gốc ngón trỏ. Tưởng Xa Lạc 
		7 báu có Sứ Giả của Phật Bộ ngự nương chiếc xe 7 báu đó đi đến trong 
		cung điện của Tỳ Lô Giá Na Phật ở cung Trời A Ca Ni Tra ( Sắc Cứu Cánh 
		Thiên ) trên đỉnh của cõi Sắc, tụng Chân Ngôn 7 biến. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Đổ lỗ, đổ lỗ, hồng”
		
		OMÏ_ TURU  TURU  HÙMÏ
		
		Do tụng Chân Ngôn kết Ấn gia trì nên Xa 
		Lạc 7 báu đi đến đỉnh Sắc Giới. Phật Mẫu Chuẩn Đề với 8 vị Đại Bồ Tát và 
		các Thánh Chúng quyến thuộc vây quanh ngồi trên Xa Lạc 7 báu đó.
		
		Tiếp kết Thỉnh Xa Lạc Ấn: Dựa treo 
		Ấn trước, đem ngón cái hướng về thân, bạt ngón giữa liền thành.Tụng Chân 
		Ngôn 7 biến. Chân Ngôn là:
		
		“ Nẵng mạc tất-để-lị dã địa-vĩ  ca  nam, 
		đát tha nghiệt đa nam. Aùn_ Phộc nhật-lãng nghĩ yết lị-sái dã, sa-phộc 
		hạ”
		
		NAMAHÏ  STRIDHVIKANÀMÏ _ TATHÀGATÀNÀMÏ
		
		OMÏ_ VAJRÀMÏGNI  AKARSÏÀYA _ SVÀHÀ
		
		Do tụng Chân Ngôn gia trì cho nên Thánh 
		Chúng từ Bản Thổ đi đến Đạo Trường, trụ ở hư không.
		
		Tiếp kết Bản Tôn Ấn: Từ Xa Lạc 
		giáng hạ xuống Đạo Trường. Dựa theo Căn Bản Ấn thứ nhất lúc trước, đem 2 
		ngón cái hướng về thân triệu mời, tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê, ê hế duệ 
		tứ, bà nga phộc để, sa-phộc hạ”
		
		OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ EHYEHI  
		BHAGAVATI _ SVÀHÀ
		
		Tiếp kết Vô Năng Thắng Bồ Tát Ấn 
		tịch trừ loài gây chướng. Hai tay, bên phải đè bên trái, cài chéo bên 
		trong rồi nắm quyền. Dựng 2 ngón giữa sao cho đầu ngón hợp nhau, liền 
		thành. Nhiễu thân xoay 3 vòng bên trái, tác suy tư là:” Hết thảy loài 
		gây chướng, Tỳ Na Dạ Ca, các Quỷ Thần ác hãy mau chạy đi. Nơi Thánh 
		Chúng đến chẳng vượt qua Bản Tam Ma Gia Đại Bi mà trụ. Nguyện xin gia 
		hộ”. 
		
		“ Nẵng mạc tam mãn đa bột đà nam. Aùn_ Hộ 
		lỗ, hộ lỗ, chiến noa lý, ma đắng kỳ, sa-phộc hạ”
		
		NAMAHÏ  SAMANTA  BUDDHÀNÀMÏ _ OMÏ  HURU  
		HURU  CANÏDÏARI  MATANÕGI _ SVÀHÀ
		
		Tiếp kết Tường Giới Ấn: Dựa theo 
		Địa Giới Ấn lúc trước. Co ngón trỏ phải, giương ngón trỏ trái, xoay theo 
		bên phải 3 vòng, tùy Tâm gần xa, liền thành bức tường kiên cố. Chư Phật 
		Bồ Tát còn chẳng trái vượt huống chi các loài khó điều phục khác, Tỳ Na 
		Dạ ca với trùng độc, loài có nanh vuốt chẳng thể tiếp cận được. Chân 
		Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Chuẩn nễ, ninh, bát-la ca la gia, 
		sa-phộc hạ”
		
		OMÏ  CUNÕDHE _ DHE _ PRAKARÀYA _ SVÀHÀ
		
		Tiếp kết Thượng Phương Võng Giới Ấn:
		Dựa theo Tường Giới Ấn lúc trước. Giương ngón trỏ trái, bên phải đè 
		bên trái, sao cho lóng giữa giao nhau, liền thành. Tụng Chân Ngôn này 3 
		biến. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Chuẩn nễ, ninh, bán nhạ la, 
		sa-phộc hạ”
		
		OMÏ  CUNÕDHE _ DHE _ PAMÏJALA _ SVÀHÀ
		
		Tiếp kết Hỏa Viện Mật Phúng Ấn: 
		Đem tay trái che đậy tay phải sao cho lưng bàn tay trùng nhau, dựng 
		thẳng 2 ngón cái , liền thành. Tụng Chân Ngôn 3 biến, xoay theo bên phải 
		3 vòng, tưởng bên ngoài bức tường Kim Cương có lửa Kim Cương vây quanh. 
		Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ A tam mãng nghĩ nễ, hồng, phát 
		tra”
		
		OMÏ_ ASAMÀMÏGNI  HÙMÏ  PHATÏ
		
		Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn thành Đại 
		Kết Hộ Mật Phúng, chẳng bị các Ma nhập vào.
		
		Tiếp kết Ứ Già Ấn: Hai tay cài 
		chéo nhau bên trong, dựng 2 ngón giữa dính nhau, đem 2 ngón trỏ vịnlưng 
		2 ngón giữa, cạnh bên của 2 ngón cái phụ gốc 2 ngón trỏ, liền thành Căn 
		Bản Ấn. Dựa theo Căn Bản Ấn lúc trước, hơi co 2 ngón cái vào lòng bàn 
		tay liền thành Ứ Già Ấn, tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê, át kiềm, 
		bát-la để sai, bà nga phộc để, sa-phộc hạ”
		
		OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ ÀRGHÀMÏ  
		PRATICCHA  BHAGAVATI _ SVÀHÀ
		
		Hành Giả suy tư Thánh Chúng mỗi mỗi rõ 
		ràng. Tưởng thân của mình ở dưới chân của chư Phật, Thánh Chúng. Tay cầm 
		bình Ứ Già 7 báu chứa đầy nước thơm, rửa chân Thánh Chúng. Do hiến nước 
		thơm Ứ Già cho nên 3 nghiệp của Hành Giả được thanh tịnh, tẩy sạch vết 
		nhơ phiền não, tiêu diệt nghiệp chướng.
		
		Tiếp kết Liên Hoa Tòa Ấn: Dựa theo 
		Căn Bản Ấn lúc trước, kèm 2 ngón cái hướng về thân dựng thẳng. Vận tưởng 
		từ Ấn này tuôn ra vô lượng Tòa Sư Tử phụng hiến tất cả Thánh Chúng, các 
		Thánh Chúng ấy mỗi mỗi đều ngồi. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Ca ma la, sa-phộc hạ”
		
		OMÏ_ KAMALA _ SVÀHÀ
		
		Do kết Tòa Ấn tụng Chân Ngôn phụng hiến 
		Thánh Chúng cho nên Hành Giả sẽ mau được mãn túc 10 Địa, được Tòa Kim 
		Cương.
		
		Tiếp kết Táo Dục Ấn: Dựa theo Căn 
		Bản Ấn lúc trước, đem 2 đầu ngón cái vịn lóng giữa của 2 ngón giữa, liền 
		thành. Tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Giả, sa-phộc hạ”
		
		OMÏ _ CA _ SVÀHÀ
		
		Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh 
		sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng Hiền Bình 7 báu, tưởng đầy tràn 
		nước thơm màu nhiệm của cõi Trời rưới rót tắm rửa tất cả Thánh Chúng. 
		Lại tưởng trong hư không có vô lượng âm nhạc của cõi Trời cúng dường Bản 
		Tôn, các Phật Bồ Tát, tất cả Thánh Chúng.
		
		Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn cho nên 
		chẳng lâu Hành Giả sẽ chứng Pháp Vân Địa.
		
		Tiếp kết Đồ Hương Ấn:Dựa theo Căn 
		Bản Ấn lúc trước, đem 2 ngón cái nắm dính lóng dưới của ngón trỏ phải, 
		liền thành. Tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Lễ, sa-phộc hạ”
		
		OMÏ_ LE _ SVÀHÀ
		
		Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh 
		sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng mây biển hương bột, dầu thơm 
		màu nhiệm của cõi Trời cúng dường Bản Tôn, Chư Phật Bồ Tát, tất cả Thánh 
		Chúng.
		
		Do kết Ấn tụng Chân Ngôn cho nên sẽ chứng 
		Hương Giới, Định , Tuệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến của tất cả Như 
		Lai.
		
		Tiếp kết Hoa Ấn: Dựa theo Căn Bản 
		Ấn lúc trước, đem 2 ngón cái nắm dính lóng dưới của ngón trỏ trái, liền 
		thành. Tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Chủ, sa-phộc hạ”
		
		OMÏ_ CU _ SVÀHÀ
		
		Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh 
		sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng mây biển hoa màu nhiệm của cõi 
		Trời cúng dường Bản Tôn, chư Phật Bồ Tát, tất cả Thánh Chúng.
		
		Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn cho nên sẽ 
		được thành tựu Đại Từ Tam Ma Địa, hay lợi lạc cho vô biên chúng sinh, 
		thân chẳng dính các tai nạn.
		
		Tiếp kết: Thiêu Hương Ấn Dựa theo 
		Căn Bản Ấn lúc trước, co ngón trỏ phải vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. 
		Tụng Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Lễ, sa-phộc hạ”
		
		OMÏ_ LE _ SVÀHÀ
		
		Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh 
		sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng hòa hợp câu sinh mây biển hương 
		đốt màu nhiệm của cõi Trời cúng dường Bản Tôn, các Thánh Chúng.
		
		Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn cho nên sẽ 
		được thành tựu Phổ Mãn Pháp Giới Tam Ma Địa.
		
		Tiếp kết Aåm Thực Ấn: Dựa theo Căn 
		Bản Ấn lúc trước, đem ngón trỏ trái vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Tụng 
		Chân Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Chuẩn, sa-phộc hạ”
		
		OMÏ_ CUNÕ _ SVÀHÀ
		
		Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh 
		sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng mây biển mọi thức ăn uống màu 
		nhiệm của cõi Trời cúng dường Bản Tôn, chư Phật Bồ Tát, tất cả Thánh 
		Chúng sẽ được thành tựu Pháp Hỷ Thiền Duyệt Thực Tam Giải Thoát Tối 
		Thắng Vị Tam Ma Địa.
		
		Tiếp kết Đăng Ấn: Dựa theo Căn Bản 
		Ấn lúc trước, đem 2 ngón trỏ vịn đầu 2 ngón cái, liền thành. Tụng Chân 
		Ngôn 3 biến. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Nê, sa-phộc hạ”
		
		OMÏ _ DHE _ SVÀHÀ
		
		Tưởng từ Ấn này tuôn ra vô lượng ánh 
		sáng, mỗi một đường ánh sáng có vô lượng mây biển mọi loại đèn đuốc 7 
		báu màu nhiệm của cõi Trời cúng dường Bản Tôn, chư Phật Bồ Tát, tất cả 
		Thánh Chúng sẽ được Bát Nhã Ba La Mật Quang Minh Ngũ Nhãn Thanh Tịnh.
		
		Tiếp tụng Tán Thán:
		
		A phộc đát la tả đổ la-ná xá la-đà , 
		sa-ma la , lị bổ cú trí, bát-la noa ma bả ná vĩ tứ đế. A giả lễ đát tai 
		sa lị tố nễ, tổ lễ tất đình, tư chuẩn nê tát-la muộn để nam. Sa phộc xả 
		ma nễ, sa-phộc hãn đế , tát phả-la noa phệ. 
		
		Đát-nễ dã tha: Ngật-lệ la noa nghiệt đế. 
		A vĩ nễ đa tát đát-phộc, ná ma nãnh-la cức na lộ ca đát-la dã, la-tha ca 
		lợi la ngật-đa la-vĩ na thú tị nãnh bá đát-la , ca la đạc ngật-sử nãnh, 
		sa-phổ châm tất-thể đát-phộc. Chuẩn đề đa ma la-tham sắt-châm lý khư, 
		nhạ nẵng nẵng, na nễ để, ma đế, nẵng phả-la nẵng phả-la , khố-vũ địa lệ 
		la thủy lê dã. Tát-đát phạm, đế la nhĩ-diễm nhạ bế đát-mẫu nãnh, mạo nễ, 
		phộc nhật-lị, đảm chỉ la đà niệm , tố la tị bổ bà phộc nam. Phả-la phệ 
		xả dã để. 
		
		A lị-dã phộc lộ chỉ đế , bá tất đình, để 
		nặc tăng xả gian, tát đát đa nhạ bả đa nẵng tất-để tát-đát-phạm. Nẵng na 
		ná nhạ nghiệt để khẩn chỉ nễ-dã, yết-để tỳ-dược. Nhất để sa ca la bả phả 
		nẵng xá ninh, bà nga phộc để, phả xỉ đa ma đát-la tất địa. Ca lị , bố la 
		dã, ma nỗ la tham minh cức ná để nẵng đát-phạm, sa-ma lãm ca thất-tử đa.
		
		Bà nga phộc để, chuẩn nê đà la ni, tát-đố 
		đát-la tát ma phả-đa.
		
		 
		
		Tiếp nói Bản Tôn Đà La Ni Bố Tự Pháp
		
		Từ đỉnh đầu cho đến chân, quán mỗi một 
		chữ của Chân Ngôn cong quẹo rõ ràng tuôn ra ánh sáng chiếu soi Hữu Tình 
		luân hồi theo 4 cách sinh trong 6 nẻo, khởi sâu lòng thương xót ban cho 
		an vui.
		
		Dùng 9 chữ của Đà La Ni an bày nơi thân 
		của Hành Giả, liền thành. Dùng Như Lai Ấn, 8 vị Đại Bồ Tát làm nơi gia 
		trì thân.
		
		Nếu tác Tức Tai ( ‘Sàntika ) , Tăng Ích ( 
		Pusïtïika ) , Kính Aùi ( Va’sikaranïa), Giáng Phục ( Abhicàruka ) .Tùy 
		theo 4 loại Pháp là màu trắng, màu vàng, màu đen, màu đỏ để thành biện 
		Tất Địa.
		
		Liền kết Bố Tự Ấn: Hai tay cài 
		chéo nhau bên trong. Dựng thẳng 2 ngón cái, 2 ngón trỏ, 2 ngón út cùng 
		hợp nhau liền thành.
		
		Tưởng chữ Aùn (            _OMÏ ) 
		đặt ở đỉnh đầu, dùng ngón cái chạm trên đầu
		
		Tưởng chữ Giả (            _JA  
		?            _ CA ) lại dùng ngón cái chạm trên mắt phải mắt trái
		
		Tưởng chữ Leã (            _ LE ) 
		an ở trên cổ, dùng ngón cái chạm vào
		
		Tưởng chữ Chuû (           _CO 
		?            _CU ) ngang trái tim, dùng ngón cái chạm vào
		
		Tưởng chữ Lễ (            _LE ) an 
		ở vai trái, vai phải. Dùng ngón cái chạm vào
		
		Tưởng chữ Chuẩn (            _CA 
		?                      _ CUNÕ )an ở trên rốn, dùng ngón cái chạm vào
		
		Tưởng chữ Neâ (            _NDE 
		?            _DHE ) an trên đùi phải, đùi trái. Dùng ngón út chạm vào.
		
		Tưởng chữ Sa-phộc (            _ 
		SVÀ ) an ở bắp chân phải, bắp chân trái. Dùng ngón út chạm vào.
		
		Tưởng chữ Ha (            _ HÀ ) 
		an trên lòng bàn chân phải, lòng bàn chân trái. Dùng ngón út chạm vào.
		
		Do tưởng bày Chân Ngôn kết Ấn gia trì cho 
		nên thân của Hành Giả liền thành thân của Chuẩn Nê Phật Mẫu, tiêu diệt 
		tất cả nghiệp chướng, gom chứa vô lượng phước đức cát tường. Thân ấy 
		thành thể Kim Cương Bất Hoại.
		
		Nếu thường chuyên chú Quán Hạnh thì tất 
		cả Tất Địa đều được hiện tiền, mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề.
		
		Tiếp kết Căn Bản Ấn, tụng Căn Bản Chân 
		Ngôn 7 biến rồi bung Ấn trên đỉnh đầu.
		
		Liền lấy đủ 108 hạt Bồ Đề, y theo Pháp 
		xâu xỏ thành tràng hạt. Liền lấy dầu thơm xoa bôi trên tràng hạt ấy. 
		Dùng 2 tay nâng tràng hạt ngang trái tim, tụng Chân Ngôn 7 biến gia trì 
		tràng hạt. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Vĩ lô giả na, ma la, sa-phộc hạ”
		
		OMÏ_ VAIROCANA  AMALA _ SVÀHÀ
		
		Gia trì đội trên đỉnh đầu. Tâm miệng tác 
		lời Nguyện là:” Nay con muốn niệm tụng. Nguyện xin Bản Tôn , chư Phật 
		Bồ Tát gia trì hộ niệm. Nguyện khiến cho mau được tùy ý viên mãn Tất Địa 
		mong cầu”
		
		Sau đó dùng ngón vô danh , ngón cái của 
		tay trái đỡ tràng hạt. Dùng ngón cái, ngón vô danh của tay phải lần dời 
		hạt châu. Tay có tướng như Thuyết Pháp đặt ở trước trái tim, cầm tràng 
		hạt niệm tụng. Tiếng niệm ấy chẳng chậm chẳng gấp. Quán thân của mình 
		đồng với thân của Bản Tôn với đầy đủ tướng tốt.
		
		Lại ở trước thân, trong Đàn quán tưởng 
		Thất Câu Chi Phật Mẫu với quyến thuộc vây quanh, mỗi mỗi rõ ràng đối 
		diện chỗ ngồi của mình. Mỗi lần xưng shữ Sa-phộc ha ( SVÀHÀ ) 
		đồng thời lần dời một hạt. Hoặc 108, hoặc 1080 làm biến số niệm tụng, 
		thường nên có hạn định. Nếu chẳng mãn 108 biến tức chẳng đủ cầu biến số 
		của Tất Địa.
		
		Niệm tụng xong rồi. Cầm tràng hạt ở trong 
		lòng bàn tay đưa lên đỉnh đầu đội rồi phát nguyện. Tác lời Nguyện là:” 
		Dùng công đức niệm tụng của con, tất cả chúng sinh đã tu Hạnh Chân Ngôn 
		cầu Tất Địa Thượng, Trung, Hạ sẽ mau được thành tựu”. Xong rồi đặt 
		tràng hạt vào trong cái hộp.
		
		Liền kết Định Ấn, thân ngay thẳng, nhắm 
		mắt, lắng Tâm, định Ý. Nên ở trong thân, ngay ức ngực tỏa hiện ánh sáng 
		tròn trịa ( Viên Minh ) như trăng tròn sáng rực rỡ, khởi đại tinh tiến, 
		quyết định thủ chứng. Nếu chẳng lười biếng mà chuyên công ắt sẽ được Tâm 
		thanh tĩnh của cội nguồn.
		
		Ở trong Viên Minh , tưởng chữ Aùn, 8 chữ 
		còn lại chuyển theo bên phải an bày trên viên minh. Ở trong Định cần 
		thấy chữ của Chân Ngôn rõ ràng chẳng tán động sẽ được Định tức tương ứng 
		với Bát Nhã Ba La Mật. Liền vẽ Viên Minh Nguyệt Luân
		
		Tiếp nên suy tư về nghĩa của Tự Mẫu 
		Chủng Tử
		
		Chữ Aùn (            _ OMÏ ) nghĩa 
		là 3 Thân, cũng có nghĩa là tất cả Pháp vốn chẳng sinh
		
		Chữ Giả (            _ CA ) nghĩa 
		là tất cả Pháp chẳng sinh chẳng diệt
		
		Chữ Lễ (            _LE ) nghĩa là
		tất cả Pháp Tướng không có sở đắc
		
		Chữ Chuû (            _CO 
		?            _CU ) nghĩa là tất cả Pháp không có sinh diệt
		
		Chữ Lễ (            _LE ) nghĩa là
		tất cả Pháp không có dơ bẩn ( vô cấu )
		
		Chữ Chuẩn (            _CU 
		?                      _ CUNÕ ) nghĩa là tất cả Pháp không có Đẳng 
		Giác ( Vô Đẳng Giác )
		
		Chữ Neâ (            _NDE 
		?            _DHE ) nghĩa là tất cả Pháp không có lấy bỏ (Vô thủ 
		xả )
		
		Chữ Sa-phộc (            _ SVÀ ) 
		nghĩa là tất cả Pháp bình đẳng không có ngôn thuyết
		
		Chữ Ha (            _ HÀ ) nghĩa 
		là tất cả Pháp không có Nhân ( vô nhân )
		
		Do tất cả Pháp vốn chẳng sinh nên liền 
		được chẳng sinh chẳng diệt
		
		Do chẳng sinh chẳng diệt nên liền được 
		tướng không có sở đắc
		
		Do tướng không có sở đắc nên liền được 
		không có sinh diệt
		
		Do không có sinh diệt nên liền được không 
		có dơ bẩn
		
		Do không có dơ bẩn nên liền được không có 
		Đẳng Giác
		
		Do không có Đẳng Giác nên liền được không 
		có lấy bỏ
		
		Do không có lấy bỏ nên liền được bình 
		đẳng không có ngôn thuyết
		
		Do bình đẳng không có ngôn thuyết nên 
		liền được không có Nhân không có Quả, tương ứng Bát Nhã không có sở đắc 
		dùng làm phương tiện nhập vào Thắng Nghĩa, chân thật chứng Pháp Giới 
		Chân Như.
		
		Dùng đây làm Tam Ma Địa Niệm Tụng
		
		Xong rồi nên kết Căn Bản Ấn
		
		Tiếp nên kết Táo Dục Ấn
		
		Tiếp kết Ngũ Cúng Dường Ấn
		
		Tiếp tụng Tán Thán hiến Ứ Già
		
		Tiếp kết A Tam Ma Nghĩ-nễ Ấn ( 
		Asamàmïgni  Mudra ) chuyển bên trái một vòng giải Giới.
		
		Tiếp kết Bảo Xa Lạc Ấn. Đem ngón cái 
		hướng ra ngoài bật đầu ngón giữa Phụng Tống Thánh Giả quay về Bản 
		Cung. Phụng Tống Chân Ngôn là:
		
		“Aùn_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê, nghiệt xa 
		nghiệt xa, bà nga phộc để, sa-phộc bà phộc nam, bố ná la nga ma na dã, 
		sa-phộc hạ”
		
		OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ GACCHA  
		GACCHA  BHAGAVATI  SVABHÀVÀNÀMÏ  BUDDHA  ÀRGHA  MANÀYA _ SVÀHÀ
		
		Tiếp kết 3 Bộ Tam Ma Gia Ấn, đều tụng 
		Chân Ngôn, nhiễu một lần lễ Phật. Như trước Sám Hối, Tùy Hỷ, Khuyến 
		Thỉnh, Phát Nguyện, Hồi Hướng Vô Thượng Bồ Đề, tùy ý kinh hành, chuyển 
		đọc Kinh Điển Đại Thừa : Hoa Nghiêm, Đại Bát Nhã Kinh… ấn Tháp Tượng, 
		tắm rửa Xá Lợi. Xoay quanh theo bên phải nghĩ 6 Niệm, dùng nhóm Phước 
		hồi hướng Tất Địa mà mình mong cầu.
		
		Tiếp nói về 4 loại Pháp:Tức Tai, Tăng 
		Ích, Kính Aùi, Điều Phục
		
		Pháp Phiến Để Ca ( ‘Sàntika ) : 
		Cầu diệt tội, chuyển chướng, trừ tai họa. Quỷ Mỵ, bệnh tật, tù cấm, gông 
		cùm, dịch bệnh, quốc nạn, mưa nắng không đều, sâu trùng làm tổn hoại lúa 
		non, 5 Tinh ( Tinh Tú ) xâm bức Bản Mệnh… thảy đều trừ diệt, giải thoát 
		phiền não. Đây gọi là Pháp Tức Tai.
		
		Lúc tác Pháp này thời mặc áo trắng, hướng 
		mặt về phương Bắc, chéo ống chân dựng đầu gối ngồi theo thế Cát Tường. 
		Quán Bản Tôn màu trắng. Cúng dường thức ăn uống, quả trái, hương hoa, 
		đèn đuốc, đất… thảy đều màu trắng. Từ mồng một của tháng đến ngày mồng 8 
		. Mỗi ngày 3 Thời niệm tụng, ban đêm làm Hộ Ma . Tức Tai Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê ( Khiến 
		cho con tên….Nếu vì người khác thì niệm tụng xưng tên của người ấy ) , 
		phiến để ,  củ lỗ, sa-phộc hạ”
		
		OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE ( Khiến cho con 
		…. ) ‘SÀNTÏIMÏ  KURU _ SVÀHÀ
		
		Pháp Bổ Sắt Trưng Ca ( Pusïtïika ) 
		: Cầu diên mệnh ( sống lâu ) quan vinh, phục tàng, quan sang, thông tuệ, 
		nghe giữ chẳng quên, thành tựu Pháp Thuốc, thành tựu chày Kim Cương… 
		Hoặc làm hình của loài sư tử, voi, ngựa. Dùng Chân Ngôn gia trì hiện 3 
		tướng. Tùy mong cầu Thượng, Trung, Hạ sẽ được Quả như Tất Địa rộng 
		nói.Muốn cầu Trì Minh Tiên, vào hang A Tô La với cầu vào hang của các 
		Quỷ Thần trong 8 Bộ đều được, chứng địa vị thần thông, cầu 2 loại tư 
		lương sẽ được đầy đủ, mau thành Vô Thượng Bồ Đề. Đây gọi là Pháp Tăng 
		Ích.
		
		Lúc tác Pháp này thời thân mặc áo vàng, 
		hướng mặt về phương Đông, ngồi Kiết Già. Quán Bản Tôn màu vàng. Cúng 
		dường hương hoa, thức ăn uống, quả trái, đèn đuốc, đất… thảy đều màu 
		vàng. Từ ngày mồng 8 của tháng đến ngày 15. Mỗi ngày 3 Thời niệm tụng, 
		ban đêm làm Hộ Ma. Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê ( Khiến 
		cho con… ) Bổ sắt trưng, củ lỗ, sa-phộc hạ”
		
		OMÏ _ CALE  CULE  CUNÕDHE ( Khiến cho 
		con… ) PUSÏTÏIMÏ  KURU _ SVÀHÀ
		
		 Pháp Phạt Thí Ca La Noa ( 
		Va’sikaranïa ). Nếu muốn khiến cho tất cả người nhìn thấy phát Tâm vui 
		vẻ. Nhiếp phục câu triệu hoặc nam hoặc nữ, 8 Bộ Trời Rồng, nữ Dược Xoa 
		với nhiếp phục Quỷ Thần khó giáng phục hoặc kẻ oán địch gây ra việc 
		chẳng nhiêu ích đều khiến cho hồi tâm vui vẻ, chư Phật hộ niệm gia trì. 
		Đây gọi là Pháp Nhiếp Triệu Kính Aùi.
		
		Người tác Pháp này. Thân mặc áo đỏ, hướng 
		mặt về phương Tây, dựng 2 đầu gối kèm ống chân ngồi theo thế Hiền Tọa. 
		Quán Bản Tôn với chỗ cúng dường, hương hoa, thức ăn uống, quả trái, đèn 
		đuốc, đất… đều là màu đỏ. Từ ngày 16 đến ngày 23. Mỗi ngày 3 Thời niệm 
		tụng, ban đêm tác Hộ Ma. Nhiếp Triệu Chân Ngôn là:
		
		“ Aùn_ Giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê ( Khiến 
		cho con… ) phộc thí , củ lỗ, sa-phộc hạ”
		
		OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE ( Khiến cho 
		con…. ) VA’SI  KURU _ SVÀHÀ
		
		Pháp A Tỳ Già Lỗ Ca ( Abhicàruka ) 
		: Phạm 5 tội Vô Gián, phỉ báng Đại Thừa Phương Quảng, giết hại Phật 
		Tính, bội nghịch Quân Chủ, rối loạn Chính Pháp… Đối với người như vậy, 
		khởi sâu Bi Mẫn nên tác Pháp Giáng Phục.
		
		Lấy phân lừa hoặc phân lạc đà, hoặc tro 
		thiêu xác… đem dùng xoa tô Đàn. Lúc tác Pháp này thời thân mặc áo đen 
		hoặc áo xanh, hướng mặt về phương Nam, ống chân trái đè ống chân phải 
		ngồi theo thế Tông Cứ Tọa ( Ngồi xổm ) . Quán Bản Tôn màu đen. Lấy hoa 
		màu đen hay màu xanh có mùi hôi thối không có mùi thơm cúng dường. Nơi 
		cúng dường, thức ăn uống, hương hoa, quả trái, đèn đuốc, đất… đều là màu 
		đen hoặc màu xanh. Từ ngày 23 của tháng cho đến ngày cuối tháng. Chọn 2 
		thời niệm tụng là giờ Ngọ và nửa đêm ( giờ Tý ) , ban đêm tác Hộ Ma.Chân 
		Ngôn là:
		
		“ Hồng, giả lễ, chủ lễ, chuẩn nê ( Khiến 
		cho con….. ) phá-la nẫm, già đa gia, hồng, phát tra”
		
		HÙMÏ  CALE  CULE  CUNÕDHE ( Khiến cho 
		con…. ) PRANÀMÏ  JATÏÀYA _ SVÀHÀ
		
		Tiếp nói Pháp vẽ Tượng Chuẩn Nê Phật 
		Mẫu:
		
		Lấy một mảnh lụa trắng chưa bị cắt. Loại 
		bỏ lông, tóc rồi treo ở bức tường sạch. Trước tiên nên xoa tô Đàn. Tùy 
		sức đem Ứ Già, thức ăn uống mà cúng dường. Họa Sư nên thọ 8 Giới Trai 
		trong sạch vẽ Tượng. Trong thái sắc ấy đừng dùng keo nấu bằng da thú, 
		điều phối màu sắc trong vật khí mới. Nên vẽ Tượng Chuẩn Đề Phật Mẫu với 
		thân màu trắng vàng, ngồi Kiết Già trên hoa sen, thân tỏa hào quang tròn 
		có dính hạt thóc nhẹ như áo của 10 Ba La Mật Bồ Tát, phía trên bên dưới 
		đều tác màu trắng. Lại góc áo khoác ngoài ( Thiên Y ) có quấn anh Lạc, 
		đội Mão Trời, cánh tay đều đeo vòng xuyến. Đàn Tuệ ( 2 bàn tay ) đều đeo 
		vòng báu. Mặt Tượng ấy có 3 mắt, 18 cánh tay.
		
		Hai tay bên trên tác tướng Thuyết Pháp
		
		Bên phải: Tay thứ hai tác Thí Vô Úy, tay 
		thứ ba cầm cây Kiếm, tay thứ tư cầm vòng hoa báu, lòng bàn tay thứ năm 
		cầm Cụ Duyên Quả, tay thứ sáu cầm cây Búa, tay thứ bảy cầm Móc Câu, tay 
		thứ tám cầm chày Kim Cương, tay thứ chín cầm Tràng Hạt.
		
		Bên trái: Tay thứ hai cầm cây Phướng báu 
		Như Ý, tay thứ ba cầm Hoa Sen hồng hé nở, tay thứ tư cầm Quân Trì, tay 
		thứ năm cầm Sợi Dây, tay thứ sáu cầm Bánh Xe, tay thứ bảy cầm Thương Khư 
		(‘Sanõkha_Vỏ ốc ) , tay thứ tám cầm Hiền Bình, tay thứ chín cầm rương 
		Kinh Bát Nhã.
		
		Bên dưới hoa sen vẽ ao nước. Trong ao có 
		Long Vương Nan Đà ( Nanda Nàga ràja ) , Long Vương Ổ Ba Nan Đà ( 
		Upananda Nàga ràja ) nâng tòa hoa sen.
		
		 Bên trái vẽ người Trì Minh , tay cầm lò 
		hương chiêm ngưỡng Thánh Giả. Chuẩn Đề Phật Mẫu thương xót người Trì 
		Minh, hướng mắt nhìn xuống.
		
		Bên trên vẽ 2 vị Tĩnh Cư Thiên Tử, một vị 
		tên là Cụ Sách Đà Thiên Tử, tay cầm vòng hoa hướng xuống dưới, nương 
		theo trên hư không đến cúng dướng Thánh Giả.
		
		Vẽ Tượng xong. Tùy sức Tăng Thứ, thỉnh 7 
		vị Tăng cúng dường, bày ánh hào quang, chú nguyện, tán thán.
		
		Ở bên dưới Tượng vẽ bài Kệ Pháp Thân 
		Duyên Khởi. Rồi đem Tượng để ở Tinh Thất, bí mật cúng dường. Dùng lụa 
		phủ kín Tượng, lúc niệm tụng thì bỏ mảnh lụa che ra, chiêm  lễ cúng 
		dường. Niệm tụng xong lại dùng lụa che kín không cho người khác thấy. 
		Tại sao thế ? Vì theo Thầy thọ Pháp Nghi Quỹ vẽ Tượng, nếu truyền cho 
		người xem Tượng thì Ma kia được dịp thuận tiện gây rối, nên phải giữ bí 
		mật.
		
		THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU SỞ THUYẾT ĐÀ LA NI 
		KINH
		
		( Hết )
		
		
		                                                                                      
		02/03/2004
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		
 
		Mật Tạng Bộ 3 _ No.1077 ( Tr.185_ Tr.186 
		)
		
		 
		
		PHẬT THUYẾT THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU TÂM ĐẠI 
		CHUẨN ĐỀ ĐÀ LA NI KINH
		
		 
		
		Hán dịch : Đời Đường_ Thiên Trúc Tam Tạng 
		ĐỊA BÀ HA LA
		
		Việt dịch : HUYỀN THANH
		
		 
		
		Một thời Đức Phật ngự tại vườn Kỳ Thọ Cấp 
		Cô Độc trong nước Xá Vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn suy tư quán sát thương xót 
		các chúng sinh đời vị lai nên nói Pháp Thất Câu Đê Phật Mẫu Tâm Chuẩn 
		Đề Đà La Ni đó. Liền nói Chú là:
		
		“ Nam mô táp đá nam, tam miệu tam một đà, 
		câu đê nam. Đát điệt tha: Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chẩn đề, sa bà ha”
		
		NAMO  SAPTANÀMÏ  SAMYAKSÏAMÏBUDDHA  
		KOTÏINÀMÏ
		
		TADYATHÀ : OMÏ _ CALE  CULE  CUNÕDHE_ 
		SVÀHÀ
		
		Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu 
		Bà Di thọ trì đọc tụng Đà La Ni này đủ 80 vạn biến thì vô lượng kiếp tới 
		có gây tạo nhóm 5 Vô Gián, tất cả các tội thảy đều tiêu diệt. Ở nơi sinh 
		ra đều được gặp thẳng các Phật, Bồ Tát. Hết thảy tư cụ tùy ý sung túc, 
		đời đời thường được xuất gia, trì đủ Luật Nghi  Tịnh Giới của Bồ Tát. 
		Hằng sinh làm Người, Trời chẳng bị đọa vào nẻo ác,thường là nơi Thủ Hộ 
		của chư Thiên.
		
		Nếu có hàng Nam Nữ thiện tại gia tụng trì 
		thì nhà ấy không có tai hoạnh, bệnh khổ gây ra não hại được. Mọi việc 
		tạo tác trong chư Hữu ( các cõi ) không có gì không có đồng bạn, ngôn 
		ngữ nói ra được người tin nhận.
		
		Nếu tụng Đà La Ni này đủ 10 vạn biến thì 
		trong mộng được thấy chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác. Tự thấy 
		trong miệng nôn ra vật màu đen. Nếu có tội nặng, tụng đủ 20 vạn biến thì 
		trong mộng cũng thấy chư Phật Bồ Tát, cũng tự thấy nôn ra vật màu đen.
		
		Nếu có 5 Tội Nghịch chẳng được mộng tốt 
		như vậy thì cần phải tụng đủ 70 vạn biến, lúc đó lại được tướng như 
		trước cho đến mộng thấy nôn ra màu trắng như lạc, cơm… Nên biết người 
		này được tướng thanh tĩnh diệt tội.
		
		Lại nữa nay Ta nói việc tạo làm của Đà La 
		Ni này. Nếu ở trước tượng Phật hoặc ở trước Tháp hoặc nơi thanh tịnh. 
		Dùng Cù Ma Di xoa tô đất rồi làm cái Đàn hình vương, lớn nhỏ tùy ý. Lại 
		đem hoa, hương, phan, lọng, thức ăn uống, đèn, đuốc tùy theo sức bày 
		biện mà cúng dường.Lại chú vào nước thơm rải ở 4 phương,trên, dưới dùng 
		để Kết Giới. Ở 4 góc Đàn với chính giữa Đàn đều để một cái bình nước 
		thơm. Người Trì Chú ở trong Đàn ấy, hướng mặt về phương Đông, quỳ dài 
		tụng Chú 1008 biến thì bình nước thơm ấy tự chuyển động. Xoa tay nâng 
		tạp hoa ( Đủ loại hoa ) chú 1008 biến rải lên mặt gương. Lại ở trước 
		gương chính quán, tụng Chú cũng 1008 biến rồi rải cúng dường. Tùy theo 
		Pháp thỉnh hỏi, không có gì không quyết xong.
		
		Nếu có bệnh Quỷ, dùng chú vào cỏ tranh 
		rồi phẩy quét người bệnh, liền được trừ khỏi.
		
		Nếu có con nít bị Quỷ ám. Dùng chỉ Ngũ 
		Sắc nên nhờ Đồng Nữ xe thành sợi dây, cú một lần Chú thì một lần kết 
		gút, đủ 21 gút dùng buộc trên cổ đứa bé ấy. Dùng hạt cải, chú đủ 7 biến 
		rồi rải lên mặt tức liền trừ khỏi.
		
		Tiếp lại có Pháp. Ở trước người bệnh, 
		dùng mực vẽ hình người ấy, chú vào cành Dương Liễu rồi đánh vào hình vẽ 
		ấy thì cũng được trừ khỏi bệnh.
		
		Tiếp lại có Pháp. Nếu đi trên đường, tụng 
		Chú này thì không có nhóm giặc cướp, trộm cắp, thú ác nào gây sợ hãi 
		được.
		
		Tiếp lại có Pháp. Thường trì Chú này, giả 
		sử có tranh tụng thì không có gì không được thắng.
		
		Nếu muốn vượt qua sông nhỏ, sông lớn, 
		biển lớn , tụng Chú rồi vượt qua thì không có loài thú ác nào trong nước 
		gây ra nạn được.
		
		Tiếp lại có Pháp. Nếu bị cột trói, cấm 
		nhốt, gông cùm, cấm đoán thân ấy. Tụng Chú này liền được giải thoát.
		
		Tiếp lại có Pháp. Nếu các quốc thổ bị 
		nguồn nước khô cạn chẳng điều hòa, dịch độc lưu hành. Nên lấy bơ hòa với 
		Hồ Ma, gạo tẻ. Dùng 3 ngón tay lấy một nhúm, chú vào 1 biến rồi ném 
		trong lửa thiêu đốt. Hoặc trải qua 7 ngày 7 đêm , 6 thời như vậy liên 
		tục chẳng dứt thì tất cả tai dịch thảy đều tiêu diệt.
		
		Tiếp lại có Pháp. Ở trên cồn cát bên sông 
		đầm. Dùng Ấn ấn lên cát làm hình tượng cái Tháp. Tụng Chú một biến thì 
		ấn thành một cái tháp, đủ 60 vạn lần. Hoặc thấy Quán Thế Aâm Bồ Tát,hoặc 
		thấy Đa La Bồ Tát, hoặc thấy Kim Cương Thủ Bồ Tát. Tùy Tâm mong cầu đều 
		được mãn túc. Hoặc trao cho Thuốc Tiên, hoặc thấy cho nhận Bồ Đề Ký.
		
		Tiếp lại có Pháp. Nhiễu quanh bên phải 
		Tượng cây Bồ Đề, tụng Chú đủ 1000 vạn biến liền thấy Bồ Tát vì người đó 
		nói Pháp. Muốn tùy theo Bồ Tát liền được tùy tòng.
		
		Tiếp lại có Pháp. Tiếp lại có Pháp. Nếu 
		lúc khất thực thời thường trì Chú này sẽ chẳng bị đẳng loại người ác, 
		chó ác gây não hại.
		
		Nếu ở trước Tháp, hoặc trước Tượng Phật, 
		hoặc trước Tháp Xá Lợi tụng trì Chú này 30 vạn biến. Lại vào ngày 15 của 
		kỳ Bạch Nguyệt làm cúng dường lớn, một ngày một đêm chẳng ăn chỉ niệm 
		tụng Chú cho đến được thấy Kim Cương Thủ Bồ Tát thì vị Bồ Tát ấy liền 
		đem người này đến ở nơi cung của mình.
		
		Tiếp lại có Pháp. Nếu ở trước tháp Chuyển 
		Luân Vương, hoặc ở trước tháp nơi Đức Phật sinh ra, hoặc ở trước tháp 
		của thếm báu mà Đức Phật đi từ Trời Đao Lợi xuống, tụng Chú nhiễu quanh 
		bên phải liền thấy Bồ Tát A Bát La Thị Đa ( Aparajita_ Vô Năng Thắng ) 
		với Bồ Tát Ha Lợi Đề ( Hàrïtye_ Quỷ Tử Mẫu ) thì tùy theo ước nguyện 
		thảy đều mãn túc. Nếu cần Thuốc Tiên liền được trao cho, lại vì người ấy 
		nói Pháp hiển bày Bồ Tát Đạo.
		
		Nếu có người tụng Đà La Ni này cho đến 
		chưa ngồi Đạo Trường thì tất cả Bồ Tát thường làm bạn tốt.
		
		Lại Chú Pháp của Chuẩn Đề Đà La Ni này là 
		điều mà tất cả chư Phật đời quá khứ đã nói, tất cả chư Phật đời vị lai 
		sẽ nói, tất cả chư Phật đời hiện tại đang nói. Nay Ta cũng nói như vậy, 
		vì lợi ích cho tất cả chúng sinh nên khiến cho được Vô Thượng Bồ Đề.
		
		Nếu có chúng sinh kém phước không có chút 
		căn lành. Nếu được nghe Pháp Đà La Ni này sẽ mau chóng chứng được A Nậu 
		Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ( Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác ).
		
		Nếu có người hay tự mình ghi nhớ, tụng 
		trì Chú này thì vô lượng căn lành đều được thành tựu.
		
		Đức Phật nói Pháp Đại Chuẩn Bồ Đề Đà La 
		Ni này thời vô lượng chúng sinh mau lìa bơn nhơ được công đức Đại Minh 
		Chú của Đại Chuẩn Đề Đà La Ni, được thấy chư Phật, Bồ Tát, các hàng 
		Thánh chúng ở 10 phương tác lễ rồi lui ra.
		
		Một quyển Kinh Thất Câu Đê Phật Mẫu 
		Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni này được trích ra từ trong sáu vạn bài Kệ 
		của Đại Minh Chú Tạng
		
		
		                                                                     
		20/10/2002
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		
 
		Mật Tạng Bộ 3 _ No.1078 ( Tr.186_ Tr.187 
		)
		
		 
		
		THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU TÂM 
		
		ĐẠI CHUẨN ĐỀ ĐÀ LA NI PHÁP
		
		 
		
		Hán dịch : Đời Đường_ THIỆN VÔ ÚY phụng 
		chiếu dịch
		
		Việt dịch : HUYỀN THANH
		
		 
		
		“Na ma táp đá nẫm, tam miệu tam bột đà, 
		câu đê nẫm. Đát điệt tha: Aùn_ Chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, sa-phộc ha”
		
		
		NAMAHÏ  ( ? NAMO ) SAPTANÀMÏ  
		SAMYAKSÏAMÏBUDDHÀ  KOTÏINÀMÏ
		
		TADYATHÀ : OMÏ_ CALE  CULE  CÀDDHE ( ? 
		CUNÕDHE )_ SVÀHÀ
		
		Tổng Nhiếp 25 Bộ Đại Mạn Trà La Ấn: 
		Đem 2 ngón vô danh, 2 ngón út cùng cài chéo nhau ở bên trong, dựng thẳng 
		2 ngón giữa cùng trụ nhau, co 2 ngón trỏ phụ lóng thứ nhất của 2 ngón 
		giữa, 2 ngón cái vịn lóng giữa của 2 ngón vô danh.Nếu có Triệu Thỉnh
		thì đưa 2 ngón trỏ qua lại.
		
		Đức Phật nói Chú Ấn này hay diệt 10 ác, 5 
		nghịch, tất cả tội nặng, thành tựu tất cả Pháp trắng, đủ Giới Tĩnh 
		Khiết, mau được Bồ Đề.
		
		Nếu là người tại gia cho dù chẳng đoạn 
		rượu thịt, vợ con chỉ y theo Pháp của Ta thì không có gì không thành 
		tựu.
		
		Đức Phật nói:” Nếu cầu thành tựu. Trước 
		tiên , y theo Đàn Pháp, chẳng đồng các Bộ, rộng tu cúng dường. Đào đất, 
		bùn thơm xoa tô để kiến lập. Dùng một mặt gương sạch chưa từng dùng, ở 
		trước tượng Phật, đêm thuộc ngày 15 của tháng, tùy sức cúng dường, đốt 
		An Tất Hương với nước trong sạch.Trước hết nên tịnh Tâm không có sự suy 
		tư, sau đó kết Ấn tụng Chú, chú vào gương 108 biến, dùng cái hộp bọc 
		chứa gương, thường đem theo thân. Sau này muốn niệm tụng chỉ dùng cái 
		gương này đặt ở trước mặt, kết Ấn tụng Chú, y theo gương làm Đàn liền 
		được thành tựu”
		
		Đức Phật nói:” Muốn trì Chú này, vào đêm 
		thuộc ngày 15 , tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch, hướng mặt về phương 
		Đông, ngồi Bán Già, để gương ngay trước mặt. Tùy có hương hoa, nước 
		trong sạch, các vật. Trước tiên nên tịnh Tâm, dứt suy tư , sau đó kết Ấn 
		trên trái tim, tụng Chú này 108 biến. Lúc tụng Chú này thời hay khiến 
		cho chúng sinh đoản mệnh lại được tăng thọ. Như bệnh Ma La (Màra_ bệnh 
		do Ma gây ra ) còn được trừ khỏi huống chi bệnh khác. Nếu chẳng tiêu 
		khỏi thì không có chuyện đó”
		
		Đức Phật nói:” Nếu có người nhất Tâm tịnh 
		Ý tụng đủ 20 vạn biến, 40, 60 vạn biến thì Pháp Thế Xuất Thế 
		không có gì chẳng xứng toại”
		
		Đức Phật nói:” Nếu người tại gia ngày 
		thường dùng nước sạch xúc miệng, chẳng ăn huân huyết ( Loài rau có vị 
		cay như hành, hẹ và loài có máu ) thời hướng mặt về phương Đông đối 
		gương kết Ấn, tụng Chú 108 biến. Như vậy 49 ngày chẳng gián đoạn sẽ có 
		việc tốt lành, Chuẩn Đề Bồ Tát sai hai vị Thánh thường tùy người ấy, Tâm 
		có sở niệm đều được mỗi mỗi nói đầy đủ bên tai”
		
		Đức Phật nói:” Chúng sinh đoản mệnh nhiều 
		bệnh. Vào đêm thuộc ngày 15 của tháng, đốt An Tất Hương, kết Ấn tụng Chú 
		108 biến thì loài Ma Quỷ gây bệnh tâm thần, loài chồn hoang ( Dã Hồ ) 
		gây bệnh ác đều hiện bản thân ấy ở trong gương, tùy ý giết thả liền 
		chẳng dám đến. Người đó được tăng thọ vô lượng”
		
		Đức Phật nói:” Nếu người không có tướng 
		phước đức, cầu quan chẳng dời đổi. Đối gương tụng Chú này thì Quan phước 
		đức sẽ mau xứng toại”
		
		Đức Phật nói:” Nếu muốn có chỗ làm ( sở 
		tác) Trước tiên nên suy tư Chuẩn Đề Thánh Giả, chính niệm Chú này đủ 7 
		biến, thân ngay thẳng, đột nhiên thân ấy tự nhiên dao động liền biết có 
		thể được việc vừa ý và tốt lành. Nếu thân cứng đơ ngả trước ngả sau liền 
		biết việc chẳng được ắt có tai nạn”
		
		Đức Phật nói:” Muốn biết Pháp này thành 
		hay chẳng thành. Y theo Pháp tụng Chú đủ 7 ngày, liền ở trong mộng thấy 
		Phật Bồ Tát với dùng hoa quả, miệng nôn ra vật màu đen sau đó ăn vật màu 
		trắng, liền biết thành tựu”
		
		Đức Phật nói:” Đà La Ni này có thế lực 
		lớn. Chí Tâm tụng trì ắt sẽ tự chứng hay khiến cho cây khô nở hoa huống 
		chi quả báo của Thế Gian.Nếu thường tụng trì thì nước, lửa, đao binh, 
		oan gia, thuốc độc đều chẳng thể hại.
		
		Nếu có người bị Quỷ Thần đánh chết. Kết 
		Ấn tụng Chú 7 biến, dùng Ấn ấn trái tim đều khiến cho sống lại.
		
		Nhà cửa chẳng yên bị Quỷ Thần gây họa. 
		Chú vào 4 hòn đất đem trấn 4 góc thì Quỷ Thần liền bỏ đi”
		
		Đức Phật nói:” Nếu người có Lục Thân 
		chẳng hòa, chẳng thương nhớ nhau.Y theo Pháp tụng Chú , hướng tới sự hòa 
		hợp thì họ nghe tên thấy người đều sinh vui vẻ.Phàm sự mong cầu không có 
		gì không vừa ý huống chi hay trai tịnh đủ Giới, một lòng thanh tịnh, y 
		theo Pháp tụng trì thì chẳng chuyển thân này liền chứng Bồ Đề có công 
		lực lớn”
		
		Đức Phật nói:” Nếu có người muốn trường 
		sinh. Ở trong tháp xưa với núi sâu, hoặc bên trong tịnh phòng , y theo 
		gương làm Đàn. Tụng đủ 2,4,6,10 vạn biến. Đem hoa sen xanh hòa với An 
		Tất hương rồi thiêu đốt ắt ở trong mộng được ăn thuốc Tiên hoặc được 
		trao cho Tiên Phương. Hoặc ở trong gương có ánh sáng 5 màu, trong ánh 
		sáng có thuốc, tùy ý lấy ăn liền được trường sinh”
		
		Đức Phật nói:” Nếu y theo Pháp tụng trì, 
		một lòng tinh cần thì chẳng thể nói hết công lực. Pháp Đàn này chẳng 
		được để người nhìn thấy, nếu thấy tức chẳng tốt, chẳng thành Tất Đàn, 
		nên giữ kín Pháp này chẳng thể nói thì tự nhiên chứng biết, tùy ý mong 
		cầu mau được thành tựu, nhận thắng diệu lạc ( niềm vui thù thắng màu 
		nhiệm )
		
		THẤT CÂU ĐÊ PHẬT MẪU TÂM ĐẠI CHUẨN ĐỀ ĐÀ 
		LA NI PHÁP
		
		( Hết )
		
		
		                                                                                 
		21/10/2002
		
		 
		
		
 
		Mật Tạng Bộ 3 _ No.1079 ( Tr.187_ Tr.188 
		)
		
		 
		
		THẤT CÂU ĐÊ ĐỘC BỘ PHÁP
		
		 
		
		Hán dịch : Tam Tạng Sa Môn VÔ ÚY
		
		Việt dịch : HUYỀN THANH
		
		 
		
		Tổng Nhiếp 25 Bộ Đại Man Trà La Ấn 
		: Đem 2 ngón vô danh, 2 ngón út cùng 
		cài chéo nhau bên trong. Duỗi thẳng 2 ngón giữa cùng vịn nhau, 2 ngón 
		trỏ phụ ở lóng thứ nhất của 2 ngón giữa, 2 ngón cái cùng vịn lóng giữa 
		của 2 ngón vô danh. Nếu có Triệu Thỉnh thì đưa 2 ngón trỏ qua 
		lại.
		
		Đức Phật nói:” Chú và Ấn này hay diệt 10 
		ác, 5 nghịch, tất cả tội nặng, thành tựu công đức của tất cả Pháp trắng. 
		Tác Pháp này chẳng kể tại gia hay xuất gia. Nếu người tại gia uống rượu 
		ăn thịt , có vợ con, chẳng kể tịnh uế chỉ y theo Pháp của Ta thì không 
		có gì không thành tựu. Thứ nhất là Đàn Pháp, thứ hai là Pháp Niệm Tụng, 
		thứ ba là Pháp Thành Nghiệm, thứ tư là Pháp Quảng Minh Tự Tại, thứ năm 
		là hàng Trời được đại thần thông.
		
		1 ) Đàn Pháp
		
		Đức Phật nói:” Nếu cầu thành tựu. Tác Đàn 
		Pháp chẳng đồng với các Bộ, rộng tu cúng dường.Đào đất làm Đàn,dùng bùn 
		thơm xoa tô để xây dựng. Chỉ dùng một cái gương sạch mới chưa từng dùng. 
		Ở trước tượng Phật, vào đêm thuộc ngày 15 của tháng, tùy sức cúng dường, 
		đốt An Tất hương với nước trong sạch. Thoạt tiên nên tịnh Tâm không có 
		sự suy tư, sau đó kết Ấn tụng Chú , chú vào cái gương 108 biến, dùng cái 
		hộp bọc chứa gương, thường đem theo thân. Muốn niệm tụng chỉ đem cái 
		gương này đặt ở trước mặt, kết Ấn tụng Chú, y theo gương làm Đàn liền 
		được thành tựu”
		
		2 ) Pháp Niệm Tụng
		
		Đức Phật nói:”Muốn trì Pháp này. Vào đêm 
		thuộc ngày 15, tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch, hướng mặt về phương 
		Đông ngồi Bán Già, để gương ngay phía trước. Tùy sức dùng hương hoa, 
		nước trong sạch, các vật. Trước tiên nên tịnh Tâm  dứt niệm, sau đó kết 
		Ấn ấn ở trên trái tim, tụng Chú này 108 biến. Lúc tụng Chú này thời hay 
		khiến cho kẻ đoản mệnh thành trường mệnh ( sống lâu ) như bệnh Ma La 
		(bệnh do Ma gây ra ) còn được trừ khỏi huống chi bệnh khác. Nếu chẳng 
		tiêu khỏi thì không có chuyện đó. Mỗi tháng : ngày mồng một, ngày 8, 
		ngày 14, ngày 15, ngày 18, ngày 23, ngày 24, ngày 28,ngày 29, ngày 30… 
		Mười ngày như vậy, mỗi buổi sáng sớm dùng nước sạch xúc miệng, hướng mặt 
		về phương Đông tụng Chú này 108 biến , sau đó ăn uống. Giả sử có vợ con 
		chẳng đoạn Tân ( ngũ tân ) , thịt cũng sẽ thành nghiệm.
		
		3 ) Pháp Thành Nghiệm
		
		Mỗi tháng vào ngày 18, dùng gương với kết 
		Ấn niệm tụng. Trừ 10 ngày trai chẳng nên đối gương với kết Ấn, chỉ vào 
		buối sáng sớm, lúc chưa dùng Tân Nhục ( Ngũ tân và thịt ) tụng trì Chú 
		này 108 biến xong. Như vậy 49 ngày chẳng dứt.
		
		Mỗi lần có chuyện thiện ác, cát tường, 
		tai biến thì Chuẩn Đề Bồ Tát sai 2 vị Thánh đi theo người ấy. Hết thảy 
		việc thiện ác, chú 7 biến rửa mặt rưới thân, tâm tưởng, tác tưởng vui vẻ 
		sẽ hay khiến cho quốc vương, đại thần, trưởng giả sinh tâm cung kính, 
		nhìn thấy liền vui vẻ như bề tôi kính trọng nhà vua, như cha yêu con, 
		tâm tùy theo ước muốn cho đến thân mệnh đều không có luyến tiếc, thảy 
		đều thành tựu.
		
		Nếu có chúng sinh đoản mệnh nhiều bệnh. 
		Vào đêm tuộc ngày 15 của tháng thiêu đốt An Tất Hương, tụng Chân Ngôn 
		này 108 biến thì Ma Quỷ, cuồng đồ bị tâm thần, Hồ Ly, Quỷ ác đều hiện 
		hình ở trong gương. Lúc đó muốn dạy bảo giết liền giết, dạy thả liền 
		thả, tức chẳng dám đến và người ấy được tăng thọ vô lượng.
		
		Nếu lại có người không có Phước, không có 
		tướng cầu quan không dời đổi, bị áp bức nghèo khổ. Mỗi ngày trong 10 
		ngày trai thường tụng Chú này hay khiến cho đời hiện tại được địa vị 
		Chuyển Luân Vương, mong cầu quan được xứng toại.
		
		Nếu muốn Triệu hàng Tứ Thiên Vương, Phạm 
		Vương, Đế Thích, 28 Bộ Trời, Ba Tuần…. Đối gương kết Ấn đưa ngón trỏ qua 
		lại. Ở nơi thanh tĩnh cao giọng tụng 21 biến thì chúng Hiền Thánh , Diêm 
		La Vương, Quỷ tùy theo tình ắt đến chẳng dám bỏ đi trước. Hết thảy 
		nghiệm liền tùy theo tình đều được.
		
		Nếu muốn biết Pháp này thành hay chẳng 
		thành. Đầy đủ 7 biến y theo Pháp tụng Chú thì trong mộng thấy Phật Bồ 
		Tát với dùng hoa quả, miệng nôn ra vật màu đen lại ăn vật màu trắng liền 
		biết thành tựu.
		
		4 ) Pháp Quảng Minh Tự Tại
		
		Đức Phật nói:” Đà La Ni này có thế lực 
		lớn, dời núi Tu Di với nước biển lớn, chú vào cây khô hay sinh hoa quả. 
		Nếu thường tụng trì thì nước chẳng thể cuốn chìm, lửa chẳng thể thiêu 
		đốt. Thuốc độc, đao binh, oán bệnh đều chẳng thể hại.
		
		Nếu biết trong đất có Bảo Tàng vật. Kết 
		Ấn tụng Chú đầy đủ 7 biến thì Phục Tàng trong đất tự nhiên phun lên, tùy 
		ý mong muốn đều được sung túc.
		
		Nếu có nạn quân trận, giặc cướp. Kết Ấn 
		ấn chỉ thì tùy theo nơi chỉ thảy đều lui tan.
		
		Nếu có người chết do Quỷ Thần đánh chết. 
		Kết Ấn tụng Chú , dùng Ấn ấn trên trái tim thì người bị chết vì bệnh 
		nặng liền được sống lại
		
		Nếu nhà cửa chẳng yên bị Quỷ Thần gây 
		họa. Chú vào 4 hòn đất đem trấn ở 4 góc thì chúng liền bỏ đi.
		
		Nếu có người mà Lục Thân chẳng hòa, người 
		chẳng thương nhớ. Y theo Pháp tụng Chú hướng đến sự hòa hợp thì họ nghe 
		tên thấy thân đều sinh vui vẻ, chẳng muốn lìa bỏ.
		
		Trong lửa mạnh dùng Ấn chỉ lửa thì lửa 
		liền tiêu diệt. Dùng Ấn chỉ nước thì sóng xô liền lặng. Phàm mọi sự cầu 
		nguyện không có gì không xứng toại huống chi liền hay kết Ấn, giữ Trai 
		Giới y theo Pháp trì tụng  há chẳng chuyển Nhục Thân ( Thân máu thịt này 
		) đi đến Tĩnh Thổ ở 4 phương ư ?...
		
		5 ) Hàng Trời được Đại Thần Túc
		
		Nếu cầu trường sinh với Sắc cho 
		chư Thiên lấy Thuốc Tiên. Ở trước Tháp xưa và trong núi sâu hoặc bên 
		trong Tịnh Phòng, y theo gương làm Đàn, đầy đủ 7 ngày hoặc 21 ngày, đốt 
		hoa sen xanh hòa với An Tất Hương. Vào lúc đầu đêm tụng Chú 108 biến tức 
		lúc nằm ngủ hoặc ở trong mộng ăn Thuốc Tiên hoặc Nhiếp Lực Pháp. Hoặc ở 
		trước mặt gương có ánh sáng 5 màu, trong ánh sáng có Thuốc, tùy ý ăn 
		liền thành Tiên Đạo. Các công lực khác có hàng trăm ngàn ức , nói chẳng 
		thể hết.
		
		 
		
		CHUẨN ĐỀ BIỆT PHÁP
		
		Trước tiên, tay trái: đem 3 ngón trỏ, vô 
		danh, út để ở trong lòng bàn tay, dùng ngón cái vịn trên móng của 3 ngón 
		trỏ, vô danh, út. Tay phải cũng vậy. Cùng hợp 2 ngón giữa dính đầu ngón. 
		Tụng Chú
		
		Kết Giới Ấn: 
		Hai tay phải trái: Ngón giữa, ngón vô 
		danh hướng vào bên trong cùng cài chéo nhau. Dựng thẳng 2 ngón út, 2 
		ngón trỏ cùng trụ nhau. Ngón cái của 2 tay đều vịn lóng giữa của ngón 
		trỏ. Tụng Chú
		
		Hộ Thân Ấn: 
		Chắp 2 tay lại, 2 ngón trỏ hướng ra ngoài 
		cùng cài chéo nhau, ngón cái kèm vịn trên lóng giữa của ngón trỏ. Ba 
		ngón từ ngón giữa trở xuống dựng thẳng hợp nhau.
		
		Nếu gặp trộm, giặc cướp. Đem Ấn đội trên 
		đỉnh đầu, Trước tiên ấn vai trái, tiếp vai phải, ấn trước trái tim ( Ức 
		ngực ), Aán dưới đầu ( Cổ họng ) ấn My Gian (tam tinh ) thì bọn này 
		chẳng dám xâm nhiễu.
		
		Trị Bệnh ấn: 
		Hai ngón trỏ, 2 ngón giữa hướng vào bên 
		trong cùng cài chéo nhau. 2 ngón vô danh, 2 ngón út hướng ra ngoài cùng 
		trụ nhau rồi chắp tay lại, 2 ngón cái đều vịn lóng giữa của ngón trỏ.
		
		Tổng Nhiếp Ấn: 
		Hai ngón út, 2 ngón vô danh cài chéo nhau trong lòng bàn tay, dựng thẳng 
		2 ngón giữa cùng hợp đầu ngón, mở dính 2 ngón trỏ rồi hơi co lại, 2 ngón 
		cái che ngón vô danh. Lúc Triệu Thỉnh thì đưa ngón trỏ qua lại tựa như 
		Đài Hoa, tụng Chú 7 biến. Dùng ấn ở 2 bắp tay, dưới cổ họng, my gian, 
		chân tóc. Lại để Ấn này ngang trái tim, tụng Chú 108 biến.
		
		Phá Thiên Ma Ấn: 
		Hai tay phải trái dùng 4 ngón che ngón 
		cái bên trong lòng bàn tay, gấp nắm quyền so tính. Tức là hết thảy nơi 
		đáng sợ, nghi có Quỷ Mỵ, Rồng độc liền tác Ấn này, dùng âm thanh sân nộ 
		tụng Chú.
		
		Thỉnh Quỷ Thần Ấn: 
		Tay phải : Ngón giữa che ngón cái đè Đàn, 
		đem các ngón còn lại bên trên đều duỗi như răng nanh. Hơi co gấp ngón 
		trỏ, ngón út qua lại. Tụng Chú 7 biến, đến biến thứ ba thì tất cả Quỷ 
		Thần đều đến.
		
		Bên trên là Thất Câu Đê Độc Bộ Quỹ. 
		Xưa kia có vị Luật Sư thấy bản Lược Đề nói:” Chẳng kể tại gia, xuất 
		gia, uống rược, ăn thịt, có vợ con, chẳng kể tịnh uế” liền cho là 
		Văn đọc bị sai lầm nên cho đó là Ngụy Văn
		
		Trong Thiên Minh , Sa Môn LƯỢNG 
		HÙNG biện giải sự sai lầm đó, dùng bản Cụ Đề làm bản chính còn bản Lược 
		Đề là bản thảo chưa được sửa chữa.
		
		Sa Môn TUỆ LƯỢNG ấn thí bản Cụ Đề lưu 
		hành ở đời, dùng cái nhìn tầm thường cho là chẳng đúng, lại nương vào 
		bản thảo gần đúng mà quyết định
		
		Mật Sao Vấn Đáp Đẳng Dẫn 
		dùng Quỹ này
		
		Năm nay, hợp mọi bản cất chứa của viện 
		Thanh Hà ở Lạc Bắc, viện Trí Tích ở Lạc Tây, Chùa Diên Mệnh ở Hà Châu, 
		Đương Sơn Aùi Nhiễm Viện Đại Diễn Đẳng… xem xét rồi đính chính nên đem 
		cả 2 bản ấn hành.
		
		Thời ấy, Hưởng Hòa cải nguyên, năm Tân 
		Dậu, tháng Trung Thu. 
		
		Phong Sơn Diệu Aâm Hạ Tổng Trì Viện_ 
		KHOÁI ĐẠO ghi
		
		Một lần xem xong_ TỪ THUẬN
		
		
		                                                                     
		22/10/2002
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		 
		
		
 Mật Tạng Bộ 3 - 
		No 1169 (Tr. 677 ( Tr. 681)
		 
		
		PHẬT THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO 
		TÔN NA BỒ TÁT ĐẠI MINH THÀNH TỰU NGHI QUỸ KINH
		
		QUYỂN THỨ NHẤT
		 
		Long Thọ Bồ Tát lược ra trong Trì Minh Tạng
		Hán dịch: Tây Thiên Dịch Kinh, Tam Tạng Triều Tán Đại Phu Thí Quang 
		Lộc Khanh. Minh Giáo Đại Sư – Kẻ bày 
		tôi là PHÁP HIỀN phụng chiếu dịch
		Việt dịch: HUYỀN THANH
		 
		ĐẠI MINH 
		THÀNH TỰU
		PHẦN 
		THỨ NHẤT
		 
		Bấy 
		giờ, Đức Phật dạy rằng: “Đại giáo Du Già của Đại Tỳ Lô Giá Na Như Lai 
		này, nếu có người trai lành nào vui muốn tu tập các Pháp Thành Tựu
		thì nên dựa vào Pháp Đại Minh của Tôn Na Bồ Tát ( Cunõdhe Bodhisatva 
		). Ở trong giáo ấy, một lòng chuyên chú tinh cần tu tập ắt mọi sự nguyện 
		cầu không có gì không thành tựu. 
		Nếu 
		có Hành Nhân  muốn làm Pháp Thành Tựu Thù Thắng Tối Thượng. Trước tiên ở 
		bên bờ biển lớn, tụng Đại Minh Căn Bản Chú của Tôn Na Bồ Tát và làm 6 
		Lạc xoa cái tháp bằng cát. Khi đủ số lượng rồi thì mọi việc mong cầu ắt 
		được thành tựu.
		_ Lại 
		nữa, nếu muốn cầu thấy Quán Thế Âm Bồ Tát ( Avalokite’svara Bodhisatva ) 
		, hoặc Kim Cương Thủ Bồ Tát ( Vajrapànïi Bodhisatva ) … cứ tu tập như 
		trước thì các vị Bồ Tát ấy sẽ hiện thân, an ủi Hành Nhân và cho thỏa mãn 
		ước nguyện, cho đến hoặc tác Pháp Kính Ái … hoặc cầu mọi loại thuốc 
		Thánh, hoặc cầu ngôi Vua của hàng A Tố Lạc, hoặc cầu địa vị Trì Minh 
		Thiên ( Vidyadhàra Deva ). Mọi việc như vậy ắt được thành tựu. Nếu tu 
		tập lâu ngày mà chuyên chú không thoái lui thì cũng có thể đạt được địa 
		vị Bồ Tát.
		_ Lại 
		nữa, Hành Nhân đến trước đỉnh núi Chính Giác, ở trứơc Tháp Phật thường 
		trì Bát Thực (ôm bình bát đi xin thức ăn). Tụng Đại Minh đủ 1 câu 
		đê biến (100 triệu lần )  sẽ được thấy Kim Cương Thủ Bồ Tát. Vị Bồ Tát 
		ấy tự dẫn Hành Nhân vào cửa Cát Tường và bảo Hành nhân rằng: “Ngươi 
		vào cửa này không còn bị Ma nạn, đều mãn sự nguyện cầu, xa lìa tất cả sợ 
		sự hãi, nhận được niềm vui thích lớn, trong tương lai được gặp Đức Từ 
		Thị (Di Lặc Phật) đựơc nghe Diệu Pháp, chứng Bồ Tát Địa, cho đến hoặc 
		đựơc địa vị A Phệ Phộc Ly Đê Ca Bồ Tát”.
		_ Lại 
		nữa, Hành nhân hoặc đến núi Vĩ Bổ La ( Vipùla _ Quảng Bác ) , khiến tịnh 
		tất cả, thường trì Bát Thực, ở trước Tượng có Xá Lợi tùy khả năng bày 
		biện hương, hoa, đèn, hương xoa mà làm cúng dường. Tụng Đại Minh đủ 3 
		Lạc xoa biến (30 vạn lần ). Tụng đủ biến số xong lại đặc biệt làm Đại 
		cúng dường, gia tăng gấp bội Trai Giới khiết tịnh cho đến hết 15 ngày. 
		Tụng trì suốt ngày đêm không ngừng nghỉ thì Kim Cương Thủ Bồ Tát quyết 
		định hiện thân tiếp dẫn Hành nhân đến ngay cung điện của Ngài và dạo 
		chơi ở cửa Cát Tường, khiến cho Hành nhân bước vào và được thọ mệnh lâu 
		dài ngang bằng mặt trời, mặt trăng.
		_ Lại 
		nữa, Hành nhân đến nơi Tháp Phật có 3 bậc thềm báu thường trì Bát Thực, 
		nhiễu quanh bên phải Tháp Phật, tụng Đại Minh 1 câu đê biến. Tụng đủ số 
		xong sẽ được thấy Vô Năng Thắng ( Aparajita ) với hàng Ha Lị Đế ( 
		Hàrïtye_ Quỷ Tử Mẫu ) và sự cầu mong đều được như ý. Vị Ha Lị Đế tiếp 
		dẫn Hành giả đến ngay cung điện của Ngài ban cho mọi loại thuốc Thánh. 
		Ngài Vô Năng Thắng cũng hiện thân vì Hành giả mà nói Pháp khiến cho 
		chứng đạo Vô Thượng Bồ Đề và ban cho thuốc Thánh, biến thân Hành giả có 
		đủ tướng Thù Thắng lại được tất cả Bồ Tát tiếp dẫn chứng đạo cho đến mau 
		chóng ngồi ở Bồ Đề Đạo Trường.
		Tôn 
		Na Đại Minh này chính là điều mà tất cả Như Lai và các Bồ Tát cùng diễn 
		nói. Do đó chẳng sinh khởi Tâm Bồ Đề, vĩnh viễn 
		chẳng đắc được Pháp BỒ ĐỀ PHẦN. Người như vậy chợt gặp Bậc Tri 
		Thức, tụng Đại Minh này 1 lần lọt qua tai thì tội nặng giảm nhỏ lại liền 
		sinh Căn Lành. Huống chi Hành nhân luôn luôn trì tụng, chuyên chú, tinh 
		cần, người như vậy cầu Pháp Thành Tựu thì quyết định đạt được.
		 
		((((((
		 
		QUÁN TRÍ 
		THÀNH TỰU
		PHẦN 
		THỨ HAI
		_ Lại 
		nữa, Hành nhân muốn tu tập các Pháp Thành tựu. Trước tiên nên tu tập 
		Quán Trí, với các Ấn Tướng đều phải tinh thục không hề sai lầm 
		mới có thể cầu các Tất Địa.
		Nếu ở 
		trong Pháp của Tôn Na Bồ Tát cầu Tất Địa. Trước tiên quán Luân chữ vi 
		diệu căn bản của Tôn Na Bồ Tát đặt ngay trên thân thể mình. Đó là: 
		Quán 
		chữ ÁN (OMÏ -          ) đặt ở ngay trên đỉnh đầu. 
		Quán 
		chữ TẢ (CA -           ) đặt ở hai con mắt. 
		Quán 
		chữ LỆ (LE -           ) đặt ở cái cổ. 
		Quán 
		chữ TỔ (CU -           ) đặt ở hai cánh tay. 
		Lại 
		quán chữ LỆ ( LE -            ) đặt ở trái tim. 
		Quán 
		TÔN (CUNÕ -                 ) đặt ở trong lỗ rốn. 
		Quán 
		chữ NỄ (DHE -              ) đặt ở hai bắp đùi. 
		Quán 
		chữ SA (SVÀ - .             ) đặt ở bắp chân. 
		Quán 
		chữ HA (HÀ -           ) đặt ở hai bàn chân. 
		Hành 
		nhân quán tưởng chữ vi diệu căn bản của Tôn Na ở trên thân thể của mình 
		mỗi mỗi cần phải rõ ràng thì tất cả tội nghiệp người đó đã làm trước đây 
		thảy đều tiêu diệt. Quyết định được thành tựu Tất Địa đã mong cầu. Hoặc 
		tác Pháp Tăng Ích, Tức Tai, Kính Aùi, Điều Phục, … thì mỗi một Đại Minh 
		trì tụng đều khác nhau.
		_ Tác 
		Pháp Tức Tai thì trì tụng ĐẠI MINH là:
		
		“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ, Sa ha”
		( 
		OMÏ  - CALE  CULE  CUNÕDHE  SVÀHÀ
		 
		_ Tác 
		Pháp Tăng Ích thì tụng ĐẠI MINH là:
		
		“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ mạo sa tra”
		( 
		OMÏ  - CALE  CULE  CUNÕDHE  MUSÏTÏI
		 
		_ Tác 
		Pháp Kính Ái thì tụng ĐẠI MINH là:
		
		“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ, Nẵng mạc”
		( OMÏ 
		-  CALE  CULE  CUNÕDHE  NAMAHÏ
		 
		_ Tác 
		Pháp Điều Phục thì tụng ĐẠI MINH là:
		
		“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ, nhược tứ hồøng phát tra”
		( 
		OMÏ  -  CALE  CULE  CUNÕDHE  JAHÏ  HÌ  HÙMÏ  PHATÏ
		Nếu 4 
		Pháp như trên ắt nên thỉnh triệu Bản Tôn với chúng Hiền Thánh. Tác Pháp 
		xong, liền ngửa mặt Phát Khiển (đưa về)
		_ Câu 
		Triệu Đại Minh:
		
		“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ Hồng”
		( 
		OMÏ  -  CALE  CULE  CUNÕDHE  HÙMÏ
		_ Lại 
		nữa, Hành nhân lúc tác Man Noa La ( Manïdïala_ Đàn ), muốn thỉnh Bản  
		Tôn với kêu gọi Hiền Thánh trong Đàn. Trước tiên tụng Chỉ Lý Chỉ Lỳ Kim 
		Cương (Kìlikìla Vajra ) Đại Kinh mà làm khiết tĩnh (cực trong sạch). Đại 
		Minh là:
		
		“ÁN – Chỉ lý chỉ lý, phộc nhật la Hồng, phát tra”
		( 
		OMÏ  -  KÌLIKÌLA  VAJRA  HÙMÏ  PHATÏ
		Tụng 
		Minh này, tác khiết tĩnh xong. Hành nhân tưởng Bản Tôn TÔN Na Bồ Tát ở 
		trên Trời Sắc Cứu Cánh giáng hạ đến vào trong Man Noa La. Lại tưởng 
		trong Man Noa La có Tòa Sư Tử, có hoa sen che khắp đủ mọi thức trang 
		nghiêm. Liền kết Căn Bản Ấn của Bồ Tát. Lại tụng Căn Bản Đại Minh cúng 
		dường Bồ Tát. Hành nhân liền nói: “Bồ Tát khéo đến” và dâng Ứ Già 
		… sau đó tác Pháp Trì Tụng.
		_ Lại 
		nữa, Hành nhân y theo Pháp làm Man Noa La, ngồi ngay thẳng, chính niệm 
		Pháp quán tưởng, tưởng trước mặt có bánh xe chữ vi diệu căn bản đặt ở 
		các phần thân thể. Thoạt đầu tưởng như tất cả Như Lai ngự ngay trên đỉnh 
		đầu. Lúc tác tưởng này thì kết Tam Muội Ấn. 
		Tiếp, 
		tưởng chữ TẢ (                     ) ở hai con mắt, nên dùng Phật Nhãn 
		Ấn. Lại tưởng chữ này chuyển thành Vị Luân Vương có thế lực lớn. 
		Tiếp, 
		tưởng chữ LỆ (                ) màu đen đặt ở cái cổ, dùng kết LOA ẤN 
		liền chuyển thành Đại Phẫn Nộ Tôn Bất Động Minh Vương ( Mahà Krodhanàtha 
		Acala Vidyaràja ), tay cầm kiếm với sợi dây . 
		Tiếp, 
		tưởng chữ TỔ (                ) hiện ở trái tim, liền biến thành thân 
		Phật màu đỏ có 4 tay, với 2 tay chắp lại thành tướng Đỉnh Lễ, 2 tay kết 
		Ấn Thuyết Pháp là tướng giáng phục các ma. 
		Lại 
		tưởng chữ LỆ (                   ) hiện ở 2 cánh tay, nên dùng Sa Tất Đế 
		Ca Ấn, trên 1 cách tay biến thành Bất Không Quyến Sách Bồ Tát ( Amogha 
		Pà’sa Bodhisatva ), mặt có 3 mắt. Trên một cánh tay biến thành QUÁN TỰ 
		TẠI BỒ TÁT với thân màu vàng. 
		Tiếp, 
		tưởng chữ TÔN (             ) hiện ở vành rốn, nên tụng Tôn Na Bản Ấn, 
		biến thành Bản Tôn Tôn Na Bồ Tát. Nếu quán thân có 18 tay thì tưởng màu 
		trắng. Nếu quán thân có 6 cánh tay thì tưởng màu vàng. Nếu quán thân có 
		4 cánh tay thì tưởng màu đỏ. Dùng theo cách quán mà tưởng hiện trước 
		mắt. Xong, tưởng vị Bồ Tát này ở trong Tam Giới làm lợi ích lớn. 
		Tiếp 
		tưởng chữ NỄ (             ) hiện ở hai bắp đùi, dùng Cát Tường Ấn liền 
		biến thành Phật với Bồ Tát hay làm thành tất cả việc. 
		Tiếp, 
		tưởng chữ SA (                    ) hiện ở hai bắp chân. Lại dùng Loa 
		Ấn, Kiếm Ấn. Trên bắp chân trái biến thành Ngật La Ha cận Nễ. Trên bắp 
		chân phải biến thành Nhạ Chí Nễ. 
		Tiếp, 
		tưởng chữ HA (           ) hiện ở hai bàn chân, dùng Liên Hoa Ấn liền 
		biến thành Phộc Nhật La Nẵng Khế Minh Vương, tay cầm dây lụa. Tiếp, dùng 
		Phật Nhãn Bồ Tát Ấn với Phật Nhãn Bồ Tát Đại Minh gia trì 5 nơi. Minh 
		là:
		
		“ÁN – Lỗ lô sa phổ la, nhập phộc la để sắt tra tất đà lạc tả nễ. Tát ly 
		phộc ly tha sa đạt nễ, sa phộc hạ”
		( 
		OMÏ  RURU  SPHURU JVALA  TISÏTÏA SIDHA  LOCANE  SARVA  ARTHA  SÀDHANI  
		SVÀHÀ
		_ Lại 
		nữa, Hành Nhân tác Quán Trí xong, từ chỗ ngồi đứng dậy chắp 2 tay lại 
		thành Ấn Đỉnh Lễ. Lại tụng Đại Minh là:
		“Nẵng 
		mộ sáp bát đa nẫm. Tam miệu ngật tam một đà câu đê nẫm. Nẵng mạc tả lệ 
		tôn nễ, nẵng mạc”
		( 
		NAMO  SAPTANÀMÏ  SAMYAKSAMÏBUDHÀ  KOTÏINÀMÏ  NAMAHÏ  CALE  CUNÕDHE  
		NAMAHÏ
		Sức 
		của Đại Minh này phá chúng Ma, không có loài Ma nào hoặc Thiên Ma nào 
		dám trái ngược.
		_ 
		Tiếp dùng Phát Khiển Ấn để phát khiển các Ma. Khiến cho nơi Hành 
		nhân không có các chướng nạn. Phát Khiển Ma Ấn, dùng tay trái duỗi rộng 
		rồi dao động thành thế đuổi đi. Tay phải kèm tướng Tam Muội Kim Cương. 
		Đặt ngay cạnh của eo trái. Đem chân trái đạp đất làm tướng phẫn nộ. Tụng 
		Đại Minh là:
		
		“Nẵng mạc, A tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, Hạ nẵng, na hạ, ma tha vĩ đặc võng, 
		tát dụ sa la dã đa, hồng phát tra”
		( 
		NAMAHÏ  ACALE  CULE  CUNÕDHE  HANA  DAHA  PACA  VIDHVAMÏ  ‘SAYA  
		SARAYATA  HÙMÏ  PHATÏ
		_ 
		Tiếp, tác Kết Giới Ấn. Đem 2 tay đưa lên đưa xuống trong 10 
		phương ở hư không, chuyển động như tướng gió thổi liền thành ấn. Liền 
		tụng Đại Minh là:
		
		“ÁN – tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, Đạt ca đạt ca, nhập phộc la, tát ly phộc nễ 
		thâu, mãn đà mãn đà Hồng”
		( 
		OMÏ  CALE  CULE  CUNÕDHE _ DHAKA  DHAKA _ JVALA  JVALA  -  SARVA  DI’SE  
		BANDHA  BANDHA  HÙMÏ
		Minh 
		này có thể dùng Kết giới ở tất cả các nơi.
		_ 
		Tiếp, dùng Nhất Thiết Thành Tựu Minh gia trì hương hoa với nước sạch, 
		vào Man Noa La rảy tịnh xong. 
		Liền 
		kết Lâu Các Ấn, ngửa hai bàn tay ngang bằng rồi cùng các ngón hơi 
		co lại. Duỗi 2 ngón trỏ, 2 ngón cái phụ bên cạnh 2 ngón trỏ liền thành 
		ấn.
		Lúc 
		kết ấn này tưởng lầu các của Cung điện Thù diệu tối thượng hiện ra trước 
		ắt. Lại tưởng chữ vi diệu hòa thành mọi loại hoa sen thù diệu trang 
		nghiêm Tòa Sư tử.
		Tác 
		quán thành xong, liền tụng Thỉnh Triệu Đại Minh, để thỉnh triệu Bản Tôn 
		với chúng Hiền Thánh vào trong tòa ngồi. Tùy dùng Bản Hộ đặt làm Tòa 
		chính giữa. Nếu dùng Tôn Na làm Bản Hộ, liền dùng Tôn Na làm Tòa chính 
		giữa. Liền quán tưởng Tôn Na Bồ Tát có 18 cánh tay, thân màu trắng như 
		mặt trăng mùa thu, mặc áo trắng với mọi thứ trang nghiêm. Dùng đá quý 
		làm quyến đeo ở cổ tay, 10 ngón tay đều có cái vòng trang nghiêm. Mặt có 
		3 mắt, 2 tay phải trái trên cùng tác tướng Thuyết Pháp. Bên phải, tay 
		thứ hai tác tướng Vô Úy, tay thứ ba cầm Cây Kiếm, tay thứ tư cầm cái 
		Chuông nhỏ, tay thứ năm cầm Vĩ Nhạ Bổ La ( Bìja Pùraka _ Tử Mãn Quả ), 
		tay thứ sáu cầm Việt Phủ (cây búa lớn), tay thứ bảy cầm Móc Câu, tay thứ 
		tám cầm Chày Kim Cương, tay thứ chín cầm tràng hạt. Bên trái, tay thứ 
		hai cầm cây Phướng Báu Như Ý, tay thứ ba cầm Hoa Sen, tay thứ tư cầm 
		Quân Ni (bình Quân Trì), tay thứ năm cầm Vòng dây lụa, tay thứ sáu cầm 
		Bánh xe, tay thứ bảy cầm Vỏ ốc (loa), tay thứ tám cầm cái Hiền Bình, tay 
		thứ chín cầm quyển Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa.
		Ở bên 
		phải đặt Phật Nhãn Bồ Tát ( Buddha Locana Bodhisatva ) với chúng Hiền 
		Thánh, bên trái đặt Kim Cương Thủ Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, các vị Bồ 
		Tát còn lại với chúng Hiền Thánh. Tùy ý đặt bày xong, lại dùng Nhất 
		Thiết Thành Tựu Minh với Phật Nhãn Bồ Tát Minh, gia trì nước Ứ Già với 
		hương, hoa, hương đốt dâng lên Bản Tôn với chúng Hiền Thánh. Liền bạch 
		rằng: “Bồ Tát với các Hiền Thánh, con đem lòng tin và y theo sức Tam 
		Muội dâng hiến nước Ứ Già, hương, hoa … Nguyện xin Từ Bi nhận thức cúng 
		dường của con”.
		Nước 
		Ứ Già ấy, nếu tác Pháp Tức Tai thì dùng nước sữa, Đại mạch đồng làm. Nếu 
		tác Pháp Tăng Ích thì gia thêm Chỉ ma (Mè). Nếu tác Pháp Điều Phục thì 
		gia thêm máu với kiều mạch hòa chung, chén dùng chứa nước Ứ Già, vật 
		chứa Ứ Già cũng khác nhau. 
		Liền 
		nói Thỉnh Triệu Ấn, dùng Táo Dục Ấn (Ấn tắm gội) sửa 2 ngón cái 
		phụ bên cạnh ngón trỏ, như tướng móc câu liền thành ấn.Thỉnh Triệu Đại 
		Minh là:
		
		“Nẵng mạc tam miệu ngật tam một đà câu đê nẫm, y tứ bà nga phộc đế. Nhất 
		sắt tra nễ phộc đa địa sắt trí đế. ÁN – tả lệ, tổ lê, tôn nễ nhược 
		nhược, sa phộc hạ” 
		( 
		NAMAHÏ  SAMYAKSAMÏBUDDHA  KOTÏINÀMÏ  EHYEHI  BHAGAVATE  TISÏTÏA  DEVATA  
		ADHISÏTÏITE  - OMÏ  CALE  CULE  CUNÕDHE  JAHÏ  JAHÏ  SVÀHÀ
		Tụng 
		Minh này xong, nên tụng Hiến Tòa Đại Minh là:
		
		“ÁN – Ca ma la Sa phộc hạ”
		( 
		OMÏ  KAMALA  SVÀHÀ
		_ 
		Tiếp, nói về Kiếm Ấn, cũng là Bất Động Tôn Minh Vương Ấn. 
		Đem ngón cái, ngón vô danh, ngón út của tay trái nắm quyền, duỗi ngón 
		trỏ, ngón giữa của tay phải đưa vào trong quyền trái, các ngón còn lại 
		củng nắm quyền liền thành Ấn. Bất Động Tôn Đại Minh là:
		
		“Nẵng mạc tam mãn đà phộc nhật la nă. ÁN A ra la, ca noa Thể nông, sa 
		đạt dã Hồng, phát tra”
		( 
		NAMAHÏ  SAMANTA  VAJRÀNÏÀMÏ – OMÏ  ACALA  KANÏDÏA  SÀDHAYA  HÙMÏ  PHATÏ
		_ 
		Tiếp, nói về Tam Muội Gia Ấn, đem ngón cái tay phải đè lên móng 
		ngón út, các ngón còn lại như tướng cái chày Kim Cương liền thành Ấn. 
		Kết Ấn này, tụng Tam Muội Gia Đại Minh là:
		
		“ÁN – Thương yết ly, Tam ma duệ, Sa phộc hạ”
		( 
		OMÏ  SAMÏKARE  SAMAYE  SVÀHÀ
		_ 
		Tiếp, hiến Ứ Già Ấn, dùng Táo Dục Ấn chỉ sửa ngón cái tách ra đặt bên 
		cạnh ngón trỏ làm tướng chắp tay, liền thành Ấn. Đại Minh là:
		
		“ÁN -  Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ A ly gia Bà nga phộc đế. Bát la đê tha Sa 
		phộc hạ”
		( 
		OMÏ  CALE  CULE  CUNÕDHE _ ÀRGHA  BHAGAVATE  PRATICCHA  SVÀHÀ
		Hiến 
		Ứ Già xong, Hành nhân chắp tay lại và nói là: “Bạch Đại Bồ Tát! 
		Nguyện xin từ bi nhận sự cúng dường này”. Hành nhân lại dùng Kim 
		Cương Quyết Ấn để kết giới trừ ma. Dùng Chày Kim Cương làm giới, nơi kết 
		giới tùy Pháp mà dùng. Hoặc lúc làm Pháp Đại Aùc thì kết ấn này. Đem 
		ngón trỏ tay trái làm như móc câu, ngóc cái như cây kim đặt ở trước mặt. 
		Đây là Quyết Ấn. Đại Minh là:
		
		“ÁN – Tôn nễ, Ni, kế la dã, Sa phộc hạ”
		( 
		OMÏ  CUNÕDHE _ DHE_ KÌLÀYA  SVÀHÀ
		_ Kết
		Kim Cương Giới Ấn, chẳng sửa Ấn trước chỉ dùng ngón trỏ tay phải 
		làm như móc câu, dựng thẳng ngón trỏ tay trái liền thành Ấn, chuyển động 
		trong hư không, Kết Kim Cương giới Đại Minh là:
		
		“ÁN – Tôn nễ ni, bát la ca la dã, Sa phộc hạ”
		( OMÏ 
		CUNÕDHE _ DHE _  PRAKAVÀYA  SVÀHÀ
		_ Lại 
		nữa, kết Kim Cương Bán Nhạ La Ấn, chẳng sửa Ấn trước, đem 2 ngón 
		trỏ, 2 ngón giữa cùng vịn nhau, đưa lên đỉnh đầu dao động liền thành ấn. 
		Đại Minh là:
		
		“ÁN – Tôn nễ nĩ, bán nhạ la, Sa phạ ha”
		( 
		OMÏ  CUNÕDHE _ DHE _  PAMÏJALA  SVÀHÀ
		_ 
		Tiếp, kết Căn Bản Ấn, niệm  Căn Bản Đại Minh 3 biến.
		_ 
		Tiếp, kết Đại Ấn và tụng Đại Minh 3 biến.
		_ 
		Tiếp, kết Tam Xoa Ấn, đem 2 tay nắm quyền, đều duỗi ngón trỏ, 
		ngón giữa, ngón vô danh như 3 cái chỉa (Tam xoa) liền thành ấn. Đại Minh 
		là:
		
		“ÁN – Tôn – sa phộc hạ”
		( 
		OMÏ  CUNÕ  SVÀHÀ
		_ 
		Tiếp, kết Đảo Xử Ấn, đem 2 tay nắm quyền, 2 ngón cái cùng cài 
		chéo nhau liền thành Ấn. Đại Minh là:
		
		“ÁN – Tả lê – Hồng”
		( 
		OMÏ  CALE  HÙMÏ
		Tiếp, 
		kết Tràng Ấn, dùng tay phải nắm quyền dựng thẳng ngón trỏ, ngón 
		giữa liền thành Ấn. Đại Minh là:
		
		“ÁN – Hàng Hồng Phát tra”
		( 
		OMÏ  HAMÏ  MAMÏ  PHATÏ
		_ 
		Tiếp, tụng Kim Cương Nẵng Khứ Tâm Minh là:
		
		“ÁN – Nhĩ nẵng, nhĩ câu”
		( 
		OMÏ  JINAJIK
		_ 
		Tiếp, kết Đồ Hương Ấn, và tụng Kinh gia trì hương xoa, dâng lên 
		Bản Tôn với chúng Hiền Thánh. Đại Minh là:
		
		“ÁN – Lệ Sa phộc hạ”
		( 
		OMÏ  LE  SVÀHÀ
		_ 
		Tiếp, kết Hoa Ấn, chẳng sửa Ấn trước, tụng Đại Minh là:
		
		“ÁN – Tôn Sa phộc hạ”
		( 
		OMÏ  CUNÕ  SVÀHÀ
		_ 
		Tiếp, kết Hương Ấn. Đem ngón cái phải đè chính giữa lóng ngón trỏ 
		liền thành Ấn.
		
		“ÁN – Lệ Sa phộc hạ”
		( 
		OMÏ  LE  SVÀHÀ
		_ 
		Tiếp, kết Xuất Sinh Ấn. Đem ngón cái và ngón trỏ tay trái cùng 
		vịn nhau liền thành Ấn. Liền tụng Hiến Thực Minh là:
		
		“ÁN – Tôn Sa phộc hạ”
		( 
		OMÏ  CUNÕ  SVÀHÀ
		_ 
		Tiếp, kết Hiến Đăng Ấn, đem ngó út tay phải đè lóng thứ nhất của 
		ngón giữa liền thành Ấn. Đại Minh là:
		
		“ÁN – Nê Sa phộc hạ”
		( 
		OMÏ  DHE   SVÀHÀ
		Như 
		trên đã nói về vật cúng dường cho đến thức ăn uống, hương hoa … để phụng 
		hiến Phật với Hiền Thánh. Bao nhiêu Ấn với Đại Minh đều tùy Bản Hộ mà 
		thi hành theo thứ tự trước sau.
		Nếu 
		tác Pháp Tức Tai, trước hết dùng hương xoa, … Sau đó kết Hiến Cúng Dường 
		Ấn. Hoặc tác quán tưởng, hoặc Nội hoặc Ngoại, tất cả cúng dường dâng lên 
		Hiền Thánh.
		_ 
		Tiếp, kết Đại Ấn. Đem 2 tay cùng nắm quyền, đặt ở trái tim, tưởng bên 
		trên 2 quyền đều có chữ A (              ) liền thành Ấn. Dùng Ấn này 
		hiến các Hiền Thánh.
		_ 
		Tiếp, kết Liên Hoa Ấn, chắp 2 tay lại, dựng 8 ngón đều cách nhau như 
		tướng hoa sen. Co 2 ngón cái vào lòng bàn tay liền thành Ấn. Kết Ấn này 
		hiến các Hiền Thánh. Đại Minh là:
		
		“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, thất ly lạc sắt di mạo sa tra”
		( 
		OMÏ  CALE  CULE  CUNÕDHE _ ‘SRÌ  LAKSÏMI  MUSÏTÏI
		_ 
		Tiếp, kết Căn Bản Ấn, chắp 2 tay lại, duỗi 2 ngón cái vào trong lòng bàn 
		tay liền thành Ấn. Đại Minh là:
		
		“ÁN – Tôn đát la dã – A sa đát la kiến, ÁN Tô để sa phổ la. A Bát sa đát 
		lã. ÁN Tôn hạ nẵng nẵng la thế”
		( 
		OMÏ  CUNÕ  TÀRÀYA  -  ASÏTÏA  KHAMÏ  -  OMÏ  CUTÏI  SPHURA  -  
		ABHÀSATRAMÏ  -  OMÏ  CUNÕ  HANA  NÀRA ‘SE
		_ 
		Tiếp, kết Bát Bức Luân Ấn. Đem 2 tay lật ngược nhau, duỗi thẳng 
		mở rộng 10 ngón tay, lấy tay phải đè lưng tay trái liền thành Ấn. Đặt 
		trên đỉnh dao động. Tụng Đại Minh là:
		
		“ÁN – Tôn bát la Sa phổ la tác nhật lãm”
		( 
		OMÏ  CUNÕ _ PRASPHURA  CAKRA
		_ 
		Tiếp, kết Quyến Sách Ấn, co 4 ngón: cái, vô danh, út, trỏ, của 
		tay trái như móc câu liền thành Ấn. Tụng Đại Minh là:
		
		“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ, ngột ly”
		( 
		OMÏ  CALE  CULE  CUNÕDHE  HRÌHÏ
		_ 
		Tiếp, kết Hiến Quảng Đại Cúng Dường Ấn. Chắp 2 tay lại, co lóng 
		thứ 3 của 10 ngón tay sao cho không dính nhau liền thành Ấn. Đặt trên 
		đỉnh đầu. Lúc Hành nhân kết ấn này thời phát Tâm chẳng thể luận bàn ( 
		Bất khả tư nghị Tâm ) , không có Tâm ngã sở, không có Tâm thủ xả.
		Lại 
		quán tưởng tất cả hương hoa trân bảo thù diệu của Thế gian cho đến núi 
		báu và kho tàng báu trong biển lớn. Tất cả vật thảy đều hiện trước mặt, 
		dùng hiến tất cả Phật với Bồ Tát. Đem công đức này hồi thí Chân Như Pháp 
		Giới. Lại vận tâm Ngã Sở tác cúng dường như vậy. Phước lực đã đạt được 
		chuyển rộng thành vô lượng cúng dường dâng hiến 10 phương tất cả Như Lai 
		với các Bồ Tát, chúng trong Đại hội. Nguyện Phật, Bồ Tát chẳng bỏ Đại Bi 
		Nhiếp thụ cúng dường. Đại Quảng Phổ Cúng Dường Minh là:
		
		“Nẵng mạc tác ly phộc, đát tha nga đế. Tỷ dụ, vĩ thấp hộc mục khê tỷ 
		dược, tát ly phộc tha, nghiệt mẫu nại nga để, sa phả la tứ hàm, nga nga 
		nẵng kếim, Sa phộc hạ”
		( 
		NAMAHÏ  SARVA  TATHAGATEBHYU – VI‘SVA  MUKHEBHYAHÏ  SARVÀTHA  KHAMÏ   
		UDGATE  SPHARA  HÌMÀMÏ  GAGANAKAMÏ  SVÀHÀ
		 
		 
		PHẬT 
		THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO TÔN NA BỒ TÁT ĐẠI MINH THÀNH TỰU 
		NGHI QUỸ KINH 
		QUYỂN THỨ 
		NHẤT ( Hết )
		
		
 Mật Tạng Bộ 3 - No 
		1169b (Tr. 680 ( Tr. 684)
		 
		
		PHẬT THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO 
		TÔN NA BỒ TÁT ĐẠI MINH THÀNH TỰU 
		
		NGHI QUỸ KINH
		
		QUYỂN THỨ HAI
		 
		Long Thọ Bồ Tát lược trích từ  TRÌ MINH TẠNG
		Hán dịch: Minh Giáo Đại Sư PHÁP HIỀN
		Việt dịch: HUYỀN THANH
		 
		QUÁN TRÍ 
		THÀNH TỰU
		PHẦN 
		THỨ HAI
		 
		Lại 
		đến ca ngợi với các Hiền Thánh
		( Ca 
		ngợi Phật là:
		Đức 
		Phật dùng Đại Bi
		Điều 
		phục các chúng sanh
		Thành 
		biển Phước Công đức
		Vì 
		thế con tán lễ
		( Ca 
		ngợi Pháp là:
		Diệu 
		lý của Chân như
		Hay 
		hoại các nẻo ác
		Lợi 
		sinh, trụ tịch tĩnh
		Vì 
		thế con tán lễ
		( Ca 
		ngợi Tăng là:
		Bền 
		vững trì Giới hạnh
		Chứng 
		nhập môn Giải thoát
		Trụ 
		cõi Công đức thắng
		Vì 
		thế con tán lễ
		( Ca 
		ngợi Tôn Na với các Hiền Thánh:
		_ 
		ÁN – Lạc khất sất di la khất xoa  nễ vĩ
		
		Tát ly phộc lạc khất xoa noa man di đa
		
		Bôn noa dã Hàm nga đa tất ly dã
		_ 
		Tao ma dã Tô ma nẵng sa nễ phộc dã
		
		Phộc la hạ phộc la na tất ly dã
		
		Bát nạp ma sa nẵng bát nạp ma mục khế
		Vi 
		ma la vi ma lệ khất xoa noa
		_ 
		Câu ma ly ca thuế đa bà sa
		Ô 
		na dã ly ca Tam ma bát la bà
		
		Nhạ nẵng nễ nga ly nhạ nê tỷ ma
		Ma 
		hạ di cụ già phộc ly sa ni
		_ 
		A di đa A mật ly đa bà sa
		A 
		nhạ la A ma la độ lô phộc
		
		Tất đà tất đà la dã gao ly
		
		Bát đát la hạ sa đa nhị đê dân niết ly dã
		_ 
		Nại xả bà la di đa bát la bát đa
		
		Nại xả bộ di số tăng tất thể đa
		Để 
		ly lạc ca nhạ nẵng nê đạt nê dã
		A 
		di đa ly tha bát la sa đạt mê
		_ 
		Nhạ nga sa la lhất xoa nữ nại dụ ngật đa
		
		Bát la dã ngật ly bát dã nễ đa
		
		Nga dã để ly tát ly phộc một đà âm
		Sa 
		vĩ đế ly tả nhị nô la sa
		_ 
		Đát la noa bộ đa nhạ nga đà để ly
		Sa 
		ly nga ma ly nga bát nga nại ly sa nâm
		
		Nhất tha lô ba ma hạ ma dã
		
		Nẵng nẵng nễ ly ma noa lỗ bế ni
		_ 
		Bát la đê hạ ly dã ma họ sa hạ
		
		Bôn ni dã tam bà la tam bột ly đa
		Ác 
		khất xoa dã Ác khất xoa la tuất nễ dã
		
		Phiến đa kiến đa đát bể tất thể đa
		_ 
		Đa nẵng hạ la ma hạ tát đỏa
		
		Tát đỏa nẵng tất ly để phộc sa la
		
		Kiến đa la da ni nạp ly nga
		
		Tát ly phộc thương ca bát la mô tả nê
		_ 
		Nhạ diên đế nhạ đa phệ na tả
		
		Một la hàng ma yết lạp ba ma nô nhạ phộc
		
		Tán đa ca bá ly nê tả ma
		Ma 
		nẵng sa ma nẵng tế bộ đa
		_ 
		Nhan ngu  lê nẵng nghĩ nê ngu tứ-dạ
		Tô 
		bà nga tất-ly dã nại ly sa-nẵng
		
		Đạt la ni đà la ni Tôn Na
		
		Phộc nễ dã để-ly bộ phộc nễ sa ly
		_ 
		Phan bà thất tổ đa la ni bố sắt-ni
		
		Ngột-ly sắt-trí na phiến để na dĩ nễ
		
		Đạt ly-ma nga ly-bà mẫu nễ phộc la
		Nễ 
		dã bà phộc bát xả nẫm
		
		Tinh hạ một-la đa bát tra một-ly đa
		_ 
		A ba la nhĩ đa lạc ca yết ly
		
		Tát ly-phộc nạp ly nga đế nễ phộc la ni
		
		Tao bà nga-dã na phộc hỗ bộ nhạ
		Để 
		ly lạc ca nhạ nẵng nễ thất phộc
		_ 
		Ngật-ly sắt-noa nhĩ nẵng phộc để a ly-dã
		
		Tát ly-phộc ma la bát-la ma ly-na nễ
		
		Tát ly-phộc một để bát-la thiết sa đa dã
		
		Tam bột ly đa dã ngu ni ly ngu long
		_ 
		A phộc lạc cát dã tăng nghê dã dã
		
		Nẵng mô niết đát dã ngật ly bá đát ma nễ
		Ma 
		hạ phộc la dã thế noa dã
		Vị 
		nê dã la nhạ dã sa đạt phệ
		
		Nạp ly nan đà na ma ca dạ dã
		
		Nẵng mô tất đế phộc nhật la bà noa duệ
		_ Lại 
		nữa, Hành nhân ca ngợi Tam Bảo với Bản Tôn Tôn Na Bồ Tát như vậy xong, 
		chắp tay chí tâm bày tỏ sám hối là:
		
		“Con (họ tên … ) từ vô thủy đến nay luân hồi trong các nẻo đã tạo nghiệp 
		Đại ác, hành Pháp bất thiện. Tự mình làm và dạy người làm, thấy nghe 
		việc ấy đều tùy vui. Nghiệp như vậy thật là vô lượng vô biên. Giờ đối 
		trước Phật, Bồ Tát xin tỏ bày sám hối. Từ nay trở đi con chẳng dám gây 
		tội nữa. Nguyện xin Phật Bồ Tát Đại từ Đại bi nhận lời sám hối của con”.
		_ Lại 
		nói rằng: “Con (họ tên …) từ nay về sau sẽ đi thẳng đến ngồi ở Bồ Đề 
		Đạo  Trường. Thề xong, quy y Pháp Giới vắng lặng của Chánh Đẳng Chánh 
		Giác Vô Thượng Như Lai cho đến quy y hết thảy A Phệ La Ly Để Đại Bồ Tát 
		chúng ở 4 phương với Phật Bồ Tát. Xả bỏ thân mệnh không hề hối tiếc chỉ 
		nguyện từ bi nhiếp thọ cho con.
		_ Lại 
		nói rằng: “Con (họ tên …) từ nay trở đi, thẳng đến ngồi ở Bồ Đề Đạo 
		Trường. Các Pháp Sở Hữu nơi UẨN, XỨ, GIỚI, đều Vô ngã, Vô Thủ, Vô Xả. Xa 
		lìa tất cả tướng. Tự tính như Hư không, chỉ như Phật và các Bồ Tát phát 
		Tâm Bồ Đề. Lại như Chư Phật từ Tâm Sơ Giác biết Phước tối thượng là đem 
		các phước có được tùy hỷ hối thí cho Chư Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh 
		Văn, cho đến cùng tận giới chúng sinh con cũng tùy hỷ đem Công đức này 
		nguyện cho con sau này cùng ở tất cả giới chúng sinh như Phật Đại bi 
		tuôn mưa Đại Pháp, mọi loại phương tiện, ở các Thế gian làm lợi ích lớn, 
		lợi lạc cho chúng sinh. Dùng tâm dũng mãnh mau thành sự nghiệp.
		
		Tại sao vậy? Vì giới phàm phu này là Nan Địa (Đất khó khăn, nguy 
		hiểm) chẳng có cứu cánh. Con đối với tất cả chúng sinh của giới này, 
		nguyện đều khiến cho được đạo Xuất Thế gian, vắng lặng, an vui. Đã được 
		đạo rồi, con liền khiến cho được Công dức Tối thượng, A Nậu Đa La Tam 
		Miệu Tam Bồ Đề”.
		Hành 
		nhân Tán Thán, Sám Hối, Tùy Hỷ, Hồi Hướng, Phát Nguyện như vậy xong. 
		Liền kết Đại Ấn, kết xong lại kết Tam Muội Ấn, đem 2 bàn 
		tay cùngnắm quyền, kèm ngón giữa như cây kim, 2 ngón trỏ hướng ra ngoài 
		như cái Chày Kim Cương, đặt 2 ngón cái bên cạnh 2 ngón trỏ liền thành 
		Ấn. Kết Ấn này, tụng Đại Minh là:
		
		“ÁN _ Thương yết ly, Ma hạ tam ma duệ, Sa phộc hạ”
		( 
		OMÏ  SAMÏKARE  MAHÀ  SAMAYE  SVÀHÀ
		_ 
		Tiếp, kết Tam Ma Địa Ấn, đặt tay trái ở lỗ rốn. Đặt tay phải bên 
		trong tay trái, 2 ngón cái và 2 ngón trỏ dính nhau liền thành Ấn. Tụng 
		Đại Minh là:
		
		“ÁN – Tôn”
		( 
		OMÏ  CUNÕ
		Kết 
		Tam Ma Địa Ấn, tụng Đại Minh xong, liền nhập vào Tam Ma Địa, quán trong 
		trái tim mình như trước sinh ra một hoa sen lớn do mọi báu hợp thành. Ở 
		trên hoa sen có Tôn Na Bồ Tát đủ 5 phần Pháp Thân. Ở trong thân ấy tuôn 
		ra ánh hào quang lớn. Nơi tuôn ra ánh sáng tùy vào Pháp đã làm hoặc màu 
		trắng, hoặc màu vàng, hoặc màu đỏ, hoặc màu đen. Tùy hiện một màu tràn 
		khắp thân ấy. Tưởng trong hào quang ấy tuôn ra chữ vi diệu tuôn ra ánh 
		sáng lớn. Ánh sáng ấy liền thành Kim Cương Giới ( Vajra Dhàtu ) . Hành 
		nhân tự tưởng thân của mình với thân Hiền Thánh không sai khác. Sau đó 
		lại quán trên chóp mũi có Vật, chuyên chú Tâm ấy tác Tưø  
		(Maitra:Ban vui cho người khác ) kiên cố, hơi thở ra vào thật nhẹ nhàng, 
		ngồi ngay thẳng khiến đầu, cổ, eo hơi cúi xuống. Lại ở bên trong trái 
		tim mình quán có Đức Như Lai. Lại quán trong trái tim của Như Lai hiện 
		vành mặt trời (Nhật luân), ở trong vành mặt trời hiện 1 hoa sen hé nở do 
		mọi báu hợp thành. Ở trong hoa sen hiện Tôn Na Bồ Tát có thân như màu 
		vàng ròng mặc áo màu trắng, mọi thứ trang nghiêm. Ở hai hông sườn của 
		Tôn Na tuôn ra ánh sáng lớn. Lại tưởng trong lỗ tai, con mắt, cái miệng 
		tuôn ra ngọn lửa lớn. Tác quán tưởng như vậy mỗi mỗi hiện trước mặt cho 
		thật rõ ràng không có sai lầm. Sau đó, thâu ánh sáng vào, cúi đầu đỉnh 
		lễ, dâng hiến Ứ Già. Lại tụng Phật Nhãn Bồ Tát Đại Minh 7 biến hoặc 21 
		biến.
		Hoặc 
		vào lúc tác Pháp ngay trong Man Noa La, nằm ngủ lại gặp mộng ác, liền 
		tụng Phật Nhãn Bồ Tát Đại Minh 800 biến. Ngay lúc tụng MINH, tay trái 
		cầm tràng hạt, tay phải cầm Chày Kim Cương. Đại Minh là:
		
		“ÁN – Độ nẵng phộc nhật la Hắc”
		( OMÏ 
		_ DHUNA  VAJRA _ HOHÏ
		_ Lại 
		nữa, nói về Gia Trì Sổ Châu Ấn, duỗi rộng 2 ngón giữa của 2 tay, 
		đem 2 ngón trỏ đè giữ ngón giữa, dùng 2 ngón cái, 2 ngón vô danh, 2 ngón 
		út giữ tràng hạt. Tụng Đại Minh là:
		
		“ÁN – A nạp bộ đế, vĩ nhạ duệ, tất đế tất đà ly thể Sa phộc hạ”
		( 
		OMÏ_  ADPUTE _ VIJAYE  SIDDHI _ SIDDHA  ARTHE _ SVÀHÀ
		Lại 
		chắp hai tay lại đặt trên đỉnh đầu, tiếp đặt trên trái tim. Tụng Đại 
		Minh là:
		
		“ÁN – Nẵng mô bà nga phộc để, tất đê, sa đạt dã, tát đà ly thê, sa phộc 
		hạ”
		( 
		OMÏ  NAMO  BHAGAVATE _SIDDHI  SÀDHAYA_SIDDHA ARTHE  SVÀHÀ
		Lại 
		nữa, nói về Sổ Châu Pháp. Hoặc dùng hạt Bồ đề, hoặc Xà cừ, Pha lê 
		… nên dùng 108 làm sổ (Chuỗi tràng hạt). Nhờ Đồng nữ xe chỉ lấy 21 sợi 
		hợp thành một sợi chỉ mà xỏ kết chuỗi. Lúc trì tụng dùng ngón cái lần 
		chuỗi, mội 1 hạt tụng Đại Minh 1 biến.
		_ Chữ 
		của Đại Minh ấy cũng có 3 loại. Hoặc dùng chữ của Đại Minh trong vành 
		trăng Tâm, hoặc dùng chữ vi diệu của Pháp Đỉnh Lễ. Lúc Hành nhân trì 
		tụng thời chí tâm chuyên chú chẳng được giải đãi. 
		Nếu 
		là Pháp Tức Tai, Tăng Ích thì tụng nhẹ nhàng chữ Hồng (HÙMÏ) với 
		chữ Phát tra (PHATÏ). 
		Nếu 
		làm Pháp Điều Phục cũng dùng chữ HỒNG với chữ PHÁT TRA, chỉ khởi Tâm 
		phẫn nộ dùng âm thanh giận dữ mà trì tụng. Đây là nghi tắc thông thường.
		
		Mỗi 
		lần tác Pháp trì tụng xong thì thường tụng Phật Nhãn Đại Minh và hiến Ứ 
		Già. Tùy theo ước nguyện mà chí tâm cầu khẩn. Lại là Cúng Dường, Tán 
		Thán, Sám Tạ “Con (họ tên …) đã mời Chư Vị đến mà cúng dường đơn sơ 
		không có gì thù diệu. Nguyện xin Bồ Tát vui vẻ bỏ qua cho”. 
		Lại 
		hiến Ứ Già mà tác đỉnh lễ. 
		Tác 
		Pháp xong rồi, Phát Khiển Thánh Giả
		
		Nghinh ( Mời đến ) dùng  Câu Triệu Ấn chỉ dùng ngón cái dao 
		động 3 lần làm phát khiển. Đại Minh là:
		
		“Dã tứ dã tứ đế, vỉ ma nẵng lô căn, vĩ bát ly nhạ duệ”
		( 
		YAHI  YAHITE  VIMANA  LOKAMÏ  VIPARI  JAYE
		Phát 
		Khiển Hiền Thánh xong, Hành nhân lại tác  Man Noa La Phộc Ấn ủng 
		hộ ngay thân mình. 
		Tiếp 
		tác A Tam Hàm Nghĩ Nễ Ấn ( Asamàmïgni Mudra ). Liền dùng tam Muội 
		Ấn, tách mở ngón cái đều như cây kim xoay về bên trái. Đại Minh là:
		
		“ÁN Ngột ly A Tam hàm nghi nễ Hồng phát tra”
		( 
		OMÏ  HRÌHÏ _ ASAMÀMÏGNI _ HÙMÏ  PHATÏ
		Lại 
		kết Tam Muội Ấn làm ủng hộ. 
		Lại 
		tụng Vô Năng Thắng Đại Minh. Minh này hay thành tựu tất cả việc. Đại 
		Minh là:
		
		“Năng mô tam mãn đà một đà nẫm. Aùn_ hổ lô, tán noa ly, ma đăng nghĩ sa 
		phộc hạ”
		( 
		NAMAMÏ  SAMANTA  BUDDHÀNÀMÏ    
		OMÏ _ 
		HULU  HULU _ CANÏDÏARI    MATANÕGI _ SVÀHÀ
		Mỗi 
		khi ăn xong dùng Đại Minh gia trì vào thức ăn dư rồi dùng Hiến Bất Động 
		Tôn Minh Vương. Đại Minh là:
		
		“Nẵng mạc tam man đa phộc nhật la nẫm, đát la tra A mô gia tán noa, lô 
		sa noa, sa bố tra dã, Hồng đát la tra hồng, Hàm”
		( 
		NAMAHÏ  SAMANTA  VAJRÀNÏAMÏ _ TRATÏ _ AMOGHA  CANÏDÏA  ROSÏANÏA   
		SPHATÏAYA _  HÙMÏ _ TRATÏ _ HÀM _ MÀMÏ
		Người 
		trì tụng làm 5 loại thuốc, nước sách. Mỗi một lần làm lấy nửa tháng làm 
		giới hạn. Mỗi ngày uống cả 2 thứ 3 lần, dùng lá  Ba La Xả làm vật chứa 
		nước uống.
		Năm 
		loại thuốc là: Nước sữa bò vàng, củ Mâu Đát La Cù Ma Gia, lạc ( Sữa nấu 
		chín ), cỏ Cát Tường, nước hòa hợp thành xong, liền tụng Đại Minh gia 
		trì sau đó mới uống. Đại Minh là:
		
		“Nẵng mô bà nga phộc đế, ô sắt nị sa dã. ÁN vĩ thủ đê, vĩ la nhi, thủy 
		phệ, phiến để ca ly, Sa phộc hạ”
		( 
		NAMO  BHAGAVATE  USÏNÏISÏÀYA  -  OMÏ _ VI’SUDDHE  VIRAJI  ‘SIVE _ 
		‘SÀNTI  KARI _  SVÀHÀ
		Hành 
		nhân dùng hoa màu hồng nhuộm chỉ, nhờ Đồng nữ hợp lại. Dùng Đại Minh gia 
		trì 1.000 biến, kết 7 gút xong buộc cạnh eo lưng. Đại Minh là:
		
		“Án – Hạ la hạ la , mãn đê thủ cật la đà ly ni tất đê, sa phộc hạ”
		( 
		OMÏ  HARA  HARA _  BANDHA  ‘SUKRA  DHÀRANÏI  SIDDHI _ SVÀHÀ
		Minh 
		này cũng hay cấm phục Thủ Cật La và hay phá Thiết Đốt Lỗ ( ‘Sàtru : Oan 
		Gia ). Nghi quỹ như vậy, người hành trì tụng có thể dùng 3 thời làm giới 
		hạn.
		_ Lại 
		nữa ở Pháp môn Du Già, nếu muốn tu tập cầu các Tất Địa ( Siddhi ). Trước 
		tiên nơi thân của mình ra mọi loại tác Pháp. Sám trừ Nghiệp đời trước ( 
		Túc Nghiệp ) khiến không có chướng nạn. Nếu chẳng như vậy thì khó thành 
		Thánh Đạo.
		Lại 
		nữa, lúc hành nhân muốn tác Pháp thời  trước tiên nên phát Tâm xa lìa 
		các nơi ồn ào luận nghị, ở ngay thân phân tưởng chữ vi diệu sao cho 
		tướng các chữ mỗi mỗi hiện trước mặt. Nếu được hiện trước mặt thì tất cả 
		mọi tội cấu đều được tiêu diệt.
		 Chữ 
		vi diệu ấy trứơc tiên ở cửa miệng tưởng chữ HÀM (                    - 
		MAMÏ)
		Ở 
		trên vai phải tưởng chữ ÁM (              _ AMÏ ) 
		Ở 
		trên vai trái tưởng chữ ÁC (               _ AHÏ ) 
		Ở 
		trên đầu tưởng chữ ÁM (              _ AMÏ ) 
		Ở 
		trên cánh tay phải tưởng chữ A (           ), trên cánh tay trái tưởng 
		chữ  PHỘC (            _ VA ) 
		Ở 
		trong lỗ rốn tưởng chữ HỒNG (             _ HÙMÏ ). 
		Lại ở 
		toàn thân tưởng chữ A (            ) 
		Chữ 
		vi diệu như vậy đều là chữ Phạn
		Lại 
		nữa, Hành nhân hồi tưởng chữ như vậy, ở trên thân phần hiện thời liền 
		lại tụng Đại Minh là:
		
		“Hồng Tả  lệ tổ lệ Tông nễ Hồng”
		( 
		HÙMÏ _ CALE  CULE  CUNÕDHE   _ HÙMÏ
		Nếu 
		tụng Minh này được 1 Lạc xoa biến thì hay trừ tất cả tội.
		_ Lại 
		tụng Đại Minh là:
		
		“ÁN – Tả lệ tổ lệ Tôn nễ Phát tra”
		( OMÏ 
		_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ PHATÏ
		Nên 
		tụng Minh này đủ một Lạc Xoa ( 100 ngàn biến )  thì được Đại Trí tuệ.
		_ Lại 
		tụng Đại Minh là:
		
		“Nẵng mạc tả lệ tổ lệ Tôn nễ nẵng mạc”
		( 
		NAMAHÏ  CALE  CULE  CUNÕDHE _  NAMAHÏ
		
		Thường trì Minh này thì hay trừ tất cả Trần cấu.
		_ 
		Tiếp, lại nói về chữ vi diệu căn bản của Chư Phật Bồ Tát. 
		Chữ 
		MÂU (             - MAMÏ) là căn bản của Diệu Cát Tường Bồ Tát 
		(Manõju’srì Bodhisatva_ Văn Thù Bồ Tát ) 
		Chữ 
		MUỘI (             -MAI) là căn bản của Từ Thị Bồ Tát ( Maitrì 
		Bodhisatva ) 
		Chữ 
		THẤT LY (          - ‘SRÌ) là căn bản của Như Lai( Tathàgata ), lại là 
		căn bản của LY PHỆ Hiền Thánh. 
		Chữ 
		ÁM (              - AMÏ) là căn bản của Phổ Hiền Bồ Tát ( Samantabhadra 
		Bodhisatva )
		Chữ 
		ÁC (           - AHÏ) là căn bản của Hư Không Tạng Bồ Tát ( Aøkà’sa 
		Garbha Bodhisatva ) 
		Chữ A 
		(          - À) là căn bản của tất cả Như Lai. 
		Chữ 
		BỘT LONG (                   - BHRÙMÏ) là căn bản của Đại Luân Minh 
		Vương ( Mahà cakra Vidyaràja )
		Chữ A 
		(             - À) lại là căn bản của Quán Tự Tại Bồ Tát ( 
		Avalokite’svara bodhisatva ) , lại là căn bản của Kim Cương Thủ Bồ Tát ( 
		Vajrapànïi  Bodhisatva )
		Chữ 
		HỒNG (                   - HÙMÏ) là căn bản của Diễm Ma Đắc Ca Minh 
		Vương ( Yamantaka Vidyaràja )
		Chữ 
		ÁN (                - OMÏ) là căn bản của Tỳ Lô Giá Na Phật ( Vairocana 
		Buddha ) 
		Chữ 
		TẢ (                 - CA) là căn bản của Đại Luân Minh Vương. 
		Chữ 
		LỆ (                - LE) là căn bản của Bất Động Minh Vương ( Acala 
		Vidyaràja ) , lại là căn bản của Mã Đầu Minh Vương ( Hàyagrìva Vidyaràja 
		)
		Chữ 
		TÔN (                - CUNÕ ) là căn bản của Đại Tôn Na Bồ Tát ( Mahà 
		Cunõdhe Bodhisatva )
		Chữ 
		NỄ (           - DHE) là căn bản của Kim Cương Tát Đỏa Bồ Tát 
		(Vajrasatva Bodhisatva )
		Chữ 
		SA (           - SVÀ) là căn bản của I Ca Nhạ Tra. 
		Chữ 
		HẠ (             - HÀ) là căn bản của Phộc Nhật La Nẵng Khư ( Vajra 
		Dhaka) 
		_ 
		Tiếp, lại diễn nói về các Ấn: là Trạch Địa Ấn, La Ấn (ấn cái cày), 
		Phương Vị Ấn, Liên Hoa Ấn, Tam Xoa Ấn, Bát Ly Ca Ấn, Quyến Sách Ấn, Câu 
		Ấn, Đảo Xử Ấn (ấn cái chày dầm), Bột Tổn Ni Ấn, Bảo Trượng Ấn, Tọa Ấn, 
		Kim Cương Tọa Ấn với Hiền Toạ Ấn, Sa Tất Đế Ca Ấn, Nhạ Phộc Năng Ấn, Sư 
		Tử Tọa Ấn, Thuyết Pháp Luân Ấn, Sư Tử Bộ Ấn (ấn bước đi của sư tử), Sư 
		Tử Ngọa Ấn (ấn sư tử nằm), Phan Ấn, Phiến Ấn, Bạch Phất Ấn, Kim Cương 
		Linh Trân Châu Lưu Ly Ấn, Pháp Cổ Ấn, Loa Ấn, Ưu Bát La Hoa Man Ấn, Tăng 
		Già Lô Y Bát Ấn, Vô Úy Ấn, Pháp Luân Ấn, Hoa Ấn, Đồ Hương Ấn, Đăng Ấn, 
		Thực Ấn, Thỉnh Triệu Bản Tôn Ấn,  Phát Khiển Ấn, Cúng Dường Ấn, Át Già 
		Ấn, Y Phục Trang Nghiêm Ấn, Hiền Bình Ấn, Hoa Man Ấn, Thần Thông Ấn, Nhạ 
		Phộc Năng Xả Ấn, Thất Di Lô Ấn, Bồ Đề Thọ Ấn, An Tam Muội Ấn, Trừ Ma Ấn, 
		Đầu Đỉnh Khí Trượng Ấn, Định Ấn, Phật Nhãn Ấn, Ma Ha Chỉ Ấn, Nhạ La Bá 
		Ba Ni Ấn, Tĩnh Tranh Tượng Ấn, Quân Trì Ấn, Ca La Dã Noa Ấn, Tản Cái Ấn, 
		Cách Tỉ Ấn, Đỉnh Lễ Ấn, Mộc Dục Ấn, … 84 ấn.
		Tiếp, 
		lại nói về các ấn tướng, khiến cho Hành nhân tu tập viên mãn được Pháp 
		thành tựu. Lúc hành nhân muốn tác Pháp, trước tiên nên trong sạch thân 
		tâm. Sau đó là dùng hương xoa bôi lên hai bàn tay thì mới có thể kết khế 
		ấn. Hành nhân đứng ngay thẳng ở mặt Đông, chắp tay đặt trên đỉnh đầu 
		đỉnh lễ Ta Bảo, sau đó đỉnh lễ Bản Tôn Đại Tôn Na Bồ Tát. Tiếp đỉnh lễ 
		Quán Tự Tại Bồ Tát, tiếp đỉnh lễ Kim Cương Thủ Bồ Tát. Như vậy đỉnh lễ 
		Chư Phật Bồ Tát xong rồi mới có thể kết ấn.
		KINH 
		ẤN: Chắp hai tay lại, dựng thẳng ngón trỏ, ngón giữa của tay trái và đặt 
		ngón cái, ngón vô danh, ngón út vào trong lòng bàn tay phải. Đem ngón 
		tay trái cùng kết lại thì thành ấn. Ấn này đúng vào lúc nhập vào Tam 
		Muội và lúc tác Pháp thành tựu.
		
		PHƯƠNG VỊ ẤN: Trước tiên, đứng thẳng làm thế múa bên phải (Hữu Vũ Thế) 
		mà chuyển theo bên phải. Đem tay phải tác Thí Nguyện, tay trái làm tướng 
		Tam Phan (3 cây phướng) đặt trên trán. Lại tác Hữu Vũ Thế  rồi tác Tả Vũ 
		Thế … thì thành ấn. Ấn này hay phục Sư tử, Rồng , Cọp với Bộ Đa, Quỷ Tất 
		Xá Tả ( Pi’sàca ) … cho đến nhóm giặc cướp.
		_ 
		Tiếp, nói về PHÁP ẤN, hợp 2 tay lại như tướng hoa sen 8 cánh khiến cho 
		ngón tay không chạm nhau. Đem 2 ngón cái vào trong lòng bàn tay thì 
		thành ấn. Kết ấn này thì khiến cho Chư Thiên có Đại uy đức thảy đều hoan 
		hỷ hay ban cho Hành nhân việc Đại cát tường và thành tựu ước nguyện.
		_ 
		Tiếp, đến TAM  XOA ẤN: tay trái nắm quyền, duỗi ngón trỏ, ngón giữa, 
		ngón vô danh thì thành ấn. Ấn này có uy lực lớn dùng vào lúc tác Pháp 
		Tức tai.
		_ 
		Tiếp, đến BÁT LY GIÀ ẤN: đem 2 bàn tay đều đặt trên cánh tay, đều dựng 
		ngón trỏ thành ấn, ấn này hay trừ tất cả bệnh sốt rét (ngược bệnh).
		_ 
		Tiếp, đến QUYẾN SÁCH ẤN: Hai tay cùng kèm song song nhau, đem ngón vô 
		danh và ngón cái cùng móc nhau như cái khóa thì thành ấn. Ấn này ở trong 
		Pháp Kính Ái, tác Câu Triệu thì có Công đức lớn.
		_ 
		Tiếp, đến ĐẢO XỬ ẤN: 2 tay nắm quyền cùng hợp nhau. Đem ngón cái cùng 
		cái chéo nhau thì thành ấn. Ấn này nên dùng ngưng trừ Tú Diệu (các vì 
		sao) đại ác.
		_ 
		Tiếp, đến BỘT TỔN NI ẤN: Đặt 2 tay kèm song song nhau, lại cùng đảo lộn 
		đầu nắm quyền. Hơi co ngón giữa vào trong ngón cái thì thành ấn. Ấn này 
		dùng trong lúc tác Pháp Điều Phục, hay phá hoại Thiết Đốt Lỗ ( ‘Sàtru ) 
		và ngưng trừ nhóm Dạ Xoa ( Yaksïa ) , Tú Diệu Đại Ác.
		_ 
		Tiếp, đến BÁT TRÌ BÀ ẤN: đem ngón cái, ngón út của tay phải ở đầu ngón 
		trỏ thành ấn. Ấn này hay giáng phục A TÔ La.
		_ 
		Tiếp, đến TỌA ẤN: Co ngón vô danh của tay phải, và duỗi rộng các
		ngón cái và hơi co
		ngón cái lại thì thành ấn. Kết ấn này thì 
		tưởng thành Tòa Báu hiến các Hiền Thánh.
		_ 
		Tiếp, đến KIM CƯƠNG TỌA ẤN: 2 tay cùng kèm song song nhau nắm quyền. Lại 
		tác như Châm Phộc (cây kim đan cột buộc nhau). Đặt ngón cái vào ở dưới 
		cây kim thì thành ấn. Kết ấn này thì tưởng thành tòa Kim Cương phụng 
		hiến Phật Thế Tôn.
		_ 
		Tiếp, đến HIỀN TỌA ẤN: trước tiên, giương tay trái ngang bằng đặt ở dưới 
		lỗ rốn. Giương bằng bằng phải đảo lộn với tay trái và đặt trên tay trái 
		thành ấn. Ấn này lúc tác Man Noa La ( làm Đàn ) với lúc nhập định dùng 
		hiến Tôn Na Bồ Tát với Kim Cương Thủ Bồ Tát.
		_ 
		Tiếp, đến SA TẤT ĐẾ CA ẤN: Trước tiên, ngồi ngay trên tòa hoa sen, đặt 
		chân phải vượt qua chân trái. Lại dùng tay phải mở rộng đè ngón cái tay 
		trái thì thành ấn. Lúc tác Pháp thành tựu thì dùng ấn này, thường ban 
		Tất Địa cho Hành nhân.
		_ 
		Tiếp, đến NHẠ PHỘC NĂNG ẤN: Trước tiên, đứng thẳng chân, sau đó xoay 
		chuyển về bên phải, 2 tay đều nắm quyền, duỗi ngón giữa dao động thì 
		thành ấn. Hành nhân dùng ấn này trong lúc bị nạn lớn hoặc lúc bị Pháp 
		cấm phộc thì tất cả việc ấy chẳng có thể làm hại được.
		_ 
		Tiếp, đến SƯ TỬ NGOẠ ẤN: Trước tiên, tưởng ngồi yên trên hoa sen. Liếc 
		ngó về bên phải, lại quay lưng ngồi sau đó đem bàn chân phải vượt qua 
		bàn chân trái, đặt tay chạm đất thì thành ấn. Dùng ấn này vào lúc quán 
		tưởng.
		_ 
		Tiếp, đến PHAN ẤN: duỗi thẳng ngón trỏ và ngón giữa của tay trái làm thế 
		dao động thì thành ấn. Dùng ấn này vào lúc cúng dường. 
		_ 
		Tiếp, đến TRÀNG ẤN: Tay phải nắm quyền, duỗi thẳng ngón giữa thì thành 
		ấn. Dùng ấn này vào lúc chiến đấu hoặc có sự sợ hãi lớn.
		_ 
		Tiếp, đến SƯ TỬ TỌA ẤN: Trước tiên, đặt 2 tay kèm song song nhau. Lại 
		như  hợp chưởng, để ngón giữa và ngón út như cây kim, ngón vô danh và 
		ngón trỏ như cái vòng, dựng thẳng ngón cái lên trên cho cứng thành ấn. 
		Ấn này là Thế Tôn Ấn dùng để giáng phục Đại Dạ Xoa
		Tiếp, 
		đến PHÁP ẤN: Trước tiên, ngồi kiết già, tay trái nắm quyền dựng thẳng 
		ngón trỏ, dùng tay phải nắm ngón trỏ tay trái, đặt ở lỗ rốn thì thành 
		ấn. Dùng ấn này đề cầugiải thoát, tất cả Trời, người thảy đều xưng tán.
		_ 
		Tiếp, đến BÁT BỨC LUÂN ẤN: Duỗi rộng 2 bàn tay sao cho các ngón rời nhau 
		rồi xoay chuyển trên đầu như tướng bánh xe (Luân Pháp) thì thành ấn. Ấn 
		này có uy lực hay trừ tất cả đại ác.
		_ 
		Tiếp, đến SƯ TỬ BỘ ẤN: Trứơc tiên, đứng ngay ngắn như con Sư tử, sau đó 
		đặt tray trái ở sau lưng, rồi đặt ở bên phải, dựng ngón út như cây kim, 
		hơi co 2 ngón trỏ dang rộng cùng dính nhau. Đặt ngón cái bên cạnh ngón 
		trỏ thì thành ấn. Ấn này dùng vào lúc Câu Triệu và Phát Khiển ở trong 
		Pháp Kính Ái.
		_ 
		Tiếp, đến TÔN NA BỒ TÁT CĂN BẢN ẤN: Dùng các ấn tướng ở thân phần của Bồ 
		Tát.
		 _ 
		ĐỈNH LỄ ẤN: Trước tiên đứng ngay thẳng, chắp tay lại làm tướng đỉnh lễ 
		thì thành ấn. Ấn này là Tôn Na Đỉnh Lễ, là ấn tối thượng.
		_ 
		Tiếp, đến LIÊN HOA ẤN: Chỉ sửa tướng lúc trước, chắp tay, lại đặt ở trái 
		tim của Tôn Na. Liền dùng 2 chân đảo lộn đầu thì thành ấn. Đây cũng gọi 
		là Tối Thượng Ấn
		_ 
		Tiếp, đến ĐẦU ẤN: Trứơc tiên, kiễng bàn chân trái, sau đó quỳ gối phải 
		sát đất, tay phải đặt trên trán làm thế dao động. Lại để 4 ngón cùng kèm 
		song song nhau, đặt ngón cái ở trong lòng bàn tay thì thành ấn.
		_ 
		Tiếp, đến ĐỈNH ẤN: đặt ngón giữa như cây kim và ngón cái của tay phải 
		cùng vịn nhau thì thành ấn. Ấn này nếu dùng Gíap Trụ Đại Minh thì đồng 
		dạng, cũng gọi là Giáp Trụ Ấn
		_ 
		Tiếp, đến TÔN NA BẢN ẤN: Trước tiên, dao động ngón cái của 2 tay xong, 
		chắp 2 tay lại, để ngón cái của tay phảivào bên trong lòng bàn tay thì 
		thành ấn, đặt ở trái tim.
		_ 
		Tiếp, đến HOA ẤN: 2 tay nắm quyền lại, dựng 2 bàn tay như cây kim, đặt 
		ngón trỏ và ngón cái cùng hợp nhau thì thành ấn.
		_ 
		Tiếp, đến ĐẠI ẤN: 2 tay cùng kèm song song cái ngón đừng để dính nhau. 
		Đặt ngón cái ở lóng thứ 3 của ngón út, sau đó nắm quyền bền chắc thì 
		thành ấn. Đặt ấn này ở Bãn Tâm ( Trái tim của mình ) , liền tụng Đại 
		Minh 7 biến thì hay tác tất cả Pháp.
		_ 
		Tiếp, đến ĐỆ NHỊ ẤN: (ấn thứ hai) Liền dùng ấn lúc trước, dựng 2 ngón 
		cái, giương duỗi các ngón còn lại đừng cho dính nhau thì thành ấn.
		_ 
		Tiếp, đến ĐỆ TAM ẤN: (ấn thứ ba) Dùng ấn lúc trứơc, đều đặt ngón trỏ ở 
		lóng thứ 3 của ngón giữa thì thành ấn.
		_ ĐỆ 
		TỨ ẤN: (ấn thứ tư) Đem 2 tay duỗi rộng các ngón và đều co lóng giữa. Lại 
		đặt ngón giữa, ngón vô danh trên ngón cái ở ngay lóng giữa thì thành ấn.
		_ 
		Tiếp, đến KINH ẤN: Đem 2 ngón cái đè móng 2 ngón út. Lại đặt tay phải 
		trên tay trái thì thành ấn.
		_ 
		Tiếp, đến LOA ẤN: Giương rộng ngón trỏ, ngón giữa của 2 tay sao cho dính 
		nhau, để ngón út vịn móng ngón cái bền chắc thì thánh ấn.
		_ 
		Tiếp, đến ĐỊNH ẤN: Trước tiên ngồi kiết già, giương rộng 2 bàn tay, đặt 
		tay phải trên tay trái sao cho móng 2 ngón cái dính nhau rồi đặt dưới lỗ 
		rốn thì thành ấn.
		Các
		Ấn Tướng như vậy cũng tùy phần diễn nói, Hành nhân tu thành thành 
		tâm ghi nhớ tu tập khiến cho tinh thục, chẳng thành Ấn Khế tức Hiền 
		Thánh chẳng vui, phàm sự cầu đảo chẳng được thành tựu.
		 
		PHẬT 
		THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO TÔN NA BỒ TÁT ĐẠI MINH THÀNH TỰU 
		NGHI QUỸ KINH 
		QUYỂN THỨ 
		HAI  ( Hết )
		
		
 Mật Tạng Bộ 3 - No 
		1169C (Tr. 684 ( Tr. 687)
		 
		
		PHẬT THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO 
		TÔN NA BỒ TÁT ĐẠI MINH THÀNH TỰU
		
		NGHI QUỸ KINH
		
		QUYỂN THỨ BA
		 
		Long Thọ Bồ Tát lược trích từ  TRÌ MINH TẠNG
		Hán dịch: Minh Giáo Đại Sư PHÁP HIỀN
		Việt dịch: HUYỀN THANH
		 
		TẠO TRANH 
		TƯỢNG
		PHẦN 
		THỨ BA
		
		 
		Bấy 
		giờ, Đức Phật nói: “Ta đã lược nói về các Ấn Tướng trong Đại Giáo Du Già 
		của Đại Tỳ Lô Giá Na Như Lai xong. Nay ta lại nói về các thức vẽ tượng.
		Nếu 
		có Hành nhân ở trong Pháp của Tôn Na tu tập cầu thành tựu, thì trước 
		tiên cần hiểu rõ (liễu đạt) thứ tự nghi thức vẽ tượng. Hành nhân nếu 
		muốn vẽ tượng, trước nên nên dùng lụa thuần màu trắng tinh thật tốt 
		không có lẫn lộn lông, tóc và các vật tạp loạn. Nếu mua của người khác 
		thì tùy theo giá lụa chẳng được trả giá nhiều ít. Khi được rồi, trước 
		tiên đặt trong đống lúa gạo 7 ngày đêm, sau đó đem ngâm trong nước sạch 
		có 5 vị thuốc 3 ngày hoặc 5 ngày, 7 ngày là tốt nhất. Xong dùng nước 
		sạch rửa kỹ, lại ngâm trong nước sạch thơm 1 ngày đêm rồi lấy ra. Lại 
		dùng nước Ngũ Tịnh vẩy sạch sẽ, rồi dùng nước Ngũ Bảo tẩy rửa, thì mới 
		có thể vẽ lên trên.
		An 
		bày xong, Hành nhân tự tác quy mệnh là: “Nam mô thất thập thất câu đê 
		chính đẳng chính giác”, cũng khiến người vẽ chuẩn bị tinh khiết, đến 
		thời thì quy mệnh xong mới bắt đầu vẽ các Hiền Thánh. Bức tranh đó trước 
		tiên Hành Nhận tụng Đại Minh gia trì xong mới dùng đất màu trắng hòa với 
		phấn rồi xoa lên khuôn vải. Xoa tô xong đem đặt ở nơi thanh tịnh. Từ đây 
		về sau cho đến lúc dùng màu vẽ xong thường đem hương hoa, Ứ Già cúng 
		dường. Nếu y theo Pháp như vậy làm là Phẩm tối thượng.
		Bắt 
		đầu làm thì chia vẽ Giới Đạo, cũng nên vẽ xoay theo bên phải. 
		Trước tiên ở mặt dưới tranh vẽ ao hoa sen bên trong chứa đầy hoa và có 
		mọi loài Thủy Tộc như: cá, ốc, trai, sò, rùa cùng với Uyên Ương, phi 
		cầm… Trên mặt ao vẽ 3 tòa hoa sen do mọi báu hợp thành. 
		Trên 
		hoa sen ở chính giữa vẽ Đức Phật Thế Tôn màu trắng tỏa hào quang 
		rực lửa chiếu soi khắp cả có tay phải kết Ấn Thí Nguyện, tay trái 
		kết Ấn Thuyết Pháp với hào quang màu trắng. Ở trong lỗ rốn tuôn 
		ra ánh sáng lớn, trong ánh sáng đó hiện ra Tôn Na Bồ Tát.
		Trên 
		hoa sen bên phải Đức Phật vẽ Đức Phật Đỉnh thứ ba có 6 cánh tay. 
		Bên phải: tay thứ nhất kết ấn Thí Nguyện, tay thứ hai cầm hoa sen, tay 
		thứ ba cầm tràng hạt. Bên trái: tay thứ nhất cầm chày Kim Cương, , tay 
		thứ hai cầm Quyển Kinh, tay thứ ba kết Ấn Thuyết Pháp. Toàn thân có hào 
		quang rực rỡ vây quanh.
		Trên 
		hoa sen , bên trái vẽ Đức Bất Không Quyến Sách ( Amogha Pà’sa ) 
		có 4 mặt, 8 cánh tay, mặc áo da cọp quấn quanh nách. Lại dùng da nai làm 
		áo khoác ngoài ( Thiên Y ) . Khuôn mặt có 3 mắt, đầu đội mão báu , tóc 
		buông rũ xuống dưới. Bên phải: tay thứ nhất kết Ấn Thí Nguyện, tay thứ 
		hai cầm tràng hạt, tay thứ ba cầm vòng dây, tay thứ tư kết Ấn Thí Vô Úy. 
		Bên trái:  tay thứ nhất cầm hoa sen trắng, tay thứ hai cầm Quyển Kinh, 
		tay thứ ba nắm quyền dựng đứng ngón trỏ làm Ký Khắc Ấn, tay thứ tư cầm 
		móc câu.Toàn thân rực lửa chiếu diệu rực rỡ.
		Mặt 
		bên dưới vẽ 2 vị Long Vương Nan Đà ( Nanda Nàgaràja ) và Ô Ba 
		Nan Đà ( Upananda Nàgaràja ) đều có 7 đầu, tay cầm Phật Tọa với 
		nhánh hoa sen.
		Ở bên 
		phải vẽ Mãn Hiền ( Samantabhadra ) đầu đội mão Trời, thân có mọi 
		thứ trang nghiêm, tay cầm viên ngọc báu.
		Ở mặt 
		trên, hai bên trái phải vẽ 5 cái Tháp Phật . Trong Tháp vẽ các Đức Cát 
		Tường Như Lai ( ‘Srì Tathàgata ) . Thứ nhất vẽ Đức Hải Cát Tường Như 
		Lai , thứ hai vẽ Đức Thiên Bảo Kế Cát Tường Như Lai , thứ ba 
		vẽ Đỉnh Quan ( cái mão ) Tạng Cát Tường Như Lai . Thân các 
		Như Lai đều tác màu vàng ròng, tay kết Ấn Thí Vô Úy.
		Lại ở 
		2 bên phải trái đều vẽ núi báu. Trên núi báu ở mặt trái vẽ Ma Ma Chỉ 
		Bồ Tát ( Mamàki Bodhisatva ) ngồi trên Tòa hoa sen, tay cầm chày Kim 
		Cương. Tiếp phía sau vẽ Vô Năng Thắng ( Aprarajita ) . Ở mặt trên 
		vẽ Tra Chỉ Minh Vương (Takki Vidyaràja ).
		Lại ở 
		mặt bên trái vẽ Kim Cương Câu Minh Vương ( Vajra Anõku’sa 
		Vidyaràja ).
		Ở 
		phía trên Đức Thế Tôn , hai bên phải trái vẽ mây hiện tướng chớp lóe ( 
		Thiểm Điện ) . Trong mây vẽ chư Thiên giáng mưa châu báu ( Trân 
		bảo ) . Lại vẽ chư Thiên hiển tướng ca nhạc. Ở mặt trên vẽ Nhật 
		Nguyệt Thiên (Àditya Deva và Cadra Deva ) Lại ở trong Hư Không giáng 
		xuống mọi thứ hoa như cơn mưa.
		Tiếp 
		ở phía bên phải. Trên núi Bảo Tạng ( Ratnagarbha ) vẽ Tam Giới 
		Thắng Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát ( Trailokya Vijaya Àrya 
		Avalokite’svara Bodhisatva ) tay cầm hoa sen. 
		Tiếp 
		ở phía bên phải vẽ Thánh Đa La Bồ Tát ( Àrya Tàrà Bodhisatva ) 
		tay cầm hoa Ưu Bát La ( Utpala ) màu xanh. 
		Tiếp 
		ở bên trái vẽ Phật Mẫu Ma Gia ( Màya Buddha Màtà )
		Tiếp 
		ở mặt phía sau vẽ Đại Khổng Tước Minh Vương ( Mahà Majuri Vidya 
		rajnõi ). Tiếp ở phía sau, hai bên trái phải vẽ chim công đang múa.
		Lại ở 
		mặt trên , phía bên phải vẽ 5 Đức Như Lai. Thứ nhất vẽ Pháp Hải Hạnh 
		Cát Tường Vương Như Lai, thứ hai vẽ Thiện Quang Minh Vương Như 
		Lai, thứ ba vẽ Từ Thị Trang Nghiêm Cát Tường Như Lai, thứ tư 
		vẽ Đăng Quang Vương Như Lai, thứ năm vẽ My Gian Hào Tướng Cát 
		Tường Như Lai. Năm Đức Như Lai ấy đều ngồi trên Tòa Sen.
		Tiếp 
		vẽ một vị Dược Xoa Chủ ( Yaksïa Adhipatàye ). Tiếp vẽ Trời Đế 
		Thích (Indra Deva ) cầm cái lọng.
		Như 
		vậy y theo thứ tự vẽ Phật Bồ Tát với Chúng Hiền Thánh đều viên mãn uy 
		đức tự tại khiến cho các hàng Trời, Rồng, Quỷ Thần trong Thế Gian nhìn 
		thấy đều giáng phục. Như vậy vẽ tượng xong.
		Người 
		hành Trì Tụng liền đối trước tranh tượng này làm Pháp An Tượng, khánh 
		tán. Hành Nhân ở ngày mồng một của đầu tháng hoặc ngày 15 bắt đầu tu 
		tập, cầu nương uy lực của tất cả Thánh Hiền. Sau đó khiết tĩnh xong thì 
		thân mặc áo mới sạch, thọ trì Trai Giới trong 3 ngày đêm hoặc một ngày 
		đêm, hoặc Tĩnh Trai chẳng ăn hoặc ăn rau cải hoặc uống sữa. Lúc 
		khác, thường trì Bát Thực. Lại thọ 8 Giới xong mới chuẩn bị mọi 
		thứ hương, hoa, dầu thơm, nước sạch lại đốt đèn dầu bơ và dùng mọi loại 
		quần áo cực tốt trang nghiêm, tô điểm bằng các thứ quý báu. Lại dùng 5 
		cái bình Ứ Già chứa đầy nước thơm màu nhiệm và chứa đầy 5 loại báu ( Ngũ 
		bảo ) , nước của 5 loại thuốc ( Ngũ Dược ) dùng làm Ứ Già cho đến mọi 
		thức ăn uống tác cúng dường.
		Hành 
		Nhân liền đứng thẳng trước bức tranh đặt ở nơi muốn trì tụng. Liền đem 
		mọi vật cúng dường mà cúng dường tranh tượng đã vẽ. Như vậy làm Pháp 
		An Tượng xong, từ đây về sau hành y theo Pháp mà tu hành.
		Tiếp 
		lại nói về Pháp Tượng của Tôn Na Bồ Tát
		Người 
		hành Trì Tụng nếu muốn vẽ Tượng của Bản Tôn Tôn Na Bồ Tát. Trước 
		tiên tìm lụa mới thanh tịnh thuần màu trắng. Kiếm được lụa rồi liền 
		khiến Họa Sư chuẩn bị tinh khiết , đến ngày khởi công khiến thọ 8 Giới, 
		sau đó khiến dùng vật mới điều phối sắc vẻ thật đẹp. Vẽ Tôn Na Bồ Tát, 
		thân có màu mặt trăng mùa thu, mặt có 3 mắt, có 18 cánh tay, mặc áo 
		trắng với mọi thứ trang nghiêm.Dùng A Tha làm áo khoác ngoài ( Thiên y ) 
		, báu Xà Cừ làm xuyến đeo tay, 10 ngón tay có vòng báu ( Nhẫn báu ) .
		Hai 
		tay bên trên tác Ấn Thuyết Pháp
		Bên 
		phải: tay thứ hai kết Ấn Thí Vô Úy , tay thứ ba cầm cây kiếm, tay thứ tư 
		cầm Bảo Đạc ( Chuông báu nhỏ cầm trong tay  ), tay thứ năm cầm quả Vĩ 
		Nhạ Bố La ( Bìja pùraka_ Tử Mãn Quả ) , tay thứ sáu cầm cây búa ( Việt 
		Phủ ) , tay thứ bảy cầm móc câu, tay thứ tám cầm chày Kim Cương, tay thứ 
		chín cầm Tràng Hạt.
		Bên 
		trái: tay thứ hai cầm cây phướng báu Như Ý, tay thứ ba cầm hoa sen, tay 
		thứ tư cầm cái bình Quân Trì, tay thứ năm cầm vòng dây, tay thứ sáu cầm 
		bánh xe, tay thứ bảy cầm vỏ ốc ( ‘Sànõkha ), tay thứ tám cầm Hiền Bình, 
		tay thứ chín cầm Quyển Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa
		Ở mặt 
		dưới Bồ Tát.Vẽ ao hoa sen, bên trong ao đó sinh ra một hoa sen lớn. Vẽ 2 
		vị Nan Đà ( Nanda Nàgaràja ) , Ô Bạt Nan Đà ( Upananda Nàgaràja ) tay 
		cầm cọng sen. 
		Trên 
		hoa vẽ Tôn Na Bồ Tát có hào quang tròn lớn rực rỡ tràn khắp. Phía trước 
		mặt Bồ Tát ,vẽ người Trì Tụng tay cầm lò hương với tướng hướng gọi Bản 
		Tôn. 
		Ở mặt 
		trên, vẽ Người Trời Tĩnh Cư với tướng tuôn mưa hoa mưa báu.
		Vẽ 
		Tượng như vậy chỉ dùng Khiết Tĩnh Chí Tâm là tốt nhất. Ở trước mặt Tượng 
		tác Pháp thì không có gì không thành tựu.
		 
		
		(((((((((((
		 
		
		PHÁP LÀM MAN NOA LA
		
		PHẦN THỨ TƯ
		 
		Lại 
		nữa Hành Nhân ở trong Pháp của Tôn Na, tu tập thành tựu làm Man Noa La ( 
		Manïdïala _ Đàn ) Trước tiên y theo Pháp chọn được Thánh Địa xong. Liền 
		đào bỏ đất cát ác, than, tro, lông, tóc, xương cốt… Lấy đất tốt lấp 
		đầy,nện chặt cho thật bằng phẳng. Sau đó ở bên trên phân chia làm Man 
		Noa La. Man Noa La ấy hoặc rộng 16 khuỷu tay, hoặc 8 khuỷu tay, hoặc 4 
		khuỷu tay, có 3 loại chẳng quyết định. Cho dù lớn nhỏ cũng phải tô điểm 
		trang nghiêm. Bốn phương của Man Noa La ấy mở 4 cửa, Chính giữa cửa đều 
		đặt bánh xe Pháp, ở trong dùng chỉ ngũ sắc buộc thắt.Bên trong Man Noa 
		La làm 8 vị trí của Hiền Thánh. Nếu thiếu liền dùng chỉ ngũ sắc thay 
		thế. Trong Man Noa La có 33 Câu Đê Thiên . Ở trên Man Noa La chia 7 bình 
		Ứ Già , bên trong mỗi một bình Ứ Già tưởng có một Câu Đê Thiên ( 100 
		triệu vị Trời ) . Lại ở bên trong Man Noa La đặt 8 vị Đại Long Vương.
		
		Bên 
		trong Man Noa La, ngay chính giữa vẽ Tôn Na Bồ Tát và an bày theo thứ tự 
		các Hiền Thánh khác.
		Ở 
		phương Đông Bắc, an Đại Luân Minh Vương ( Mahà Cakra Vidyaràja )
		Ở 
		phương Đông Nam , an Bất Động Minh Vương ( Acala Vidyaràja )
		Ở 
		phương Nam, an Kim Cương Thủ Bồ Tát ( Vajrapànïi Bodhisatva )
		Ở 
		phương Bắc, an Quán Tự Tại Bồ Tát ( Avalokite’svara Bodhisatva )
		Ở 
		phương Tây Bắc, an Bất Không Quyến Sách Bồ Tát ( Amogha Pà’sa Bodhisatva 
		)
		Ở 
		phương Tây, an Y Nhạ Ca Tra Bồ Tát ( Eja Katïà Bodhisatva_ Nhất Kế Bồ 
		Tát )
		Ở 
		phương Tây Nam, an Phộc Nhật La Năng Khế Bồ Tát ( Vajra Dhàka Bodhisatva 
		).
		Ở bên 
		cạnh Đông của Man Noa La, an tranh tượng lúc trước. Lại ở trước bức 
		tranh , bên trên mặt đất vẽ hoa sen 8 cánh, bên trên làm cái lò Hộ Ma. 
		Hành Nhân ở chính giữa cái lò này mà làm Pháp Hộ Ma.
		Trước 
		tiên Hành Nhân rải lúa, gạo, hoa khắp lên trên đó rồi dùng nước có 5 
		loại thuốc để Sái Tịnh ( Rưới vẩy cho trong sạch ) . Sau đó an 
		Ngoại Cúng Dường để cúng dường Hiền Thánh. Dùng hương, hoa, dầu 
		thơm, vật dụng bằng vỏ ốc, quần áo, phướng, phan… cho đến bình Ứ Già, 
		mọi thứ vật cúng dường để cúng dường Hiền Thánh. Lại dùng nước có 5 thứ 
		Báu hiến nơi Bản Bộ. Khiết tĩnh xong mới dùng 4 thứ Bạch Thực là bơ, 
		sữa, lạc ( Sữa nấu chín ) điều hòa với nhau làm thức ăn. Thức ăn dùng 
		làm 3 Phẩm. Nếu tác Pháp Thượng Phẩm thì dùng thượng phẩm cúng dường. 
		Nếu tác Pháp Trung Phẩm thì dùng trung phẩm cúng dường. Pháp Đệ Tam Phẩm 
		thì dùng cách cúng dường thứ ba. Tuy nói là 3 Phẩm nhưng đều nên dùng 
		Thượng Vị mà dâng hiến Hiền Thánh bên trong Man Noa La. Nếu Hội này có 
		các Mẫu Quỷ, La Sát Sa ( Ràksïasa ) , Bộ Đa ( Bhùta ) Tất Xá Tả ( 
		Pi’sàca ) … tùy theo sự câu triệu ấy từ 10 phương đi đến thì đều phải 
		bình đẳng cúng tế thức ăn cho họ, không được để cho họ bị thiếu hụt 
		chẳng đầy đủ.
		Vật 
		khí hiến thức ăn cũng chẳng giống nhau. Nếu hiến dâng 8 vị Như Lai với 
		Tôn Na Bồ Tát ở trong Man Noa La thì đều hiến một hoa sen bằng vàng lớn 
		bằng một ngón cái rồi dùng cái bát bằng đồng chứa đầy Lạc, Mật với các 
		thức ăn. 
		Phụng 
		hiến Phật Bồ Tát xong mới dùng vật khí bằng sành sứ mới sạch cúng tế cho 
		nhóm Tất Xá Tả ( Pi’sàca ) từ 10 phương đi đến. Thức ăn cúng tế dùng 
		rượu, thịt với cá hoặc dùng toàn là cá để cúng.Nơi hiến Hiền Thánh với 
		nhóm Tất Xá Tả đều phải dùng thân tâm chuyên chú thành tín cúng dường, 
		ắt Hiền Thánh vui vẻ và sự mong cầu sẽ được thành tựu.
		Làm 
		như vậy xong. Hành Nhân liền vào Quán Tưởng . Tưởng trên đầu mũi của 
		mình có một vật, thấy rõ xong cứ chuyên chú chẳng tán loạn sẽ thành lòng 
		Từ (Maitra ) vững chắc, khiến cho hơi thở ra vào thật nhẹ nhàng, ngồi 
		ngay thẳng cúi đầu hé mắt nhìn xuống bàn chân. Liền tưởng trong trái tim 
		hiện một vành mặt trời, tưởng chính giữa vành mặt trời có hoa sen hé nở 
		do các báu hợp thành. Ở trong hoa sen có Tôn Na Bồ Tát  thân màu vàng 
		ròng, mặc áo trắng tinh với mọi thứ trang nghiêm. Lại tưởng trong 5 thân 
		phần của Bồ Tát tuôn ra ánh sáng lớn. Lại tưởng ở trong 9 cửa ( 2 mắt , 
		2 tai, 2 lỗ mũi, miệng, hậu môn, đường tiểu ) của Bồ Tát cùng tuôn ra 
		ánh sáng. Ánh sáng ấy rực rỡ chiếu diệu tất cả. Tác Quán thành xong thì 
		thâu ánh sáng rồi đứng dậy. Lại đem hương, hoa với Ứ Già… dâng lên Hiền 
		Thánh rồi cung kính làm lễ.
		Lại 
		nữa Hành Nhân vẽ Tượng, làm Man Noa La, an bày vị trí của Hiền Thánh, 
		mọi loại sở tác đều vâng theo sự chỉ dạy của A Xà Lê ( Àcarye )  mỗi mỗi 
		chẳng được trái ngược, nơi Nghi Quỹ này thảy đều ghi nhớ không cho sai 
		lầm. Đệ Tử liền y theo lời dạy như Nghi Thức an bày Hiền Thánh, chuẩn bị 
		hương hoa với mọi thứ vật dụng cúng dường Hiền Thánh xong, A Xà Lê dùng 
		lụa che mặt đệ tử , lại  khiến đệ tử dâng hoa ném ở trên Man Noa La. 
		Nhận rõ vị trí hoa rơi dính trên Tôn Tượng thì luôn biết vị Chủ ủng hộ 
		cho Thân mình.. Từ đây về sau thường tụng Đại Minh của vị Hiền Thánh này 
		để cầu gia hộ. Như vậy ném hoa nhận biết Bản Tôn xong.
		Đệ Tử 
		liền đem bình bát chứa đầy 5 thứ báu dâng lên A Xà Lê để cảm tạ sự cực 
		nhọc của Thầy. Từ đây về sau, Đệ Tử phải phụng dưỡng Tôn Tượng của vị A 
		Xà Lê hơn cha mẹ gấp ngàn lần, cho đến đem các vật báu đã cúng dường 
		trong Man Noa La bố thí cho tất cả Sa Môn. Từ đây về sau đối với người 
		có đủ Đức và các bậc Tôn Trưởng thường tăng thêm sự kính trọng cũng 
		chảng được đối với các vật đã dùng trong Man Noa La cho đến lửa với,bơ, 
		lạc… mà khởi sự khinh mạn, cũng chẳng được đạp lên hoa sen. Vị A Xà Lê 
		khuyên răn hạn chế Đệ Tử xong thì Đệ Tử lễ tạ. Từ đây về sau Đệ Tử muốn 
		tác Pháp thì y theo Nghi Quỹ tu tập ắt không có gì không thành tựu.
		
		((((((((((
		
		PHÁP HỘ MA
		
		PHẦN THỨ NĂM
		 
		Lại 
		nữa Hành Nhân muốn tu tập Pháp Hộ Ma của Tôn Na Bồ Tát thì nên đối với 
		Tôn Na Bồ Tát và Hiền Thánh trong Man Noa La làm đại cúng dường. Trước 
		tiên chuẩn bị hoa  Nhạ Đê, hoa Ma Lê với mọi thứ danh hoa và diệu hương… 
		mà cúng dường. Sau đó tùy ý theo Pháp mà làm Hộ Ma.
		Hành 
		Nhân đó muốn được thành tựu tất cả sự mong cầu thì trước tiên ở trong lò 
		Hộ Ma đốt củi Cát Mộc rồi dùng hương Bạch Đàn, Long Não với diệu hương 
		khác hòa hợp với bơ, sữa đem tẩm vào hoa sen xanh thiêu đốt, tụng Đại 
		Minh làm Pháp Hộ Ma liền được như nguyện. Đại Minh là:
		“ 
		Nẵng mạc táp bát đa nẫm, tam miệu tam ngật tam bột đà, câu chi nẫm. Aùn_ 
		Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ”
		
		NAMAHÏ  SAPTÀNÀMÏ  SAMYAKSAMÏBUDDHA  KOTÏINÀMÏ
		OMÏ_ 
		CALE  CULE  CUNÕDHE
		Nếu 
		tác Pháp Tức Tai ( ‘Sàntika ) . Dùng lá của cây A Một La tẩm bơ, 
		sữa cùng thiêu đốt làm Hộ Ma liền được như nguyện
		Nếu 
		tác Pháp Tăng Ích ( Pusïtïika ). Nên dùng cây A Thuyết Tha với cây Bát 
		La Xá, cây Ô Lạp Ma La… Đem nhóm cây như vậy làm củi tẩm bơ, một, lạc 
		thiêu đốt làm Hộ Ma liền được như nguyện. Đại Minh là:
		“ 
		Aùn_ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. Aùn, phát tra”
		OMÏ _ 
		CALE  CULE  CUNÕDHE _ OMÏ  PHATÏ
		Nếu 
		vì Phát Khiển Thiết Đốt Lỗ ( ‘Sàtru : Oan gia ) . Dùng Hung Mộc làm củi 
		tẩm dầu rồi nhen lửa đốt. Lại dùng Nga Lị Đà Bà Luyện Noa khoảng chừng 
		một A dữu đa ( một vạn cái ) tụng Đại Minh làm Hộ Ma liền được như 
		nguyện. Đại Minh là:
		“ 
		Hồng_ Phát tra, tả lệ, tổ lệ, phát tra, tôn nễ, hồng, phát tra”
		HÙMÏ  
		PHATÏ _ CALE  CULE  PHATÏ _ CUNÕDHE  HÙMÏ  PHATÏ
		Nếu 
		vì phá hoại Thiết Đốt Lỗ ( ‘Sàtru ) và cấm Tâm của chúng thì thiêu đốt 
		củi bằng cây Tả Tổ La. Dùng màu hòa với dầu hạt cải, dùng lá cây Ninh Ma 
		Mộc với cây kim làm bằng Vĩ  La Mộc khoảng chừng một A Dữu Đa ( một vạn 
		cái ) . Tụng Đại Minh Phát Khiển lúc trước làm Hộ Ma liền được Như Ý.
		Tiếp 
		lại muốn tất cả thành tựu. Trước tiên nên thọ Quán Đỉnh, sau đó phát Tâm 
		kiên cố, thường trì Tôn Na Bồ Tát rồi tác Pháp đều được thành tựu.
		 
		
		((((((((((
		
		 
		
		PHÁP TRÌ TỤNG CỦA TÔN NA BỒ TÁT
		
		PHẦN THỨ SÁU ( Chi một )
		 
		Lại 
		nữa,  Hành Nhân muốn tu tập , trì tụng Pháp của Tôn Na Bồ Tát. Trước 
		tiên nên thọ Tam Muội rồi kết Man Noa La xong thì mới có thể bắt đầu Trì 
		Tụng. Lúc đang trì tụng thời mỗi ngày vào buổi sáng sớm, Hành Nhân dùng 
		Đại Lực Minh Vương Đại Minh gia trì vào ngón cái 7 lần để ủng hộ thân. 
		Hoặc đi nhà xí cũng gia trì 5 nơi là đỉnh đầu, 2 vai, trái tim, cổ họng 
		xong liền vào nơi húc uế. Đại Lực Minh Vương Đại Minh là:
		“ 
		La đát nẵng phộc nhật la, nẵng đế. Aùn_ Cốt lỗ đạt nẵng, hồng, nhược”
		
		RATNAVAJRA  NADI_ OMÏ  KRODHANA  HÙMÏ  JAHÏ
		Vào 
		nơi húc uế xong, dùng đất sạch với Cù Ma Di ( Phân trâu trắng ở núi 
		Tuyết ) tác tịnh. Lại tụng Cam Lộ Quân Tra Lợi Đại Minh 7 biến gia trì 
		vào đất để rửa thân phần và phần bên dưới lỗ rốn, lại cũng dùng rửa hạ y 
		( áo bên dưới ) xong liền rửa tay thì mới được thanh tĩnh. Lấy đất tụng 
		Đại Minh là:
		“ 
		Aùn_ Nễ khứ nẵng phộc ,  tô đạt , sa phộc hạ”
		OMÏ_ 
		NIKATÏA  NAVA  ‘SUDDHA _ SVÀHÀ
		Lấy 
		được đất xong đặt ở nơi sạch sẽ hoặc dùng tác tĩnh. Lấy một nhúm đất nhỏ 
		rửa tay và rửa chân. Liền tụng Tác Tĩnh Đại Minh là:
		“ 
		Nẵng mạc tam mãn đa một đà nẫm. Aùn, truật đệ ly nạp thâu đạt nẵng dã, 
		sa phộc hạ”
		
		NAMAHÏ  SAMANTA  BUDDHÀNÀMÏ
		OMÏ _ 
		‘SUDDHE  RÏIDDHI  ‘SODHANÀYA _ SVÀHÀ
		Tụng 
		Tĩnh Đại Minh này xong, nắm quyền dựng thẳng ngón cái. Liền tụng Cam Lộ 
		Quân Trà Lợi Đại Minh gia trì 5 nơi trên thân. Cam Lộ Quân Trà Lợi Đại 
		Minh là:
		“ 
		Nẵng mạc la đát nẵng đát la dạ dã. Nẵng mạc thất tán noa, ma ha cốt lô 
		đà dã. Aùn, hổ lô hổ lô, để sắt tra để sắt tra, mãn đà mãn đà, hạ nẵng 
		hạ nẵng. A mật lị để, hồng, phát tra, sa phộc hạ”
		NAMO  
		RATNATRAYÀYA
		
		NAMAHÏ  ‘SCANÏDÏA  MAHÀ  KRODHÀYA
		OMÏ _ 
		HURU  HURU _ TISÏTÏA  TISÏTÏA _ BANDHA  BANDHA _ HANA  HANA _ AMRÏTE  
		HÙMÏ  PHATÏ _ SVÀHÀ
		Tụng 
		Đại Minh này xong. Lại tụng Tam Muội Đại Minh 3 biến hoặc 7 biến. Tam 
		Muội Đại Minh là:
		“ 
		Nẵng mạc tát ly phộc một đà mạo địa tát đỏa nẫm. A vi la nhĩ, ma hạ phộc 
		nhật ly, xá đa xá đa, sa la đế sa la đế, đát la duệ đát la duệ, vĩ đạt 
		ma nễ, tam bà nhạ nệ, hạ la ma để, tất đà , ngột lị, đát la tra, sa phộc 
		hạ”
		
		NAMAHÏ  SARVA  BUDDHA  BODHISATVÀNÀMÏ
		AMÏ_ 
		VIRAJI  MAHÀ  VAJRI _ SATA  SATA _ SARATE  SARATE _ TRAYI  TRAYI _ 
		VIDHAMANI  SAMÏBHAMÏJANI _ HARA  MATI  SIDDHA _ HRÌHÏ  TRATÏ _ SVÀHÀ 
		Tụng 
		Minh này xong. Lấy một bụm nước dùng Quân Trà Lợi Đại Minh lúc trước gia 
		trì xong tự rưới lên đỉnh đầu với rửa sạch tay. Lúc dùng nước lại tụng 
		Bản Bộ Đại Minh 7 biến. Đại Minh là:
		“ 
		Aùn_ Tốt, hật-lị”
		OMÏ_ 
		CU _ SVÀHÀ
		Tụng 
		Minh tác tĩnh xong. Lại nắm quyền đem ngón cái đặt ở trái tim. Tụng Tâm 
		Đại Minh là:
		“ 
		Aùn, tôn, phát tra”
		OMÏ_ 
		CUNÕ  PHATÏ
		Tụng 
		Tâm Minh xong. Lại tụng Giáp Trụ Đại Minh ủng hộ 5 nơi của thân mình. 
		Giáp Trụ Đại Minh là:
		“ 
		Aùn, tôn, mãn đà”
		OMÏ_ 
		CUNÕ  BANDHA
		Tụng 
		Minh này xong. Lại tụng Cam Lộ Quân Trà Lợi Đại Minh gia trì vào 7 bụm 
		nước sái tĩnh ( rưới vảy cho trong sạch )  và đuổi Ma chướng. Lại tụng 
		Thổ Giáp Trụ Đại Minh gia trì 5 nơi trên thân dùng làm giáp trụ. Nếu 
		được Kim Cương Thủ Bồ Tát nhìn thấy tự ủng hộ không sai khác. Thổ Giáp 
		Trụ Đại Minh là:
		“ 
		Nẵng mạc tam mãn đà một đà nẫm. Aùn, bộ, nhập phộc la, hồng”
		
		NAMAHÏ  SAMANTA  BUDDHÀNÀMÏ
		OMÏ_ 
		BHUHÏ  JVALA  HÙMÏ
		Tụng 
		Minh này xong. Lại tụng Như Lai Bộ Tâm Minh gia trì vào nước, 3 bụm hiến 
		nơi Tam Bảo. Như Lai Bộ Tâm Đại Minh là:
		“ 
		Nẵng mạc tam mãn đà một đà nẫm. Nhi nẵng nhi câu”
		
		NAMAHÏ  SAMANTA  BUDDHÀNÀMÏ _ JINA  JIK
		Tụng 
		Minh này xong, Lại tụng Phật Nhãn Đại Minh gia trì vào nước, 3 bụm dùng 
		rưới lên đỉnh đầu của mình. Phật Nhãn Đại Minh là:
		“ 
		Nẵng mạc tát ly phộc, đát tha nga đế vi dược. Aùn, lô lô , sa phổ lô, 
		nhập phộc la, để sắt tra, tất đà , lạc tả nê, táy ly phộc ly tha, sa đạt 
		nễ, sa phộc hạ”
		
		NAMAHÏ  SARVA  TATHÀGATEBHYAHÏ
		OMÏ_ 
		RURU  SPHURU  JVALA  TISÏTÏA  SIDDHA  LOCANI  SARVA  ARTHA  SÀDHANI _ 
		SVÀHÀ
		Lại 
		dùng Cam Lộ Quân Trà Lợi Đại Minh gia trì vào nước, 3 bụm dùng rưới lên 
		đỉnh đầu liền thành. Mộc Dục Tâm Đại Minh là:
		“ 
		Án_ A mật ly đế, hồng”
		OMÏ _ 
		AMRÏTE  HÙMÏ
		Lại 
		tụng Tĩnh Đại Minh lúc trước. Như trước Hộ Thân xong, lại tụng Tâm Đại 
		Minh lúc trước 21 biến gia trì vào nước dùng rưới vảy cho trong sạch và 
		đuổi Ma Chướng. Sau đó tùy ý tắm gội, khăn lau chùi cũng được giặt cho 
		sạch sẽ, lại rửa bàn tay. Làm Khiết Tịnh xong, đi vào Đạo Trường gần gũi 
		Hiền Thánh. Áo mặc của Hành Nhân cũng dùng Cam Lộ Quân Trà Lợi Đại Minh 
		gia trì. Lại nữa, áo thường mặc cũng dùng Đại Minh gia trì 3 biến hoặc 7 
		biến, xong rồi mặc như thường. Gia Trì Y Đại Minh là:
		“ 
		Nẵng mạc tam mãn đà một đà nẫm. Aùn, lạc khất xoa, tát lị phộc đát tha 
		nga đa, a địa sắt đê đa dã, tức phạ ra, sa phộc hạ”
		
		NAMAHÏ  SAMANTA  BUDDHÀNÀMÏ
		OMÏ_ 
		RAKSÏA  _ SARVA  TATHÀGATA  ADHISÏTÏITÀYA  CÌVARA _ SVÀHÀ
		Hành 
		Nhân y như vậy làm mọi thứ khiết tịnh xong mới được vào Đạo Trường của 
		Hiền Thánh. Ở trước mặt Hiền Thánh phát Tâm chí thành chắp tay cung kính 
		cho đến làm lễ. Rồi dùng nước Ngũ Tịnh rưới lên cỏ Tát Tường ( Ku’sala ) 
		làm Tòa mà ngồi. Tiếp dùng xoa 2 bàn tay y theo Nghi Tắc kết Ấn ủng Hộ 
		tự thân. Trước tiên kết Tam Muội Ấn của các Bộ.
		
		Phật Bộ Tam Muội Ấn : Đặt 2 tay kèm song song nhau rồi chắp lại. Đem 
		2 ngón trỏ đặt ở bên cạnh lóng thứ ba của ngón giữa thì thành Ấn. Kết Ấn 
		này, tùy theo Ấn tụng Phật Bộ Tam Muội Đại Minh là:
		“ 
		Aùn, đát tha nga đổ nạp bá phộc dã, sa phộc hạ”
		OMÏ_ 
		TATHÀGATA  UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
		Tiếp 
		kết Liên Hoa Bộ Tam Muội Ấn : Trước tiên chắp 2 tay lại rồi bung 
		2 bàn tay, 2 ngón giữa cùng hợp nhau như tướng hoa sen thì thành Ấn. Tùy 
		theo Ấn tụng Liên Hoa Tam Muội Đại Minh là:
		“ 
		Aùn_ Bát nạp mô nạp bà phộc dã, sa phộc hạ”
		OMÏ_ 
		PADMA  UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
		Tiếp 
		kết Kim Cương Bộ Tam Muội Ấn : Đem 2 bàn tay cùng hợp lưng với 
		nhau. 2 ngón cái, 2 ngón út cùng vịn nhau, duỗi thẳng các ngón còn lại 
		thì thành Ấn. Tùy theo Ấn tụng Kim Cương Bộ Tam Muội Đại Minh là:
		“ 
		Aùn_ Phộc nhật lỗ nạp bà phộc dã, sa phộc hạ”
		OMÏ_ 
		VAJRA  UDBHAVÀYA _ SVÀHÀ
		Tụng 
		Đại Minh này xong. Lại kết Cam Lộ Quân Trà Lợi Ấn: Ngửa 2 bàn tay bằng 
		nhau, đảo ngược đầu 2 ngón út cùng cài nhau, co 2 ngón vô danh và 2 ngón 
		giữa vào lòng bàn tay, 2 ngón trỏ như tướng Kim Cương, 2 ngón cái như 
		cây kim thì thành Ấn. Tụng đặt ở trên đỉnh đầu, tùy theo Ấn dùng Cam Lộ 
		Quân Trà Lợi Đại Minh lúc trước làm Pháp tự ủng hộ.
		 
		PHẬT 
		THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO TÔN NA BỒ TÁT 
		ĐẠI 
		MINH THÀNH TỰU NGHI QUỸ KINH
		QUYỂN THỨ 
		BA  ( Hết )
		 
		
		
 Mật Tạng Bộ 3 - No 
		1169D (Tr. 688 ( Tr. 691)
		 
		
		PHẬT THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO 
		TÔN NA BỒ TÁT ĐẠI MINH THÀNH TỰU 
		
		NGHI QUỸ KINH
		
		QUYỂN THỨ TƯ
		 
		Long 
		Thọ Bồ Tát lược trích trong TRÌ MINH TẠNG
		
		Hán dịch : Minh Giáo Đại Sư PHÁP HIỀN
		
		Việt dịch : HUYỀN THANH
		 
		
		PHÁP TRÌ TỤNG CỦA TÔN NA
		
		PHẦN THỨ SÁU ( Chi hai )
		 
		Tiếp 
		lại kết Như Lai Bộ Tam Muội Ấn. Hai tay nắm quyền duỗi ngón cái 
		thì thành Ấn. Tùy theo Ấn tụng Như Lai Bộ Tam Muội Minh lúc trước 
		để ủng hộ.
		Tiếp 
		kết Tôn Na Bồ Tát Căn Bản Ấn. Hai tay nắm quyền, 2 ngón giữa như 
		cây kim, đặt 2 ngón trỏ ở lóng ngón giữa, đặt 2 ngón cái bên cạnh ngón 
		trỏ rồi đặt trên đỉnh đầu thì thành Ấn. Lúc kết Ấn này thời tụng Tôn 
		Na Bồ Tát Căn Bản Đại Minh , ở ngay thân của mình làm đại ủng hộ. 
		Hành Nhân vào lúc kết Ấn tụng Minh sẽ được Tôn Na Bồ Tát vui vẻ nhìn 
		ngó.
		Tiếp 
		kết Đầu Ấn : Chắp 2 tay lại, co 2 ngón cái vào trong lòng bàn tay 
		thì thành Ấn. Tùy theo Ấn tụng Đầu Đại Minh là:
		
		“Án _ Tôn, ngật-lị”
		( OMÏ 
		_CUNÕ  HRÌHÏ
		Tiếp 
		kết Đỉnh Ấn : Dùng Ấn lúc trước, sửa ngón cái phải vịn lóng giữa 
		của ngón giữa phải thì thành Ấn. Tùy theo Ấn tụng Đỉnh Đại Minh 
		là:
		“ 
		Án, Tôn, hồng”
		( OMÏ 
		_ CUNÕ  HÙMÏ
		Tiếp 
		kết Tâm Ấn ; Hai tay nắm quyền, hơi duỗi 2 ngón trỏ thì thành Ấn. 
		Tùy theo Ấn, tụng Tâm Đại Minh là:
		
		“Án _ Tôn, phát tra”
		( 
		OMÏ_ CUNÕ  PHATÏ
		Tiếp 
		kết Giáp Trụ Ấn : Dùng Đỉnh Ấn lúc trước, bung 2 bàn tay thì 
		thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Giáp Trụ Đại Minh là:
		
		“Án _ Tôn, mãn đà”
		( OMÏ 
		_ CUNÕ  BANDHA
		Tiếp 
		kết Bản Bộ Mẫu Ấn cũng gọi là Phật Nhãn Ấn . Chắp 2 tay 
		lại đỉnh lễ, co 2 ngón trỏ vịn lóng ngón giữa, co 2 ngón cái vào trong 
		lòng bàn tay thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Cam Lộ Quân Trà Lợi Đại 
		Minh lúc trước
		Tiếp 
		kết Bản Bộ Tôn Ấn . Đưa 2 ngón vô danh vào lòng bàn tay lay động. 
		Tiếp để 2 ngón giữa như cây kim, duỗi thẳng 2 ngón trỏ đặt ỡ lưng ngón 
		giữa, duỗi 2 ngón cái đặt ở lóng thứ nhất của ngón giữa thì thành Ấn. 
		Tùy theo Ấn, tụng Bản Bộ Đại Minh là:
		“ 
		Nẵng mạc tam mãn đà một đà nẫm. Câu la hột-lị, câu la hột-lị na dã”
		( 
		NAMAHÏ  SAMANTA  BUDDHÀNÀMÏ _ KULA  HRÌHÏ _ KULA  HRÏDAYA
		Tụng 
		Minh này xong. Lấy cái bát thật sạch chứa đầy nước thơm. Lại dùng Cam 
		Lộ Quân Trà Lợi Đại Minh 7 biến ,ở Đạo Trường bắt đầu từ góc Đông 
		Bắc rảy tịnh 4 phương và Phát Khiển Ma Chướng
		Tiếp 
		kết Thỉnh Triệu Ấn . Dùng Căn Bản Ấn lúc trước, sửa 2 ngón cái co 
		như móc câu thì thành Ấn. Dùng Ấn này Thỉnh Triệu Hiền Thánh. Tùy theo 
		Ấn, tụng Thỉnh Triệu Đại Minh là:
		“I 
		tứ, bà nga phộc đế, tôn na đà la ni. A nga tha, a nga tha, ma ma, bạc 
		khất đát-dã đát, tam ma duệ nẵng tả lị già, bát la đế thế nan, bát la tế 
		na mi”
		( 
		EHI  BHAGAVATI  CUNÕDHE  DHÀRANÏI _ AGCCHA  AGACCHA  MAMA  PAKSÏÀYATÀ  
		SAMAYE  DA’SA  ÀRGHA  PRATICCHANÀMÏ  PRATICCHA  ME 
		Tụng 
		Minh này xong. Tưởng các Hiền Thánh tùy theo lời Triệu đi đến. Liền tụng
		Cam Lộ Quân Trà Lợi an trú Hiền Thánh xong.
		Tiếp 
		kết Tam Muội Ấn và tụng Hiến Hiền Thánh Tòa Đại Minh. Tam 
		Muội Ấn là: Tay phải đem ngón cái đè móng ngón trỏ, các ngón còn lại như 
		tướng Kim Cương thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Tam Muội Đại Minh 
		là:
		
		“Án _ Thương yết lị, tam ma duệ, sa phộc hạ”
		( OMÏ 
		_ SAMÏKARE  SAMAYE  _ SVÀHÀ
		Tụng 
		Minh này xong, Hành Nhân liền nói:” Nguyện xin Bồ Tát ngồi ở chỗ này 
		xong, an trú Đạo Trường nhận sự cúng dường của con”
		Tiếp 
		tụng Bản Bộ Đại Minh 7 biến gia trì vào nước thơm dùng làm Ứ Già. 
		Tụng Bản Bộ Đại Minh là:
		
		“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A lị-già bà nga phộc đế, bát la đế tha, sa 
		phộc hạ”
		( 
		OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE  ÀRGHA  BHAGAVATI  PRATICCHA _ SVÀHÀ
		Tiếp 
		kết Căn Bản Ấn . Mật kết 2 ngón cái duổi thẳng đặt ngang bằng thì 
		thành Ấn và tụng Đại Minh 3 biến gia trì vào nước Ứ Già lúc trước. Sau 
		đó ở bên mặt Đông, quỳ gối dâng hiến Hiền Thánh. Đại Minh là:
		“Án 
		_ Ca ma la, sa phộc hạ”
		( 
		OMÏ_ KAMALA _ SVÀHÀ
		Hiến 
		Ứ Già xong, lại dùng Cam Lộ Quân Trà Lợi Ấn và tụng Cam Lộ 
		Quân Trà Lợi Đại Minh kết Kim Cương Giới ( Vajra Dhàtu ) làm ủng hộ.
		Tiếp 
		kết Thập Phương Giới . Đặt 2 bàn tay song song nhau. Trước tiên 
		đem ngón giữa phải, ngón vô danh phải  với ngón trỏ trái đặt ở lóng thứ 
		nhất của ngón út trái. Lại đem ngón giữa trái, ngón vô danh trái với 
		ngón trỏ phải đặt ở lóng thứ nhất của ngón út phải. Ngón trỏ, ngón út 
		còn lại như cây kim. Lại đem ngón cái đât ở lóng thứ nhất của ngón trỏ 
		thì thành Ấn. Lúc kết Ấn này , tùy theo Ấn tụng Kết Thập Phương Kim 
		Cương Giới Đại Minh là:
		“La 
		đát nẵng, bát la nẵng đế. Aùn_ Sa la sa la, phộc nhật-la , bát la ca la, 
		hồng, phát tra, sa-phộc hạ”
		( 
		RATNA  VAJRA  NADI_ OMÏ  SARA  SARA _ VAJRA  PRAKARA  HÙMÏ  PHATÏ _ 
		SVÀHÀ 
		Tiếp 
		kết Kim Cương Bán Nhạ La Ấn. Liền dùng Ấn lúc trước, tách ngón 
		cái ra thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Bán Nhạ La Đại Minh là:
		“ 
		La đát nẵng phộc nhật la nẵng đế. Aùn_ vĩ sa-phổ la lạc khất xoa, phộc 
		nhật la bá la, hồng , phát tra”
		( 
		RATNA  VAJRA  NADI_ OMÏ_ VISPHURAD  RAKSÏA  _ VAJRA  PAMÏJALA  HÙMÏ  
		PHATÏ
		Tiếp 
		kết Hạ Phương Kết Giới Ấn : Đùng Aánnhư lúc trước, sửa 2 ngón cái 
		thẳng xuống bên dưới như cây kim thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Kết 
		Hạ Phương Giới Đại Minh là:
		“ 
		La đát nẵng phộc nhật la nẵng đế. Aùn_ chỉ lị chỉ lị phộc nhật la, phộc 
		nhật lị, bộ, vãn đạt nễ, hồng, phát tra”
		( 
		RATNA  VAJRA  NADI_ OMÏ  KÌLIKÌLA  VAJRA_ VAKRI  BHUR  BANDHANI  HÙMÏ  
		PHATÏ
		Tiết 
		kết Đại Ô Sắt Nị Sa Ấn . Đặt 2 tay song song nhau. Co 2 ngón vô 
		danh vào lòng bàn tay, 2 ngón giữa như cây kim đặt ở lóng thứ ba của 2 
		ngón cái. Lại để ngón cái, ngón vô danh như cây kim đem ngón út đè lóng 
		thứ ba. Lại để ngón út như cây kim đặt ở ngón trỏ như tướng Kim Cương 
		thì thành Ấn. Tùy theo Ấn,tụng Ô Sắt Nị Sa Đại Minh là:
		
		“Án _ Thương yếi lị, ma hạ tam ma duệ, sa-phộc hạ”
		( OMÏ 
		_ SAMÏKARE  MAHÀ  SAMAYE _ SVÀHÀ
		Dùng 
		Ấn với Đại Minh của nhóm như vậy tác Kết Giới xong. Hành Nhân 
		hướng về Bản Tôn, Hiền Thánh cung kính làm lễ.
		Tiếp 
		kết Căn Bản Ấn. Co lóng giữa của 2 ngón cái thì thành Ấn. Kết Ấn 
		này, tụng Đại Minh, quỳ gối hiến Ứ Già dùng rưới tắm Hiền Thánh. Đại 
		Minh là:
		
		“Án _ Tả, sa-phộc hạ”
		( OMÏ 
		_ CA _ SVÀHÀ
		Tiếp 
		kết Đồ Hương Ấn. Đem ngón cái phải đặt ở lóng thứ nhất của ngón 
		trỏ phải, lại bung duỗi rộng thì thành Ấn. Kết Ấn này, tụng Đồ Hương 
		Đại Minh là:
		
		“Án, tôn, sa-phộc hạ”
		( 
		OMÏ_ CUNÕ _ SVÀHÀ
		Tiếp 
		kết Hoa Ấn. Tay phải đem ngón cái và lóng thứ nhất của ngón trỏ 
		cùng vịn nhau thì thành Ấn. Dùng Ấn này hiến hoa,tụng Hoa Đại Minh
		là:
		
		“Án _ Tôn, sa-phộc hạ”
		( 
		OMÏ_ CUNÕ  _SVÀHÀ
		Tiếp 
		kết Hương Ấn. Đem ngón giữa và ngón cái của tay phải cùng vịn 
		nhau thì thành Ấn. Dùng Ấn này hiến hương đốt, tụng Hương Đại Minh
		là:
		
		“Án, lệ, sa-phộc hạ”
		( OMÏ 
		_ LE _ SVÀHÀ
		Tiếp 
		kết Đăng Ấn . Tay trái dem ngón cái đè lóng của ngón giữa thì 
		thành Ấn. Kết Ấn này, tụng Hiến Đăng Đại Minh là:
		
		“Án _ Nễ, sa-phộc hạ”
		( OMÏ 
		_ LE _ SVÀHÀ
		Tiếp 
		kết Xuất Sinh Ấn. Tay trái đem ngón cái đặt ở lóng thứ nhất của 
		ngón giữa thì thành Ấn. Kết Ấn này hiến thức ăn. Tụng Hiến Thực Đại 
		Minh là:
		
		“Án _ Tổ, sa-phộc hạ”
		( OMÏ 
		_ CU  _ SVÀHÀ
		Như 
		vậy kết Ấn , tụng Minh làm mọi thứ cúng dường phụng hiến tất cả Hiền 
		Thánh trong Man Noa La xong.
		Lại 
		tác quán tưởng : Trong tất cả Thế Gian có bao nhiêu thứ vật cúng 
		dường được nhìn thấy , nghe thấy , Hành Nhân vận Tâm đem cúng dường tất 
		cả Hiền Thánh ở 10 phương.
		Lại 
		kết Phổ Cúng Dường Ấn.Trước tiên chắp tay đỉnh lễ xong, lại đem 
		10 ngón tay cùng cài chéo nhau thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Phổ 
		Cúng Dường Đại Minh là:
		“ 
		Nẵng mạc tát lị-phộc một đà mạo địa tát đỏa nẫm. Tát lị-phộc tha, ổ nạp 
		nga đế, sa bà la tứ hàm, nga nga nẵng kiếm, sa-phộc hạ”
		( 
		NAMAHÏ  SARVA  BUDDHA  BODHISATVÀNÀMÏ
		
		SARVATHÀ  KHAMÏ  UDGATE  SPHARA  HÌMAMÏ  GAGANAKAMÏ _ SVÀHÀ
		Như 
		vậy cúng dường xong.
		Tiếp 
		dùng Kệ ca ngợi Tam Bảo với Đẳng của Quán Tự Tại, Kim Cương Thủ Bồ Tát.
		
		Tán Phật là:
		Đức 
		Phật Đại Từ Bi
		Điều 
		phục các Hữu Tình
		Trú 
		biển Cong Đức Phước
		Vì 
		thế con tán lễ
		
		Tán Pháp là:
		Lìa 
		dục, vui tịch tĩnh
		Hay 
		đoạn các nẻo ác
		Thuần 
		một Lý Chân Như
		Vì 
		thế con tán lễ
		
		Tán Tăng là:
		Kiên 
		cố giữ Thi La ( ‘Sìla_ Giới Thanh Lương )
		Chứng 
		được Đạo Giải Thoát
		Trú 
		cõi Công Đức lớn
		Vì 
		thế con tán lễ
		
		Tán chư Hiền Thánh là
		
		Đát Noan nễ vĩ, tát bát đa nhĩ nẵng , câu đê, la tỳ bát la dụ nga
		
		Nại dã sa đa , nại dã tha bát na dục đế nẵng, tả lệ tổ lệ nẵng
		
		Dục khất đa ma thí sa nạp  lị  đa, bát la xá ma dã, tôn nễ
		Sa 
		hạ phộc đế , tam ma la, để đát tả câu đổ vĩ bát để
		
		Tát lị phộc một đà duệ, bát la thiết sa dã, tam bột lị đá dã, ngu ni li 
		ngu lỗ
		A 
		phộc lộ cát đa tắc nghê dã, dã nẵng mộ nĩnh đát dã,ma ha đát ma nễ
		Ma 
		hạ ma la dã, tán noa dã, vĩ nễ dã la nhạ dã, sa đạt duệ
		
		Nạp lị nan đa ma ca dã, thất tả nẵng ma tất đế, phộc nhật la bá noa duệ
		Lại 
		nữa Hành Nhân tán thán như vậy xong. Lại nói lời Sám Hối là:” Đệ Tử ( 
		Họ tên…. ) từ vô thủy cho đến nay, ở trong Luân Hồi tạo nghiệp chẳng 
		lành, hoặc tự làm hoặc dạy người làm cho đến thấy nghe đều tùy vui với 
		tất cả sự Bất Thiện. Nay đối trước Tam Bảo xin phát lộ sám hối. Từ nay 
		trở đi, con xin phụng trì Cấm Giới chẳng dám làm điều ác nữa. Lại từ nay 
		trở đi đối với hết thảy các Đại Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn cho đến 
		tất cả chúng sinh đã làm Pháp Lành thì con đều tùy vui”
		Nói 
		xong liền kết Căn Bản Ấn , tụng Căn Bản Minh 3 biến. Hành 
		Nhân lại chắp tay bạch rằng:” Con ( Họ tên…. ) đã mời chư vị đến để 
		cúng dường. Nếu chẳng được đầy đủ, hoặc quên mất thứ tự chẳng y theo 
		Pháp Tắc, cầu xin Bồ Tát với chúng Hiền Thánh Đại Từ Đại Bi vui vẻ bỏ 
		qua cho”
		Tiếp 
		kết Ứ Già Ấn . Dùng Căn Bản Ấn lúc trước chỉ sửa ngón cái đặt ở 
		lóng thứ nhất của ngón trỏ thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Ứ Già Đại 
		Minh là:
		
		“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A lị-già, bà nga phộc đế, bát la đế tha, 
		sa-phộc hạ”
		( OMÏ 
		_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ ÀRGHA  BHAGAVATI  PRATICCHA _ SVÀHÀ
		Lại 
		nữa Hành Nhân quán tưởng thân của mình là Tôn Na Vồ Tát. Trước tiên kết 
		Ấn, dùng 2 tay nắm Kim Cương Quyền. Đặt 2 ngón trỏ và ngón út như cây 
		kim. Tiếp duỗi các ngón còn lại cũng như cây kim. Lúc kết Ấn này thì 
		quán tưởng thân mình thành Tôn Na Bồ Tát. 
		Ở 
		trên đỉnh đầu hiện chữ ÁN (            ) là Như Lai Ô Sắt Nị Xá ( 
		Tathàgata Usïnïìsïa_ Như Lai Đỉnh )
		Tiếp 
		ở 2 con mắt hiện chữ TẢ (            ) thành Ô Sắt Nị Xá Đại Luân 
		(Usïnïìisïa mahà cakra _ Đỉnh Đại Luân )
		Tiếp 
		ở trên cổ hiện chữ LỆ (            ) thành Bất Động Tôn Minh Vương 
		(Acala vidyaràja ) tay cầm Loa với sợi dây
		Tiếp 
		ở trên trái tim hiện chữ TỐT (            ) thành Quán Tự Tại Bồ Tát 
		(Avalokite’svara Bodhisatva ) 
		Tiếp 
		ở 2 cánh tay hiện chữ LỆ (            ) thành Quang Tích Minh Vương
		Tiếp 
		ở trong trái tim lại hiện chữ LỆ (            ) thành vị Hiền Thánh có 3 
		mắt. Tay cầm hoa sen, vòng dây, bình Quân Trì…
		Tiếp 
		ở trong lỗ rốn hiện chữ TỐT ( ? TÔN _                    ) thành Bản Tôn 
		Tôn Na Bồ Tát ( Cunõdhe  Bodhisatva ) 
		Tiếp 
		ở 2 bắp vế hiện chữ NỄ (            ) thành Kim Cương Thủ Bồ Tát 
		(Vajrapànïi  Bodhisatva )
		Tiếp 
		ở trong 2 bắp chuối chân hiện chữ SA (            ) thành I Ca Nhạ Tra 
		Bồ Tát ( Ekajatïà_ Nhất Kế Bồ Tát ) mặt có 3 mắt, 6 cánh tay, thân màu 
		xanh, dùng da voi làm áo.
		Tiếp 
		ở 2 bàn chân hiện chữ HA (            ) thành Phộc Nhật La Nẵng Khế Bồ 
		Tát ( Vajra dhàka  Bodhisatva ) như màu pha lê.
		Như 
		vậy Quán Tưởng xong.
		Tiếp 
		liền Trì Tụng. Pháp Trì Tụng cũng có 2 thứ : Một là Vô Tướng, hai là Hữu 
		Tướng
		Vô 
		Tướng Trì Tụng : Trước tiên kết Thiên Định Ấn , ngồi Kiết 
		Già, ngay thẳng thân mình, lắng tâm, hơi cúi đỉnh đầu và cổ. Ở trên đầu 
		lỗ mũi tưởng hơi thở ra vào chẳng mạnh chẳng yếu, chẳng chậm chẳng gấp. 
		Tâm duyên vào Đại Minh chuyên chú trì tụng đừng để gián đoạn cũng 
		đừng để cho Tâm có sự mệt mỏi. Trì Tụng như vậy gọi là Tối Thượng.
		
		Hữu Tướng Trì Tụng : Liền cầm chuỗi đếm số. Mỗi lần Trì Tụng nên để 
		ý đến Nguyên Số thẳng đến gặt được Tất Địa, chẳng được thiếu một 
		số. Nếu thiếu một số gọi là Gián Đoạn ắt  đối với việc mong cầu 
		chẳng được thành tựu. Mỗi lúc muốn Trì Tụng, trước tiên kết Sổ Châu 
		Ấn Co lóng giữa của ngón vô danh , ngón trỏ cùng vịn lóng giữa của 
		ngón giữa thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Đại Minh là:
		
		“Án _ Hát nạp bộ đế, vĩ nhạ duệ, tất địa, tất đà lị tán, sa phộc hạ”
		( OMÏ 
		_ ADPUTE  VIJAYE  SIDDHI  SIDDHA  ARTHA _ SVÀHÀ
		Tụng 
		Minh này xong. Liền chắp 2 tay lại nâng tràng hạt, tụng Đại Minh 7 biến 
		gia trì tràng hạt đó. Đại Minh là:
		
		“Án _ Nẵng mô bà nga phộc đế, tất đề, sa đạt dã, sa đạt dã, tát lị phộc 
		ly tha, sa đạt nễ, tất đà ly tán, sa-phộc hạ”
		( 
		OMÏ  NAMO  BHAGAVATE _ SIDDHI  SÀDHAYA  SÀDHAYA _ SARVA  ARTHA  SÀDHANI  
		SIDDHA  ARTHA _ SVÀHÀ
		Tụng 
		Minh này xong. Liền cầm tràng hạt lễ Tam Bảo , Hiền thánh sau đó y theo 
		Pháp trì tụng đầy đủ ký số.
		Lại 
		tụng Phật Nhãn Đại Minh 7 biến. Kết Căn Bản Ấn, lại tụng Phật 
		Nhãn Minh 3 biến hiến Ứ Già cho Hiền Thánh. Lại bạch rằng:” Nay con 
		đem hết sự Trì Tụng này phụng hiến lên Bồ Tát với hiến hương, hoa, đèn, 
		dầu thơm mà cúng dường”
		Tiếp 
		lại dùng Phật Nhãn Đại Minh mà tự  Ủng Hộ và Kết Giới
		Tiếp 
		dùng A Tam Hàm Nghĩ Nễ Ấn ( Asamàmïgni  Mudra ) hộ 5 nơi trên thân. A 
		Tam Hàm Nghĩ Nễ Ấn : Đặt 2 bàn tay song song nhau, đảo ngược đầu 2 
		ngón vô danh vào trong lòng bàn tay, 2 ngón giữa và 2 ngón út như cây 
		kim. Lại ngón trỏ như cây kim đặt bên cạnh 2 ngón cái thẳng xuống dưới 
		và đưa 2 ngón vô danh vào lòng bàn tay thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng
		A Tam Hàm Nghĩ Nễ Đại Minh  là:
		
		“Án, a tam hàm nghĩ-nễ, vĩ la nại duệ đế, hồng, phát tra, sa-phộc hạ”
		( OMÏ 
		_ ASAMÀMÏGNI  VÌRADAYETE  HÙMÏ  PHATÏ _ SVÀHÀ
		Tiếp 
		kết Căn Bản Ấn và tụng Đại Minh dùng để Phát Khiển, Tướng Ấn như 
		trước. Đại Minh là:
		“ 
		Nga tha để, cật-lị hệ đát phệ hàm. Hiến đường , bổ sắt bán , độ bán, mạt 
		lăng, bát-la nễ bán tả, lạc khật-xoa, bát la để hạ đa, phộc la bát la 
		khất la di, sa-phộc hạ”
		( 
		GACCHATI  AGRI  HITANVESÏIN  GHANÏTÏAMÏ  PUSÏPAMÏ  DHÙPAMÏ  MÀLAMÏ  
		PRADÌPTA  RAKSÏA  APARATIHATA  VARA  PRAKARA  ME  SVÀHÀ
		Như 
		vậy Phát Khiển xong.
		Lại 
		cầm tràng hạt hướng về trái tim làm Ủng Hộ. Lại kết Cam Lộ Quân Trà Lợi 
		Ấn mà tự ủng hộ xong. Sau đó đỉnh lễ chư Phật Bồ Tát rồi đứng dậy ra 
		khỏi Đạo Trường. Chỉ được đọc Kinh Đại Thừa Phương Quảng, Hoa Nghiêm và 
		Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Hoặc xoa tô Man Noa La và làm Tháp Tượng, 
		chẳng được nói chuyện Thế Tục với sách vở Thế Gian. Đây là Nghi Thừc 
		bình thường ( Thướng Thức) .
		Lúc 
		Hành Nhân ăn thường dùng Tôn Na Bồ Tát Căn Bản Đại Minh gia trì xong, 
		sau đó có thể ăn. Hoặc lúc ngủ nghỉ cũng tụng Căn Bản Đại Minh tác ủng 
		hộ xong liền có thể ngủ nghỉ. Căn Bản Đại Minh là:
		“ 
		Nẵng mạc tam mãn đa một đà nẫm. Aùn_ Phộc lan na nễ đế nhĩ du , ma lý 
		nễ, sa-phộc hạ”
		( 
		NAMAHÏ  SAMANTA  BUDDHÀNÀMÏ
		OMÏ _ 
		VALAMÏDADE  MALINI _ SVÀHÀ
		Tiếp 
		lại nói Pháp Quán Tưởng chữ vi diệu của Phật và Hiền Thánh. Chữ 
		này đều là căn bản của chư Phật, Hiền Thánh biểu thị cho Lý Chân Thật
		cho đến Vô Tướng Trì Tụng với Pháp của 4 loại của nhóm Tức 
		Tai đều được diễn nói trong Pháp của Tôn Na. Nếu Hành Nhân tác Pháp Tức 
		Tai, Tăng Ích, Kính Aùi, Giáng Phục đối với các Pháp cần phải biết rõ 
		mọi thứ tự như Nghi. 
		Nay 
		sẽ lược nói về chữ Vi Diệu. Ở trong Man Noa La an bày 9 vị trí theo thứ 
		tự là:
		Thứ 
		nhất ở góc Đông Bắc đặt chữ ÁN (            ) .Thứ hai ở góc Đông Nam 
		đặt chữ TẢ (            ).Tiếp chữ LỆ (             ) . Tiếp chữ TỐT 
		(             ) . Như vậy an 4 góc xong.Tiếp ở vị trí trung ương đặt chữ 
		TÔN (                   ) . Tiếp đặt chữ LỆ (            ). Tiếp đặt chữ 
		NỄ (            ) .Tiếp đặt chữ  SA (             ) .Tiếp đặt chữ HA 
		(            ) Chín chữ này thành Căn Bản Đại Minh, thành 9 vị Hiền 
		Thánh..
		Lại 
		nữa chữ ÁN ( OMÏ ) là Pháp Giới Vô Tướng
		Chữ 
		TẢ ( CA ) là Đại Luân
		Chữ 
		LỆ ( LE ) là Bất Động Tôn
		Chữ 
		TỐT ( CU ) là Quán Tự Tại
		Chữ 
		LỆ ( LE ) là Bất Không Quyến Sách Bồ Tát
		Chữ 
		TÔN ( CUNÕ ) là Tôn Na Bồ Tát
		Chữ 
		NỄ ( DHE ) là Kim Cương Thủ Bồ Tát
		Chữ 
		SA ( SVÀ ) là I Ca Nhạ Tra Bồ Tát
		Chữ 
		HA ( HÀ ) là Phộc Nhật La Nẵng Khế Bồ Tát.
		Nếu 
		đem chữ Án làm đầu thì hay thành tựu tất cả Pháp
		Nếu 
		chữ Tả thì đối với 3 Pháp Tức Tai, Tăng Ích, Giáng Phục có đại 
		thế lực.
		Chữ
		Lệ hay phá hoại Thiết Đốt Lỗ ( ‘Sàtru_ Oan Gia ) cùng tác Phát 
		Khiển với Pháp ủng hộ sẽ có công lực cực lớn
		Chữ
		Tốt hay phá hoại và đánh tan quân địch như Kim Xí Điểu ( Garudïa 
		) hay ăn loài Rồng ( Nàga )
		Chữ
		Lệ hay phá các đại ác có lực tối thắng
		Chữ
		Tôn hay thành tựu tất cả việc, hay phá các cấm phộc kiên cố
		Chữ
		Nễ hay phá các Ma ác với các đại ác ,  cũng hay làm Pháp Nhập 
		Ngụ 
		Chữ
		Sa hay tự ủng hộ với hay phá oán, cũng hay khiến làm Pháp Bát 
		Nhập Ngụ ( ? ) 
		Chữ
		Ha hay trừ đại độc với tất cả bệnh.
		Chữ 
		của nhóm như vậy giống Bát Chính Đạo hay khiến cho Hữu Tình giải 
		thoát luân hồi, sau đó được tịch tĩnh.
		Lại 
		nữa Hành Nhân quán tưởng chữ Vi Diệu như vậy ở thân phần của mình, mỗi 
		mỗi hiện rõ trước mặt, Hoặc biến sắc tướng hoặc biến hình nghi. Nếu được 
		hiện rõ như vậy trước mặt thì hay diệt được tất cả tội nghiệp trong 
		thân, đoạn trừ phiền não.
		Khởi 
		đầu trong chữ ÁN hiện trên đỉnh đầu có màu hoàng kim ( vàng chóe )
		Tiếp 
		tưởng chữ TẢ hiện ở 2 con mắt cũng có màu vàng
		Tiếp 
		tưởng chữ LỆ hiện ở trên cổ có màu đen đậm.
		Tiếp 
		tưởng chữ TỐT hiện ở lỗ rốn như màu sen hồng hoặc màu xanh. Nơi hiện màu 
		ấy tùy theo Pháp tác.
		Tiếp 
		tưởng chữ LỆ hiện ở 2 cánh tay hóa thành Tượng Hiền Thánh hoặc có màu 
		vàng ròng hoặc có màu đỏ.
		Tiếp 
		tưởng chữ TÔN hiện ở trên trái tim biến thành Tôn Na Bồ Tát có thân màu 
		trắng.
		Tưởng 
		chữ NỄ hiện ở 2 bắp đùi
		Tưởng 
		chữ SA hiện ở 2 bắp chuối chân
		Tưởng 
		chữ HẠ hiện ở 2 bàn chân
		Tưởng 
		chữ như vậy ở trên thân phần của mình, mỗi mỗi hiện rõ trước mặt. Được 
		hiện rõ trước mặt xong thì cắt đứt các phiền não, diệt tất cả tội cho 
		đến hay khiến cho Nội Tâm sáng tỏ tinh khiết như tướng bụi che tùy theo 
		phất phủi mà trong sạch , tinh tiến. Chư Thiên thảy đều kính yêu.
		Lại 
		nữa tưởng chữ Vi Diệu biến thành Bản Vị Hiền Thánh . 
		Quán 
		chữ thành bản thân Tôn Na Bồ Tát có thân màu trắng, mặt có 3 mắt, có 18 
		cánh tay và toàn thân rực lửa, ngồi trên hoa sen trắng và ở trong thân 
		hay sinh ra chư Phật.
		Nếu 
		quán chữ thành Đa La Bồ Tát ( Tàrà Bodhisatva ) thì thân có màu xanh, 
		hiện tướng phẫn nộ ló nanh nhọn ra bên ngoài, mặc áo da voi, một tay cầm 
		kiếm, một tay cầm đầu lâu chứa đầy máu.
		Nếu 
		quán chữ thành I Ca Nhạ Tra Bồ tát thì bên phải: Tay thứ nhất cầm cây 
		gậy báu, tay thứ hai cầm sợi dây. Bên trái : Tay thứ nhất cầm Kiệt Trung 
		Nga (Khatvanõga _ cây đao ) , tay thứ hai cầm đầu người nhỏ máu.
		Nếu 
		quán chữ thành Phộc Nhật La Nẵng Khế thì thân có màu như mặt trăng, 2 
		tay bên phải cầm Kiếm với cây búa ( Phủ Việt ) , 2 tay bên trái cầm sợi 
		dây với hoa sen. Vị Phộc Nhật La Nẵng Khế này là thân sở hóa của Mã Đầu 
		Minh Vương ( Hàyagriva  Vidyaràja )  có uy lực lớn. Nếu bị Đắc Xoa Ca 
		Long Vương (Taksïaka Nàgaràja ) làm hại thì tất cả các lực lượng không 
		có thể cứu độ, chỉ có Phộc Nhật La Nẵng Khế mới có thể cứu tế được thôi. 
		Nếu Hành Nhân dùng ở mọi nơi thì đều được thành tựu như Báu Như Ý , tất 
		cả tùy theo câu
		Lại 
		nữa ở các Đại Minh thêm chữ sỡ dụng thì mỗi mỗi đều thành tựu Pháp.
		Nếu 
		thêm chữ Aùn  ( OMÏ ) thì hay tác cảnh giác với Phát Khiển
		Nếu 
		thêm 3 chữ Aùn, Lệ , Hồng ( OMÏ  LE  HÙMÏ ) thì sức hay chặt cắt
		Nếu 
		thêm 5 chữ Aùn, La, Hồng, Phát tra ( OMÏ  LA  HÙMÏ  PHATÏ ) thì 
		sức hay cảnh bố với hay phá hoại cũng hay ủng hộ.
		Nếu 
		thêm 4 chữ Aùn, Tổ, nẵng, mạc ( OMÏ  CU  NAMAHÏ ) thì hay thành 
		tựu Pháp Kính Aùi
		Nếu 
		thêm 3 chữ Án, tổ, hồng ( OMÏ CU  HÙMÏ ) thì hay đẩy lui quân 
		địch (Tha Quân )
		Nếu 
		thêm 4 chữ  Aùn, lệ, phát tra ( OMÏ  LE  PHATÏ ) thì chận đứng 
		được cuộc chiến đấu lớn.
		Nếu 
		làm Pháp Tức Tai (‘Sàntika ) dùng Đại Minh này là:
		“Án 
		_ Tôn, a mẫu yết tả, phiến đỉnh, câu lỗ, sa-phộc hạ”
		( 
		OMÏ  CUNÕ _ AMOGHASÏYA  ‘SÀNTIMÏ  KURU _ SVÀHÀ
		Nếu 
		làm Pháp Tăng Ích ( Pusïtïika ) dùng Đại Minh này là:
		
		“Án _ Tôn , a mẫu yết tả, lạc xoa di, câu lỗ, sa-phộc hạ”
		( 
		OMÏ  CUNÕ _ AMOGHASÏYA  LAKSÏMI  KURU _ SVÀHÀ
		Nếu 
		làm Pháp Kính Aùi ( Va’sikaranïa ) dùng Đại Minh này là:
		
		“Án _ Tôn, nẵng mạc”
		( OMÏ 
		_ CUNÕ _ NAMAHÏ
		Nếu 
		chận đứng cuộc chiến đấu lớn, dùng Đại Minh này là:
		
		“Án _ Tôn  nễ, hồng, phát tra”
		( OMÏ 
		_ CUNÕDHE  HÙMÏ  PHATÏ
		Lại 
		làm Pháp Tức Tai, tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên người đó, nói việc cần 
		cầu nguyện. Đại Minh là:
		
		“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết tả, phiến đỉnh, câu lỗ, sa-phộc 
		hạ”
		( 
		OMÏ_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ AMOGHASÏYA  ‘SÀNTIMÏ  KURU _ SVÀHÀ
		Lại 
		làm Pháp Tăng Ích, tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên người đó, nói việc cần 
		cầu nguyện. Đại Minh là:
		
		“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, sa-phộc hạ”
		( OMÏ 
		_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ SVÀHÀ
		Lại 
		làm Pháp Kính Aùi, tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên người đó , nói việc 
		cần cầu nguyện. Đại Minh đồng với Pháp Tăng Ích.
		Lại 
		làm Pháp Giáng Phục ( Abhicàruka ) Tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên ngưới 
		đó, nói việc cần cầu nguyện. Đại Minh là:
		“ 
		Nẵng mạc tả lệ , tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết phộc thi, câu lỗ, sa-phộc hạ”
		( 
		NAMAHÏ  CALE  CULE  CUNÕDHE _ AMOGHA  VA’SI  KURU _ SVÀHÀ
		Lại 
		làm Pháp Câu Triệu ( Akarsïanïi ) . Tụng Đại Minh là:
		
		“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết ma yết lị sa dã, hột-lị”
		( 
		OMÏ  CALE  LULE  CUNÕDHE _ AMOGHAM  AKARSÏÀYA  HRÌHÏ
		Lại 
		Khu Trục ( Xua đổi ) Oan Gia . Tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên người đó, 
		nói việc cần mong cầu.Đại Minh là:
		
		“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết mẫu tả tra dã, hồng”
		( 
		OMÏ  CALE  CULE  CUNÕDHE _ AMOGHAM  UCCÀTÏÀYA  HÙMÏ
		Lại 
		có Pháp phá hoại Ma Oán. Đại Minh là:
		
		“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết ma la dã , hồng, phát tra”
		( 
		OMÏ  CALE  CULE  CUNÕDHE _ AMOGHA  MÀRÀYA  HÙMÏ  PHATÏ
		Lại 
		làm Pháp cực phá hoại Ma Oán. Đại Minh là:
		
		“Án_ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A điên đa ma la ni, sa-phộc hạ”
		( 
		OMÏ  CALE  CULE  CUNÕDHE _ AJITA  MÀRÀNÏI _ SVÀHÀ
		Lại 
		làm Pháp Đại Tức Tai. Tùy tụng Đại Minh kèm xưng việc thành tựu  mong 
		cầu ấy. Đại Minh là:
		
		“Án _ Tả lệ , tổ lệ, tôn nễ, sa-phộc hạ”
		( OMÏ 
		_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ SVÀHÀ
		Lại 
		làm Pháp Đại Kính Aùi. Tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên của người ấy, nói 
		việc cần thành tựu. Đại Minh là:
		“ 
		Nẵng mạc tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, nẵng mạc  a điên đa, phộc thi duệ, 
		hột-lị”
		( 
		NAMAHÏ  CALE  CULE  CUNÕDHE _ NAMAHÏ  AJITA  VA’SÌYE _ HRÌHÏ
		Lại 
		làm Pháp Đại Câu Triệu. Đại Minh là:
		
		“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, hột-lị”
		( OMÏ 
		_ CALE  CULE  CUNÕDHE _ HRÌHÏ
		Lại 
		làm Pháp cực hoại ( làm hư nát hết ) đại oán. Tùy tụng Đại Minh kèm xưng 
		tên của người đó, nói việc cần làm.
		“ 
		Hồng _ Aùn, tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, hồng_ A điên đổ tả tra  ( xưng 
		việc…) phát tra, tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, phát tra”
		( 
		HÙMÏ _ OMÏ  CALE  CULE  CUNÕDHE  HÙMÏ _ AJITA  UCCÀTÏA  (xưng việc cần 
		làm….. ) PHATÏ _ CALE  CULE  CUNÕDHE  PHATÏ
		Đại 
		Minh của nhóm như vậy, mỗi mỗi đều tùy theo nơi tác Pháp. Xưng nói việc 
		ấy thì không có gì không thành tựu.
		Chư 
		Phật đã nói :” Giáo của Tôn Na Bồ Tát hay thỏa mãn nguyện của tất cả 
		chúng sinh”.Dùng Kệ ca ngợi rằng:
		Công 
		Đức của Tôn Na
		Tâm 
		vắng lặng thường trì
		Tất 
		cả các nạn lớn
		Không 
		thể xâm phạm người
		Trên 
		Trời và Thế Gian
		Thọ 
		phước ngang bằng Phật
		Lại 
		thêm báu Như Ý 
		Quyết 
		định không gì bằng
		
		 
		
		PHẬT THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO TÔN NA 
		
		BỒ TÁT ĐẠI MINH THÀNH TỰU NGHI QUỸ KINH
		
		QUYỂN THỨ TƯ ( Hết )
		
		                                                                    
		13/03/2004
		 
		
		
 
		VẠN TỰ TỤC TẠNG KINH _ NO.1481 ( Tr.547 _ Tr.555 )
		 
		
		CHUẨN ĐỀ TAM MUỘI HÀNH PHÁP
		 
		Hán văn 
		: Thiên Khê Tỳ Khưu THỤ ĐĂNG Tập
		Việt 
		dịch : HUYỀN THANH   
		 
		I _ 
		KHUYẾN TU :
		Đại Đà 
		La Ni này được chư Phật 3 đời đã nói, đang nói, sẽ nói mà Đức Thích Ca 
		của Ta cũng nói như vậy nhằm giúp cho chúng sinh được lợi lạc , được vào 
		Bồ Đề vậy.
		Phàm 
		tất cả chúng sinh chưa gieo hạt giống căn lành, không có Bồ Đề Phần mà 
		hay trì tụng 3 biến ắt sẽ sinh mầm giống căn lành và có được phần của Bồ 
		Đề. Nếu là Bồ Tát Xuất Gia trong đời này mong cầu Tất Địa Xuất Thế thì 
		Định Tuệ hiện tiền, chứng Địa Ba La Mật, viên mãn Vô Thượng Bồ Đề. Nếu 
		là Bồ Tát Tại Gia trong đời này mong cầu sẽ sinh vào cõi Trời hoặc làm 
		Nhân Vương, gần gũi Thánh Hiền, chư Thiên ủng hộ, trọn đời không có tai 
		hoạnh, tâm không lo buồn. Hoặc muốn diệt trừ 5 Nghịch, 10 Aùc, tất cả 
		tội nặng. Gom chứa 10 Thiện, 6 Độ, vô lượng Công Đức , các Đại Bồ Tát sẽ 
		vì người ấy nói Pháp, thường được tùy thuận theo cõi Phật ở 10 Phương. 
		Nếu có ham muốn khiến cho hàng Quốc Vương, Đại Thần, Trưởng Giả, Cư Sĩ  
		sinh tâm yêu kính , khởi ý lợi lạc thì tùy theo ước nguyện của người ấy 
		thảy đều thành tựu, có các Phước báu.
		Nếu Thọ 
		Mệnh bất toàn, cuộc sống bị rút ngắn, cầu Quan chẳng dời đổi, mọi khổ áp 
		bức. Nguyện khiến cho đời này được Phước của Luân Vương, đầy đử tướng 
		thọ mệnh, lộc vị cao sang, các việc tốt lành cho đến nguyện khiến cho 
		nước chẳng thể cuốn chìm, lửa chẳng thể đốt cháy… Thuốc độc, đao binh, 
		oan gia, bệnh tật đều chẳng thể gây hại mà hay chuyển ác làm lành thì 
		nên ở trong Đạo Trường xác định kỳ hạn cần yếu của công việc, một lònh 
		tinh tiến tu Chuẩn Đề Tam Muội (Cunãdhe  samàdhi ) này. Bởi vì Đà 
		La Ni này là Ỵang Bí Mật của chư Phật 3 đời, nơi tán nói của 7 Câu Chi 
		Như Lai cho nên Long Thọ ( Nàgàrjuna ) đã tổng nhiếp 25 Bộ làm Độc Bộ 
		Biệt Hạnh . Ví như viên ngọc Như Ý là vật tối thượng trong các báu, 
		viên ngọc ấy lại chìm sâu trong biển lớn ắt bị mất đi sự mong cầu viên 
		ngọc này. Nay đã được mở bày Pháp Tối Thượng nên có thể phát tâm chuyên 
		kính ngưỡng Đức Chí Tôn mà tu chứng, xa lìa sinh tử . Ở nơi niệm mỏng 
		quyết định Tam Muội trong một hạn kỳ , cho nên chẳng kể thân mệnh giành 
		lại cái đã mất. Chẳng lẽ lại thêm Nhân noi theo sự lười biếng chậm chạp 
		trong việc hoàn thành nơi thời khác ư ? ! ….
		 
		II _ 
		THỌ GIỚI PHÁT TÂM :
		Niệm 
		Tụng Nghi ghi rằng:” Bật Sô, Bật Sô Ni trước tiên giữ Giới Hạnh. Nếu vào 
		Đạo Trường lại nên tự thề phát nguyện thọ Giới. Nếu là người Tại Gia mới 
		vào Đạo Trường cũng nên tùy sức phát nguyện thọ Tam Quy, Ngũ Giới hoặc 
		giữ 8 Tế Giới cho nên Phương Đẳng Tam Muội khiến y theo vị Nhất Giải 
		Nội Ngoại Luật Sư phát lộ thọ 24 Giới”
		Như đây 
		biết, muốn vào Đạo Trường ắt lại trùng nghiêm Giới Pháp, ấy là Thi La ( 
		‘Sìla_ Thanh Lương Giới ). Chẳng thanh tĩnh  thì Tam Muội chẳng hiện 
		tiền. Điều này đánh mất sự dạy bảo sáng tỏ của Đức Phật là sự phụng 
		trọng thích hợp vậy. Đã Thọ Giới xong nên phát Tâm Bồ Đề rộng lớn, hành 
		Bồ Tát Hạnh (Bodhicàrya _ Bồ Đề Hạnh ).Phàm Tâm Bồ Đề ( Bodhicitta ) là
		Nhân Chính để thành Phật , gốc rễ của Trí Tuệ. Cho nên từ ngày 
		nay trở đi cho đến khi thành Chính Giác chỉ dùng Tâm Yếu của 4 Hoằng Thệ 
		Nguyện. Oâm giữ Hoằng Thệ thì rõ biết Đế Lý ( Lý chân thật ).
		Bồ Đề 
		Tâm Giới Nghi ghi rằng:” Các Pháp Vô Ngã Bình Đẳng như Không, Tâm vốn 
		chẳng sinh, Không Tính, Viên Tịch . Nên biết nơi viên tịch của Tính 
		Không ( ‘Sùnyatà _ Tính trống rỗng ) tức là lúc Cảm Ứng Đạo Giao.Cảm 
		ứng Đạo giao là đầu mối của Tâm Bồ Đề. Vì thế cho nên dâng cao lòng 
		Từ vận chuyển Tâm Bi ( Hưng Từ Vận Bi ) , trên cầu Bồ Đề , 
		dưới hóa độ chúng sinh ( Thượng cầu hạ hóa ), siêng tu 6 Độ, giành trụ
		Nhất Như , lìa 3 Chướng, dùng thanh tĩnh nguyện viên dung 3 Đức, 
		nhất định kết thúc cội nguồn. Đừng nên chẳng trụ tại đấy vậy”.
		Hai 
		Pháp Thọ Giới, Phát Tâm này là yếu môn khởi Hạnh của Hành Nhân, 
		là nơi chính của Tâm tiêu biểu. Tự thích nghi , nhiếp tâm theo học thì ý 
		thông suốt mở sự sáng tỏ. Ví như sơ lược Vị này mà chẳng soi xét, há chỉ 
		học theo sự khổ hạnh bỏ nhiều công sức mà gây tạo các chướng nạn ư ? ! …
		 
		III 
		_ HÀNH NHÂN VỚI HẠN KỲ NGÀY, THỜI SỐ :
		Người 
		tu Chân Ngôn đã được sự hỗ trợ bên ngoài ( Ngoại Hộ ) xem xét giềng mối 
		của Kinh, chọn lực 10 người đồng với Hành Giả , đã tự quay đầu đồng tâm 
		cùng chí như nương theo một con thuyền. Lại nữa thỉnh riêng một vị A Xà 
		Lê ( Aøcàrya_ Quỹ Phạm Sư ) dùng làm Giáo Thọ ( tức là Phương Đẳng Tam 
		Muội Minh Nội Ngoại Luật Sư ) bày rõ dường lối quán chiếu ( Quán Đạo ) 
		mở trừ sự trở ngại chướng nạn. Xưa kia thì Tăng Tục cùng ở một nơi. Nay 
		tu như có Tục Chúng đồng tu thì nên đặt bày một Giới Tướng để 
		phân cách, tuy đồng một Đạo Trường nhưng chẳng chung một Đàn Tịch ( cái 
		chiếu ngồi trong Đàn ) . Vì kẻ Tại Gia buông thả sự thấm ướt Giới Phẩm, 
		chưa đủ Đạo Nghi, tiến dừng chẳng hài hòa, ngược lại thành điều nhiễu 
		động. Cho nên đừng đem Địa Vị, Thế Lực, Sức mạnh cưỡng ép bắt theo ( Vị 
		Thế Cường Tòng ) cũng đừng lấy tình người noi theo sự ưa chuộng của Tăng 
		Chúng mà đào thải riêng biệt. Tục Chúng dung nạp hỗn tạp các Kiến ấy, 
		phong tục mạn loạn, phần lớn chẳng như Pháp. Như muốn Thánh ứng hình 
		sáng rõ thì cần phải cẩn thận chọn lựa cho thích hợp. Khởi đầu là đây 
		vậy.
		_ NHẬT 
		KỲ ( Hạn kỳ ngày ) : 
		Kinh 
		ghi là :” 7 ngày, 14 ngày cho đến 49 ngày”
		Điện 
		Công Viên Thông Tập quyết định là 120 ngày
		Nay tóm 
		lược Pháp. Khảo xét kỹ nền tảng mà quyết định là 21 ngày. Vì một kỳ tinh 
		tiến tu Pháp từ 7, 14 tăng đến 49 đều tùy theo sức người. Xong đấy chỉ 
		là căn cơ trình độc của người mới tu, còn bậc Sinh Tu ( người tu 
		cả đời ) thì chưa chắc đã theo hoàn toàn.
		Lại 
		trước lúc Chính Tu nên tác phương tiện. Nếu chẳng nghiêm tịnh thân tâm 
		an luyện Nghi Chế mà vội vàng vào Đạo Trường ắt Tâm chẳng phát và không 
		có nơi cảm ứng. Vì thế nên 7 ngày, trước tiên tự đoạn trừ tất cả duyên 
		bám níu, bớt ngủ, ăn uống chừng mực để điều phục Tâm ấy. Rồi lại tụng 
		tập Hối Văn  , dẫn dịch Quán Đạo, vẫn cầu Tam Bảo gia hộ. Tiến 
		Đạo như không có ma che chắn hay Định Tuệ hiện tiền thì thành mãn Tất 
		Địa 
		_ THỜI 
		SỐ :
		Kinh 
		ghi là :” Hoặc 3 thời, hoặc 4 Thời, hoặc 6 Thời y theo Pháp tụng trì , 
		cầu Tất Địa Thế Gian Xuất Thế Gian”
		Đây tức 
		là ngày 3 Thời, đêm 3 Thời làm Thông Quỹ ( quy tắc chung ) của việc Tiến 
		Tu vậy
		 
		IV _ 
		PHÁP TU CHÍNH :
		Bản 
		Phạn của Kinh này có 10 vạn bài Kệ . Nay có 3 bản văn dịch rất là ẩn 
		lược. Xong lâu dài tác Pháp : Thủ Tướng, Vô Sinh, 3 loại Tam Muội 
		Môn  thì vẫn có đủ chứ không thiếu. Công năng tác Pháp này với dùng 
		Thủ Tướng ( chấp giữ hình tướng )  giống như lại Xưng Tán cho nên 
		ở Tây Thổ ( Aán Độ ) việc tu Chân Ngôn tập hợp rộng rãi các Bộ, Đàn, 
		Nghi, Aán, Chú mà tiếp đến ở đây dùng giúp cho Bản Chú làm Pháp Quán 
		Hạnh gọi là Niệm Tụng Nghi  . Dịch truyền Đông Hạ , đời đều 
		xưng tập . Nhưng do lỗi câu nệ vào Pháp quá nhiều cho nên chẳng thể 
		không Truyền Duyên Đàn Aán nghiêng về thủ giữ chữ tiếng . Đây là 
		mối hại vì do chưa đạt Lý Quán làm chủ, cất chứa Tụng Trì , tiếp làm Ý 
		vậy .
		Nay đưa 
		ra phương pháp . Tuy có 3 loại Sám Pháp Tướng , tu để tiến mà quán lý Vô 
		Sinh, thật làm lối đi trước ( Tiền Đạo ). Các Pháp Tính Không, Vạn 
		hạnh vô tác, viên nhân … được căn cứ làm tiêu chuẩn. Đại Quả 
		làm chỉ quy. 
		Nay lập 
		phương pháp này dùng xem dấu tích là Tụng Nghi, Danh Số chẳng sai 
		, trước sau trợ cho chỗ sai biệt. Cho nên trước dẫn Tụng Nghi 
		cùng đối hợp này, sau cùng là chính thức đưa ra 10 Ý. Y theo thứ tự tiến 
		tu. 
		Trong 
		Nghi ấy, thoạt tiên làm Mạn Trà La mà nay là Pháp Trị Đạo Trường 
		. 
		Tiếp 
		vào Đạo Trường : Trước tiên Lễ Phật, Sám Hối, Tùy Hỷ, Khuyến Thỉnh, Phát 
		Nguyện , Hồi Hướng. Nay Lễ Phật dời đến bước thứ sáu. 
		Ngũ Hối 
		dời đến bước thứ tám. 
		Tiếp 
		bày chỗ ngồi, 3 Bộ Aán Chú tức nay là Tổng Lễ Tam Bảo Hộ Thân.
		Nay 
		bước thứ hai : Thanh Tịnh 3 Nghiệp, Kết Giới được đặt bày vào Tang 
		Nghiêm Đạo Trường, Nghinh Thỉnh. 
		Bước 
		thứ tư : Thỉnh Tam Bảo Chư Thiên, 5 Cúng Dường
		Bước 
		thứ ba : 3 Nghiệp cúng dường, Phạn Tán
		Bước 
		thứ năm: Tán Thán, Bố Tự với Thanh Tụng ( tụng ra tiếng ) 
		Bước 
		thứ bảy : Trì Chú 
		Tam Ma 
		Địa Niệm Tụng , nay dời đến bước thứ mười
		Muốn ra 
		khỏi Đạo Trường lại nên y như thứ tự : 5 cúng dường, 5 Hối, Tống Hoàn ( 
		tiễn đưa về Bản Vị ) . Đây sẽ là bước thứ chín
		Hành 
		Đạo Ích Hạnh, Pháp xoay chuyển Phạn Xướng chính là một thời Pháp Sự cùng 
		chấm dứt. Lại vận Sở Tu lúc trước làm Sự, không rõ Khế biển 3 Đức Tạng. 
		Vả lại Ý trụ trong vạn điều đeo níu cho nên nghĩa lý thật đồng, trùng 
		khế với 3 Bộ Aán tức là 3 Tự Quy. Đây ắt trước sau có sai khác mà Sám 
		Văn không khác biệt. Thứ tự xem xét đồng một Thể Hiển Mật . 10 Khoa Minh 
		Pháp thông làm Mật Nhân, 3 Mật gia trì đồng thành Hiển Giác.
		Thứ tự 
		10 Ý phương pháp là:
		1 ) 
		Nghiêm Trị Đạo Trường
		2 ) 
		Thanh Tĩnh ba nghiệp
		3 ) Ba 
		Nghiệp cúng dường
		4 ) 
		Thỉnh Tam Bảo chư Thiên
		5 ) Tán 
		Thánh Thân Thành ( Duỗi thành )
		6 ) Tác 
		lễ
		7 ) Trì 
		Chú
		8 ) Tu 
		hành Ngũ Hối
		9 ) 
		Hành Đạo Tuyền Chuyển
		10 ) 
		Vào Tam Ma Địa 
		Thoạt 
		đầu vào Đạo Trường. Thứ nhất thời tu đầy đủ 10 Pháp này. Sau đó trong 
		mỗi một Thời lược bỏ Thỉnh Phật, 9 bước còn lại đều hành không khác. Tức 
		dùng Pháp Hoa Tam Muội bổ trị nghĩa, Quán tưởng Cú Kệ , Chú ở sự Nghi.
		Chính 
		Tu thời dùng Vô Sinh Lý Quán ( Quán Lý Vô Sinh ) mà dung tức là nên biết 
		10 điều này đều đủ Sự Lý, đều thông Cảm Ứng, đủ khắp 3 nghiệp, đều Tĩnh 
		3 Chướng, đều hội 3 Đức. Đấy chính là Tam Muội của các Nhà ngày nay  vậy 
		.
		Như vậy 
		Quán xong, dùng Tiến Tu . Tự chẳng đồng với Truyền Duyên Đàn Aán làm chỉ 
		quy , thiên về giữ Chữ Tiếng làm cứu cánh vậy .
		1 
		) Nghiêm Trị Đạo Trường:
		Thoạt 
		tiên hiểu rõ ràng cách Trị Đàn Nghiêm Tượng. Tiếp biết rõ Kết 
		Giới. Nên chọn Thắng Địa : đào sâu xuống một khuỷu tay ( Khuỷu 
		tay của Đức Phật là 3 thước 6 tấc ) loại bỏ đất ô uế, riêng lấy đất 
		mới lấp đầy rồi nện chặt cho bằng phẳng (Hoặc ở cao nguyên, hoặc bên 
		bờ sông lớn… đào sâu xuống dưới 5 thước thì đất ấy cũng mới ).Lại 
		lấy đất sạch hòa với mảnh vụn của hoa tạp làm bùn xoa tô đất rộng 4 
		khuỷu tay làm Mạn Trà La hình vuông ( Kinh dùng Cù Ma Di hòa với đất 
		xoa tô Đàn. Đây nên dùng phân trâu trắng ở núi Tuyết là giống thuần 
		chủng mập mạp, hơi thơm tinh khiết. Phương cách này rất khó nên có thể 
		dùng đất thơm bên trên ). Treo lọng báu. Khắp 4 mặt trep lục, phướng 
		, phan rực rỡ  , quạt lụa mỏng, phất trần trắng…Chính giữa nâng đặt 
		Tượng Bản Tôn Câu Chi Phật Mẫu ( Hướng về phương Tây đặt Tòa. Nguyên 
		xuất từ hình thức của Thánh ( Thánh Tài ) . Xét 4 Pháp Hộ Ma thì là Tăng 
		Ích Hộ Ma, quyết sẽ hướng mặt về phương Tây. Nay là chuẩn của Tất Địa 
		Xuất Thế này. Bày biện tùy sức thích hợp mà làm )
		Nếu 
		không có Bản Tôn thì tùy đặt Tượng Phật, Xá Lợi với Kinh Chú Đại Thừa 
		cũng được. Hành Giả để riêng một Tòa thấp  đối trước Tượng . Liệu tính 
		đất thấp ẩm ướt nên trải chiếu cói chung quanh. Lại đem nước thơm rưới 
		vảy Địa Giới, nơi nơi án bờ mé khiến cho hợp thức. Đến ngày đầu tiên vào 
		Đàn ( nên dùng ngày Trai ) dùng Bạch Đàn Hương xoa tô làm 8 Mạn 
		Trà La giống như trăng đầy ( 8 Mạn Trà La này là 8 Đại Bồ Tát Tam Ma 
		Cảnh tức Phật Bồ Tát Căn Bản Tâm Đại Minh. BẤT KHÔNG dịch là: 9 chỗ 
		Thánh Vị. Đấy là hợp với Phật Mẫu mà gọi tên vậy )
		Liền 
		đem vật cúng mới sạch chứa đầy thức ăn uống với hương, hoa, đèn sáng, 
		nước thơm Ứ Già. Tùy sức có được mà đặt bày cúng dường. Thuần Tâm tận Ý 
		nghiếm khiết như Pháp. Tại sao thế ? vì trong Tâm kính trọng Tam Bảo, 
		vượt khỏi Tam Giới. Nay muốn phụng thỉnh cúng dường há có thể coi nhẹ 
		sao ! Nếu chẳng rút bỏ tư tài ( tài sản riêng của mình ) cúng dường Đại 
		Thừa thì dùng cái gì để chiêu cảm Hiền Thánh diệt tội nặng mà thành Diệu 
		Quả đây ? !...
		_ KẾT 
		GIỚI : 
		Kinh 
		ghi rằng :” Nếu muốn cầu nguyện. Trước tiên nên niệm tụng gia trì nước 
		thơm rải ở 8 phương trên dưới để làm Kết Giới. Hành Giả ở 4 bên của Đạo 
		Trường hoặc lấy chỉ ngũ sắc, hoặc  vật ngăn cong… Trước hết Tướng 
		Tiêu Giới dùng làm cho nơi tu hành được nhay ngắn chỉnh tề. Lúc vào 
		Đạo Trường thời Tâm tưởng chư Phật 10 phương, Bản Tôn Phật Mẫu đi đến 
		ngồi cho nên đốt hương, rải hoa, cung kính cảm tạ nghiêm trì. Liền lấy 
		nước sạch , Chú vào 108 biến rải khắp 4 phương trên dưới thành Pháp Kết 
		Giới”
		 
		2 ) 
		Thanh Tĩnh ba Nghiệp :
		_ Niệm 
		Tụng Nghi ghi là:” Ở nơi cư ngụ, tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch. Nơi 4 
		uy nghi phát 4 Hoằng Thệ. Đối với tất cả công việc, tâm chẳng tán loạn”
		_ Pháp 
		Hoa Tam Muội ghi là:” Mới vào Đạo Trường nên dùng nước nóng thơm tắm 
		gội, mặc áo thật sạch như Đại Y với các quần áo mới nhuộm. Nếu không có 
		đồ mới thì nên chọn thứ hơn hết trong quần áo của mình dùng làm áo vào 
		Đạo Trường . Sau đó nếu ra khỏi Đạo Trường đến chốn Bất Tịnh thì nên cởi 
		áo sạch ra, mặc áo chẳng sạch vào. Việc làm đã xong, nên tắm gội , lại 
		mặc cái áo sạch lúc trước, vào Đạo Trường hành Pháp”
		_ Đại 
		Bi Tam Muội ghi là:” Giả sử một ngày một đêm chẳng đến chỗ uế , cũng nên 
		tắm gội một lần. Xong hết một Kỳ, chuyên chú đừng nói lung tung ( Tạp 
		Ngữ ) với tất cả hội họp, hỏi han vấn đáp. Xong hết một Kỳ , y theo Kinh 
		, vận tưởng chẳng được có một Sát Na niệm dính với việc đời. Nếu ăn uống 
		tiện lợi thì cũng nên gìn giữ đừng để tán mất. Xong việc liền vào Đạo 
		Trường, chẳng được giao việc để dựa dẫm dài lâu” 
		Đại yếu 
		là: Thân Luận mở che, Khẩu Luận nói dừng, Ý Luận 
		Chỉ Quán.
		 
		3 ) 
		Ba Nghiệp cúng dường:
		( 
		Chỉ Quán ghi là: “ Đốt hương vận ý, 3 nghiệp cúng dường”. Hành Giả mới 
		vào Đạo Trường , đến trước Pháp Tòa, bày Ni Sư Đàn, chính thân chắp tay 
		đứng tựa. Như vậy suy tư:” Ta là chúng sinh phát Tâm Bồ Đề, hưng Từ 
		vận Bi Thệ, muốn cứu bạt mà lại xấu hổ , thật đáng thương ! “ . Giữ 
		tưởng Tam Bảo lấp đầy hư không, ảnh hiện Đạo Trường. Tay bưng lò hương , 
		đốt mọi danh hương, miệng xướng Tam Bảo, 5 Thể cúi sát đất. Bắt đầu cử 
		rằng)
		_ Tất 
		cả cung kính ( Dưới đây khác miệng cùng lời )
		_ Nhất 
		Tâm đỉnh lễ Thập phương Pháp Giới thường trụ Phật
		( 
		Tâm tùy thân, miệng. Một lòng đỉnh lễ không phân tán Tưởng, biết rõ thân 
		này như ảnh chẳng thật. Năng Lễ, Sở Lễ  không có chỗ đắc. Tất cả chúng 
		sinh đồng vào trong biển Pháp Giới này )
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ thập phương Pháp Giới thường trụ Pháp
		( 
		Nơi đây và Tăng bên dưới , dùng Tâm như trên )
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lể thập phương Pháp Giới thường trụ Tăng
		( Lễ 
		Tam Bảo xong. Quỳ gối, đốt hương, dùng tay rải hoa. Bắt đầu bạch rằng)
		
		_ Các 
		Chúng Đẳng đây mỗi đều quỳ gối, nghiêm trì hương hoa, như Pháp cúng 
		dường
		( 
		Dưới đây Chúng đồng thanh xướng )
		_ 
		Nguyện mây hương hoa này tràn đầy 10 phương Giới , mỗi mỗi các cõi Phật 
		có vô lượng hương trang nghiêm , đủ Đạo Bồ Tát, thành tựu Như Lai Hương
		( 
		Tưởng rằng: Hương hoa này của ta tràn khắp 10 phương. Dùng Thiên Bảo 
		Hương, thức ăn hiếm có của chư Thiên, Thiên Bảo Y chẳng thể luận bàn, 
		bụi Diệu Pháp mỗi mỗi hạt bụi tuôn ra tất cả bụi , mỗi một hạt bụi tuôn 
		ra tất cả Pháp xoay chuyển không ngại, trợ nhau trang nghiêm đến trước 
		Tam Bảo của 10 phương , trước Tam Bảo của 10 phương Pháp Giới đều có 
		thân ta tu cúng dường. Mỗi mỗi tưởng tràn đầy khắp Pháp Giới, mỗi mỗi 
		không ngại, không có chướng ngăn che bờ mé vị lai làm Phật Sự, xông ướp 
		khắp Pháp Giới. Các chúng sinh nương theo sự xông ướp đều phát Tâm Bồ 
		Đề, đồng vào Vô Sinh, chứng Phật Trí 
		
		Tưởng xong bắt đầu bạch kết )
		Cúng 
		dường xong. Tất cả cung kính ( 1 lạy ) 
		 
		4 ) 
		Thỉnh Tam Bảo chư Thiên :
		_ Nhất 
		tâm phụng thỉnh. Nam mô Bản Sư Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Thế Tôn
		_ Nhất 
		tâm phụng thỉnh. Nam mô Quá khứ Thất Câu Chi Chuẩn Đề Thế Tôn
		_ Nhất 
		tâm phụng thỉnh. Nam mô Hiện Tại Thất Câu Chi Chuẩn Đề Thế Tôn
		_ Nhất 
		tâm phụng thỉnh. Nam mô Vị Lai Thất Câu Chi Chuẩn Đề Thế Tôn
		_ Nhất 
		tâm phụng thỉnh. Quy mệnh mười Đức Phật Thế Tôn ở mười phương trong nhóm 
		Thiện Đức Phật ở phương Đông.
		_ Nhất 
		tâm phụng thỉnh. Quy mệnh ba Thân của bảy Câu Chi Như Lai, tán   nói 
		Chuẩn Đề Đà La Ni.
		_ Nhất 
		tâm phụng thỉnh. Quy mệnh năm Bộ là nơi thu nhiếp các Đà La Ni cùng với 
		tất cả Tôn Pháp ba đời ở mười phương
		_ Nhất 
		tâm phụng thỉnh. Nam mô Bản Tôn Chuẩn Đề Bồ Tát Ma Ha Tát
		_ Nhất 
		tâm phụng thỉnh. Nam mô Đại Luân Minh Vương Bồ Tát, Bất Động Tôn Minh 
		Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
		_ Nhất 
		tâm phụng thỉnh. Nam mô Quán Tự Tại Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha 
		Tát
		_ Nhất 
		tâm phụng thỉnh. Nam mô Bất Không Quyến Sách Bồ Tát, Y Ca Nhạ Tra Bồ 
		Tát, Phộc Nhật-La Nẵng Khế Bồ Tát Ma Ha Tát
		_ Nhất 
		tâm phụng thỉnh. Quy mệnh tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát ba đời ở mười phương.
		_ Nhất 
		Tâm phụng thỉnh. Nam mô Ma Ha Ca Diệp, tất cả các Đại Thanh Văn, Duyên 
		Giác, Hiền Thánh Tôn.
		_ Nhất 
		tâm phụng thỉnh: Vô Năng Thắng Bồ Tát, Đa La Bồ Tát, Ha Lợi Đế Mẫu Bồ 
		Tát với tất cả Chúng Đại Phẫn Nộ Trì Minh Vương.
		_ Nhất 
		tâm phụng thỉnh : Đại Phạm Tôn Thiên, Tam Thập Tam Thiên, Bốn Vương Hộ 
		Thế, Tám ( 8 ) Bộ Thần Đẳng, Hai ( 2 )  Tĩnh Cư Thiên Tử, Hai ( 2 )  Nan 
		Đà Long Vương, Cát Tường Cung Môn, Chúng Trì Minh Tiên. Tất cả Linh Miếu 
		ở Danh Sơn, sông lớn bên trong đất nước này. Quỷ Thần bên trong Địa Phận 
		thuộc Châu ( tên … ) . Thần hộ Già Lam, tất cả Thánh Chúng có trú xứ ở 
		chốn này.
		_ 
		Nguyện xin Bản Sư Thất Câu Chi Chuẩn Đề Phật Mẫu , Chuẩn Đề Như Lai của 
		ba đời, Mười Phật Thế Tôn ở mười phương… chẳng dời Bản Tế, bình đẳng Từ 
		Huân giáng đến Đạo Trường chứng cho con hành Pháp.
		Bảy Câu 
		Chi Phật Mẫu đã nói Chuẩn Đề Đà La Ni , Bí Yếu của Trung Đạo .. hiển 
		hiện Đạo Trường nhận sự cúng dường của con.
		Bản Tôn 
		Chuẩn Đề Bồ Tát Ma Ha Tát. Các vị Bồ Tát đồng Đàn với nhóm Đại Luân, Bất 
		Động nương sức Đại Nguyện đi đến Đạo Trường , gia trì Thần Chú , tùy Tâm 
		mãn nguyện.
		Ma Ha 
		Ca Diệp, các Đại Thanh Văn đồng vận Từ Bi đều đến cùng lúc 
		Các Đại 
		Minh Vương thuộc nhóm Vô Năng Thắng , Đa La Bồ Tát, Ha Lị Đế Mẫu… Nguyện 
		vì con nói Pháp, trao cho niềm vui của Pháp ( Pháp Lạc ) , đuổi các Ma 
		Chướng, thị hiện cát tường.
		Phạm, 
		Thích, Bốn Vương, Tám Bộ Trời Rồng, Tĩnh Cư Thiên Chủ, Các Trì Minh 
		Tiên… tùy theo con thỉnh đều đến giữ vững Đạo Trường, ủnh hộ Quốc Giới. 
		Khiến cho Sở Tu của con chẳng trái ngược với Bản Thể ( 1 lạy )
		 
		5 ) 
		Tán Thán Thân Hành :
		_ Nên 
		dùng Đại Từ Bi
		Điều 
		phục các chúng sinh
		Thành 
		biển Công Đức Phước
		Vì thế 
		con tán lễ
		 
		_ Chân 
		Như thuần một Lý 
		Lìa các 
		nẻo Dục Hoại
		Lợi 
		sinh trụ Tịch Tĩnh
		Vì thế 
		con tán lễ
		 
		 
		_ Giữ 
		Tịnh Giới bền chắc
		Chứng 
		nhập Môn Giải Thoát
		Trụ cõi 
		Tối Công Đức
		Vì thế 
		con tán lễ
		 
		_ Nhóm 
		Công Đức Chuẫn Đề 
		Tâm 
		vắng lặng thường giữ
		Tất cả 
		các nạn lớn
		Không 
		thể xâm hại được
		Trên 
		Trời với nhân gian
		Thọ 
		Phước ngang bằng Phật
		Gặp Báu 
		Như Ý này 
		Quyết 
		được Đại Bồ Đề 
		 
		Dùng 
		Tán Phật Công Đức này, tu hành Đại Thừa, căn lành vô thượng. Dâng phước 
		lên chư Thiên cõi trên, 8 Bộ Rồng Thần, Thần Đất của cõi này, Bậc Hộ 
		Chính Pháp.
		Lại vì 
		Quốc Vương Đế Chủ, Sư Tăng, Cha Mẹ, Tri Thức Đàn Việt , rộng đến Pháp 
		Giới Chúng Sinh. Nguyện ghi chép căn lành này , bình đẳng huân tu . Tiêu 
		diệt  10 ác, 5 Nghịch, 3 Chướng. Công Đức Trí Tuệ làm 2 loại Trang 
		Nghiêm, nghe Môn Tổng Trì, thành Đạo Chủng Trí
		 
		6 ) 
		Tán Lễ :
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Bản Sư Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Thế Tôn
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Quá Khứ Thất Câu Chi Chuẩn Đề Thế Tôn
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Hiện Tại Thất Câu Chi Chuẩn Đề Thế Tôn
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Vị Lai Thất Câu Chi Chuẩn Đề Thế Tôn
		_ Nhất 
		Tâm đỉnh lễ Thiện Đức Thế Tôn ở Thế Giới Vô Ưu thuộc phương Đông
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Chiên Đàn Đức Thế Tôn ở Thế Giới Hoan Hỷ thuộc phương Nam
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Vô Lượng Minh Thế Tôn ở Thế Giới Danh Thiện thuộc phương Tây
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Tướng Đức Thế Tôn ở Thế Giới Vô Động thuộc phương Bắc 
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Vô Ưu Đức Thế Tôn ở Thế Giới Nguyệt Minh thuộc phương Đông 
		Nam
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Bảo Thí Thế Tôn ở Thế Giới Chúng Tướng thuộc phương Tây Nam
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Hoa Đức Thế Tôn ở Thế Giới Chúng Aâm thuộc phương Tây Bắc
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Tam Thừa Hạnh Thế Tôn ở Thế Giới An Aån thuộc phương Đông 
		Bắc
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Minh Đức Thế Tôn ở Thế Giới Quảng Đại thuộc phương trên
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Quảng Tụ Đức Thế Tôn ở Thế Giới Chúng Nguyệt thuộc phương 
		dưới
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Ba Thân của 7 Câu Chi Như Lai tán nói Chuẩn Đề Đà La Ni ( 3 
		lạy )
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Năm Bộ là nơi thu nhiếp các Đà La Ni với tất cả Tôn Pháp ba 
		đời ở mười phương
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Bản Tôn Chuẩn Đề Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lạy )
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Đại Luân Minh Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Bất Động Tôn Minh Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Bất Không Quyến Sách Bồ Tát Ma Ha Tát
		_ Nhất 
		Tâm đỉnh lễ Y Ca Nhạ Tra Bồ Tát Ma Ha Tát
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Phộc Nhật-La Nẵng Khế Bồ Tát Ma Ha Tát
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát ba đời ở mười phương 
		_ Nhất 
		tâm đỉnh lễ Ma Ha Ca Diệp, tất cả các Đại Thanh Văn, Duyên Giác, Hiền 
		Thánh Tăng
		 
		7 ) 
		Trì Chú :
		Đạo 
		Chân Ngôn này rộng lớn viên dung Thật Tướng Vô Tướng, lìa các 
		phân biệt, Tính đồng hư không , đầy đủ 3 Đức, chẳng dọc chẳng ngang, 
		bình đẳng che giữ làm nhóm Công Đức. Chư Phật ở đây Như Như Bất Động
		, khéo vượt 160 Tâm không có ngại, mà các chúng sinh chẳng tự chứng 
		được , tùy thuận Vô Minh, chìm đắm trong 3 cõi ( Tam Hữu ) giống như giữ 
		lò lửa xoay chuyển chẳng dừng. Do đây đè nghẹt , thấy nghe đều lỗi. Cho 
		nên Đức Chuẩn Đề Như Lai của Ta , Từ Bi không bờ mé . Từ Bản Thùy 
		Tích , 3 Mật đốn hóa, lưu dấu tích theo Bản Thùy , 9 Chữ đều 
		sáng rực , hợp với Trí Sắc của Lý Địa , bật ra Thanh 
		Duyên ( duyên với âm thanh ) của Giáo Môn, lưu chuyển thích hợp xứng 
		với Theå, kết thành chữ Phạn, muốn khiến chúng sinh nghe Tri 
		Kiến của Diệu Giác, thành Trí Thân của Bản Nhiên
		.Tức sự nghe thấy này chẳng phải là Tiếng Chữ hay sự việc, 
		làm Nhất Lý Môn ( Môn của một Lý ) , duyên tiếng vào 
		Trí , nhân Chữ tận Tính, xa lìa Tiếng Chữ cũng 
		không giải thoát 
		Ngày 
		nay Hành Giả giương Tâm lập Hạnh , phá Chướng hiển Lý. Nếu chẳng Bố Tự 
		duyên tiếng vào Tam Ma Địa thì không tới được đường về nhà . Theo Nhân 
		chứng Quả, nên tu Pháp này . Tùy lập 2 Môn tức duyên Tiếng bày Chữ , trì 
		cho vào Tam Ma Địa , trì tên Long Thọ. Đây là Hữu Tướng Trì, Vô Tướng 
		Trì vậy. Vô Tướng Trì thì đến chương thứ mười sẽ rõ. Hữu Tướng Trì 
		là tỏ tường Tiếng Chữ này vậy. Cỏ Tranh làm Sắc Pháp thông làm Giáo Thể 
		.
		Mã Minh 
		nói :” Sắc Tính tức Trí, gọi tên là Trí Thân”
		Thiên 
		Thai nói :” Niệm Pháp Môn Thân”
		Niệm 
		Tụng Nghi ghi là:” Từ đỉnh đầu đến chân dùng 9 chữ Phạn an bày trên thân 
		Hành Giả. Cho nên dùng:
		Chữ ÁN 
		(            _ OMÏ ) bày ở đỉnh đầu ắt thành Nhất Thiết Chủng Trí
		Chữ 
		CHIẾT (            _ CA ) bày ở 2 con ngươi ( Đồng Thần ) ắt thành 2 Đế
		Chân Tục 
		Chữ LỆ 
		(            _ LE ) bày ở mắt trái, mắt phải tức thành Từ Bi
		Chữ CHỦ 
		(            _ CU ) bày ở họng cổ tức thành Vô Ngại Biện
		Chữ LỆ 
		(            _ LE ) bày ở vai trái, vai phải thành 4 Hoằng Thệ
		Chữ 
		CHUẨN (            _ CUMÏ ) bày ở trái tim thành Như Lai Tạng
		Chữ ĐỀ 
		(            _ DHE ) bày ở lỗ rốn thành 3 Tam Muội
		Chữ 
		SA-BÀ (             _ SVÀ ) bày ở 2 bắp chân thành Địa Ba La Mật 
		( 
		Thiên Thai nói 10 Địa là ống chân, bàn chân. Thiên Thai Sớ dùng 10 Độ 
		làm ống chân của 10 Địa )
		Chữ HA 
		(            _ HÀ ) bày ở 2 bàn chân là Định Tuệ thành vậy.
		Biết 
		các Pháp đấy, nhóm họp thành Thân. Sắc Tính đã là Trí , Trí Tính cũng là 
		Sắc. Nên Trí Thân này lúc an bày thành, thời Chướng ở đấy, liệu phá được 
		ư ? !... Đức cũng dùng Hiển ấy. Bên trên là Pháp Thể cao xa, bên dưới 
		nên vịn vào Sinh Báo Trí Thân Sắc nhằm sắp gần thành cái ấy vậy.
		Lại nữa 
		nên biết Môn 9 chữ Phạn vào 9 địa vị Hiền Thánh , Nhân Quả hợp một. Thân 
		Pháp Tướng cao xa tức thành dụng Như Lai Aán ,  nơi Thân Gia Trì của 8 
		Đại Bồ Tát . Bản Tích tuy đặc thù chẳng thể luận bàn xứng với Thắng Pháp 
		Môn. Bởi vì Có là do vậy.
		Đã an 
		bố xong. Sau đó Thanh Tụng ( tụng ra tiếng ) . Pháp Tụng ấy, trước tiên 
		thấu tỏ Tính của âm thanh là trống rỗng ( ‘Sùnya _ Không  ) , hình sắc 
		của chữ là Vô Tướng ( Alaksïanïa ) . Tiếng chẳng chậm rãi chẳng gấp gáp, 
		Chữ không có trước sau , Tính của Tâm là Vô Tính, Tâm chẳng khác Duyên. 
		Tiếng Phạn cong quẹo cùng với 9 chữ Phạn rõ ràng minh bạch . Nơi bày chữ 
		trên Thân và 9 tướng Thánh mỗi mỗi thấu tỏ chẳng mịt mờ. Niệm Trì như 
		vậy, há chẳng tiến bộ sao ? Mỗi mỗi biện rõ, không gián đoạn sáng tỏ. Tự 
		nhiên liền thấy hào quang , tướng tốt của Bản Tôn với Quyến Thuộc vây 
		quanh cùng Ta đối diện ngồi. Đây là Bố Tự Duyên Thanh Trì Pháp.
		
		(Ngay thẳng Thân, Uy Nghi, đốt hương rải hoa , đồng thanh tác lời nguyện 
		là) 
		 
		Con ( 
		Tên là… ) nay muốn niệm tụng. Nguyện xin Bản Tôn , chư Phật, Bồ Tát gia 
		trì niệm tụng. Nguyện khiến cho mau viên mãn Tất Địa mong cầu tùy theo Ý
		( Xướng 3 lần, 1 lạy ) 
		Bấy giờ 
		Đức Thế Tôn thương xót các chúng sinh có Nghiệp ác, Phước mỏng ở đời vị 
		lai. Liền nhập vào Chuẩn Đề Tam Ma Địa nói Đà La Ni mà 7 Câu Chi Phật 
		trong đời quá khứ đã nói.
		( Chúng 
		đồng kết Thủ Aán, miệng tụng Chân Ngôn, Tâm giữ các an bố chữ Phạn )
		 
		Nam 
		mô táp đá nam, tam miệu tam bột đà câu chi nam. Đát điệt tha : Aùn, 
		chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, sa bà ha 
		NAMO  
		SAPTÀNÀMÏ  SAMYAKSAMÏBUDDHA  KOTÏINÀMÏ 
		
		TADYATHÀ : OMÏ _ CALE  CULE  CUMÏDHE _ SVÀHÀ  
		( 
		Trong Đàn chẳng tiện ngồi riêng thì đi đứng tụng trì 108 biến, là mãn số 
		Tất Địa . Nay cầu 3 Phẩm Tất Địa là thích hợp với 3 biến, 108 biến, 
		chẳng nhiều chẳng ít. Bắt đầu y theo Pháp lần chuỗi ghi số, số mãn thì 
		đặt chuỗi về cỗ cũ ( Quy vị ) . Đưa Aán hướng lên đỉnh đầu giải tán. 
		
		
		Người đứng đầu bạch rằng Mở Chú chứng Vị )
		 
		Khi Đức 
		Phật nói Pháp Đại Chuẩn Đề Đà La Ni này thì vô lượng chúng sinh mau lìa 
		trần cấu, được chứng Công Đức của Chuẩn Đề Đà La Ni. Được thấy Phật, Bồ 
		Tát, Thánh Chúng ở 10 phương, quyết định thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu 
		Tam Bồ Đề.
		( 
		Bạch xong, đồng thanh tác nguyện )
		Con ( 
		Tên là… ) đem Công Đức niệm tụng này , nơi tu Chân Hạnh của tất cả chúng 
		sinh cầu mau được thành tựu Thượng Phẩm Tất Địa.
		 
		8 ) 
		Tu Hành Ngũ Hối:
		Thoạt 
		đầu là Pháp Sám Hối :
		Kinh 
		ghi :” Tiêu diệt tội nặng , 10 ác, 5 Nghịch từ vô thủy đến nay, vĩnh 
		viễn không có bệnh tật như chẳng đọa vào nẻo ác, tại chốn sinh ra lìa 
		khổ được vui, gần gũi gặp được Đức Phật, thành tựu Bồ Đề”
		Xong Ta 
		ngày nay chuyên giữ Mê Ngu, chẳng chịu Sám ắt bị đọa vào Tam Đồ 
		trăm kiếp chịu khổ , chẳng có lúc nhàn rỗi thăm hỏi Bồ Đề để có thể thấy 
		Phật. Cho nên nghĩ nhớ tội nghiệp đời trước thì rất kinh sợ mà tỏ bày 
		Sám Hối.
		Sám
		gọi là Sám Tạ. Hối gọi là Tàm Quý ( Xấu hổ ) . Cầu thương sửa 
		lỗi là Chân Sám Hối.
		Khuyến 
		Thỉnh, Tùy Hỷ, Hồi Hướng, Phát Nguyện cũng gọi là Hối. Tuy đều lập Hạnh 
		mà cùng khả năng diệt tội.
		
		Khuyến Thỉnh ắt diệt tội Ba Tuần ( Ma Vương Ba Tuần ) thỉnh Phật vào 
		Niến Bàn
		Tùy 
		Hỷ ắt diệt tội lỗi ganh ghét người Tu Thiện
		Hồi 
		Hướng ắt diệt Tâm điên đảo cầu ba cõi ( Tam Giới)
		Phát 
		Nguyện  ắt diệt lỗi Thoái chí tu hành 
		Ba 
		Nghiệp cạn hết, chẳng tiếc thân mệnh, khóc ra máu , lệ tuôn như mưa, tỏ 
		bày gốc rễ của tội
		Pháp 
		Hoa Tam Muội ghi là:” Nghiệp Tính tuy Không  nhưng Quả Báo chẳng mất. 
		Nhân Duyên điên đảo khởi các tội nặng, lệ tuôn thương khóc, miệng bày 
		Sám Hối”
		( 
		Trước tiên Phổ Sám. Tưởng rằng: Ta với chúng sinh từ vô thủy thường 
		vì 3 Nghiệp 6 Căn mà gây tội nặng , Sở Chướng chẳng thấy chư Phật, chẳng 
		biết lối cần ra, thuận theo sinh tử chẳng biết Diệu Lý . Nay Ta đã biết 
		: Do cùng với tất cả chúng sinh đồng bị tất cả tội nặng, sớ chướng nên 
		đối trước Chuẩn Đề Bồ Tát Tôn  vì khắp cả chúng sinh mà quy mệnh sám 
		hối. Nguyện xin gia hộ khiến tiêu diệt tội chướng.
		
		Tưởng xong. Xướng rằng )
		Khắp vì 
		4 Ân 3 Cõi Pháp Giới Chúng Sinh đều nguyện đọa trừ 3 Chướng. Quy mệnh 
		Sám Hối.
		( 
		Xướng xong. Cúi 5 vóc sát đất, lại Tự Sám. Xướng rằng ) 
		Chí Tâm 
		Sám Hối. ( Tỳ Kheo, tên là …. ) cùng với Pháp Giới chúng sinh , hiện 
		tiền nhất niệm Viên Minh rộng lớn , đánh mất sự giữ gìn Bí Tạng . 6 căn 
		6 trần giao sinh nhiễm dính, tuần hoàn 3 cõi không có tạm dừng. Vì thân 
		khẩu ý mà không có điều ác nào không tạo, muốn giết sinh mệnh thì giết, 
		trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói thêu dệt ( Ỷ ngữ ) , nói chia rẽ ( Lưỡng 
		Thiệt ), nói thô ác ( ác khẩu ), tham dục, giận dữ, si mê, tà kiến , ngu 
		si. Mười ác như vậy , tự mình làm hoặc sai người khác làm, tùy vui theo 
		người ác, khen ngợi Pháp ác. Lại khởi Tâm ác lớn mạnh tạo Nghiệp Vô Gián 
		như Giết cha hại mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật chảy máu, phá Hòa Hợp 
		Tăng.Lại điên cuồng buông lung mê tưởng , mở cửa Kiết Sử , thường giữ 
		Luật Tà , đời gom Tăng ( Ganh ghét ) Mạn ( Kiêu mạn )  , chẳng tin 
		Phương Đẳng … trợ dùng nâng dắt. Nơi Pháp của Phật nói là Phi Pháp, Phi 
		Pháp nói là Pháp, Các chúng sinh có Đức lại nói là mất Đức ( thất đức ) 
		, chẳng oan nói là oan. Chẳng vui phụng trì Pháp Luật Xuất Thế , Luân 
		Thường Trị Thế cho đến Thừa Huấn Giáo 
		Tội lỗi 
		như vậy  vô lượng vô biên. Buông hình mệnh ấy thường đọa nẻo ác chỉ vì
		Cái Ta . 
		Vì Thất 
		Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Thế Tôn thương xót con cho nên vào Tam Ma Địa 
		nói Chuẩn Đề Đại Đà La Ni này. Nếu có chúng sinh hay tụng trì  thì 10 
		Aùc, 5 Nghịch thảy đều tiêu diệt . Ngày nay y Pháp tu hành, phụng đối 
		Sám Hối, chẳng dám che dấu. Ngưỡng Nguyện Bản Tôn Chuẩn Đề Bồ Tát Ma Ha 
		Tát có đầy đủ 5 mắt  chân thật thấy biết , biến 18 tay xót thương gia hộ 
		TRước khiến trong mộng được thấy Thánh Chúng, miệng nôn vật đen, thân 
		hiện cát tường. Tiếp vào Tam Ma Địa mau tròn Tất Địa, nhiếp khắp 10 Địa, 
		Định Tuệ hiện tiền, hết thảy Nghiệp Chướng sẽ tiêu trừ hết, đời sau 
		chẳng nhận tất cả ác báo, vĩnh viễn lìa Tam Giới, các căn làm sạch dòng 
		mê diệu thâm, vành trăng tròn sáng nơi tim cùng Phật thọ dụng , mở Môn 
		Tổng Trì, cùng các chúng sinh, cuối cùng quy vào Bí Tạng.
		( 
		Văn này với Phổ Sám bên trên , 4 Sám bên dưới đều tuyên nói 3 lần. Nếu 
		thời ngắn gấp thì ban đêm tuyên 3 lần hoặc có thể nói một lần, ban ngày 
		nói 3 lần. Nói xong đứng dậy xướng kết )
		Sám Hối 
		xong. Quy mệnh lễ Tam Bảo ( 1 lạy ) 
		 
		_ Tiếp
		Pháp Khuyến Thỉnh : ( Đốt hương, quỳ gối )
		Con ( 
		tên là… ) chí tâm khuyến thỉnh tất cả chư Phật ở 10 phương, Bậc đắc đạo 
		hiện tiền. Nay thỉnh chuyển Pháp Luân khiến các quần sinh được an vui. 
		Tất cả Phật ở 10 phương nếu muốn bỏ Thọ Mệnh , nay con cúi đầu mặt lễ , 
		khuyến thỉnh xin trụ lâu ở đời.
		Khuyến 
		Thỉnh xong. Quy mệnh lễ Tam Bảo
		_ Tiếp
		Pháp Tùy Hỷ : 
		Con ( 
		tên là… ) chí tâm tùy hỷ. Hết thảy Phước : Bố Thí, Trì Giới, Tu Thiền 
		Hành sinh từ Thân , Miệng, Ý . Hết thảy Phước của người tu học 3 Thừa, 
		Bậc thành tựu 3 Thừa, tất cả phàm phu … đều tùy mà khiến vui
		Tùy Hỷ 
		xong. Quy mệng lễ Tam Bảo.
		 
		_ Tiếp
		Pháp Hồi Hướng :
		Con ( 
		tên là…) chí tâm hồi hướng. Tất cả Phước Đức mà con có được đều hòa hợp 
		vì các chúng sinh mà chính hồi hướng Phật Đạo. Phước : Sám Tội Ứng như 
		vậy, Khuyến Thỉnh, Tùy Hỷ đều xin hồi hướng về Bồ Đề với Chân Như Pháp 
		Giới.
		Hồi 
		Hướng xong. Quy mệnh lễ Tam Bảo.
		 
		_ Tiếp
		Pháp Phát Nguyện :
		Con ( 
		tên là… ) chí tâm phát nguyện. Nguyện cho các hàng chúng sinh đều phát 
		Tâm Bồ Đề, Định Tuệ thường hiện tiền, chứng Địa Ba La Mật. Nguyện con 
		lúc lâm chung được vãng sinh về cõi An Lạc, được thọ ký xong thì quay 
		trở lại cõi Sa Bà ( Sahaloka ) giáo hóa các chúng sinh.
		Phát 
		nguyện xong. Quy mệnh lễ Tam Bảo
		 
		9 ) 
		Hành Đạo Tuyền Chuyển :
		( Thân 
		ngay thẳng, uy nghi, nhiễu quanh vòng bên phải Pháp Tòa. Đốt hương, rải 
		hoa, bước đi an tường. Quán Sở Tu cúng dường, lễ bái, tụng trì, Ngũ Hối 
		lúc trước… mỗi mỗi là Tính Không , vống không có chỗ đắc, nhất chân hạ 
		chân chẳng trụ hình tướng. Hương Quang nghiêm thân , ảnh hiện 10 phương, 
		tâm tưởng như mộng, tiếng Phạn như tiếng vang dội lại trong hang núi. 
		Đồng tác Khế, xướng)
		_ Nam 
		mô thập phương Phật
		Nam mô 
		thập phương Pháp
		Nam mô 
		thập phương Tăng
		Nam mô 
		Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Phật
		Nam mô 
		Tất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Đà La Ni
		Nam mô 
		Bản TÔn Chuẩn Đề Bồ Tát
		Nam mô 
		Quán Tự Tại Bồ Tát
		Nam mô 
		Kim Cương Thủ Bồ Tát
		Nam mô 
		Đại Luân Minh Vương Bồ Tát
		( Hoặc 
		xưng 3 lần, hoặc xưng 7 lần. Rồi quay về trước Tượng Phật )
		_ Tự 
		Quy Y Phật nên nguyện chúng sinh : Giải thoát Đạo lớn, phát Tâm vô 
		thượng
		_ Từ 
		Quy Y Pháp nên nguyện chúng sinh : Vào sâu Kinh Tạng, Trí Tuệ như biển
		_ Tụ 
		Quy Y Tăng nên nguyện chúng sinh: Hợp Lý đại chúng, tất cả không ngại
		Hòa 
		cùng Thánh Chúng 
		 
		10 ) 
		Vào Tam Ma Địa :
		Hành 
		Giả Lễ Sám xong nên ra khỏi Đạo Trường, chọn ở một nơi, thân đã có dây 
		cột giường ngồi, vào Tam Ma Địa .
		Niệm 
		Tụng Nghi ghi là :” Thẳng thân nhắm mắt, lắng tâm tĩnh lự , nơi ức ngực 
		hiện rõ Viên Minh ( Vòng sáng tròn trịa ) như tướng trăng đầy. Ở chính 
		giữa Viên Minh , bày chữ ÁN . 8 chữ còn lại bày xoay vòng theo bên phải. 
		Ở trong Định, chẳng tán động liền tương ứng với Bát Nhã Ba La Mật” 
		Liền vẽ 
		một tướng Viên Minh . Tùy mà suy nghĩ Nghĩa Tướng, Chủng Tính của Mẫu 
		Tự.
		Chữ ÁN 
		(             _ OMÏ ) Nghĩa là : Tất cả Pháp vốn chẳng sinh. 
		Cũng có nghĩa là 3 Thân. Lại có nghĩa là Lưu Chú 
		chẳng sinh diệt. Cũng có nghĩa là Tối Thắng 
		Chữ 
		CHIẾT (            _ CA ) nghĩa là Vô Hành ( không có đi 
		lại lưu chuyển ). Lại có nghĩa là Tất cả Pháp chẳng sinh chẳng 
		diệt
		Chữ LỆ 
		(            _ LE ) nghĩa là Vô Tướng ( không có tướng )
		Chữ CHỦ 
		(            _ CU ) nghĩa là Vô Khởi Trụ ( Không có Khởi 
		Trụ )
		Chữ LỆ 
		(            _ LE ) nghĩa là Vô Cấu ( không có dơ bẩn )
		Chữ 
		CHUẨN (            _ CUMÏ ) nghĩa là Vô Đẳng Giác  ( Hiểu 
		rõ không có đẳng cấp ) 
		Chữ ĐỀ 
		(            _ DHE ) nghĩa là Vô Thủ Xả ( không có giữ bỏ 
		)
		Chữ 
		SA-BÀ (            _ SVÀ ) nghĩa là Bình Đẳng Vô Ngôn Thuyết ( 
		Bình đẳng không có nói năng )
		Chữ HA 
		(            _ HÀ ) nghĩa là Vô Nhân Tịch Tĩnh Vô Trụ Niết Bàn
		Tướng 
		của Viên Minh này , 9 chữ Phạn này cùng với 10 Thừa của các nhà hiện nay 
		đều không có sai khác. Nói 10 Thừa là :
		1 ) 
		Quán cảnh Bất Tư Nghị
		2 ) 
		Chân chính phát Tâm Bồ Đề
		3 ) 
		Khéo léo an Tâm Chỉ Quán
		4 ) Phá 
		Pháp nghiệng lệch
		5 ) 
		Biết thông bít ( Thức thông tắc )
		6 ) 
		Điều Thích Đạo Phẩm ( Điều chỉnh cho thích hợp Đạo Phẩm )
		7 ) Đối 
		trị trợ giúp khai mở
		8 ) 
		Biết vị thứ
		9 ) Hay 
		an nhẫn
		10 ) 
		Lìa Pháp Aùi 
		Nay 
		liền dịch Ý ấy. 9 Chữ của Chân Ngôn tức y theo quán Cảnh Bất Khả Tư 
		Nghị. Nhóm phát Tâm Bồ Đề là 9 Pháp Thừa. Dùng tướng Viên Minh ban đầu 
		là Lý Cảnh . Viên Minh cắt đứt sự chờ đợi, vốn chẳng sinh diệt, 
		không có hành, không có tướng, không có khởi, không có dơ, không có đẳng 
		cấp, không có giữ, không có nói, không có trụ. Xong noi theo chân lý của 
		9 chữ ấy để cùng tiến. 
		Do 
		vốn chẳng sinh tức được không có hành, dùng đến noi theo 
		không có lời nói, tức được Nhân Quả cùng quên ( Song vong nhân quả ) 
		, tương ứng Bát Nhã , dùng Vô Sở Đắc ( Không có chỗ đắc ) mà làm 
		phương tiện vào Thắng Nghĩa Thật , ắt chứng Chân Như, không cắt không 
		nối, xoay tròn không có đầu mối. Đây là Sơ Tuyền Đà La Ni Môn.
		Tướng 
		Viên Minh như Thể của bánh xe, phương tiện như đủ độ. Nếu hay tu hành 
		như vậy thì Định Tuệ hiện tiền, chứng Địa Ba La Mật, mau đến Vô Thượng 
		Chính Đẳng Bồ Đề. Cho nên biết Tướng Viên Minh cùng với 9 chữ Phạn , 10 
		Thừa trợ ý cho nhau vậy.
		_ Lại 
		nữa Pháp này. Trước tiên Hành Giả tự thệ Tâm Bồ Đề, nơi 4 uy nghi phát 4 
		Hoằng Thệ trang nghiêm 3 Thân  cho đến Đồ Đề Đạo Trường . Nếu chẳng y 
		theo Thật Lý thì há có thể lìa cột buộc mà thoát được sao ? !... 
		Y theo Lý với Thệ được gọi là Chân Chính. Thoạt đầu là 
		quán Cảnh Bất Khả Tư Nghị tức là gốc Bồ Đề, 8 chữ sau là Thành 
		Pháp Bồ Đề . Cho nên dùng chữ ÁN (            _ OMÏ ) bày ở chính 
		giữa, còn lại 8 chữ  được an bày xoay theo bên phải vòng quanh Luân 
		Duyên. Nên biết Kinh này thì biết rõ ngay Hạnh Bồ Đề.
		Lại nữa 
		Đạo Chân Ngôn này. Bộ tại Mật Viên ( Tròn kín ) , 10 Pháp thành Thừa. 
		Dạy thì có Hiển Viên, Hiển Mật  Viên Tu nên vẫn có 2 loại là Hữu Tướng 
		và Vô Tướng.
		Hữu 
		Tướng hiển Pháp Môn Thân mà lúc trước đã lược bày rõ  
		Vô 
		Tướng quán Thật Tướng Thân . Tướng Viên Minh ban đầu là Cảnh 
		Bất Tư Nghị  chỉ là được một niệm tỏ rõ hiện Viên Minh. Tuy đủ 10 giới, 
		100 giới, 1000 giới… nhưng vẫn như Vốn chẳng sinh , cũng chẳng 
		phải là Nhân Quả, Pháp Giới Nhất Như , Bìng Đẳng Như Như , dứt đường 
		ngôn ngữ, diệt nơi Tâm Hành cho nên bí mật diễn bày Thị với 
		Hiển  đều chẳng thể dùng Thức ( Vijnõàna ) để biết thì làm sao lại 
		có thể dùng lời để nói được ! … Đây là Bất Tư Nghị Viên Minh Tướng
		vậy 
		_ Chữ 
		ÁN (            _ OMÏ ) là Phát Tâm Bồ Đề . Đã hiểu sâu Viên Minh là 
		cảnh Bất Tư Nghị. Lại nghĩ tất cả chúng sinh , niệm niệm đều như thế. 
		Biết một Khổ , tất cả Khổ mà tự thương Khổ lúc xưa, thương người khác 
		cũng vậy. Liền khởi Đại Bi và 2 Thệ Nguyện.Vì tất cả Pháp vốn chẳng sinh 
		cho nên độ chúng sinh của Vốn chẳng sinh mà Lưu Chú chẳng sinh 
		diệt. Vì cắt đứt Phiền Não của Chẳng sinh chẳng diệt cho nên biết 
		một vui, tất cả vui, Ta với chúng sinh xưa kia tuy cầu vui mà chẳng biết 
		Nhân của vui. Nay mới giải được nên khởi Đại Bi và 2 Thệ Nguyện, học 
		Pháp Môn tối thắng vô thượng , thành 3 Thân , vô lượng Phật Đạo.
		Như thệ 
		nguyện Từ Bi này cùng với Viên Minh bên trên vốn chẳng trước chẳng sau, 
		đồng thời cùng khởi nên nói chữ ÁN bày ở chính giữa là tất cả Pháp 
		lưu chú vốn chẳng sinh và là nghĩa 3 Thân tối Thắng vậy.
		_ Chữ  
		CHIẾT (            _ CA ) là khéo an Chỉ Quán . Bên trên đạt sâu cảnh 
		Trí Viên Minh, chuyển vận Từ Bi rộng lớn. Nay hành hành Chân Nguyện  
		Hành
		tức Chỉ Quán , nên dùng Chỉ Quán không hai ( Bất Nhị Chỉ Quán ) an ở 
		Pháp Tính khiến cho lặng lẽ ( Tịch Nhiên ) chẳng hai thì Hành đó 
		tức là nghĩa Vô Hành (Không có hành ) . 
		Lại 
		dùng Pháp Tịch Chỉ ( Lặng dừng ) an tâm thì các Pháp sinh diệt , nay là
		Thật của Thể . Sinh là Pháp Tính sinh, Diệt là Pháp Tính diệt , 
		thường là Pháp Tính,  không có gì không là Pháp Tính . Tức là nghĩa 
		Tất cả Pháp chẳng sinh chẳng diệt
		_
		Chữ LỆ (            _ LE ) là phá nghiêng lệch. Lý nếu chưa 
		hiển . Do 3 Hoặc ngăn che . Thường quán Hoặc này vốn trống 
		rỗng ( ‘Sùnya _ Không ) , quán Trí cũng đứt là nghĩa Vô Tướng 
		
		_ Chữ 
		CHỦ (            _ CU ) là biết thông bít . Nếu dính vào Năng Quán này 
		thì ở Thông khởi bít . Biết Thông Tắc ( Thông bít ) 
		này tức là nghĩa Vô khởi trụ 
		_ Chữ 
		LỆ (            _ LE ) là Đạo Phẩm. Quán tuy không có tướng nhưng chứng 
		do Đạo Phẩm. Phẩm chưa điều chỉnh cho thích hợp thì chưa lìa nhiễm cấu. 
		Phẩm tiếp đến Tướng Sinh là nghĩa Vô Cấu  ( không dơ bẩn )
		_ Chữ 
		CHUẨN (            _ CUMÏ ) là Đối Trị Trợ Khai. Che bỏ Lý Cảm 
		chẳng hiển Chân Như , sự độ trợ giúp mở cho thấy bờ Diệu 
		Giác là nghĩa Vô đẳng giác
		_ Chữ 
		ĐỀ (            _DHE ) là biết vị thứ . Làm ngưng Tâm thô ấy là đến chỗ 
		thâm sâu. Nếu biết Viên Vị thì miễn trừ Tăng Thượng Mạn , chẳng 
		lìa cảnh Thánh là nghĩa Vô Thủ Xả ( Không giữ bỏ )
		_ Chữ 
		SA-BÀ (            _ SVÀ ) là hay an nhẫn, gọi là lợi Quyến Thuộc lìa 3 
		Thuật. Nơi cảnh thuận nghịch vẫn an nhiên bất động là nghĩa Bình đẳng 
		vô ngôn thuyết
		_ Chữ 
		HA (            _ HÀ ) là lìa Pháp Aùi. Hành 9 việc bên trên vượt Chướng 
		trong ngoài. Nếu khởi Pháp Aùi thì dính Tịnh tựa Nhân , 
		không trụ hơi thở. Nếu lìa Aùi này thì phát Chân Trung Đạo , tự 
		nhiên tuôn chảy vào biển Tát Bà Nhã ( Sarva Jnõa _ Nhất Thiết Trí ) . 
		Đây là nghĩa Vô nhân tịch tịnh vô trụ Niết Bàn 
		Thượng 
		Căn : Quán cảnh liền vào Sơ Trụ hoặc Nội Ngoại Phàm
		Trung 
		Căn : Từ 2 đến 7
		Hạ Căn 
		: Tận dụng toàn Tính khởi tu.
		Toàn Tu 
		tại Tính, nối tiếp chỉ có một Thật cho nên gọi là Chân Thật Tướng.
		Đây là Vô Tướng Hành, bên trên là Hữu Tướng Hành . 
		Cùng tu mà tiến.
		Nếu 
		hành lập Tụng Trì hoặc ngồi xuống suy tư , quán cảnh Bất Tư Nghị mà chưa 
		từng thề xa lìa. Đây gọi là Y Giáo tu hành. Cho nên trước lập Pháp 
		Môn Bố Tự . Nay bày Thật Tướng của 10 Thừa. Tướng của 10 Thừa này 
		tức là nơi an bày Pháp. Đã khiến y Giáo Tu Hành tức là Danh Tự Tu 
		Tướng , chuyên chú quán Hạnh thành tất cả Tất Địa. Tức  Quán Hạnh Tu 
		Tướng  dùng phương tiện Tuệ vào Thắng Nghĩa Thật. Tức Tướng tựa Tu 
		Tướng, Định Tuệ hiện tiền, chứng Địa Ba La Mật cho đến Vô Thượng Bồ Đề , 
		tức phần mãn chứng Tướng.
		Lại nữa 
		Hành Giả chưa thể tu 2 Pháp trên thì nên tin sâu, cắt đứt các Tâm nghi, 
		tụng Đà La Ni này, số 10 vạn biến. Trước tiên thấy Tướng thanh tĩnh diệt 
		mọi loại tội. Như vậy đã tiến kịp 2 Pháp này. Tự nhiên nhậm vận lưu nhập 
		mà không có trở ngại. Cho nên biết Sơ Tâm tu hành, nhập Môn có nhiều 
		loại nhưng lúc Diệu Ngộ thời Lý Ứng Lưỡng Xả 
		 
		V _ 
		TRÌ MINH NGHIỆM TƯỚNG :
		Tướng 
		Trì Nghiệm có hai loại. Một là Tiên Hành , hai là Y Pháp tụng 
		trì 
		Trước 
		tiên Hành Giả chẳng qua chỉ là hay dùng miệng tụng mà chưa khởi Quán 
		Giải. Xong có thể mãn 10 vạn biến liền được mộng thấy các Phật Hiền 
		Thánh, miệng nôn ra vật màu đen.Nếu có Nghiệp Tội 10 ác thì chẳng được 
		thấy. Liền tụng 10 vạn tức trong cảnh mộng được thấy Thiên Đường, Chùa… 
		Hoặc cùng Thiên Nữ vui vẻ. Hoặc lên núi, vượt biển. Hoặc bay trên hư 
		không, tắm gội trong ao. Hoặc ăn Lạc Phạn. Hoặc uống Cam Lộ. Hoặc ngồi 
		trên tòa nói Pháp. Hoặc ngồi trên thuyền dạo chơi. Hoặc thấy Sa Môn, Cư 
		Sĩ. Hoặc thấy mặt trời, mặt trăng, nam, nữ. Hoặc đánh thắng Hắc Phu ( 
		người đàn ông da đen ) . Hoặc sợ hãi đuổi bò, ngựa… Liền biết là tướng 
		thanh tịnh diệt mọi loại tội.
		Giả sử 
		có tội 5 Nghịch, Chướng cực nặng mà chưa thể nhìn thấy tướng Cát Tường. 
		Liền gia thêm 70 vạn biến ắt quyết định được thấy tướng mạo như trước. 
		Đây mãn 90 vạn biến liền được thấy Tướng.
		Căn cứ 
		vào kẻ có tội 10 Aùc, 5 Nghịch mà Pháp Hoa Tam Muội ghi là: ” Nếu 
		được mọi loại mộng tốt linh dị là Hạ Phẩm Giới Căn Tĩnh Tướng vậy”
		Tiếp y 
		Pháp tụng trì , có 2 loại: Một là Duyên Thanh Bố Tự Trì , hai là
		Nhập Tam Ma Địa Trì . Đây là 2 Nguyện cầu về Tất Địa Thế Gian và 
		Xuất Thế Gian, không có gì không thành tựu.
		1 ) 
		Duyên Thanh Bố Tự Trì : 
		Hành 
		Giả dùng 9 chữ của Đà La Ni an bày trên thân xong , liền thành. Dùng Như 
		Lai Aán, Thân Sở Gia Trì  của 8 Đại Bồ Tát . Thân ấy tức là Chuẩn Đề 
		Phật Mẫu, Kim Cương Bất Hoại, diệt trừ tất cả Nghiệp Chướng, gom chứa vô 
		lượng Phước Đức. Cho nên tụng mãn 30 vạn biến liền được Kim Cương Thủ Bồ 
		Tát dẫn vào cung của Ngài.
		Tụng 
		mãn 60 vạn biến thì được thấy Quán Tự Tại Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát, 
		Đa La Bồ Tát… Tùy Tâm mãn nguyện
		Nếu mãn 
		100 vạn biến thì chư Phật Bồ Tát vì mình mà nói Pháp, thường được tùy 
		tòng. Cũng được đi đến 10 phương Tĩnh Thổ phụng sự chư Phật, gần gũi 
		nghe Diệu Pháp.
		Lại 
		tụng một Câu Chi biến thì chẳng chuyển nhục thân đi đến cung Đau Suất 
		theo Di Lặc Bồ Tát , lắng nghe Chính Pháp, được Bất Thoái Chuyển. Hoặc 
		được Vô Năng Thắng Bồ Tát nguyện vì mình nói Pháp. Ha Lợi Để Mẫu trao 
		cho nhóm Pháp vui. 
		Đấy đều 
		là Hành Lập Tụng Trì chẳng vào Tam Muội. Bất quá chỉ là Y Pháp Bố 
		Tự Duyên Thanh Tụng Trì. Cho nên Pháp Hoa An Lạc Hạnh chẳng vào 
		Tam Muội, chẳng qua là Hành Lập Tụng Trì cũng được thấy sắc tượng thượng 
		diệu của Phổ Hiền.
		 
		2 ) 
		Nhập Tam Ma Địa Trì :
		Chuyên 
		chú Quán Hạnh vào Tam Ma Địa. Ngay thẳng thân, nhắm mắt, lắng tâm, tịnh 
		ý. Nên ở ức ngực hiện rõ Viên Minh giống như trăng đầy. Ở trong Viên 
		Minh , suy tư Chủng Tính 9 chữ của nhóm chữ ÁN, vào Tuyền Chuyển Đà 
		La Ni Môn  ắt sẽ được thấy Tâm trong sạch của cội nguồn ( Bản Nguyên 
		thanh tĩnh Tâm ) cùng tương ứng với Bát Nhã Ba La Mật, Định Tuệ hiện 
		tiền, chứng nhập 10 Địa.
		Pháp 
		Hoa Tam Muội ghi là :” Hành Giả ở hành tọa, trong lúc niệm tụng, thân 
		tâm lặng lẽ giống như hư không, vào các Tịch Định. Ở trong Chính Tuệ, 
		diện kiến Phổ Hiền Bồ Tát cỡi voi trắng 6 ngà cùng với vô lượng Bồ Tát 
		tự vây quanh. Dùng nơi vui nhìn của tất cả chúng sinh mà hiện trước mặt 
		người ấy. Vì thấy Phổ Hiền Bồ Tát cho nên liền được Tam Muội với Đà La 
		Ni Tam Muội”
		Tam 
		Muội là Định. Đà La Ni là Tuệ. Tức là Định Tuệ nhị căn tĩnh tướng vậy. 
		Cần nên tham khảo thêm 3 Phẩm Tất Địa trong Kinh Tô Tất Địa.
		 
		
		CHUẨN ĐỀ TAM MUỘI HÀNH PHÁP 
		
		( Hết )
		
		                                                                                    
		18/07/2004
		 
		 
		 
		 
		  
		 
		 
		 
		 
		 
		 
		 
		 
		
		VẠN TỰ TỤC TẠNG KINH_ No.1482 ( Tr.559 _ 
		Tr.563 )
		
		 
		
		ĐẠI CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT PHẦN TU TẤT ĐỊA
		
		SÁM HỐI HUYỀN VĂN
		
		 
		
		Việt dịch : HUYỀN THANH      
		
		 
		
		Tịnh khẩu Chân Ngôn:
		
		Aùn_ Tu lị, tu lị, ma ha tu lị, tu tu lị, 
		sa bà ha
		
		OMÏ  TURE  TURE  MAHÀ  TURE  TUTTURE  
		SVÀHÀ 
		
		Tịnh Thân Chân Ngôn:
		
		Aùn _ đa lị, đa lị, đốt đa lị, đốt đốt đa 
		lị, sa bà ha
		
		OMÏ  TÀRE  TÀRE  TUTTÀRE  TUTTUTTÀRE  
		SVÀHÀ 
		
		Tịnh Thủ ( Bàn tay ) Chân Ngôn:
		
		Aùn _ Trụ khư la dã, sa bà ha
		
		OMÏ  SUKARÀYA  SVÀHÀ 
		
		( Các phần trên đều niệm 3 biến )
		
		Vào Đàn ba lễ ( Trước tiên đủ số, quỳ 
		gối, thắp hương, đứng dậy bưng lò, tưởng là )
		
		Chí Tâm tín lễ Chuẩn Đề Đại Bồ Tát trụ 
		Diệu Nguyệt Luân Tam Ma Địa, mặt tròn như trăng đầy, thần phần có 18 
		cánh tay, hiện Từ Bi, ngồi đài sen, cầm vật báu, thể đeo châu Anh Lạc, 
		lồng ngực đề chữ Vạn (          ) có 8 vị Đại Bồ Tát vây quanh hộ vệ, mở 
		môn Đại Tổng Trì , đều tế độ các Duyên, Nguyện cùng quy về Diệu Chân
		như lối nẻo của Chính Giác
		
		(Tưởng xong, quỳ dài, tác Phạn Xướng là )
		
		Đại Từ Đại Bi thương chúng sinh
		
		Đại Hỷ Đại Xả cứu Hàm Thức
		
		Tướng tốt, ánh sáng tự trang nghiêm
		
		Chúng Đẳng chí Tâm quy mệnh lễ
		
		( Nhất Tâm phụng thỉnh )
		
		Nam mô thường trụ thập phương Phật
		
		Nam mô thường trụ thập phương Pháp
		
		Nam mô thường trụ thập phương Tăng
		
		( Mỗi lần đứng, quỳ dài, đốt hương, 3 lần 
		thỉnh một lần cúi đầu . Phía dưới mô phỏng theo điều này )
		
		Nam mô Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Cửu 
		Giới Bồ Tát
		
		Nam Mô Vô Tướng Pháp Giới Bồ Tát
		
		Nam mô Phật Đỉnh Đại Luân Bồ Tát
		
		Nam mô Bất Động Tôn Vương Bồ Tát
		
		Nam mô Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát
		
		Nam mô Bất Không Quyến Sách Bồ Tát
		
		Nam mô Kim Cương Thủ Bồ Tát
		
		Nam mô Y Ca Nhạ Tra Bồ Tát
		
		Nam mô Phộc La Nẵng Khế Bồ Tát
		
		Nam mô Hý, Mạn, Ca, Vũ Bồ Tát
		
		Nam mô Hương, Hoa, Đăng,Đồ Bồ Tát
		
		Nam mô Câu, Sách, Tỏa, Linh Bồ Tát
		
		Nam mô Ô Xu Sắt Ma Bồ Tát
		
		Nam mô Thánh Giáng Tam Thế Bồ Tát
		
		Nam mô Chuẩn Đề Hội Thượng Chư Tôn Bồ Tát 
		Ma Ha Tát
		
		_ Nam mô Tổ Sư Long Thọ Bồ Tát
		
		Nam mô Bắc Thần Diệu Kiến Bồ Tát
		
		Nam mô Nội Bộ Đại Uy Đỗ Tướng Chủ Bồ Tát
		
		Nam mô Thánh Tôn Na Lý Tướng Chủ Bồ Tát
		
		Nam mô Đỉnh Hạnh Tướng Chủ Bồ Tát
		
		Nam mô Thánh Quân Tra Lị Tướng Chủ Bồ Tát
		
		Nam mô Căng Yết La Tướng Chủ Bồ Tát
		
		Nam mô Thánh Chế Sất Ca Tướng Chủ Bồ Tát
		
		Nam mô A Lê Trí Mẫu Tướng Chủ Bồ Tát
		
		Nam mô Càn Đạt Bà Vương Tướng Chủ Bồ Tát
		
		Nam mô Quán Đỉnh Bộ Chủ Bồ Tát
		
		Nam mô Uế Tích Kim Cương Bồ Tát
		
		Nam mô Minh Xà Sứ Giả Bồ Tát
		
		Nam mô Hộ Pháp Chư Thiên, nhất thiết 
		Thánh Chúng
		
		( Thỉnh xong, thưa bạch rằng )
		
		Đệ Tử ( Họ Tên…. ) trì tụng Thất Câu 
		Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Đại Chuẩn Đề Đà La Ni mong cầu Tất Địa. 
		Nguyện xin mười phương Tam Bảo,các Đại Bồ Tát, vô lượng Thánh Chúng gia 
		trì hộ niệm khiến cho tùy ý viên mãn Tất Địa mong cầu
		
		( Thưa bạch xong, tán rằng )
		
		Thân Phật tràn đầy nơi Pháp Giới
		
		Hiện ngay trước mặt các Quần Sinh
		
		Tùy Duyên phó cảm, theo chẳng trọn
		
		Mà thường ở tòa Bồ Tát này
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Thập Thất Câu Chi Chính Đẳng Giác
		
		( Một bái, phần sau giống như vậy )
		
		 
		
		Khuôn mặt Bồ Tát như trăng đầy
		
		Sắc tướng trắng vàng rất đoan nghiêm
		
		Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
		
		Nguyện thấy Tôn nhan thường cúng dường
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Trên mặt Bồ Tát có ba mắt 
		
		Như bốn biển lớn thật lặng trong
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện được năm loại mắt thanh tịnh
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Tai Bồ Tát đeo báu trang sức
		
		Mọi thứ thù thắng rất trang nghiêm
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện được Nhĩ Thông , nghe Diệu Pháp
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Lồng ngực Bồ Tát hiện chữ Vạn
		
		Như trăng tròn diệu hiển quang minh
		
		Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
		
		Nguyện được Tâm Thông, nghe liễu ngộ
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Bồ Tát đội mão hoa trên đỉnh
		
		Trong mão hóa hiện năm Như Lai
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện được Từ Tôn ban quán đỉnh
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Bồ Tát khoác áo màu trắng tinh
		
		Sáu Thù đeo thể thật trang nghiêm
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện được quần áo khéo giải thoát
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Thân Bồ Tát đeo Châu Anh Lạc
		
		Tay, ngón đeo vòng báu trang nghiêm
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện đủ băm hai ( 32 ) tướng Như Lai
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Bồ Tát  ngồi thẳng trên hoa sen
		
		Lớn cao chẳng động tựa núi vàng
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện sau sẽ ngồi tòa Bồ Đề
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Mọi chi phần trên thân Bồ Tát
		
		Thường phóng vô lượng ánh sáng lớn
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện được Từ Quang đến hộ niệm
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Tay Bồ Tát kết Ấn Thuyết Pháp
		
		Biểu thị khéo nói tất cả Pháp
		
		Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
		
		Nguyện được các Pháp đều thông đạt
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm Phướng báu diệu
		
		Biểu thị Thế Gian là Tối Thắng
		
		Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
		
		Nguyện con hay dựng Phướng Đại Pháp
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Bồ Tát kết Ấn Thí Vô Úy
		
		Dìu dắt chúng sinh bị hiểm nạn
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con mau lìa sự đáng sợ
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm hoa sen diệu
		
		Biểu thị sáu căn thường thanh tịnh
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con lìa dơ ( ly cấu ) như hoa sen
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm kiếm Trí Tuệ
		
		Hay chặt trói buộc của phiền não
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con chặt đứt Tham, Sân, Si
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Tay bồ Tát cầm bình Táo Quán ( rưới vảy )
		
		Tuôn nước Cam Lộ thấm chúng sinh
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con thường được Phật quán đỉnh
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Bồ Tát cầm tràng hoa màu nhiệm
		
		Mọi thứ trang điểm thật thù thắng
		
		Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
		
		Nguyện con được buộc lụa Diệu Pháp
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Bồ Tát cầm sợi dây Kim Cương
		
		Khéo hay dẫn nhập vào tất cả
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con được vào Pháp tương ứng
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm quả Thiên Diệu
		
		Biểu thị viên thành quả Bồ Đề
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con rộng tu các quả lành
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Bồ Tát cầm bánh xe tám căm
		
		Uy quang chiếu diệu khắp Tam Giới ( 3 cõi 
		)
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con thường chuyển Đại Pháp Luân
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm cây búa lớn
		
		Hay phá Pháp Bất Thiện bền chắc
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con đập nát núi Nhân Ngã ( Người 
		và Ta )
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm Loa Đại Pháp
		
		Âm thanh chấn động ba ngàn cõi
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con hay nói tất cả Pháp
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Bồ Tát cầm móc câu Kim Cương
		
		Khéo hay câu triệu khắp tất cả
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con thành tựu Pháp Câu Triệu
		
		Chí Tâm Đỉnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm Bình Như Ý
		
		Tuôn ra Tạng báu với Kinh Điển
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con thọ dụng thường như ý
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm chày Kim Cương
		
		Tám Bộ Trời Rồng đều quy ngưỡng
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con điều phục kẻ khó phục
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Tay Bồ Tát cầm Kinh Bát Nhã
		
		Hàm chứa nghĩa vi diệu thâm sâu
		
		Nay con đỉnh lễ, thệ quy y
		
		Nguyện con không Thầy tự nhiên ngộ
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại  Bi Bản 
		Tôn Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Bồ Tát cầm viên ngọc Ma Ni
		
		Hào quang tròn trắng không tỳ vết
		
		Nay con đỉnh lễ , thệ quy y
		
		Nguyện Tâm Địa con luôn lanh lợi
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại  Từ Đại Bi Bản 
		Tôn Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		 
		
		Phật Mẫu Tôn Na Đại Bồ Tát
		
		Hiện mười tám tay ngồi trên Đàn
		
		Tám Đại Bồ Tát hộ tám phương
		
		Đệ Tử một lòng quy mệnh lễ
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thất Câu Chi Phật Mẫu Tôn Na Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		( Các Vị bên trên tùy theo Kệ giải Tướng 
		, Lễ, Thời. Tác Quán chỉ giữ lấy Bản Tôn đầy đủ tướng tốt, 177 Câu Chi 
		số Phật đồng thời biểu hiện nhận sự kính lễ của ta. Phàm Bản Tôn thì nên 
		quán một thân 18 cánh tay, có 8 vị Đại Bồ Tát vây quanh 8 phương. Còn 
		lại tùy Kệ tác quán, quan trọng là bàn tay cầm vật gì )
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Giáo 
		Chủ Vô Tướng Pháp Giới Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		( Trước tiên xướng Kệ , sau đó đỉnh lễ. 
		Còn lại mô phỏnh theo điều này )
		
		Vô Tướng Pháp Giới Đại Bồ Tát
		
		Ba mươi hai tướng trang nghiêm khắp
		
		Thân phần trần sát hóa chúng sinh
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Phật Đỉnh Đại Luân Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Phật Đỉnh Đại Luân Đại Bồ Tát
		
		Ba đầu sáu tay hiện uy thần
		
		Nghiêm trì khí trượng phục ( Giáng phục ) 
		Tà Ma
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Bất Động Tôn Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Bất Động Tôn Vương Đại Bồ Tát
		
		Tỳ Lô Giá Na Phật hóa thân
		
		Tay cầm kiếm, dây hộ Luân Đàn
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
		
		 
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Thánh Quán Tự Tại Đại Bồ Tát
		
		Liên Hoa Bộ Chủ Tối Thắng Vương
		
		Tầm Thanh Cứu Khổ Đại Từ Bi
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bãn Tôn 
		Giáo Chủ Bất Không Quyến Sách Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Bất Không Quyến Sách Đại Bồ Tát 
		
		
		Tỵ Hư Hỏa Diễm Đỉnh Long Vương
		
		Hóa Thân của Bồ Tát Quán Aâm
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thánh Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Thánh Kim Cương Thủ Đại Bồ Tát
		
		Đại Lực Phẫn Nộ Trì Minh Vương
		
		Khéo hay điều phục các Ma ác
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Y Ca Nhạ Tra Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Y Ca Nhạ Tra Đại Bồ Tát
		
		Thân lớn màu xanh, áo da voi
		
		Chẳng ngược Bản Thệ hộ Chuẩn Đề
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Phộc La Nẵng Khế Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Phộc La Nẵng Khế Đại Bồ Tát
		
		Hiện uy lực lớn khiển ( Sai khiến ) Long 
		Thần
		
		Lại hay trừ độc cứu chúng sinh
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Hý Mạn Ca Vũ Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Hý Mạn Ca Vũ Đại Bồ Tát
		
		Hành Cương Bộ Đẩu ( Các sao Thiên Cương 
		Bắc Đẩu ) trấn chín châu
		
		Trừ sạch nghiệp ác, đuổi Tà Ma
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Hương Hoa Đăng Đồ Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Hương Hoa Đăng Đồ Đại Bồ Tát
		
		Thơm lừng chiếu diệu khắp bốn phương
		
		Các Tà nghe thấy đều khép nép
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Câu Sách Tỏa Linh Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Câu Sách Tỏa Linh Đại Bồ Tát
		
		Tay cầm Pháp Khí trấn Bắc phương
		
		Quần Ma, Quỷ ác đều ẩn nấp
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Cam Lộ Quân Tra Lị Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Cam Lộ Quân Tra Lị Đại Bồ Tát
		
		Gia trì nước Pháp, tĩnh Đàn Trường
		
		Tịch trừ  Ma Chướng hộ Hành Nhân
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ 
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Ô Xu Sắt Ma Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Ô Xu Sắt Ma Đại Bồ Tát
		
		Tiêu trừ uế ác, tịch Quần Ma
		
		Chốn Tịnh, Bất Tịnh đều hiện thân
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ 
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thánh Giáng Tam Thế Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Thánh Giáng Tam Thế Đại Bồ Tát
		
		Đại Lực Phẫn Nộ Trì Minh Vương
		
		Khéo hay giáng phục các Ma ác
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ 
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại  Bi Ngã 
		Đẳng Tổ Sư Long Thọ Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Tổ Sư Long Thọ Đại Bồ Tát
		
		Mở Tạng Trì Minh độ chúng sinh
		
		Được nghe Diệu Pháp, cảm ân Tổ
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ 
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Hộ Pháp 
		Bắc Thần Diệu Kiến Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Bắc Thần Diệu Kiến Đại Bồ Tát
		
		Thân hiện năm Trụ Kim Cương Thần
		
		Tay cầm kiếm báu phục Yêu Ma
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ 
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Nội Bộ 
		Đại Uy Đổ Tướng Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát 
		
		Đại Uy Tướng Chủ Đỗ Bồ Tát
		
		Nội Đàn Giáo Chủ hộ Chuẩn Đề
		
		Bay nhảy ( Phi đằng ) chín Địa hiển Thần 
		Thông
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ 
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Nội Bộ 
		Tướng Chủ Thánh Tôn Na Lý Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Thánh Tôn Na Lý Đại Bồ Tát
		
		Ba đầu sáu tay hiện ánh vàng
		
		Từ Bi cứu khắp Đại Càn Khôn
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ 
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Đỉnh 
		Hạnh Tướng Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Đỉnh Hạnh Tướng Chủ Đại Bồ Tát
		
		Thống lãnh Chư Chân hộ Chuẩn Đề
		
		Tay cầm gậy báu phục Yêu Ma
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ 
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Bản Tôn 
		Giáo Chủ Thánh Quân Tra Lị Tướng Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Thánh Quân Tra Lị Đại Bồ Tát
		
		Ngoại Đàn Hộ Pháp trải uy linh
		
		Tay cầm cây Kích trấn Đàn Trường
		
		Đệ tữ một lòng quy mệnh lễ 
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Thánh 
		Căng Yết La Bồ Tát Ma Ha Tát 
		
		Thánh Căng Yết La Đại Bồ Tát
		
		Tay cầm Quả Báu độ chúng sinh
		
		Tầm Thanh Tiếp Dẫn Đại Từ Bi
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ 
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Thánh 
		Chế Sất Ca Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Thánh Chế Sất Ca Đại Bồ Tát
		
		Phẫn Nộ Diệu Tướng chấn tám phương
		
		Lòng son ( Xích Tâm ) rực lửa trăm Tà sợ
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ 
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi A Lê 
		Trí Mẫu Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		A Lê Trí Mẫu Đại Bồ Tát
		
		Năm trăm Thần Linh Thuộc ( giòng tộc Thần 
		Linh ) giáng sinh
		
		Aùi Tử Chân Đồng tùy thân Thánh
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ 
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Quán 
		Đỉnh Bộ Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Quán Đỉnh Bộ Chủ Đại Bồ Tát
		
		Rộng ban Cam Lộ thấm chúng sinh
		
		Mười phương Thiện Tín đều thấm sũng
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ 
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Uế Tích 
		Kim Cương Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Uế Tích Kim Cương Đại Bồ Tát
		
		Dọc ngang biến hóa phục Tà Ma
		
		Đất nước gió lửa đều hiện hình
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ 
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Minh Xà 
		Sứ Giả Bồ Tát Ma Ha Tát
		
		Minh Xà Sứ Giả Đại Bồ Tát
		
		Thiên Y ( Thuốc của cõi Trời ) Nội Viện 
		hiển uy linh
		
		Tiêu tai trừ độc cứu chúng sinh
		
		Đệ tử một lòng quy mệnh lễ 
		
		 
		
		Chí Tâm quy mệnh lễ Đại Từ Đại Bi Hộ Pháp 
		chư Thiên nhất thiết Thánh Chúng
		
		Hộ Pháp chư Thiên các Thánh Chúng
		
		Mười phương vây quanh hộ Luân Đàn
		
		Chẳng quên Tự Bộ, giỡn Aán Minh
		
		Giúp con xiển dương Pháp Chuẩn Đề 
		
		
		 
		
		Cúi lạy quy y Tô Tất Địa 
		
		Đầu mặt đỉnh lễ bảy Câu Chi
		
		Nay con xưng tán Đại Chuẩn Đề
		
		Nguyện xin Từ Bi thương gia hộ 
		
		
		Nẵng mô tát đá nẫm, tam miệu tam bồ đà, 
		câu chi nẫm. Đát điệt đà : Aùn, chiết lị chủ lị, chuẩn đề, sa phộc hạ
		
		
		( Hoặc 1 hoặc 3 hoặc 7 biến đồng ra khỏi 
		Đàn. Nếu tại Quán Đường thì trì 108 biến )
		
		NAMO  SAPTÀNÀMÏ  SAMYAKSAMÏBUDDHA  
		KOTÏINÀMÏ 
		
		TADYATHÀ : OMÏ  CALE  CULE  CUNÕDHE   
		SVÀHÀ 
		
		Nguyện Phật Từ Bi cầu sám hối
		
		Chí Tâm Sám Hối
		
		Đệ tử ( Họ Tên…… ) từ vô thủy đến nay 
		trải qua nhiều Đại Kiếp. Do mê lầm Vô Ngã Giác nên tính có Ta 
		Người. Thường duyên theo Ngã Sở , Căn, Trần tạo nhiễu. Thức Aám bôn ba 
		cột buộc lay động thân tâm giống như điện chuyển . Mắt, tai, mũi, lưỡi, 
		thân, ý thanh tịnh một niệm chẳng Giác . Trái lại gây tạo Lục Sư 
		, ăn trộm Pháp Vương Tài cộng với giặc Biên Kiến. Giặc đã 
		lớn mạnh ắt phá thành trì Niết Bàn, tán hại Pháp Thân , thiêu đốt 
		Tuệ Mệnh…Tội lỗi như vậy, số nhiều hơn cát bụi, từ mê đến mê , không suy 
		xét đầu cuối. 
		
		Nay bắt đầu Giác Ngộ, tự chặt khối lỗi 
		thâm sâu, ngày đêm sợ hãi, thân tâm run rẩy, vĩnh viễn cắt đứt : Mê 
		Giác, tham ái ,Ngã Nhân … hợp thành trì Niết Bàn, quy về nước An 
		Lạc. Dùng Vô Ngã Giác ( sự hiểu biết Vô Ngã ) giáng phục Lục Sư ( 
		6 luận thuyết Ngoại Đạo ) , lấy Pháp Vương Tài ( Tài sản của Pháp Vương 
		) , nạp 3 Kiên Tạng ( 3 Tạng bền chắc ) , nuôi dưỡng Tuệ Mệnh , tăng ích 
		Pháp Thân, thắp đèn Pháp Tính, thường chiếu vô tận. Hạnh Nguyện Sự Lý, 
		Trần Giới chẳng nghịch . Thề sẽ hoằng hộ 3 báu 3 Thừa. Tội của Mê Giác 
		tùy Sám tiêu trừ .
		
		Nguyện từ ngày nay cho đến Bồ Đề, niệm 
		niệm kiên cố, niệm niệm tinh tiến, thân tâm tự tại, biện thuyết vô ngại, 
		ở trong một niệm đủ Nhất Thiết Trí. Nên biết Rốt ráo Không Tịch  mà 
		thường độ thoát tất cả chúng sinh đồng chứng Niết Bàn. Chẳng dùng 
		Niết Bàn làm chỗ Chứng.
		
		ĐẠI LUÂN MINH VƯƠNG DIỆT TỘI CHÂN NGÔN:
		
		Nam mô tất địa lý dã địa vĩ ca nẫm, đát 
		đá nghiệt đá nẫm. Aùn, vi la chỉ, vi la chỉ, ma ha chước yết la, bạch 
		nhạ bạch tức lị, tát đỏa tát đỏa, sa la để, sa la để, đát la lị, đát la 
		lị, vĩ đá ma nĩnh, tam bát tả nĩnh, đát la ma ni tất đa, nghiệt lị dã, 
		đát lãm diễm, sa bà ha
		
		NAMAHÏ  STRYIDHVIKANÀMÏ  TATHÀGATÀNÀMÏ
		
		AMÏ _ VIRAJI  VIRAJI _ MAHÀ  CAKRA  VAJRI 
		_ SATA  SATA _ SARATE  SARATE _ TRAYI  TRAYI _ VIDHAMANI  SAMÏBHAMÏJANI  
		_ TRAMATI  SIDDHA _ AGRIYE  TRÀMÏ _ SVÀHÀ 
		
		Sám hối xong. Chí Tâm quy mệnh lễ Thường 
		Trụ Tam Bảo.
		
		 
		
		Chí Tâm phát nguyện
		
		Nguyện điều con tu hành
		
		Tất cả các Quả lành
		
		Lễ niệm quy lực Sám 
		
		Hồi thí các Hữu Tình
		
		Xa lì khổ ba cõi ( Tam Giới )
		
		Mau chứng nơi Niết Bàn
		
		Hồi hướng Ngã Sở Cầu ( sự mong cầu của 
		con )
		
		Trợ thành Thắng Tất Địa
		
		Phát nguyện, hồi hướng xong. Chí Tâm quy 
		mệnh Thường Trụ Tam Bảo  
		
		 
		
		Quy y các Như Lai ( 4 câu 1 bái )
		
		Năm Trí , mười Thân Phật
		
		Nguyện cùng các chúng sinh
		
		Đồng vào Kim Cương Giới
		
		 
		
		Quy y Tối Thượng Thừa
		
		Du Già Bí Mật Giáo
		
		Nguyện cùng các chúng sinh
		
		Đồng vào Kim Cương Giới
		
		 
		
		Quy y Bấy Thoái Chuyển
		
		Đại Bi Bồ Tát Tăng
		
		Nguyện cùng các chúng sinh
		
		Đồng vào Kim Cương Giới
		
		 
		
		Quy y Tam Bảo xong
		
		Các Công Đức có được
		
		Hồi thí các Hữu Tình
		
		Cùng thành Đạo Vô Thượng
		
		Như trên đỉnh lễ Đại Chuẩn Đề Bồ Tát 
		Phần ( Thiêu Đốt ) Tu Tất Địa Sám Hối Huyền Văn . Công Đức viên mãn, 
		nhân lành vô hạn, rải thấm Sa Giới, hòa khắp Thánh Chúng
		
		( Hành Giả vào Quán, lúc tụng trì thời 
		trước tiên nên biết rõ chư Phật, Chúng Sinh và Ta. Tâm này đồng một 
		viên minh. 
		
		Bền vững tìm tòi hoành biến.Một niệm hiện 
		tiền đầy đủ Vô Diệt, Vô Nhị, Vô Biệt mà thường an trụ cảnh giới 
		thâm sâu. Nhớ đem lại sự an vui cho chúng Hữu Tình. Dùng 3 Mật tương ưng 
		mà tác Tất Địa.
		
		Xong nơi bày Quán trong Trì niệm , tuy có 
		nhiều nhưng chẳng vượt qua tiếng của chữ Phạn, Tướng chung Tướng riêng.
		
		Lại nữa xa lìa Năng Quán, Sở Quán, Năng 
		Trì, Sở Trì , một sự một Lý đều là Lý Cảnh bí mật chẳng thể luận bàn. 
		Hành trì như vậy mà  Phật Quả chẳng tròn, tội chướng chẳng diệt, Tất Địa 
		chẳng thành ư ? !...)
		
		Thuận Trị, Nhâm Thìn, Quý Hạ ( Cuối mùa 
		hè ) 
		
		Đệ Tử ĐỈNH KHIÊM Pháp Danh HOẰNG TUỆ từ 
		Mân Trung Tam Sơn chân thành mô phỏng HUÂN MỘC ghi khắc lần nữa
		
		
		                                                                                    
		17/06/2004