- Không, quả thật ta cũng không phải
là người.
- Vậy xin cho biết Ngài là ai?
Đức Phật trả lời:
- Ta là người đã tận diệt hết những
pháp trầm luân, những nguyên nhân để tái sinh vào ba cõi.
Nói tóm lại, đức Phật là người đã tận
diệt hết những nguyên nhân đi trong ba cõi sáu đường. Vì thế nên hỏi làm trời
Ngài phủ nhận, làm người Ngài cũng phủ nhận… Bởi vì Ngài đã giải thoát ra ngoài
những hình thức đó.
Qua đạo lý này chúng ta mới thấy cái
siêu việt của đạo Phật. Nó chỉ rõ nguyên nhân của những sự kiện, những pháp đã
hình thành như thế, như thế. Và sau cùng đức Phật đưa ra con đường để thoát khỏi
những sự kiện đó. Bởi thế nên nói Như Lai đã vượt ngoài Tam giới.
Có lời kệ như thế này:
Như hoa sen đẹp và dễ thương,
Không ô nhiễm bùn nhơ nước đục,
Giữa đám bụi trần ta không vướng chút
bợn nhơ,
Như vậy ta là Phật.
Giác ngộ toàn triệt và giải thoát tất
cả. Cuối cùng Ngài trả lời cho chúng ta như vậy. Như đóa sen đang nở và ngát
hương thơm, đóa sen không bị nhiễm ô bởi nước đục bùn nhơ. Giữa đám bụi trần ta
không vướng chút bợn nhơ, nghĩa là sống giữa bụi trần ai mà không vướng chút bợn
nhơ nào hết. Như vậy ta là Phật, giác ngộ toàn triệt, gỡ tung những mắc mứu lâu
nay, giải thoát hoàn toàn. Đó là điểm thứ hai chúng tôi nêu lên về đạo lý mà vị
giáo chủ của chúng ta đã thực hiện được.
3. Tinh thần
tu hành của người Phật tử đối với đạo lý Phật dạy qua con đường Thiền.
Người tu thiền cũng giống như người
học bơi lội. Người học bơi lội được huấn luyện viên chỉ về phương pháp và kỹ
thuật căn bản, sau đó hoàn toàn tùy thuộc y. Nếu như y không chịu nhảy xuống
nước tập bơi thì y không bao giờ bơi được. Cách học duy nhất là y phải nhảy
xuống nước và bắt đầu thực hành theo lời huấn luyện viên đã dạy. Nếu y chăm chỉ
thực hành thì y có thể trở thành tay bơi cừ khôi. Nếu chỉ học hiểu mà không thực
hành thì làm sao trở thành tay bơi cừ khôi được?
Lời dạy này bình thường mà rất hiện
thực. Chúng ta muốn được giác ngộ, muốn được thành Phật hay được hết khổ thì
phải tu, phải thực hành. Học hiểu là một giai đoạn không thể thiếu, nhưng hành
trì là một giai đoạn quyết định sự học hiểu của chúng ta. Đường lối trong thiền
tông cũng vậy, nếu chúng ta muốn được giác ngộ thì phải tìm đến ông thầy để lãnh
hội lời chỉ giáo. Sau khi nhận được sự chỉ giáo rồi, quan trọng nhất là phải
thực hành. Qua thực hành chúng ta mới có thể giác ngộ. Thực hành là việc của
chính bản thân mỗi người.
Chúng ta có duyên gặp được thầy, có
kinh điển, có tất cả những trợ duyên cần thiết để làm thành kinh nghiệm cho
mình. Tuy nhiên bản thân chúng ta không thực hành, chỉ hiểu biết rồi đọc tụng
rao giảng, chưa thể nghiệm thực đối với giáo lý Phật dạy, đối với pháp thiền thì
chúng ta chưa thể có cái nhìn thấu suốt được. Đối với pháp tu thiền đòi hỏi
chúng ta phải có cái nhìn thấu suốt và thể nghiệm thật. Nếu muốn hết khổ, được
giải thoát, có trí tuệ thì phải thực hành.
Phật dạy là tất cả chúng ta đều có
khả năng thành Phật. Liệu mình có tin một cách khẳng định như vậy chưa? Đây là
điều chúng tôi nêu lên để khẳng định cho pháp tu, sự hành trì và công phu của
chúng ta. Đức Phật cũng là người, máu Ngài cũng đỏ, nước mắt cũng mặn, thân và
tâm Ngài cũng không khác ta xa lắm. Trước lúc giác ngộ, Ngài cũng có những ưu
tư, xung đột và nghi ngờ. Song nhờ trí tuệ mà Ngài tự đào luyện và khám phá ra
Phật tánh của mình và được giác ngộ. Tất cả chúng ta cũng có khả năng, có chất
liệu đó nhưng liệu xem ta đã quyết tâm phấn đấu chưa? Đây là những điều cụ thể
mà ta không thể nào cất trong tủ khóa kín lại, mong một ngày nào đó có vị thánh
thần đến ban cho mình được thành Phật, được giác ngộ.
Là người con Phật, ngày kỷ niệm này
tuy cách chúng ta hơn hai ngàn năm trăm năm nhưng lời dạy và sự thể nghiệm của
Ngài còn đó. Nếu chúng ta chịu làm chịu thể nghiệm thì kết quả y nhiên như vậy.
Chúng ta chịu mở cửa phát huy hướng đến tâm tuệ, nhận khả năng giác ngộ của mình
một cách cụ thể chính xác thì việc thực hiện được sẽ đạt kết quả không nghi.
Trong đạo Phật rất dè dặt đối với
những cái gọi là siêu nghiệm, thần thông. Vì thần thông có khi nó làm mờ đi trí
giác. Ở đây chỉ muốn nói những cái gì hiện thực trong đời sống của chúng ta.
Được sống trong hoàn cảnh này chúng ta chỉ cố gắng tu thôi. Tu nghĩa là sửa,
những gì còn xấu dở chúng ta loại bỏ nó ra, buông nó đi. Ai chịu sửa là người đó
biết tu. Nếu mình còn cố chấp chưa chịu bỏ cái dở là chưa chịu tu, dù hình thức
bề ngoài đẹp thế nào mà bên trong chưa trừ bỏ các chủng tử nghiệp xấu cũng chưa
phải là tu.
Lời cuối cùng tôi xin gởi đến quí vị,
tất cả chúng ta là con của Phật, quí kính Phật trong ngày kỷ niệm trọng đại này,
chúng ta cùng nhau về đây, dâng lòng thành cúng dường Tam bảo, với tâm nguyện
kiên quyết làm theo lời Phật dạy, bằng cách sửa bỏ những gì không hay. Nỗ lực
phát huy định tỉnh để được sáng suốt, thấy rõ phiền não, sự chấm dứt của phiền
não, sáng suốt thấy rõ những hiện tượng chung quanh, những dây mơ rễ má, những
gì không thật đeo bám quanh ta mà gỡ bỏ hết đi. Chúng ta nhận hiểu thấu đáo lời
dạy của đức Phật để thực hiện giác ngộ được như Ngài. Đó là người Phật tử biết
tu chân chánh.
(Hương Thiền)
PHÁ THAM CHẤP ĐỂ TU
Phật
Đản 2542- 1998
Trong công phu tu hành hằng ngày dĩ
nhiên chúng ta vấp phải những trở lực, điều quan trọng là ta có khắc phục được
nó để tu tiến hay không? Do đó Phật tử cũng cần phải hiểu qua những trở lực này
để chuẩn bị cho mình một thái độ tu tập thật đúng đắn.
Để động viên Phật tử, chúng tôi
thường nói việc tu hành không khó khăn lắm đâu. Song thiết nghĩ, nếu chỉ nhận
được mặt dễ, đến khi gặp khó khăn quí vị không giữ được công phu, như vậy việc
tu hành sẽ không viên mãn. Do đó chúng tôi nêu lên những khó khăn để Phật tử nắm
rõ và có sự chuẩn bị.
Như quý vị biết, có những khó khăn
trong lòng mình, ta chưa đủ sức khắc phục, chưa đủ lực phấn đấu vượt qua. Nó
chính là những trở ngại lớn trên bước đường tu tập của chúng ta. Hành giả phát
tâm tu hành rất cần ở phần phấn đấu bên trong. Vì vậy nên việc học tập để rút
tỉa kinh nghiệm từ các bạn đồng tu rất cần thiết. Có rút tỉa kinh nghiệm, chúng
ta mới kiện toàn những gì cần thiết trong công phu tu hành của mình. Khắc phục
được những trở lực, những chướng ngại, làm chủ được mình và an toàn trong công
phu là yếu thuật mà một người học Phật cần phải nắm vững. Chúng ta cũng biết
không một việc làm nào không gặp khó khăn. Và một việc làm thành công nếu không
có những khó khăn, thì sự thành công ấy chưa có giá trị bao nhiêu. Thành công ấy
nói như người đời chỉ là sự may mắn mà thôi.
Người con Phật có trí tuệ sáng suốt
thì tự biết nghiệp lực của mình do chính mình gây tạo trong nhiều đời kiếp. Bây
giờ gặp quả báo không tốt, ta không đổ thừa trách nhiệm đó cho ai. Cho nên các
chướng duyên mắc phải trên đường tu, nói cho cùng cũng từ nơi mình mà ra thôi.
Ta chấp nhận, vui vẻ trả, như vậy là đã vượt qua được chướng duyên rồi. Và một
điều chắc chắn nữa là hễ trả thì hết. Chịu trả, cố gắng trả và trả hết những nợ
nần đó rồi thì sẽ hết nợ. Đó là điều hiển nhiên.
Những khó khăn cơ bản đối với người
tu chúng ta là ngũ dục, tức tài, sắc, danh, thực, thùy hay sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp. Người tu muốn chiến thắng được nó đòi hỏi phải có một tĩnh lực
nội tại thâm hậu. Âm thanh là cái gì? Sắc tướng bên ngoài là cái gì? Cảm xúc là
cái gì? Chẳng qua chúng chỉ là những hiện tượng hư giả mà thôi. Nhưng thật tình
đối với những bóng dáng hư giả giống hồn ma bóng quế này, nếu chúng ta không
tỉnh thì sẽ bị nó đeo đuổi, dính chặt như nhựa, gỡ ra không phải dễ. Có khi suốt
đời chúng ta cứ loay hoay, sống trong cái chạy đua, đòi bởi của chúng nên cuối
cùng chuốc lấy quả khổ. Ở đây vấn đề là làm sao chúng ta phá tan sự tham muốn
đối với ngũ trần. Phá tan được những thứ này thì việc tu hành mới giữ vững, mới
thanh tịnh và thảnh thơi.
Phật dạy ngũ trần đều là huyễn hóa,
tất cả những thứ đó không thật, là những bóng giả, những vọng động từ tâm niệm
không tự chủ được của chúng ta. Nó tầm thường, bâng quơ như vậy đó, nhưng muốn
dẹp nó phải dùng một trí lực mạnh mẽ mới được. Nếu ta không phá tan được những
bóng mờ âm thanh, hoặc những hình ảnh trước mắt thì lòng mình cứ điên đảo, cứ
dấy niệm lăng xăng ngược xuôi theo những bóng mờ ấy hoài. Đã như vậy thì làm sao
thanh tịnh được! Có khi hình thức bên ngoài chúng ta tươi tỉnh nhưng trong lòng
không thanh tịnh, lúc nào cũng có cái gì bất an. Những thứ này dù cho chúng ta
có đối diện với đức Phật, đối diện với các bậc Thầy, các thiện hữu tri thức…
cũng không bao giờ dám khai thật ra. Cứ ấm ức ôm giữ trong lòng, không biết nói
với ai? Nếu không thấy được tận căn để của nó là đồ bỏ thì khó đập tan lắm. Cho
nên đòi hỏi ta phải có nội lực, tỉnh táo, kiên quyết mới trị được những thứ “tầm
thường” kia.
Thành ra nói trị ở đây không phải
dùng hình thức bên ngoài mà trị được. Không phải vật một trăm cân, muốn đập tan
nó mình phải có vật nặng hơn gấp đôi mới đập được. Không phải hình thức như vậy,
nó vô hình nhưng sức đeo đuổi, len lỏi dây dưa theo mình rất khắn khít. Người tu
mà còn những thứ này thì nhất định không tiến đạo được. Bây giờ muốn bỏ nó phải
làm sao? Phật dạy người tu phải là người có kiếm trí tuệ, chặt một cái đứt làm
hai đoạn, vứt hết ra bên ngoài. Có thế mới vững tiến vững tu, vững niềm tin trên
con đường đạo.
Chúng ta biết rằng con đường tu hành
phải trải qua nhiều kiếp số. Nếu trong đời này ta chưa nhận được nguồn gốc, chưa
thấy đến nơi đến chốn thì sẽ tiếp tục những bước dài lang thang, trải dài nhiều
kiếp số nữa. Do vậy nên có rất nhiều người tu một giai đoạn siêng năng tột bực,
nhưng sau đó họ lại bỏ cuộc quay về con đường thoái hóa. Phật gọi đó là những
chiến sĩ bại trận, giữa đường bỏ hàng ngũ. Chúng ta nên tránh những tình trạng
tệ xấu ấy, hãy cố gắng làm một chiến sĩ không biết khuất phục trước quân thù. Có
như vậy mới xông pha chiến trận và mang chiến thắng trở về. Thà là bước thật
chậm, nhưng bước nào vững bước ấy, một bước là gần đến nhà một bước. Nhất định
như vậy.
Với cái tinh thần tu thiền, thiền
sinh làm sao phát huy được trí tuệ của mình, tất nhiên tất cả những bóng mờ ấy
đều bị quét sạch. Giống như mặt trời lên thì tất cả những tăm tối đều dứt hết. Ở
đây, điểm thứ nhất tôi muốn nói chúng ta phải phá tan được những sự ham muốn,
tức là những cái dục. Dục nói theo nghĩa rộng là những dấy niệm đối với các
duyên trần, chớ không phải chỉ sự ham muốn nơi sắc dục mà thôi. Chúng ta phải
làm chủ, con mắt lúc nào cũng sáng, xem thấy rõ, nhìn tường tận coi những dấy
niệm ấy là gì? Khi thấy rõ ràng như vậy chúng ta sẽ không bị nó lừa nữa. Cho nên
điều kiện tối cần, nhất định chúng ta không thể lờ mờ, dây dưa, không thể không
có thanh kiếm trí tuệ thật bén chặt đứt được chúng. Thành ra nói đập tan, nói
cắt đứt, nói một đường gươm v.v… đều chỉ cho cái tỉnh sáng quyết liệt, không
thoái bước của người tu thiền.
Điểm thứ hai, chúng tôi muốn nói phải
phá tan được những dấy niệm trong lòng thuộc về giận hờn, thù oán v.v… Chúng
sanh luôn luôn bị hai cái gọng kềm thương và ghét kẹp cổ lôi đi. Đối tượng nào
ta thấy vừa lòng thích ý thì có niệm thương. Cái thương cũng không làm cho mình
yên nữa. Hiện nay có rất nhiều người khổ vì thương, phải không? Ví dụ quí vị lo
lắng vì thương con, hết con tới cháu, hết cháu tới chắt… thương hoài. Thương
hoài ngàn năm! Nếu ai vương vào cái thế này tức là bị loại vọng niệm thương nhận
chìm. Nó kéo lôi mãi, làm sao sáng suốt, làm sao tĩnh tu được. Nhiều người bảo
thương có tội, có hại gì đâu? Dĩ nhiên là trong cuộc sống này con người có những
tình cảm thông, có sự thương yêu đùm bọc nhau. Nhưng trên phương diện tu thì đây
quả thực là một loại phiền não làm chướng đạo.
Phật cũng có tình thương nhưng tình
thương của đức Phật là từ bi. Trong tình thương này có đầy đủ trí tuệ. Nhờ thế
đức Phật thương chúng sanh nhưng không khổ như chúng sanh. Nhờ ánh sáng trí tuệ
chiếu soi nên tình thương là chất liệu của lòng từ vô ngã vị tha. Đức Phật
thương hết thảy mọi loài, không phân biệt đẳng cấp, thương bình đẳng và trong
sáng chớ không lương vương, mơ mơ tưởng tưởng như chúng ta. Thương như chúng ta
là kiểu thương hại. Thương mà hại. Nó sẽ làm chướng đạo, làm mê mờ tánh giác của
mình. Vì vậy điều mà người tu phải để tâm dè dặt, là đối với tất cả những dấy
niệm cảm tình, về những thứ vừa lòng thích ý, lúc nào ta cũng phải tỉnh phải
cảnh giác.
Tại sao phải tỉnh, phải cảnh giác?
Bởi những thứ này nó làm phiền mình dữ lắm. Đem nó vào lòng rồi là rắc rối tới.
Quả thực hậu quả của tất cả những cảm tình không có trí tuệ đều dẫn tới khổ đau
dài dài. Thương rồi lo, thương rồi buồn, thương rồi khổ v.v… Có khi người ta tức
giận lên vì thương, nhưng rồi thương thì cứ thương mà giận thì cứ giận. Quái gở
thật! Với người tu, hiểu rõ con đường hiểm nguy khổ nạn như vậy, chúng ta phải
biết dừng, biết thôi chứ.
Ngoài thương ra, còn cái không thương
nữa. Không thương là sao? Đối diện với pháp trần, với sự việc, một con người nào
đó mình thấùy bực ghét rồi là cái gì thuộc đối tượng đó mình cũng không ưa hết.
Giống như anh chàng mất búa trong chuyện cổ tích. Khi đã mất búa rồi, anh nhìn
thấy người qua kẻ lại trước nhà mình, ai cũng là kẻ ăn cắp cây búa của anh cả.
Tại sao thế? Bởi vì chúng ta không có trí tuệ. Thương là những cảm tính, không
thương cũng là cảm tính xuất phát từ vọng tưởng mà ra. Thực tình trên đời này có
ai hoàn bị đâu? Hoàn bị lắm cũng chỉ được sáu bảy mươi phần trăm thôi.
Ngay cả như đức Phật, đương thời còn
bị ngoại đạo chỉ trích, đâu phải lúc nào Ngài cũng được mọi người quý trọng khen
ngợi đâu. Đọc kỹ trong kinh điển Nguyên thủy, chúng ta sẽ thấy hàng ngoại đạo
luôn tìm cách moi móc nói xấu Cù Đàm thế này thế kia v.v… Đức Phật còn như vậy,
hà huống là chúng ta! Biết thế chúng ta vững tâm tu hành, tất cả những hiện
tượng trước mắt không có gì hoàn toàn cả. Các pháp vốn bất toàn, thân này vốn
bất toàn, tâm niệm của mình cũng bất ổn bất toàn. Đã như vậy thì trong đời này
có gì tuyệt đối? Thành ra làm sao mọi giận hờn, phiền não đều phải được chúng ta
loại bỏ hết.
Người tu thì phải là người có trí
tuệ. Giữ gìn tâm niệm của mình như mèo rình chuột. Quý vị cứ tưởng tượng khi con
mèo nó rình chuột, đôi mắt nó lom lom, tay chân không nhúc nhích, cố tâm đeo
đuổi đến khi nào đớp được con chuột mới thôi. Nhất định là như vậy. Nếu chúng ta
tu mà nhìn từng dấy niệm của mình lom lom như con mèo vậy thì nhất định không có
vọng tưởng nào dám xen vào đừng nói tới chuyện kéo lôi, nhận chìm hay dẫn dắt
mình đi đâu cả. Những vọng tưởng thương, không thương đều biến mất hết, bởi vì
nó không thật. Một khi có ánh sáng trí tuệ chiếu soi vào là nó lặng ngay. Có
phá, có dẹp, có làm chủ được như vậy thì mình mới là người chiến thắng, mới là
người tu vững vàng.
Điểm thứ ba là phải phá tan sự lười
biếng. Muốn phá tan lười biếng thì phải siêng năng. Có siêng năng mới thấy được
những cái dở, cái khuyết của mình. Siêng năng như thế nào? Siêng năng trong nhà
đạo là theo dõi bám sát từng tâm niệm của mình, từng thói hư tật xấu để loại nó
ra. Sự siêng năng quả thực phải từ trong lòng mình phát ra, không phải ai ban bố
cho. Tự mình có công phu, siêng năng liên tục mới làm chủ được. Người tu không
thể nào không có siêng năng. Phải siêng năng. Lúc nào cũng siêng năng, bởi càng
siêng năng ta càng thấy rõ thói hư tật xấu của mình để loại bỏ nó đi. Có siêng
năng mới làm chủ được chút chút, không còn ngược xuôi dong ruổi theo các trần
cảnh như trước.
Trong công phu tu hành nếu chúng ta
không siêng năng, kết quả sẽ không đi tới đâu hết. Giống như một học sinh, lơ mơ
lan man đối với bài vở, học thì cứ học nhưng không ra làm sao hết thì đảm bảo
cuối khóa sẽ thi rớt thôi. Người tu hơn ai hết, biết con đường Phật đạo dài lâu,
trải dài kiếp số vô lượng, gặp nhiều chướng ngại khó khăn nên cần phải siêng
năng tinh tấn vượt qua. Sự siêng năng thể hiện qua từng hành động, sinh hoạt nhỏ
của mình. Ví dụ thường buổi tối 6h30 phút là giờ tụng kinh, bữa nay tới giờ tụng
kinh mình còn vướng một chút việc, nên tự nói “Thôi kệ, mình giải quyết việc này
chút nữa đi rồi mai sẽ tụng kinh”. Nhưng nếu hôm nay vướng một chút việc, mình
phá vỡ thời khóa tu hành, thì ngày mai cũng sẽ vướng chút việc khác nữa, rồi lại
tiếp tục mất công phu. Cứ thế ngày kia, ngày nọ, năm chầy tháng lụn, công việc
lấp kín hết thời khóa công phu của chúng ta. Cho nên chỉ cần một phút dễ duôi
ban đầu là ta tự đào hố chôn mình bởi những thói quen đó.
Dù đức Phật có sống lại đưa tay kéo
ta lên mà mình cứ nặng nề bởi những vướng mắc thường tình thì Phật kéo mấy cũng
không nổi. Ngài chỉ kéo được những người chịu tỉnh giác, siêng năng, giữ vững ý
chí tu hành thôi. Đây là kinh nghiệm bản thân của chính chúng tôi. Cho nên khi
nói đến sự lười biếng thì không người tu nào không ít nhiều biết đến kết quả tệ
hại của nó. Song nhờ chúng ta còn có bạn, có thiện hữu tri thức, có Thầy và có
những phương tiện thắng duyên để thực hiện công phu tiếp tục. Yêu cầu đòi hỏi
nơi chúng ta là phải có sự khắc định. Người tu theo đạo Phật mà không khắc định,
khắc tĩnh thì khó tiến đạo lắm. Định tĩnh để không bị lay chuyển, không dễ duôi
xem thường thời khóa. Đừng có bữa nay như vầy ngày mai lại khác, việc tu cứ một
nắng mười mưa thì sẽ không đi tới đâu hết.
Chúng ta tu hành mà không biết mình
rõ ràng thì khó tiến được lắm. Có khi ta còn lầm nữa. Ví dụ bình thường mình
ngồi thiền một tiếng đồng hồ, bữa nay ngồi tăng lên được nửa tiếng, ta thích quá
cứ tưởng như vậy là sắp thành Phật rồi. Cho nên nói ra toàn nói chuyện trên
trời, những chuyện minh tâm kiến tánh thành Phật, Bồ-tát hóa đạo gì gì đó… Nhưng
xin thưa việc ấy chỉ lóe lên trong một lúc nào đó thôi, chứ chưa thi gan cùng
tuế nguyệt được đâu. Nếu không thực hành kiên quyết liên tục thì sẽ ló đuôi phàm
phu với bao nhiêu tập khí y như cũ thôi. Việc tu hành cần phải thực hành liên
tục, không thể một ngày hai ngày là xong được, không thể bước tới một bước rồi
lùi hai ba bước. Thành ra biết mình biết người thì trăm trận trăm thắng. Chúng
ta tu rồi biết các pháp là giả huyễn nên buông hết. Lâu ngày công phu nhuần
nhuyễn thì không cần nói tới việc thành Phật ta cũng thành Phật như thường. Rõ
ràng như vậy.
Điểm thứ tư là không phóng tâm. Do
không phóng tâm chúng ta mới bình tĩnh, không xao lãng. Chỗ này hơi tế nhiệm một
chút. Phóng tâm là gì? Là những dấy niệm dong ruổi. Ví dụ như ta ngồi đây, nghe
động tịnh gì bên ngoài liền dấy niệm. Nghe âm thanh của một lời ca, tiếng nhạc
gì đó, mình dấy niệm nhớ lại thành phố năm xưa tháng này có ai… Chính những dấy
niệm này làm cho chúng ta không tu được. Cho nên phải làm sao tập trung được chủ
lực để phá tan sự phóng tâm, tức phá tan những dấy niệm của mình. Đây cũng chính
là pháp tu chủ yếu “biết vọng” do Hòa thượng Ân sư chỉ dạy Tăng Ni tại các Thiền
viện.
Chúng ta không tập trung thì không
sao làm chủ được những dấy niệm của mình. Đó là điều hiển nhiên thôi. Những dấy
niệm tuy không là gì hết, nhưng nó sẽ dẫn mình đi không cùng tận, đi không biết
đường về. Nó không là dây xiềng cột trói, cũng không là mây mưa vũ bão nhưng lại
chướng ngăn bước tiến đạo của chúng ta ghê lắm. Nếu không dừng được cứ lao theo
thì mình sẽ bị nó còng trói, lôi đi đời đời kiếp kiếp. Ghê gớm như vậy đó. Vì
vậy người tu hơn ai hết, phải quyết tâm buông được, bỏ được những phóng tâm của
mình. Muốn làm điều này, con đường hay nhất chính là thiền định.
Phật tử hiện nay đối đầu với trăm
công ngàn việc, làm sao có được những phút giây yên tĩnh để thiền định? Điều này
đòi hỏi quí vị phải khéo sắp xếp, khéo ứng dụng đạo lý Phật dạy vào sinh hoạt
của mình. Dĩ nhiên Phật tử không có những điều kiện thuận lợi như người tu chúng
tôi, nhưng nếu quyết tâm quí vị vẫn có thể tự sắp xếp thời khóa riêng cho mình.
Tùy hoàn cảnh gia đình, tùy công việc mà quí vị cố gắng thực tập công phu miễn
sao có niềm an lạc là tốt rồi. Nên nhớ nếu không có thiền định, không có sự định
tĩnh, chúng ta không làm sao làm chủ được cái phóng tâm. Vì vậy quý vị phải có
nguyên tắc, sắp xếp và ấn định cụ thể công việc hằng ngày của mình để không mất
công phu.
Thưa quý vị, chúng ta có sống thêm
một trăm năm hay một ngàn năm nữa cũng không thể nào giải quyết được hết mọi thế
sự ở trần gian. Tỉnh biết như vậy, chúng ta phải khung lại, gói gọn lại giải
quyết những việc trước mắt thôi. Ví dụ sáng nay mình đi chợ mua thức ăn về nấu
nướng xong, đúng giờ dùng cơm. Chừng ấy việc thôi, đừng có thêm cái gì trong đó
nữa. Chứ kiểu tính đi chợ Phước Thái mà ra gặp bạn rủ đi Thành phố liền xách giỏ
đi tuốt là hỏng việc rồi, làm sao kịp bữa cơm trưa? Ai giải quyết, sắp xếp công
việc như vậy sẽ không làm gì được hết. Rồi mắc mứu, rồi lang thang.
Việc tu hành cũng thế. Chủ trương của
chúng ta là làm sao ngay trong đời này sáng được việc lớn, thấy lẽ thực của các
pháp. Thấy được như vậy tức là thấy đạo, là kiến tánh. Như thấy thân này không
thật mình mới bỏ tất cả những gì không thật. Cho nên cái thấy trí tuệ ấy rất cần
cho chúng ta. Mà muốn phát huy trí tuệ ấy chúng ta phải gói gọn công việc lại,
ấn định giờ giấc và tinh thần tu hành cho rõ ràng, dứt khoát.
Như Tăng Ni chúng tôi ở Thiền viện
dưới sự hướng dẫn chỉ dạy tu thiền của Hòa thượng Viện trưởng, thì nhất định
chúng tôi không thể đem một pháp nào khác vào đây thực hiện được cả. Không nên
nói pháp này của Phật dạy, pháp do Hòa thượng truyền đạt lại cũng của Phật dạy,
nên tôi áp dụng pháp nào ở đây cũng được hết. Không phải thế. Tuy pháp nào cũng
do đức Phật dạy, nhưng trong khi tu chúng ta nên chọn lựa một pháp thích hợp với
trình độ, căn cơ của mình, rồi thẳng một con đường mà tiến, không thể đi hai
hàng mà có thể mau đến nơi được. Ở Thiền viện dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng
là chuyên tu Thiền, chỉ học Thiền và hành trì pháp Thiền mà thôi. Tu có đường
lối chủ trương hẳn hoi như vậy mới đến nơi đến chốn được.
Chúng ta đâu không biết thân này vô
thường, hoàn cảnh tốt đâu phải lúc nào cũng đến với chúng ta. Thân này đổi thay
luôn luôn, nào bệnh hoạn, nào tai họa, đủ thứ rình rập mình… Một luồng gió độc
cũng đủ làm mất mạng, một tai nạn nào đó bất ngờ cũng đủ làm con người tang
thương, đau khổ suốt đời… có gì bảo đảm đâu? Bây giờ chúng ta còn có điều kiện,
phương tiện, còn tỉnh táo, các giác quan còn sáng suốt mà không chịu tu, không
nỗ lực tu cho đạt được kết quả như thực, đến lúc già bệnh muốn đọc kinh nhưng
hai mắt mờ căm không thấy chi thì làm sao đọc được? Không đọc được thì làm sao
hiểu kinh? Hoặc mình muốn nghe pháp, mà hai lỗ tai điếc ngắc làm sao nghe?
Cứ nghiệm nơi thân mình, chúng ta
thấy rõ tứ đại hợp tan vô thường. Bốn thứ ấy lại luôn chống trái nhau. Như có
bao giờ chúng ta muốn trong người lúc nóng lúc lạnh đâu. Ai cũng muốn khỏe mạnh,
điều hòa hết. Nhưng ra ngoài trời nếu không có nón hay dù che ở trên, đi nắng
một hồi bị trúng nắng thì cảm nắng, phát sốt. Hoặc đi trong mưa, trong gió,
trong đêm lạnh mà không có những phương tiện che đỡ trên đầu thì sẽ bị cảm
sương, cảm nước, cảm lạnh. Lạnh, nóng luôn luôn chống trái nhau, nó làm bất ổn
cho thân này. Rõ ràng có gì bảo đảm đâu?
Do đó chúng ta phải tranh thủ gấp.
Việc tu hành cần tranh thủ và có thái độ dứt khoát, không nên đợi. Người ta nói
duyên tốt, phúc lành không đến hai lần. Duyên tốt đến với chúng ta mà ta không
kịp thời nhận định sáng suốt để nó mất đi thì khó tìm lại. Giống như trong
truyện cổ tích kể: Có anh chàng nọ đi rừng, ngang qua một gốc cây to, bất thần
anh thấy chú thỏ nhắm mắt nhắm mũi thế nào, chạy đụng gốc cây chết nằm đó. Anh
lượm con thỏ về nấu ăn, thấy ngon lành quá. Bữa sau anh lại ra gốc cây ấy ngồi
chờ, coi có con thỏ nào chạy đụng vô đó chết nữa không! Đợi hoài đến đói meo,
nhưng anh chẳng thấy con thỏ thứ hai nào chạy đụng vô gốc cây mà chết nữa cả.
Việc tu hành của chúng ta không phải
là việc cầu may. Chúng sanh sống theo luật nhân quả. Người có tu, có công phu,
có hành pháp như thế nào thì sẽ đạt được kết quả tương xứng như thế ấy. Chắc
chắn là vậy. Người Phật tử tin chắc nhân quả, hành trì đúng nhân quả thì chẳng
sợ gì cả. Sở dĩ chúng ta còn sợ ma sợ quỷ, sợ trời gầm sét đánh, là vì mình chưa
tin, chưa thấy được sự thực của luật nhân quả. Nhân quả là gì? Phật dạy, người
gây nhân bất hảo sẽ bị quả không tốt. Người gây nhân tốt sẽ được quả tốt. Đó là
điều dĩ nhiên thôi. Phật tử nắm chắc như vậy rồi tu, khỏi sợ cái gì cả. Quí vị
không cần đến gốc cây, ông lò, miếu đình khấn vái cho con được cái này cái kia…
Ai muốn thi đậu bắt buộc phải siêng học, muốn tu hành kiến tánh ngay trong đời
này thì phải công phu liên tục, phải phá tan những tật xấu của mình, nhất định
sẽ thành công thôi.
Điểm thứ năm là phá tan hoài nghi,
tức là những nghi ngờ về Tam bảo
và nghi ngờ về khả năng giác ngộ của chính mình. Trong giới Phật tử, còn nhiều
vị nghi ngờ lắm! Bởi nghi ngờ nên tất cả lời Phật dạy, ít ai áp dụng tới nơi tới
chốn được. Quí vị đang tu như vậy, nhưng nghe ai nói “Bây giờ lên núi (nào đó),
uống nước tiên ban chỉ một lần thôi là mở sáng trí ra thấy được đạo, khỏi phải
tu gì cả”. Lúc đầu nghe thấy lạ nhưng nghe nhiều lần như vậy, trong bụng nghĩ
“Ừ! Đâu mình lên trên đó coi, uống thử chút nước tiên xem có phải như vậy
không?” Tức ngay đó đã bị ma quỷ, các loại tư tưởng lan man ốp mình rồi, hà
huống là chạy theo? Người như vậy là chưa vững niềm tin, còn nghi ngờ đối với
pháp tu.
Phật từng dạy chúng ta đến với Như
Lai để suy nghiệm chớ không phải đến để tin. Phật không chấp nhận cuồng tín hay
vì lý do nghe đồn đãi mà chúng ta đến với Ngài. Ngài dặn đệ tử, những người muốn
học theo Ngài phải hiểu Ngài rồi mới tin Ngài, tu theo Ngài. Bây giờ muốn hiểu
Phật phải làm sao? Trước nhất phải làm sao làm chủ được đối với tất cả những
cảnh duyên, không phóng tâm ngược xuôi ra ngoài. Không để những giận hờn, thương
ghét quấy rầy làm mất thì giờ của mình. Chúng ta phải dứt khoát tự sắp xếp thời
khóa biểu tu tập đúng cho mình. Như vậy là tin Phật, tu Phật.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trước khi
thành Phật không phải là một vị Thánh, có những biến hóa thần kỳ rồi mới vào thế
giới này. Mà Ngài là một con người, trải dài kiếp số Ngài cũng đã nếm trải tất
cả những khổ đau trong luân hồi sanh tử. Từ đó Ngài thấy được nguồn gốc của sự
khổ đau, phát tâm tu hành và quyết tìm ra một phương pháp để giải quyết những
khổ đau cho chính mình, đồng thời giúp tất cả mọi loài cùng giải quyết những khổ
đau chung ấy. Ngài đã có mặt ở Ấn Độ cách chúng ta hơn 2500 năm, con của vua
Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da với tên Tất Đạt Đa. Lớn lên cũng lập gia đình rồi
sau xuất gia tu hành. Trải qua thời gian tầm đạo và tu hành khổ hạnh trong rừng
già, tinh tấn dũng mãnh không ai bằng, cuối cùng Ngài mới thành tựu đạo quả Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Như vậy đức Phật là một con người
lịch sử, để lại cho chúng ta những phương pháp tu học rõ ràng qua kinh nghiệm
bằng xương bằng thịt của bản thân. Chứ Ngài không phải là một cái đấng thần linh
nào bay đến với những phép thuật lạ đời. Điều đó cho chúng ta thấy, Phật muốn
làm sao mỗi người con Phật đều thấy được thực chất của mình. Chúng sanh từ
nghiệp tập mà nối tiếp trong sanh tử, bây giờ đừng gây tạo nghiệp tập nữa thì
chấm dứt vòng sanh tử luân hồi. Cho nên Phật thị hiện trong cuộc đời như bao
nhiêu con người, mang tâm trạng buồn vui sướng khổ như bao người. Từ đó Ngài
vươn lên thoát khỏi những cột trói khiến cho con người phải chịu khổ vô cùng
tận. Có thế chúng ta mới noi theo, mới vững niềm tin mình cũng có thể tu được,
cố gắng dụng công phu thật đắc lực.
Nếu chúng ta trả xong món nợ lớn nhân
quả từ nhiều kiếp mê lầm rồi, làm chủ được mình thì ta đã qua được những cơn
bệnh ngặt, thoát khỏi tù tội. Ta là người qua khỏi sa mạc khô khan nguy hiểm.
Thành quả ấy có được tự nơi bản thân ta thôi. Tôi xin lặp lại, muốn vượt qua
những khó khăn chúng ta phải trả hết những nợ nần cũ. Muốn giải quyết tất cả rối
rắm, mở tung những cái gút trong lòng, phải là chính chúng ta chứ không ai hết.
Trong kinh Phật dạy tự ta làm cồn đảo cho mình. Tự ta phải tu tập, phải giữ
giới, phải hành trì thì mới đạt được kết quả.
Có nhiều Phật tử bảo: “Thầy nói tu
nghe dễ, nhưng thật ra đâu phải dễ”. Ừ! Đâu phải dễ, khó lắm chứ. Việc tu dĩ
nhiên là khó, nhưng không phải chúng ta không thực hiện được. Nó đòi hỏi ta phải
có sự kiên quyết. Có kiên quyết mới trả hết nợ nần cũ, thoát được những ngục tù,
sa mạc khô khan. Trong cuộc đời đầy dẫy bấp bênh với vô vàn những nỗi bất hạnh,
không như ý, nhất là cái khổ đau trầm luân sanh tử kéo dài, chúng ta không có
nội lực thâm hậu thì không giải quyết được. Người có sức mạnh lớn mới vùng lên
thoát ra được, dĩ nhiên cũng cần tới sự hộ niệm của chư Phật, các vị Thánh
trước, lịch đại Tổ sư và các bậc thiện hữu tri thức nữa. Có sức mạnh tâm linh,
chúng ta mới giải quyết được nỗi khổ ngay trong hiện tại và đảm bảo giải thoát ở
mai sau.
Những nỗi khổ trong hiện tại, nếu
chúng ta không làm chủ được, nó sẽ là nguyên nhân dẫn đến những khổ đau triền
miên trong tương lai. Từ đó ta lầm mê, tiếp tục tạo thêm nghiệp tập tăm tối nhận
lãnh khổ đau chồng chất. Chủ trương của đạo Phật là tự mình chịu trách nhiệm cho
chính cuộc đời của mình. Người không có tự lực, cứ xìu xìu ển ển thì không ai
giúp gì được. An lạc chỉ có khi nào ta làm chủ được mình. Rõ ràng như vậy. Ví dụ
người ta chửi mình, mình chửi lại thì hai bên ấu đả nhau, dẫn đến đau khổ. Không
khi nào làm như vậy mà được hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ có khi người kia chửi mình
mà ta nhớ lời Phật dạy phải từ bi, coi những lời chửi ấy như nước cam lồ, ta
bình tĩnh vui vẻ thì sẽ được an ổn. Đó là kết quả của sự tu hành.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta
cũng có thể tu được, vì xã hội là một môi trường mà ở đó ta có nhiều điều kiện
thực hiện việc tu học. Giới hạn như chúng tôi ở thiền viện, đôi khi thiếu các
duyên thử thách. Nói thì nói vậy, chứ thiệt tình chúng tôi cũng sợ hết hồn,
không dám giáp mặt với cuộc đời khi lực tu của mình còn yếu. Cho nên chúng ta
phải hiểu tu Phật thì ở đâu cũng tu được, ở đâu cũng là môi trường để thử nghiệm
sức tu học của mình.
Ví dụ như một Phật tử lái xe đàng
hoàng, bất trắc có người nào đó đụng mình. Việc va chạm ấy, Phật tử là người
không có lỗi, do anh kia quờ quạng sao đó thành ra có sự cố. Nhưng ngược lại
người kia gây gổ, la lối, bức xúc Phật tử thế nọ thế kia. Lúc đó nếu người không
biết tu thì có chuyện liền. Nhưng Phật tử bình tĩnh, nhẹ nhàng, sáng suốt, lắng
nghe và tìm cách gỡ rối. Vì vậy dù bên kia có nói gì đi nữa, Phật tử vui vẻ tìm
cách giải quyết, một lát hai bên thỏa thuận nhau tiếp tục lộ trình, đường ai nấy
đi. Ngược lại, bên kia không tỉnh nói năng tầm bậy, bên đây cũng không tỉnh thế
là hai bên đụng nhau. Đụng nhau nhiều hơn nữa thì đi đến ấu đả, hai bên không
thể ngồi lại giải quyết được, phải nhờ thế lực thứ ba. Khi thế lực thứ ba đến
thì theo đúng nguyên tắc là cả hai bị mời vô phòng công an. Như vậy cuối cùng
rối tung lên, có lợi ích chi đâu.
Cho nên hiểu lời Phật dạy, áp dụng
đúng theo đó thì lúc nào ta cũng có Niết-bàn, có hạnh phúc. Có câu chuyện như
thế này. Hồi xưa, Cố Hòa thượng Pháp Chủ Giáo Hội Tăng Già tức Hòa thượng Huệ
Quang, có một vị cư sĩ người Hoa mến mộ đạo Phật, thường tới lui học hỏi Phật
pháp với Ngài. Bấy giờ Hòa thượng cho vị cư sĩ này quyển kinh Pháp Bảo Đàn bằng
chữ Hán. Ngài dặn:
- Đạo hữu về ráng đọc cho thuần. Đọc
xong sẽ sáng, sẽ nắm vững đường lối chủ trương tu hành, nhất là tu thiền.
Vị cư sĩ nghe lời Hòa thượng đọc tới
đọc lui quyển Pháp Bảo Đàn đến muốn thuộc lòng. Chẳng bao lâu trong công việc
làm ăn của cư sĩ có sự kiện tụng. Cuối cùng ông bị vô khám. Trong khám, lời nhắc
của Cố Hòa thượng đối với ông càng rõ hơn, nên ông chuyên tâm đọc kinh Pháp Bảo
Đàn, đọc một cách say sưa liên tục. Hồi ở ngoài ông cũng đọc nhưng có khi phải
lo việc nọ việc kia nên bị gián đoạn. Bây giờ vào khám ông buông hết mọi việc,
chỉ có đọc kinh Pháp Bảo Đàn thôi. Vì vậy ông không thấy cực khổ, chật chội,
thiếu thốn, như mọi tù nhân khác. Thần sắc tỉnh táo, vui vẻ và ông cho rằng thời
gian ở đây ông tu nhiều hơn ở ngoài. Người nhà đến thăm hỏi, ông nói: “Bình
thường, chẳng có gì. Tôi rất an lạc”.
Qua câu chuyện này cho thấy, nếu
chúng ta áp dụng được lời Phật dạy thì nhất định Niết-bàn ngay trong hiện tại.
Mỗi người đều có thể nhập Niết-bàn, hưởng Niết-bàn ngay hiện tại. Với điều kiện
là dám bỏ các pháp trần. Trong cuộc sống này, nếu chúng ta muốn được an ổn, muốn
giải thoát thành Phật thì bản thân phải hành trì lời Phật dạy. Hành trì đúng thì
mặc tình cho phong ba bão táp, mặc tình cuộc đời thịnh suy, lúc nào chúng ta
cũng an ổn. Thiền sư Mãn Giác có bài thơ thế này:
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Xuân đi thì trăm hoa lụn tàn, xuân
đến trăm hoa đua nở. Mọi việc xây vần trước mắt chúng ta như vậy. Mọi hiện
tượng, mọi sinh hoạt trong cuộc sống này rõ ràng như vậy, luôn luôn sanh diệt.
Khi ta nhìn lại thì cái già đã đến nơi. Tóc bạc, răng rụng, bệnh hoạn, bao nhiêu
sự suy tàn của thân này kéo đến. Vô thường chi phối, sự đổi thay trùm khắp.
Nhưng với người Phật tử hay với người
có mắt sáng, thấy ngoài sự đổi thay và nỗi khổ đau ấy, còn có cái gì? “Mạc vị
xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”. Đừng ngỡ xuân tàn hoa
rụng hết, đêm qua sân trước một cành mai. Nghĩa là gì? Nghĩa là tất cả những
hoa bên ngoài rụng hết nhưng trong lòng chúng ta còn một sự tỉnh táo sáng suốt.
Đó chính là Niết-bàn ngay trong hiện tại.
Người không bị trôi giạt, không bị
cuốn hút bởi các pháp, làm chủ được mình là nhập được Niết-bàn ngay hiện tại.
Người tu thiền phải có công phu trong từng giây phút hiện tại, không thể đợi
chờ, hẹn hò gì cả. Vì vô thường chụp đến bất cứ lúc nào. Ai biết được sự sống
của mình sẽ ra sao. Như bây giờ bao nhiêu thứ tai biến, ung bướu. Mới hôm qua
đang sờ sờ vậy, đi siêu âm té ra cục gì ở trong bụng, đụng tới nó sẽ vỡ, nín thở
ngay. Như vậy là nguy rồi! Có làm gì được đâu. Cái mình trọng vọng quý báu, gìn
giữ, trau chuốt, sơn vẽ luôn luôn, mà nó bấp bênh như vậy hà huống những thứ
khác. Ngoài thân tâm hư giả này, còn có nào là nhà cửa, địa vị, tiền của … tất
cả những thứ ấy không bảo đảm, không giữ được khi vô thường chi phối. Mạng sống
của mình, mình không bảo toàn được huống là những thứ ấy.
Thành ra người tu phải là người giữ
thế chủ động cho mình. Ở bất cứ hoàn cảnh nào, nếu chúng ta nhớ lời Phật dạy, áp
dụng được thì sẽ hết khổ. Nếu người tu Phật không kiên quyết hành trì, dứt khoát
ngay trong mỗi niệm thì khó mà nhận được Phật, Bồ-tát ở ngay cạnh mình. Chỉ
người nào khi đối diện với những khó khổ ghê gớm nhất, vẫn nhớ Phật, tu theo lời
Phật dạy, người đó mới hết khổ, được vui. Kho tàng chuyện cổ tích dân gian của
chúng ta, ảnh hưởng rất lớn tinh thần Phật dạy. Phật thị hiện làm ông già tóc
bạc phơ như ông tiên, vung cây đũa thần cứu nàng Tấm. Phật thị hiện cá kình, cá
ông để cứu người khi họ gặp sóng to gió lớn. Nhưng với điều kiện là mình phải
tha thiết một lòng nghĩ nhớ đến Phật, đừng nghĩ chuyện tầm bậy. Không khẳng
quyết thì khó có tâm thành để đạt kết quả như ý.
Hồi xưa, lúc tôi còn nhỏ ở chùa Vạn
Đức. Có một gia đình Phật tử nọ, đệ tử của Hòa thượng Vạn Đức, đi chùa rất thuần
thành. Duy chỉ người rể thì không thích đi chùa. Sống chung trong nhà, anh ta
thấy mẹ vợ đốt nhang tụng kinh, lễ Bồ-tát Quan Thế Âm. Cha vợ rồi mấy người em
vợ cũng thành tâm niệm Bồ-tát Quan Thế Âm. Thấy thì thấy thôi chứ anh không hề
tham dự. Nhưng lạ một điều là âm thanh tiếng niệm Bồ-tát Quan Thế Âm và hình ảnh
Bồ-tát Quan Thế Âm đóng vô đầu anh hồi nào không biết. Lần đó anh đi công tác,
máy bay về đến phi trường, nhưng không bung chân ra được. Nó chạy lòng vòng mãi,
dưới này người ta tập hợp tất cả xe cứu hỏa… Nếu kéo dài thêm một thời gian ngắn
nữa thì kể như máy bay gặp nạn, tất cả hành khách trên đó không thoát khỏi tử
vong.
Bấy giờ tự nhiên anh này nhớ Bồ-tát
Quan Thế Âm và anh nhất tâm niệm Bồ-tát Quan Thế Âm. Anh niệm đến nỗi quên hết
mọi chuyện, chỉ nhớ Bồ-tát Quan Thế Âm. Cuối cùng, chiếc máy bay hạ xuống vì hết
nhiên liệu, bỗng dưng hai chân của nó bung ra được! Mọi người hú vía xem như
mình chết đi mà được sống lại. Khi đó có một người bạn hỏi anh ta:
- Hồi nãy trong lúc nguy ngặt, tôi
thấy anh ngồi như chết cứng, là sao vậy?
Anh ta nói:
- Thực tình tôi thấy nguy cơ mất mạng
không thoát, lúc đó bỗng dưng tôi nhớ hình ảnh mẹ vợ và tất cả những người trong
gia đình mỗi đêm đốt nhang lạy Phật rồi niệm Bồ-tát Quan Thế Âm. Tự nhiên âm
thanh và danh hiệu Bồ-tát Quan Thế Âm hiện lên trong tâm, tôi chỉ còn biết mỗi
một việc là niệm Ngài mà thôi. Lúc niệm như vậy tôi không thấy sợ sệt và cũng
không còn thấy cái gì bên ngoài nữa. Cho đến khi máy bay đáp xuống được rồi, tôi
mới chợt tỉnh ra là mình đang niệm danh hiệu Bồ-tát Quan Thế Âm.
Khi về nhà anh trình bày sự việc trên
cho mọi người trong gia đình nghe. Và sau lần nguy ngặt ấy, anh con rể này mới
bắt đầu tìm hiểu đạo Phật, bắt đầu đi chùa và mỗi đêm anh là người lạy Phật,
niệm Bồ-tát Quan Thế Âm siêng năng hơn ai hết. Bây giờ anh mới thấy hiệu năng,
kết quả của việc tu học. Nó không phải là cái mà chúng ta mong cầu hiển hiện ra,
nó ăn sâu vào trong tâm thức. Để đến một lúc nào đó, ta hữu cảm thì tất ứng, hữu
duyên thì sẽ được độ. Từ chỗ cảm nhận như vậy anh trở thành người rất hâm mộ đạo
Phật, rất siêng năng trong việc tu tập. Kể từ đây, anh mới hiểu thế nào là tự
sống lại.
Sống lại bằng cách nào? Không phải
chỉ niệm như vạây thôi, mà là buông được mọi thứ bên ngoài. Nghĩa là thấy rõ
pháp tu và đường lối tu của mình. Chú tâm niệm như vậy là làm chủ được mình,
không bị động bởi những cảnh duyên bên ngoài. Sau lần tai nạn ấy, mỗi lần anh
đến trước bàn Phật thắp hương, ngồi lắng yên và anh thấy rõ ràng rằng mình buông
được những cái lăng xăng trước mắt, mình làm chủ được đối với những âm thanh sắc
tướng bên ngoài, những cái sợ sệt, những cái bức xúc ở bên ngoài nên mình an ổn.
Điều này là một hiện thực. Anh thấy rõ ràng sự an ổn không do ai ban cho mình,
mà chỉ có mình mới đem lại sự an ổn chân thật cho mình mà thôi. Đó là một cách
tu.
Phật không bảo chúng ta tụng đọc lời
Phật dạy mà không hiểu, không áp dụng. Không phải gõ mõ tụng hoài những lời Phật
dạy. Như cha mẹ dạy con “đừng bất hiếu” thì không bao giờ cha mẹ bảo con mỗi
ngày tới trước mặt mình nói lại “con đừng bất hiếu”. Không cha mẹ nào muốn con
lặp lại như vậy mà chỉ muốn bản thân đứa con đó đừng làm những việc bất hiếu.
Cũng thế, dù hạng người nào nếu nghe hiểu và áp dụng đúng lời Phật dạy, buông
hết các trần cảnh thì người đó hưởng được pháp lạc, luôn luôn an ổn, đó là vào
Niết-bàn chứ gì? Cho nên biết có công phu thì có kết quả, có an lạc, có
Niết-bàn. Đạo Phật là đạo giúp cho chúng ta có thể hưởng giá trị thiết thực ngay
trong hiện tại.
Chúng tôi mong rằng tất cả Phật tử
chúng ta học Phật, hiểu Phật và áp dụng được lời Phật dạy để hết khổ, được vui
như chính niềm an vui mà đức Phật đã đạt được.
TINH THẦN TU PHẬT
Phật
Đản 1999 – 2543
Kỷ niệm đản sanh đức Bổn sư Thích Ca
Mâu Ni lần thứ 2543 này, chúng ta lại một lần nữa tưởng niệm về đức Phật với tất
cả cuộc đời và công hạnh của một đấng cha lành, thị hiện ra nơi đời vì lợi ích
của tất cả chúng sanh. Về lịch sử, chúng ta đã từng điểm qua trong những lần kỷ
niệm trước. Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến quá trình trải dài hơn 45 năm
thuyết pháp giáo hóa độ sanh của Như Lai, đức Phật đã để lại những bài học,
những tấm gương sáng cho chúng ta noi theo với mục đích muốn chúng ta học hiểu,
áp dụng hành trì làm sao được lợi lạc như chính Thế Tôn.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ra dưới
cội hoa Vô ưu trong vườn hoa thành Ca Tỳ La Vệ, không giống như chúng ta sanh ra
trong bảo sanh viện. Sau này Ngài thiền định và thành Phật dưới cội cây Bồ-đề.
Lúc hết duyên hóa đạo, từ giã cuộc đời, Ngài thị tịch dưới cội cây Sa la. Qua đó
đủ cho chúng ta thấy Ngài là con người đặc biệt, gắn bó với thiên nhiên chứ
không là của riêng ai. Chúng ta ngày nay ở chùa, chứ không ở cội cây nên dễ
vướng mắc cái chùa. Đi đâu cũng thấy mình có chùa Thường Chiếu, cái lưng của
mình dính với chùa Thường Chiếu, ai đụng tới chùa Thường Chiếu thì không được.
Bởi thế nên mình tu không thành Phật.
Đức Phật là một con người thực, có
lịch sử, có cha mẹ và đặc biệt Ngài cũng có gia đình. Lớn lên theo nghi thức
truyền thống của triều đình, Ngài vâng lệnh phụ vương làm lễ thành hôn với một
công nương, sau đó sanh ra hoàng tử La Hầu La. Cuối cùng Ngài từ bỏ tất cả đi
tu. Sự thị hiện này rất có giá trị đối với hầu hết Phật tử chúng ta. Nếu đức
Phật thị hiện như một bậc tiên thánh nào từ núi cao hay trên trời rớt xuống tu
hành thành Phật thì chúng ta không thể nào tu được. Trong Phật giáo, đức giáo
chủ của chúng ta là một con người được sinh ra và trưởng thành trong điều kiện
như tất cả mọi người. Cuối cùng thấy rõ nỗi khổ đau của kiếp nhân sinh nên Ngài
dứt khoát xuất gia tìm đạo, và với quyết tâm siêng năng tinh tấn không lui sụt,
Ngài đã thành đạo.
Điều đó cho thấy nếu chúng ta quyết
tâm mãnh liệt thì cũng có thể tu thành Phật. Việc thành Phật không dành riêng
cho đức Phật Thích Ca hay một vị Phật nào, mà tất cả chúng sanh đều có thể giác
ngộ thành Phật. Quí vị thử nghĩ, một ông hoàng muốn đi tu có dễ không? Đôi khi
một người dân thường muốn đi tu mà buông không được, bứt không rời, hà huống một
ông hoàng ở tuổi thanh xuân, cắt đứt được tất cả để đi tu thì quả là một con
người có ý chí mạnh mẽ quyết liệt.
Bài học này nói lên sự kiên quyết, sự
siêng năng liên tục và sự phát tâm mãnh liệt nhất định sẽ dẫn đến thành công.
Người Tây phương nói “Muốn thì được, quyết thì thành”. Chúng ta nếu muốn thành
Phật thì phải quyết tâm tu học siêng năng liên tục. Phần này Phật tử mình còn
lèng èng lắm, nên tu hoài vẫn không tới đâu. Thái tử Tất Đạt Đa sau lần dạo bốn
cửa thành, Ngài thấy hiện thực của cuộc đời toàn là khổ đau. Người già cả thiếu
sự bảo dưỡng, thiếu người nuôi nấng nên khổ đau. Người bệnh hoạn rên xiết không
thuốc thang, không người săn sóc nên khổ đau. Cuối cùng hình ảnh của sự chết
hiện ra với một cái xác nằm queo bên đường, ruồi nhặng giòi tỉa ăn hút, không ai
chôn cất đếm xỉa đến, thật là khổ đau cùng tột. Sau khi chứng kiến cảnh già nua
bệnh hoạn chết chóc ấy rồi, Ngài suy nghiệm về thân mình một mai có rơi vào
những tình huống như vậy không? Đây là vấn nạn lớn làm cho Thái tử mất ăn mất
ngủ. Cuối cùng Ngài nhận ra ai có thân này đều sẽ đi đến tình huống ấy và đều bị
khổ đau. Do đó Ngài quyết tâm tìm được giải thoát.
Chúng ta không thấy được như đức Phật
nên sự phát tâm của mình cũng không dũng mãnh bằng Ngài. Chúng ta có thân này
như mọi người nhưng vẫn cứ yên lòng ngày qua ngày với cuộc sống như thế. Cuộc
sống an bài thế nào thì ta chấp nhận thế ấy. Chúng ta không dùng tuệ giác nào để
thấy thêm được gì nữa, nên chúng ta cũng chẳng muốn tìm lối thoát.
Thái tử Tất Đạt Đa không như thế,
Ngài luôn trăn trở khi biết thân này sẽ hoại diệt, mất mát. Ngài không thể nào
đành lòng ngồi yên đợi chờ sự mất mát ấy đến, không thể chấp nhận bó tay với sự
tan rã trong khổ đau. Ngài quyết tâm tìm cho ra một lối giải quyết. Học điều này
chúng ta thấy đức Phật đi tu không phải riêng cho mình mà vì tất cả. Ở đây Ngài
tìm chân lý để giải quyết những khổ đau mà mọi người bó tay chấp nhận.
Trước khi giác ngộ thành Phật, đức
Thế Tôn đã học hỏi với những vị Thánh thời đó nhưng cuối cùng Ngài thấy chưa
hoàn bị. Đức Phật tu khổ hạnh cũng thấy không hoàn bị, bởi vì những phương pháp
ấy chưa giải quyết được vấn đề sanh già bệnh chết. Do đó Ngài tìm đến cội Bồ-đề,
ăn uống trở lại bình thường. Thế Tôn trải tòa cỏ ngồi thiền với một quyết tâm,
tự khắc tự thệ nếu không tìm được đạo giác ngộ giải thoát để giải quyết vấn đề
sinh tử thì dù thịt nát xương tan Ngài cũng không rời khỏi chỗ ngồi này. Với tâm
kiên quyết như vậy, cuối cùng Ngài đạt được sở nguyện của mình là thành tựu giác
ngộ.
Sau khi giác ngộ, trải qua trên 45
năm Ngài đi khắp nơi để giảng giải những phương pháp mình đã thấu triệt cho tất
cả chúng sanh noi theo tu hành. Từ đó nhân gian có Phật pháp và ngày nay chúng
ta mới có kinh điển để học tập, nghiên cứu, hành trì. Ở đây chúng tôi muốn nêu
lên một vài lời dạy mà vị giáo chủ của chúng ta đã giảng dạy.
Ngài dạy “Hỡi các đệ tử, ta khích lệ
các ngươi, mọi pháp hữu vi đều biến hoại, hãy tích cực phấn đấu”. Đây là lời dạy
phổ thông, hầu hết người con Phật ai cũng thuộc. Đức Phật khích lệ chúng ta đối
với các pháp hữu vi sẽ hoại diệt, tất cả hãy phấn đấu. Những gì chúng ta có đây
đều bị vô thường chi phối, không ai thoát khỏi. Ngài khuyên tất cả phải gắng gổ,
phấn đấu. Phấn đấu làm gì? Phấn đấu để làm sao trong sự đổi thay, chi phối lớn
lao đó mình vẫn an nhiên giải thoát. Chúng ta nhắm coi có làm được việc đó hay
không?
Sự đổi thay lớn lao trong cuộc đời
luôn là vận hành xưa nay không thay đổi. Mỗi chúng ta cảm nhận thế nào về sự
hiện diện của mình? Sinh ra, lớn lên, già nua, cuối cùng là chết. Đây là kết quả
mà không một ai ưng ý. Chúng ta không bao giờ muốn chết, cả những người bệnh
hoạn cũng không muốn chết. Trừ những người gặp nỗi thống khổ quá lớn lấn áp,
không muốn sống nữa thì nói muốn chết, nhưng khi cái chết đến họ cũng sợ sệt,
hốt hoảng. Nói chung chúng ta không làm chủ được cái chết. Mà chết là gì? Là sự
đổi thay, mất mát hoàn toàn sự sống trong đời này.
Sự sống được sắp đặt theo phúc duyên
của mỗi người như thế nào thì chúng ta chấp nhận như thế ấy, chứ không hề có sự
phấn đấu nào, bây giờ đức Phật dạy chúng ta phải phấn đấu. Phấn đấu để thay đổi
trục xoay đưa đẩy chúng ta đến chỗ diệt vong mà chúng ta không làm chủ được.
Phấn đấu như thế nào? Phấn đấu học đạo, phấn đấu học thiền để chúng ta nhận ra
tánh giác của chính mình. Nhận và sống được với tánh giác thì khi đó mình làm
chủ được, không bị lay chuyển bởi những đổi thay trước mắt.
Tại sao ta phải phấn đấu? Vì từ lâu
lắm rồi, có thể nói là chúng ta không sáng suốt, chỉ hài lòng chấp nhận những gì
ta có đây. Ví dụ chúng ta sanh ra trong hoàn cảnh gia đình khá giả, có cuộc sống
đầy đủ, ta cũng cứ yên lòng như thế. Giả dụ như gia đình dần dần sa sút, dẫn đến
kiệt quệ ta cũng cứ yên lòng như thế, không hề có sự phấn đấu nào để đổi thay,
gầy dựng một tình trạng khác tốt đẹp hơn. Đó là do chúng ta thiếu năng lực,
thiếu sáng suốt, cứ chấp nhận an bày như thế. Thường thì người ta nói định mệnh
nhưng thật ra đó không phải là định mệnh, mà chỉ vì con người quen yếu đuối,
quen chấp nhận, không chịu phấn đấu để vươn lên.
Phật dạy: Đối với các hiện quả, chúng
ta biết rằng đó là những hậu quả do mình gây ra từ trước. Bây giờ chúng ta sẵn
sàng trả, và đừng gây thêm những nợ nần như thế nữa. Muốn dừng được phải có trí
lực, có sự sáng suốt và quyết tâm. Ví dụ như người lỡ nghiện thuốc, biết hậu quả
sẽ đưa đến lủng phổi, nám phổi, ho lao… bây giờ quyết tâm không hút thuốc nữa.
Đây chính là tu. Tu có nghĩa là sửa. Cái gì không cần thiết, không mang lại sự
xứng hợp thì chúng ta bỏ, sửa lại. Lỡ gây ra nhân đưa đến những hậu quả không
tốt, không an lạc, chúng ta sẵn sàng trả, không kêu ca, than trách gì hết nhưng
phải chuẩn bị cho mình nhân mới không như thế nữa.
Đức giáo chủ dạy chúng ta phải phấn
đấu tu tập. Đối với tất cả các pháp giữa cuộc đời này, đừng bao giờ nói rằng nó
kéo lôi, nó dụ hoặc, nó làm lầm mê tôi. Chúng ta đừng bao giờ nói lời như thế mà
phải khẳng định mình có trí lực, có khả năng, có tinh thần và có quyết tâm.
Quyết tâm làm gì? Quyết tâm phấn đấu, những nhân gì đã gây tạo làm cho chúng ta
bị trôi giạt như thế thì chúng ta không gây nữa. Trong lòng lúc nào cũng nung
nấu một tinh thần tích cực, sáng suốt, có thế ta mới làm chủ được thói quen của
mình. Những thói quen xoàng xỉnh thấy như không có gì đáng kể, nhưng nếu không
có trí lực thì chúng ta không làm chủ được, cuối cùng thói quen đó sẽ thúc đẩy,
kéo lôi chúng ta. Từ đó gây tạo nghiệp tập để rồi cuối cùng chúng ta bị xoáy
trong vòng lẩn quẩn. Nhân như thế, quả như thế mà không có một lối thoát.
Người con Phật phải sáng suốt bình
tĩnh, nhận định thấu suốt mọi sự trong cuộc đời này đều từ nơi ta mà ra, chứ
không do ai hết. Tốt hay xấu, khổ hay vui là do tự chúng ta. Nếu ta không gây
nhân khổ, không làm điều ác thì không bị quả báo khổ, đó là điều tất yếu. Nhận
định như vậy rồi, dù hiện tại cuộc đời này ta khổ đau, thiếu thốn mọi mặt nhưng
quyết tâm phấn đấu không gây thêm nhân đau khổ nữa. Khi trả hết nợ nần này rồi
ta sẽ bình an. Đó là niềm vui là sự phấn khởi lớn lao của người biết tu tập.
Chúng ta không cần phải bay lên hay
lặn vào lòng đất để biết về cuộc đời. Thưa quí vị! Không cần thiết. Ngay bây giờ
chúng ta làm chủ được đối với tất cả các pháp, không để bị kéo lôi, không gây
nhân đau khổ để bị loay hoay lẩn quẩn trong vòng điêu linh trôi giạt nữa là vui
rồi. Ví dụ mỗi ngày ta không nói lời ác để bị hậu quả của cái miệng kéo lôi
trong vòng luân hồi là ta đã tu được cái miệng. Ta không nghĩ điều gì sai trái
để kết nhân thành những hậu quả xấu, bị thúc đẩy chịu những điều bất như ý là ta
tu ngay tâm rồi.
Mỗi người con Phật chúng ta ai nấy
đều ý thức và tu hành được như vậy thì Niết-bàn an vui ngay hiện tại chứ còn tìm
ở đâu nữa. Niết-bàn đó ngay từ bước đi, trong giấc ngủ, trong bữa ăn, trong sự
tiếp xúc, nói chuyện với khách, trong tất cả sinh hoạt, lúc nào cũng có
Niết-bàn, vì chúng ta không vướng mắc bất cứ việc gì. Chúng ta không bị thói
quen, không bị những lầm mê dẫn dắt khiến nói năng, hành động sai quấy, là chúng
ta tu đúng theo lời Phật dạy, đảm bảo sẽ được an vui, khỏi cầu nguyện khấn vái
gì ở đâu. Nếu người con Phật nhận được như vậy sẽ an vui tức khắc. Nếp nhăn nhó
bực bội, sự tăm tối tiêu cực trong dáng mặt, cử chỉ sẽ không còn nữa. Đổi lại
chúng ta là người sáng suốt, bình tĩnh, làm chủ được mình, không để bị động bởi
những nghĩ ngợi, nói năng, hành động của mình. Lúc nào ta cũng an nhiên trong
phong thái bình thường thanh đạm. Đó là Niết-bàn hiện thực mà người con Phật có
thể nhập được bất cứ lúc nào, ở đâu.
Tóm lại tất cả mọi người, không kể
trí ngu, sang hèn, nếu thành tâm cầu đạo, ăn năn sám hối thì đều có thể tu hành
và chứng đạo, trở thành bậc Thánh giữa chúng sanh và chứng được Niết-bàn tại cõi
thế. Tất cả chúng ta đây ai nấy đều ý thức được như vậy qua lời đức Phật dạy,
đều gắng gổ phấn đấu đừng gây tạo nghiệp nhân xấu ác nữa. Sám hối ăn năn là tự
khắc, tự hứa với lòng mình, từ nay những suy nghĩ nói năng, hành động gì sai thì
tuyệt đối không làm nữa. Quyết tâm siêng năng liên tục hành trì theo phương pháp
Phật dạy. Được vậy đảm bảo người đó hiện tại được an lạc, nghĩa là nhập Niết-bàn
giữa cõi thế, không nói thời gian hay chỗ nơi.
Kiểm lại ý nghĩ, ngôn ngữ, hành động
của mình, những gì sai trái từ trước, sám hối cắt đứt không cho tái phạm nữa.
Ngay bây giờ sống hồn nhiên, tự tại, làm chủ được đối với tất cả sinh hoạt, đó
là một cách tu. Tu như thế không gây một sự trở ngại nào trong cuộc đời này hay
trong sinh hoạt gia đình của mình, miễn làm sao giác ngộ, nhẹ nhàng thảnh thơi,
giải thoát là được. Bởi vì Phật là giác ngộ, ai giác ngộ được như Phật đều gọi
là Phật.
Nhưng bây giờ chúng ta chưa giác ngộ
như Phật mà chỉ giác ngộ năm ba mươi phần trăm thì chúng ta là con Phật, chúng
ta là Phật tử. Kiểm lại trong lòng chúng ta có được giác ngộ khoảng chừng năm ba
mươi phần trăm thì chúng ta xứng đáng là Phật tử rồi. Ai gặp mình nói chị là
Phật tử ta yên lòng. Ờ tôi là Phật tử, tôi đang hành trì, đang thực hiện lời
Phật dạy, tôi đã có những giác ngộ chút chút như vậy. Và nuôi một quyết tâm rằng
tôi sẽ giác ngộ hoàn toàn, chắc chắn như vậy, không có con đường khác. Giống như
nhà mình chỉ có một cửa, từ cửa đó đi vào và cũng từ đó đi ra chứ không có cửa
nào khác. Ta là Phật tử, Phật giác ngộ hoàn toàn thì ta cũng dần dần được giác
ngộ như Phật.
Kinh Pháp Hoa nói những đồng tử bé
thơ, trong lúc giỡn chơi với nhau, đùa cát nắn thành tháp Phật, tượng Phật, vẽ
chữ Nam Mô Phật, Phật đều thọ ký cho những đồng tử này về sau sẽ thành Phật.
Chúng ta đã vượt hơn những đứa bé đó, đã trưởng thành, đã giác ngộ được năm sáu
bảy mươi phần trăm rồi thì nhất định chúng ta sẽ thành Phật. Nhiều Phật tử tu
theo đạo Phật mà nghe nói giác ngộ là ngán lắm. Nói con tu gieo duyên vậy thôi,
chứ chuyện giác ngộ không biết tới chừng nào? Thưa quí vị, giác ngộ không phải
việc bên ngoài, của ai cho mà tự trong lòng mình. Thí dụ từ trước ta thấy cái gì
đẹp thì mê thích, đắm trước, chạy theo muốn đoạt cho được. Đó là việc làm của
người mê. Bây giờ cũng sự việc như vậy mà mình bình tĩnh, không tham đắm, không
chạy theo, đó là tinh thần của người giác. Từ đó suy gẫm ra thì đối với tất cả
cảnh tham, cảnh sân, cảnh si, những buồn vui được mất, ta đều bình thường, không
để niệm dấy lên tức mình đã giác. Cứ thế mà giác cho đến khi nào giác ngộ hoàn
bị mới thôi.
Khi đã kiên thệ như vậy rồi dù hiện
tại có như thế nào, chúng ta cũng vượt qua. Theo gương đức Thế Tôn, một khi đã
tuyên thệ ngồi thiền định dưới cội Bồ-đề, bao giờ giác ngộ mới thôi, quyết không
đứng dậy khi chưa thành tựu sở nguyện. Chúng ta cũng thế, quyết tâm tu và tu
đúng theo phương pháp Phật dạy thì bao giờ làm chủ được mình và làm chủ được tất
cả các pháp mới thôi. Hiện tại được người cung kính quí trọng cũng tốt, bị người
khinh thường hủy nhục cũng chẳng sao. Giả dụ như có một cái thân khỏe mạnh tốt
đẹp ai thấy cũng cung kính, không phải đi bác sĩ thuốc men gì hết, tu cũng tốt.
Nhưng nếu mang cái thân bệnh bướu sắp chết trong một vài tháng tới đây cũng cứ
bình thường. Tinh thần đó là tinh thần của người có trí lực toát ra từ công phu
áp dụng lời Phật dạy.
Nói điều đó cho thấy rằng hiện tại
chúng ta có thể nhập được Niết-bàn. Nó không phải là cái gì mơ hồ, chỉ nói nghe
cho vui mà là một hiện thực cụ thể ta có thể áp dụng, suy nghiệm, thể nhập một
cách thấu đáo để làm chủ được tất cả các pháp. Phật là giác ngộ, ai giác ngộ
được như Phật đều là Phật. Cho nên đã có nhiều Phật trước đức Phật Thích Ca và
cũng sẽ có nhiều vị Phật ra đời kế tiếp. Những vị Phật ra đời kế trong đó có
mình, quí vị có dám nghĩ như vậy không? Đức Phật Thích Ca nhập Niết-bàn tính đến
bây giờ đã hơn 2500 năm rồi, chúng ta là những vị Phật tử hiện tại. Đảm bảo khi
giác ngộ hoàn toàn chúng ta sẽ là Phật.
Bây giờ còn là Phật tử, phạm vi giáo
hóa của quí vị không được rộng rãi. Ban đầu từ trong gia đình, việc tích cực tu
học của mình sẽ ảnh hưởng tốt đến người thân. Dần dần kết quả tốt sẽ ảnh hưởng
đến xóm làng, xã hội, đất nước… rồi khi giác ngộ hoàn toàn chúng ta nói ai cũng
nghe hết. Các vị tu hành chân chánh không có quyền lực chi hết, nhưng quả thật
một người đạo cao đức trọng nói ra lời gì ai cũng thích thú, cũng làm theo vì
đều có sự phấn khởi vui vẻ an lạc. Con đường tu hành là như vậy.
Như tôi đã nói trước đức Phật Thích
Ca Mâu Ni có nhiều đức Phật. Điều này về phương diện lịch sử không sai tí nào.
Bởi vì đức Phật Thích Ca Mâu Ni là đức Phật thị hiện trong thế giới hiện tại,
còn trước nữa đã có nhiều đức Phật ra đời thị hiện giáo hóa chúng sanh trong
những cõi nước khác. Vậy thì chắc chắn ở tương lai cũng sẽ có rất nhiều vị Phật
ra đời để tiếp tục con đường giáo hóa độ sanh, trong nhà thiền gọi là nối đèn
tiếp lửa.
Dưới cái nhìn của đạo Phật, nếu chúng
ta biết sử dụng trí tuệ chân thật thì như các Thiền sư nói nấu cát thành cơm.
Nghĩa là ai cũng có thể thành Phật, ai cũng là Phật sẽ thành. Phật chỉ dạy chúng
ta con đường tu tập để chấm dứt mọi đau khổ. Đối với cái nhìn của người con Phật
các pháp do nhân duyên sinh, nhờ nhiều nhân tố mà nó hình thành. Biết rõ tất cả
các pháp do nhiều nhân duyên sinh như vậy, là người nắm được then chốt để chấm
dứt sự khổ đau.
Người tu hành đúng theo lời Phật dạy,
sẽ đoạn tận được sự khổ. Vì sao? Vì các pháp do duyên sanh nên không thật, đã do
duyên sanh thì cũng do duyên diệt. Chúng ta còn có mặt ở đây, đầy đủ những duyên
tốt hợp lại nên việc tu tập tiến triển thuận lợi. Đến lúc nào đó duyên tốt không
hội đủ nữa thì nó sẽ hoại diệt. Người nhận ra được như vậy sẽ bình tĩnh giữa
cuộc sống, bình tĩnh luôn lúc mình bị mất mát. Người tu hành chân chánh thấy rõ
đạo lý, sẽ không còn khóc lóc bi lụy khổ đau khi thân này gặp tình huống xấu,
người ấy sẽ bình thường vì tự làm chủ được. Đó là bước đầu.
Kế tiếp, theo tinh thần thiền chúng
ta tu tập để nhận ra tánh giác là cái không bị sanh tử chi phối, không bị động
bởi hiện tượng sanh diệt. Phật bảo tất cả chúng sanh đều có tánh giác, nếu chịu
khó tu tập sớm muộn gì mình cũng sẽ nhận được nó. Ở đây Phật luôn luôn nhắc nhở
hàng đệ tử rằng tự ta làm cho mình trong sạch hoặc làm cho mình nhơ bẩn, không
ai làm cho ai trong sạch hoặc nhơ bẩn cả. Chúng ta ý thức rõ ràng sự tốt đẹp
cũng từ mình và sự xấu xa cũng từ mình mà ra. Nếu làm điều xấu ác là tự ta làm ô
nhiễm mình. Dù ta có chỗ tựa nương nhưng vẫn không được ai che chở đâu. Ví dụ
mình là đệ tử Phật, ta nghĩ Phật giác ngộ hoàn toàn, ta giác ngộ được bao nhiêu
phần trăm là có điểm tựa, nên cứ làm càn điều xấu, điều ác thì chắc chắn chúng
ta chuốc lấy quả khổ vì tự ta làm ô nhiễm mình rồi. Cho nên Phật dạy, tự mình
làm điều ác là tự làm ô nhiễm mình. Tự mình không làm điều ác là tự thanh tịnh
mình. Thanh tịnh hay không thanh tịnh đều do mình, không ai làm cho ta thanh
tịnh hay ô nhiễm được.
Hiểu rõ như vậy để chúng ta phấn đấu.
Giả dụ bây giờ mình chưa được hoàn bị thì cố gắng phấn đấu. Theo lời đức Phật
dạy, giới Phật tử chúng ta có cách thức tu hành, có thể áp dụng được đạo lý
trong đời thường, những lúc bận rộn với nhiều mối tương giao. Chúng ta biết một
cách rõ ràng, không ỷ lại, không đổ thừa cho ai. Tại mình gây tạo những điều ác
nên bây giờ vui lòng nhận quả xấu. Nếu ta vui vẻ phấn đấu làm những điều tốt thì
sẽ hưởng những quả phúc an lành. Phật tử ở nhà tu cũng được, tu trong mọi thời,
mọi sinh hoạt, chớ không nhất thiết vào chùa mới tu được.
Phật dạy người con Phật phải tự tin
nơi mình, nơi khả năng có thể thành tựu giác ngộ giải thoát tối hậu của mình. Đó
là lời cả quyết rằng chúng ta có thể tu tập để được giác ngộ tối hậu như đức
Phật. Thế Tôn chỉ là bậc đạo sư đã thể nghiệm được như vậy, chỉ dạy những phương
pháp để chúng ta cùng thể nghiệm như Ngài. Phật không thể thay mình giác ngộ hay
đọa vào địa ngục được. Tự mình tin nơi khả năng của chính mình để được giác ngộ.
Chỉ nội niềm tin này nếu người tu chúng ta vững tin thì không bao giờ có hiện
tượng mê tín dị đoan hay là cầu cúng gì khác. Bởi ta biết rõ những thứ bên ngoài
không thật. Cái thật ở tự nơi tâm của mình. Tinh thần tu tập của Phật dạy là như
thế.
Trong những ngày cuối cùng, đức Phật
dạy thị giả A Nan rằng: “Hãy dựa vào bản thân mình như là ngọn đèn sáng cho
chính mình, hãy dựa vào sức của bản thân mình là chính, hãy dựa vững vàng vào
chính pháp, đừng tìm một chỗ dựa nào khác ngoài bản thân mình”. Hoặc Thế Tôn dạy
tất cả chúng ta “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên từ chánh pháp”. Khẳng
định bước đi của mình, không nên ỷ lại cầu cạnh những gì bên ngoài. Đó là ý
nghĩa lời dạy trong những phút giây cuối cùng, Ngài đã đinh ninh dặn dò chúng ta
như vậy. Nói như Thiền sư thì mỗi người đều có một tâm thể rỗng rang sáng suốt,
hay có tánh giác sáng suốt trùm khắp. Người biết tu là người sống và nhận lại
được tánh giác của mình.
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh con
người có đầy đủ bản chất hướng thiện đồng thời có đầy đủ khả năng tự hoàn thiện
mình. Tự mình cố gắng phấn đấu sẽ được giác ngộ giải thoát. Tự mỗi người cố gắng
phấn đấu làm sao để mình hoàn toàn được giác ngộ, giải thoát. Vì bản chất mình
có sẵn khả năng đó khỏi phải tìm cầu bên ngoài. Đức Phật không phải là nhà cách
mạng. Tuy nhiên đức Phật không tán đồng chế độ đẳng cấp của xã hội Ấn Độ lúc bấy
giờ. Cho nên giáo hội mà đức Phật thành lập tức giáo hội Tăng già, những người
đệ tử của đức Phật đã giác ngộ giải thoát, đứng trong hàng ngũ Tăng già, lấy sự
hòa hợp làm điểm tựa để sinh hoạt.
Trong giáo hội không có đẳng cấp. Như
Phật nói, người sang người hèn dù ở giai cấp nào nếu biết tu, biết tỉnh giác đều
có thể gia nhập giáo hội của Phật. Ấn Độ thời đó có bốn giai cấp: Giai cấp tu
sĩ, giai cấp vua chúa, giai cấp những người buôn bán và giai cấp nô lệ. Mỗi giai
cấp sinh hoạt riêng rẽ, nhất là những giai cấp hạ tiện ở dưới thì không có quyền
sinh hoạt tương đồng như những giai cấp trên. Trái lại đối với giáo đoàn do đức
Phật thành lập, Ngài không chấp nhận như vậy. Ngài nói ai cũng có Phật tánh, nên
ai cũng có khả năng thành Phật. Vì vậy trong giáo đoàn của đức Phật các giai
cấp hoàn toàn bị xóa bỏ. Người đệ tử có uy tín, nắm giềng mối giới luật của thời
đức Phật là Tôn giả Ưu Ba Ly. Ông xuất thân trong dòng hạ tiện, là người làm
thuê, thợ cắt tóc.
Đạo Phật chú trọng đến đời sống đạo
đức, giới luật, công đức, trí tuệ, không chuộng những hình thức bên ngoài của xã
hội, của con người. Xã hội của Phật là một xã hội bình đẳng tuyệt đối, bình đẳng
vô duyên, tức là không có một duyên cớ nào, không có một chiều nào hết, như nước
trăm sông đổ về biển, tất cả những dòng cũ không còn nữa, khi đó chỉ là biển cả.
Trước khi gia nhập giáo hội chư vị Tỳ-kheo thuộc dòng này phái kia, sau khi gia
nhập giáo hội tất cả đều hướng đến một mục đích là giác ngộ giải thoát. Tất cả
những tỵ hiềm riêng tư cố thủ không còn nữa mà bây giờ là giác ngộ, giải thoát.
Đây là một tinh thần vừa khiêm hạ vừa
phóng khoáng, lớn lao đặc biệt của giáo hội Phật giáo. Đức Phật thu nhận tất cả,
không phân chia ranh giới biên cương, ai gia nhập vào giáo hội rồi đều lấy việc
tu tập để được giải thoát làm chính. Cái đến của tăng sĩ Phật giáo là đỉnh cao
của sự giải thoát. Cởi bỏ những riêng tư ràng buộc, hoàn toàn thể nhập vào thể
tánh trong lặng, mênh mông trùm khắp. Ai sống được như vậy người ấy sẽ tươi tắn,
hạnh phúc vì luôn an trụ trong Niết-bàn.
Có lần tôi được nghe và nhìn qua hình
ảnh ghi lại cách sinh hoạt của các nước văn minh có Phật giáo. Các vị tôn túc
nơi ấy tổ chức cho Phật tử khắp nơi tu trong vòng một tuần lễ. Tổ chức này nhận
đơn tất cả mọi người trên thế giới, không luận ở đâu, miễn tuần lễ đó về đạo
tràng đúng giờ và thực hiện đúng qui chế theo sự sắp đặt của ban tổ chức. Các vị
từ khắp nơi về làm lễ nhập khóa, xuống tóc, thọ giới, tu trì và được các vị tôn
túc hướng dẫn trong thời gian đúng một tuần lễ. Hết tuần lễ mọi người trở lại
công việc của mình.
Điều tôi cảm nhận qua hình ảnh tu tập
tuy ngắn ấy nhưng có kết quả rất thiết thực. Giây phút trước khi mọi người chia
tay trở về, ai nấy đều cảm động. Tất cả đều hứa hẹn sẽ sắp đặt, dành dụm thời
gian để trở lại tu tập, sống đời sống thánh thiện như thế dù chỉ trong thời gian
ngắn ngủi. Những vị này chưa phải là các đức Phật có thần thông, chưa phải là
những Thiền sư có năng lực trong việc giáo hóa chúng sanh, nhưng họ nói lên tâm
khảm của mình qua thời gian tu tập một tuần lễ thật đầy xúc động vì sự an lạc mà
họ có được. Chia tay trong tình thân thương với một tâm trạng sáng suốt, nguyện
kết duyên với nhau để được tu theo Phật pháp cho đến khi hoàn toàn giác ngộ mới
thôi.
Trong hoàn cảnh xã hội văn minh tiến
bộ, trong sự sống thụ hưởng vật chất như ngày nay mà còn có rất nhiều người biết
cách tu tập, ham thích tu tập, đó là điều đáng khen và đáng mừng. Nếu trong thời
gian một tuần ấy, họ không tu tập mà làm những điều xấu ác thì thật là tai họa
cho nhân loại biết chừng nào. Tôi thấy đạo Phật ngày nay có phần lạc quan lắm.
Nhiều người nói việc tu lắm. Vâng! Khó lắm chớ đâu phải dễ. Nhưng với những hình
ảnh và con người có thật như tôi vừa nêu, bằng những phương pháp khoa học, họ có
thể vừa tu tập vừa hướng dẫn những anh em đồng chí của mình cùng tu tập, cùng
đầu tư vào trong ngôi nhà đạo Phật thì thật là hay!
Ngôi nhà đó đức giáo chủ chúng ta đã
gầy dựng cho tới ngày hôm nay, trong phút giây làm lễ kỷ niệm ngày đản sanh của
Ngài, hàng Phật tử chúng ta cảm thấy bồi hồi xúc động vô cùng. Nếu không có đức
Phật, không có những kinh nghiệm, những phương pháp do Thế Tôn truyền dạy lại
thì giờ này không biết chúng ta ra sao, làm gì, ở đâu? Có ánh sáng trí tuệ và từ
bi của Phật soi rọi, nhân loại ngày nay mới có thể dừng được những bước ngông
cuồng thác loạn của mình bên bờ vực thẳm của vô minh và khổ đau.
Thế nên dù chúng ta chưa hoàn toàn
giác ngộ, nhưng đã là Phật tử, chúng ta biết sợ nhân xấu, không gây nhân bất
hảo, biết áp dụng lời Phật dạy nên đã phần nào đóng cửa các nẻo ác, mở cửa các
đường lành. Đạo Phật là đạo thanh tịnh giải thoát, cao quý của tất cả mọi người,
mọi loài, ai cũng có thể gia nhập được. Phật dạy: Không luận ai, nếu người giác
ngộ hoàn toàn thì người đó là Phật, nếu giác ngộ được năm sáu mươi phần trăm là
Phật tử. Như vậy trong số ấy có chúng ta. Nói cho cùng chúng ta sẽ giác ngộ từ
từ, và tự khắc tự hứa, nguyện sẽ nương nhau đùm bọc nhau để cùng đi đến giác ngộ
hoàn toàn như vị giáo chủ của mình.
Phật dạy: “Hỡi các Ty-kheo, cũng như
các con sông lớn khi chúng đổ vào biển thì chúng mất tên gọi cũ và được gọi
chung là biển cả”. Đây là câu kết lại những điều tôi nói ở trên. Tất cả chúng ta
là phàm phu, nam hoặc nữ, sang hèn, có địa vị hay không địa vị trong xã hội này,
nhưng đã là con Phật, tu theo Phật, tất cả những gì riêng tư trước đó chúng ta
bỏ hết để cùng vào trong biển cả mênh mông, trong tánh giác trùm khắp, trong trí
tuệ Phật. Người con Phật lúc nào cũng hăng say tích cực phấn đấu cho trọn vẹn
tinh thần giác ngộ mới vừa lòng, mới xứng hợp là người con Phật.
Trong ngày đại lễ kỷ niệm đản sinh
của đức Phật, chúng ta không có gì cúng dường cho xứng đáng với công ơn trời
biển của Ngài, ngoài mỗi một việc là cố gắng tu tập để được giác ngộ giải thoát
như đức Phật. Nếu không có Ngài thì không có sự giác ngộ, không có sự giác ngộ
thì không biết bây giờ chúng ta tăm tối đến thế nào? Với tâm thành tri ân công
đức không gì tính kể của đấng Thế Tôn, chúng ta tự khắc, tự hứa đùm bọc nhau
cùng thực hiện tinh thần giác ngộ ấy để dâng lên cúng dường đức Phật trong ngày
kỷ niệm này.
Đức Phật là người không nhà học đạo,
từ bỏ tất cả quyến thuộc chỉ chuyên tâm vào việc thiền định mới đạt được Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chúng ta cũng thế, noi gương Như Lai từ bỏ tất cả
tham sân si, cố gắng phát huy trí tuệ tiêu trừ những si mê điên đảo vọng động từ
bao đời. Đó là ta phá vỡ căn nhà tăm tối, gia nhập vào giáo hội thanh tịnh giải
thoát, là đệ tử Phật. Chúng ta dẹp bỏ hết những riêng tư để mở rộng trí tuệ Phật
của mình. Càng mở rộng trí tuệ Phật ta càng an lạc giải thoát. Khi ấy mọi người
chung quanh ta cũng an lạc giải thoát.
Không luận kẻ trí người ngu, kẻ sang
người hèn, nếu thành tâm cầu đạo, thành tâm học đạo và áp dụng đạo thì giữa cõi
đời này người đó là người trong sạch, là tu sĩ, là người đạt đạo. Với tâm thành
cầu đạo khẩn thiết, với sự tu học dưới sự chỉ dạy của bậc đạo sư, chúng ta không
còn là những cá nhân riêng tư, mà tất cả sống chung trong ngôi nhà Phật pháp với
tinh thần lục hòa cộng trụ, vui vẻ hoan hỷ tu tập để được thành tựu rốt ráo viên
mãn như đức Phật.
Trong ngày này tất cả người con Phật
đều khởi tâm hướng về vị giáo chủ. Ai nấy đều thâm tạ thâm ân của Ngài. Bởi vì
nếu không có đạo giải thoát thanh tịnh do Ngài truyền lại thì chúng ta còn chìm
đắm trong những nỗi khổ đau bất tận. Hiện tại chúng ta chưa hoàn toàn hết khổ,
nhưng đã nắm vững phương pháp, thấy rõ những việc cần thiết mình phải làm, nên
đã phần nào tự thanh tịnh lấy mình, không để ô nhiễm với trần cảnh như trước
nữa.
Tất cả Phật tử đều biết muốn thành
Phật cũng do mình, muốn lang thang trong vòng luân hồi cũng do mình. Thế nên tự
mình yên lòng, không còn phải băn khoăn lo lắng gì nữa. Càng được bình an thì
càng thấy ân của vị giáo chủ vô cùng tận. Cho nên trong ngày kỷ niệm này, tất cả
chúng ta nguyện dâng lên đức Phật thành quả tu tập của mình, cúng dường đúng
chánh pháp. Đồng thời chúng ta phát nguyện luôn là người Phật tử xứng danh.
Trong quá trình tu tập tuy gặp những khó khăn, nhưng ước nguyện duy nhất của
chúng ta là phải giác ngộ như Phật mới vừa lòng con.
HƯỚNG NGUYỆN THÀNH PHẬT
Phật
Đản 2000 – 2544
Mục đích duy nhất của người tu Phật
là hướng về đạo Vô thượng Bồ-đề. Tất cả niệm hướng của chúng ta là niệm hướng tu
hành để thành Phật, ngoài ra không mong cầu gì khác.
Trong từng bước tu tập, mỗi người
phải trang trải những nợ nần oan khiên nghiệp báo nhiều đời… Tùy phần tùy phúc
mà công phu có sai biệt, nhưng cuối cùng đều hướng về một mục đích là thành
Phật. Như Phật tử tu Tịnh Độ niệm Phật A Di Đà cầu được vãng sanh về thế giới
Cực Lạc, đó là hướng nguyện duy nhất của người tu Tịnh Độ. Nhưng các bậc Tông sư
tông này cũng có lời dặn thế này: Những vị tu hành đắc lực, khi lâm chung Phật A
Di Đà hoặc hai vị đại Thánh phụ tá là Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí đến
để rước. Nhưng hành giả nên cảnh giác, có khi trước Phật A Di Đà hoặc hai vị đại
Thánh phụ tá của Ngài đến đón thì lại có những cảnh giới khác lạ hiện ra, liệu
xem hành giả có vững tâm không bị lung lay, bởi những cảnh giới khác, nếu khởi
niệm thích thú tướng trạng lạ là rơi vào quần tà.
Chỗ này là chỗ ách yếu của công phu.
Nếu người không vững tâm, chạy theo cảnh giới bên ngoài thì Phật A Di Đà hoặc
hai vị đại Thánh phụ tá không đến kịp. Nói không đến kịp là một cách nói thôi.
Thật ra vì công đức, sự trang nghiêm của chúng ta chưa đúng mức nên Phật A Di Đà
và Bồ-tát chưa hiện ra. Nếu trước đó đôi phút, có những đoàn khác cũng trang
nghiêm, rực rỡ đến rước. Khi đó người không đủ nội lực vững vàng sẽ dễ bị lầm.
Chỉ một phút giây lầm là đi theo con đường khác, không biết chừng nào trở lại.
Riêng người tu thiền bắt buộc phải
đầy đủ thực lực. Đường đi nước bước đều do mình tự quyết. Đường nào tự tại, sáng
suốt thì ta đi. Đường ta tự tại thênh thang nhưng không có ai đón rước đâu. Nếu
người không có nội tại, không trang nghiêm chính mình, e lúc ấy phát sinh những
móng khởi lung tung thì không đi được con đường tự tại. Trong nhà thiền nói
“Đường đi của người tu thiền là đường tự tại, độc lập, đi mà không bị nghiệp
dẫn. Đi trong tinh thần rỗng rang sáng suốt. Muốn thế trong cuộc sống, sự tu tập
hằng ngày của chúng ta làm sao luôn tỉnh giác, vững tâm đối với tất cả những
cảnh duyên dù tốt hay xấu, thuận hay nghịch.
Thời đại của chúng ta hiện nay, đôi
khi cái giả lại sáng sủa hơn cái thật. Quý vị nào thường đi chợ thì biết, hoa
giả đẹp hơn hoa thật. Người ham thích cái đẹp hào nhoáng bên ngoài thì dễ bị
lầm, dễ vướng kẹt lắm. Một khi ta đã bị lầm, đã vướng rồi, một thời gian quay
nhìn trở lại không hẹn, không biết chừng nào mới gỡ ra được! Trong cuộc sống
hiện tại ta thường được như ý thì khi gặp điều gì đó mắc mứu, ta tháo gỡ khó
khăn ghê lắm, phải không? Dù chỉ là một niệm thôi nhưng đã vướng rồi thì việc
buông bỏ, tiêu dung rất khó, không giản đơn chút nào hết. Vì vậy người tu Phật
phải thấy được nguyên nhân, dè dặt tu tập ngay từ nguyên nhân, đừng để vi phạm
về sau rất khó sửa đổi. Tu như vậy mới đảm bảo.
Chư Phật thường dạy ta nên sợ và tu
từ cái nhân, đừng để thành quả thì dù có run rét cầu khấn Phật, Bồ-tát cứu rỗi
cũng không thể được. Tinh thần của người con Phật là tu ngay từ cái gốc, sửa trị
ngay từ cái nhân. Vì vậy tinh thần tu ở các Thiền viện do Hòa thượng Ân sư chỉ
dạy là sửa ngay từ những dấy niệm. Đó là cái gốc. Những dấy niệm ban đầu nếu ta
trị sửa ngay thì làm gì có hậu quả khổ đau, đáng tiếc. Người tu Phật chân chính
không cầu khấn ai cả vì biết rõ ràng không có hiện quả nào mà không từ nhân gây
ra. Không có nhân thì không có quả. Đã gây nhân thì chắc chắn phải hưởng quả.
Phật bảo chúng sanh khi gây nhân không suy xét cho kỹ càng tới lúc quả đến lại
lo sợ!
Như người đi đêm thấy bóng của mình
chập chờn, dường như có râu ria, nanh vuốt nên hoảng sợ. Đó là vì đôi mắt không
sáng hoặc thần kinh yếu, chứ người mắt sáng, thần kinh không suy nhược thì không
bao giờ sợ cái bóng của mình. Cái bóng là gì? Là những quả báo do chúng ta gây
tạo từ nhân trước. Nếu ta không tạo nhân xấu thì không sợ. Khi biết rõ chính
mình gây tạo nhân nên quả báo đến ta sẵn sàng chấp nhận trả. Quả nào không xứng
ý làm cho mình phải ray rứt, lo lắng thì biết nhân của nó mình gây ra trong lúc
không tỉnh, nên bây giờ chấp nhận thế thôi, không than vãn, không đổ thừa cho ai
hết. Vui vẻ trả. Trả trong tinh thần tỉnh sáng, khiêm tốn, trả cho sạch hết. Đó
là người tu Phật nắm vững lý nhân quả.
Tất cả những việc làm có công đức,
chúng ta đều hướng nguyện thành Phật, không cầu gì khác. Thành Phật là giác ngộ.
Giác ngộ đó là giác ngộ tự tâm. Ví dụ bây giờ ta tổ chức một chuyến đi ủy lạo
những người bị thiên tai. Bắt đầu chuyến đi mọi người rất hoan hỷ tích cực, chỉ
mong trao tận tay số quà cho các nạn nhân khó khổ hơn mình, không ai nghĩ gì
khác. Tuy nhiên việc làm đó có nhiều người, mà nhiều người thì nhiều ý, từ đó
phát sinh chuyện bất đồng ý kiến với nhau. Thế thì chúng ta làm sao? Mình phải
nhớ lại việc làm này vì mọi người, không phải vì mình. Tinh thần làm việc của
người Phật tử phải lấy cái Giác làm chuẩn, mà giác ngộ thì rỗng rang sáng suốt
nên ta không có vấn đề gì. Như chuyện đó đáng lẽ tám giờ phải giải quyết, nhưng
bây giờ đa số chị em nói đến chín giờ mới giải quyết được, ta cũng hoan hỷ. Đừng
có cái kiểu “Nhất định tám giờ, chín giờ không được. Chín giờ không phải là giờ
Phật, tám giờ mới là giờ Phật!” Thưa nếu sống như vậy sẽ mất hết tinh thần,
không còn cái hướng nguyện duy nhất là giác ngộ thành Phật.
Người tu thiền khi nói đến giác là
giác tâm. Tức cái tánh giác sẵn có nơi mỗi người. Tất cả chúng ta đều sẵn có
tánh giác đó. Muốn thể hiện tánh giác phải dẹp hết những góc cạnh riêng tư, ngô
ngã bỉ thử không còn nữa. Nếu để ngô ngã phát triển lớn mạnh thì tánh giác không
có cơ hội phát triển, nó bị khuất lấp, bị che mờ, giống như mặt trăng tròn sáng
nhưng bị mây mù, cây cối, đủ thứ chướng vật che khuất nên ánh sáng không xuyên
qua được. Bây giờ làm sao dọn dẹp được những chướng vật đó. Trong cuộc sống của
chúng ta, từ sự quan hệ, đi đứng, nói năng, tiếp xúc, ăn ở, bạn bè, xã hội… nếu
ta không tỉnh sống với tánh giác thì cái nào cũng che chướng, cái nào cũng làm
cho mặt trăng của chúng ta không phát ra ánh sáng được. Trái lại còn phát ra
phiền não, giận hờn, tức bực, gây gổ v.v…
Nếu chúng ta tập trung hướng nguyện
duy nhất là thành Phật, thì có thể tiêu dung được một quãng, một quá trình tu
hành khá dài. Giai đoạn mê sẽ làm cho con đường tu hành trở nên dài vô tận.
Người không biết tu, không tập trung hướng nguyện nhận và sống lại với tánh giác
của mình sẽ lê thê đi trong tam giới. Ngược lại, con đường thành Phật sẽ ngắn
ngủn với người biết sống và nhận lại tánh giác của mình. Giác và mê không có
biên cương. Chúng ta tỉnh thì nhận và sống được tánh giác. Chúng ta không tỉnh
thì trầm luân trong si mê. Như ánh sáng của ngọn đèn néon phát ra là do ta ấn
không đúng công-tắc của nó. Nếu chúng ta ấn đúng công-tắc của nó thì không bao
giờ có ánh sáng. Vậy sáng và tối chỉ do ta biết ấn nút hay không biết ấn nút. Ấn
nút sai hoặc không sử dụng được cái nút thì đành phải ở trong tăm tối, thầm lặng
như vậy. Chỉ khi nào ta sáng suốt mở đúng công-tắc thì tự nhiên ánh sáng tỏa
rạng. Thời gian đó bao lâu? Rất ngắn. Với người biết thì như vậy, còn người
không biết thì đến chừng nào? Cứ như thế mà tăm tối thôi.
Tánh giác của chúng ta cũng vậy. Phật
nói mỗi người đều có tánh giác. Nhưng ấn nút đúng nó mới hiện ra, còn ấn nút
không đúng, thì thôi tánh giác là tánh giác, mê muội là mê muội. Cuộc sống trần
ai là thế! Quả thực, khi chúng ta có chút kinh nghiệm tu tập sẽ thấy rõ ràng mê
giác không có biên cương. Một phút giây sơ hở là mê. Một sát na tỉnh thức là
giác. Vì vậy các Thiền sư dặn chúng ta lúc nào cũng phải tỉnh giác. Tỉnh giác để
quay về nhận lại, sống lại, soi rọi lại chính mình, xem những nghiệp tập, hơi
hám ô nhiễm của bản thân còn tồn đọng ở đâu thì bỏ đi, như vậy tánh giác mới
hiện tiền. Đó là tinh thần phản quan tự kỷ của thiền tông Việt Nam.
Nói tỉnh giác hay nói trí tuệ sáng
suốt không có nghĩa là chúng ta đứng giữa ngã ba đường, cầm đuốc hoặc đèn pha
thật sáng rọi người này người kia. Không phải vậy mà là tự soi rọi lại mình. Cho
nên người thực sự trang nghiêm với tinh thần duy nhất hướng nguyện thành Phật
thì cuộc sống của họ bình an thoải mái, không có vấn đề gì. Những đạo tràng hay
pháp hội ngày xưa, như đạo tràng của Tổ Quy Sơn không dưới hai ngàn người. Vậy
mà trong tổ chức này không nghe nói đến một lực lượng an ninh nào cả, cũng không
có toà án nhân dân để giải quyết những chuyện đụng chạm gì gì. Toàn đạo tràng
đều là những người cùng một hướng nguyện giác ngộ, sống với tánh giác thôi. Quả
thực khi chúng ta cùng một hướng nguyện thì không có vấn đề gì xảy ra.
Các Tổ hồi xưa thường nói hợp duyên
thì ở, không hợp duyên thì đi, bốn phương trời đều là nhà. Nơi nào thích hợp ta
đến, tự tại, không hề bị những sự kiện chung quanh trói buộc. Chúng ta ngày nay
mắc mứu nhiều việc quá cho nên tu hoài cũng chẳng tới đâu. Nào là anh em, cha
mẹ, các mối quan hệ thân tộc, bạn bè v.v… Tôi nghĩ rủi mình mà thành Phật một
cái là cả giòng họ thành Phật hết cho mà coi! Còn trì trệ loay hoay lẩn quẩn với
nhau mãi thế này thì kéo nhau xuống cả chùm, cất lên không nổi.
Muốn hướng nguyện thành Phật có thì
chúng ta cần phải thực hiện những điều kiện như sau:
Điều kiện thứ nhất là Tín tâm. Tín
tâm ở đây là khẳng định khả năng thành Phật của chính mình. Người tu phải cả
quyết như vậy. Nói thế nghĩa là chúng ta thường nghiệm lại xem công phu hằng
ngày, hướng nguyện của chúng ta có quyết định hay không? Nếu còn dễ duôi, không
vững lập trường, ta sẽ dễ dàng chạy theo các thứ khác, từ đó việc tu không đi
tới đâu. Như tôi nói hoa giả tươi đẹp hơn hoa thật, nếu người nào dễ dàng chấp
nhận như vậy thì hướng nguyện sanh về thế giới Cực Lạc đã bị một đám rước khác
đến rước trước Phật Di Đà rồi, không bao giờ được Phật A Di Đà rước.
Thành ra ở đây nói đến tín tâm tức là
nói đến sự khẳng định khả quyết của chúng ta đối với pháp tu. Nếu người chưa
quyết tâm, tuy thấy hạ thủ công phu nhưng công phu ấy không được bảo đảm đâu.
Nêu lên vấn đề này để chúng ta thấy từ xưa tới giờ, bao nhiêu người tu nhưng mấy
ai đã thành tựu được sở nguyện? Tu hành phải trải qua một quá trình dài để tiêu
trừ những nghiệp tập của mình. Chính quá trình này mới gọi là công phu. Việc tu
càng khó khăn càng dài lâu chừng nào thì kết quả càng xứng đáng, càng cao quý
chừng ấy.
Các kinh điển Đại thừa kể lại những
vị Bồ-tát trong thời tu nhân chịu đựng rất nhiều khó khổ, trải dài kiếp số tu
tập, thực hiện trọn vẹn những công phu tu hành thì kết quả tương lai mới rực rỡ.
Đức Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta cũng vậy. Thời gian Ngài
thực hành Bồ tát đạo đã chịu đựng, đã chấp nhận những gian lao, khó khổ đến phi
thường. Song song với Ngài có Bồ-tát Di Lặc cùng phát đại nguyện thành Phật,
nhưng sức chịu đựng, nhẫn chịu, công phu không bằng Ngài nên đức Phật Thích Ca
đã thành Phật lâu rồi mà Bồ-tát Di Lặc vẫn còn tu trên cung trời Đâu Suất.
Chúng ta bây giờ cũng vậy. Không phải
nói hướng nguyện thành Phật là tự nhiên thành Phật ngay đâu! Không có điều đó.
Sáng hôm nay ngồi thiền yên ổn thích thú làm sao, nhưng sáng ngày mai mới ngồi
nửa giờ là nó đau thấu trời, muốn xả cho rồi. Nếu mình không gan dạ, sức nhẫn
không có, mình kéo chân ra rồi nằm dài thì kết quả nhất định sẽ là “Tu thiền cực
khổ đau đớn quá. Thôi, kiếm cái khác tu cho nó khỏe!” Thưa, như vậy làm sao
thành Phật được?
Thành ra sự quyết tâm không thể thiếu
đối với người tu. Tinh thần này cũng rất cần thiết với người Phật tử. Trong thời
tu nhân mỗi người mỗi hoàn cảnh, sự tập hợp như thế này cũng có duyên nhiều đời
của nó. Như hôm nay cùng sinh hoạt thế này, cùng nghe pháp, cùng đến đạo tràng,
chị em gặp gỡ nhưng rồi chiều lại chia tay, mỗi người trở lại cuộc sống đời
thường của mình, kẻ ở chợ người ở quê, kẻ làm công chức người làm ruộng… đủ
thành phần, đủ nghề nghiệp. Bây giờ ta phải trang trải, phải tu tập làm sao
trong nghề nghiệp của mình. Một là trôi tròn nhiệm vụ, hai là tăng tiến công
phu. Giả như trôi tròn nhiệm vụ mà công phu không tăng tiến thì ai nhắc nhở
mình? Những duyên đó đôi khi không có. Nếu có cũng không đầy đủ. Ví dụ mình ngồi
thiền đau chân, có huynh đệ nói “Ráng lên! Chị ngồi ráng lên” thì tốt. Có người
lại nói “Chị tu làm chi cho cực vậy, thôi xả ra đi chơi với tôi cho khỏe”. Nếu
mình đồng ý đi chơi thì mất hết công phu rồi.
Trong tinh thần tu hành, chư Tổ
thường dạy sấn sước để công phu. Nghĩa là tiến bước chứ không lùi. Như cái đau
chân lúc ngồi thiền, nếu chúng ta chịu đựng một ngày hai ngày ba ngày rồi một
tháng hai tháng, dài lắm là sáu tháng nó cũng phải đầu hàng. Nhưng yêu cầu chúng
ta phải gan. Từ ngày thứ nhất cho đến trọn vẹn sáu tháng ta cứ sấn sước công phu
thì sẽ tiến được. Danh từ chuyên môn gọi là tấn đạo nghiêm thân. Nhưng từ ngày
thứ nhất cho đến ngày thứ sáu tháng, không phải là một ngày, một phút, một giây.
Nếu tính từng đơn vị thời gian thì cái đau dai dẳng lắm. Ta chịu đựng được ngày
hôm nay nhưng ngày mai nhăn mặt rồi kéo chân ra. Thế là dong ruổi theo việc nọ
việc kia. Tuy mình cũng tu vậy, nhưng bữa nay đau kéo chân ra nghỉ. Rồi lâu lâu
ngồi lại thấy đau nữa, lại nghỉ. Cứ ngồi lại thấy đau thì nghỉ. Nghỉ mãi như thế
nếu tính ra thời gian, ta tu gấp mấy lần sáu tháng nhưng vẫn không tiến chút nào
hết, nếu không nói là lùi nữa. Đó là bệnh chung của đại đa số người tu chúng ta.
Người sấn sước công phu thì sẽ vượt
qua tất cả. Không khó khăn nào có thể trụ lại hoài. Trong đời thường chúng ta
luôn luôn bị sự chi phối của vô thường, lên xuống đổi thay hoài. Biết như vậy
nhưng ta không khắc phục, để vô thường tác động mãi thì ta phải vong thân thôi.
Công đức hay hướng nguyện của người tu là làm chủ được mình, nghĩa là vòng quay
ấy không ăn thua gì tới mình hết. Ví dụ con người sinh ra, lớn lên, đứng tuổi,
già nua bệnh hoạn rồi chết, một vòng sinh trụ dị diệt thay đổi như thế. Bây giờ
với người biết tu, có công phu thì cũng sinh ra, lớn lên, cũng già bệnh rồi
chết. Nhưng trong khoảng trẻ trung, nếu chúng ta áp dụng công phu đúng với tinh
thần hướng nguyẹân thì ta không bị mắc mứu bởi thời xuân trẻ. Rồi lớn lên, trụ
lại ta cũng bình an làm chủ được, không bị động bởi giai đoạn này. Giả như tới
lúc già nua bệnh hoạn mình cũng bình thản tu hành. Cuối cùng duyên hết, thân này
tan rã ta thấy như các thiền sư nói cởi được chiếc áo mùa hạ nóng bức. Đó là ta
làm chủ được mình trước sức hút của vòng quay ấy, chứ không phải ta phủ nhận sự
có mặt của nó. Người có công phu thì thấy vô thường cứ mặc nó. Nó quay cỡ nào
mặc nó, mình bình thản. Ta không vì sức quay dữ dội của nó mà khiếp sợ hoặc bị
nó xoay chuyển. Đó là người thực hiện được công phu hướng nguyện thành Phật.
Điều kiện thứ hai là bi tâm, tức mở
rộng lòng mình ra. Mở rộng bằng cách nào? Tôi cũng đã nói nhiều lần về việc này.
Có khi mình thương người này người kia mà không thương mình. Đề nghị với quý vị
bây giờ chúng ta mở rộng lòng ra để thương ta, thương mình. Mình thương mình là
sao? Ví dụ như tôi thấy bà già của tôi đi lụm khụm tôi liền biết mai mốt tôi
cũng đi lụm khụm như thế. Có khi tôi không đủ phúc duyên sống đến lúc đi lụm
khụm như vậy. Biết vậy rồi mình phải thương mình. Thương đây không có nghĩa chấp
ngã, mà thương để nỗ lực phấn đấu làm sao làm chủ được khi mình còn có thể làm
chủ, không đợi đến lúc bó tay bó chân, miệng méo, mắt lệch, đi không nổi nữa.
Bây giờ chúng ta còn làm chủ được thì
phải tập làm chủ. Nếu mình không thương mình thì mình cũng chẳng làm gì được. Cứ
thương thiên hạ hoài chưa chắc thiên hạ thương mình đâu. Nói nghe kỳ chứ thực sự
là như vậy. Giống như bây giờ quí vị thương con của quí vị. Con mình đẻ ra mình
thương, người ta nói nó là khúc ruột của mình mà, đâu có bỏ được. Nhưng quý vị
thấy, còn nương tựa cha mẹ học hành thì còn gần gũi thương yêu, nhưng đến khi đỗ
đạt thành nhân rồi, nó lại theo cái nghiệp của nó. Nó thương người khác hơn cha
mẹ, thế là có lập gia đình, có con cái, sự nghiệp. Lúc đó quí vị cứ ôm con như
hồi còn ẵm bồng trên tay thì sẽ khổ thôi. Các bà mẹ cứ khổ dài dài trong tình
huống đó. Nó lớn lên, nó chạy xe Dream được rồi, thì dù quí vị biểu nó “Chạy
chậm lại con ơi, nguy hiểm lắm”, nó cũng không có nghe đâu. Nó chạy mù trời mù
đất, cho tới hết thấy đường tong vào thiên hạ thì tự động xe dừng lại thôi, khỏi
phải biểu. Cho nên giáo dục con cái thì cứ giáo dục, chứ không thể nào ôm giữ
mãi như cái thời nó còn bé thơ.
Thành thử bây giờ lo thương mình đi.
Nói thế không có nghĩa là tôi bảo quí vị từ bỏ bổn phận. Ta cứ làm, nợ nần vẫn
phải trả nhưng nhớ mở rộng lòng ra để tự thương mình, chuẩn bị những gì cần
thiết cho mình. Thiếu sự chuẩn bị này thì mai mốt ta đi không vững. Chỉ có ta
chuẩn bị cho mình thôi, chứ không ai khác có thể thay thế. Biết thương mình thì
ráng tu. Giả dụ đang ngồi tụng kinh mà phát ho khan mấy tiếng, mình nghĩ “Chết
rồi, cái phổi sao đây?”. Nghĩ thế càng ráng tu chứ không thể nói bệnh rồi nghỉ.
Ho khan như thế là biết bây giờ mình già rồi, chứ thời son trẻ thanh niên đâu có
ho bất tử vậy. “Cái đó” không phải cơm khô, không phải vàng khối đút trong túi
xài được. Nó vô hình vô tướng, sẵn có, nếu ta thương mình chỉ cần gợi ý để nhận
và sống lại với cái đó thôi. Thành ra giai đoạn thứ hai chúng ta phải làm sao
biết thương mình.
Điều kiện thứ ba là cương quyết tiến
thủ. Tiến là tiến tới, thủ là nắm được. Nghĩa là phải cương quyết trong sự tu
tập. Người không cương quyết khó tu tiến lắm. Hầu hết người tu muốn tu trọn vẹn,
muốn thực hiện được đạo lý thì phải dốc hết lực tu hành. Không thể vì một lý do
gì, một sự việc gì làm đình trệ công phu, mà phải mạnh dạn giẫm qua. Vì vậy các
bậc Bồ tát khi phát tâm tu hành thường nguyện sẽ giẫm lên tất cả những khó khăn,
lấy khó khăn làm sự thành công. Sự tu tập nào không có khó khăn coi như sự tu
tập đó không có giá trị. Hương vị của khó khăn là hương vị của thành công. Càng
khó khăn nhiều chừng nào thì thành công càng giá trị chừng ấy. Vậy cho nên đối
với người tu luôn luôn phải cương quyết tiến thủ. Đó là giai đoạn thứ ba.
Điều kiện thứ tư đừng bao giờ để cho
tâm chán nản hiện ra. Điều này dễ hay khó? Thông thường người tu nếu tâm đạo
không vững, không khắc phục được hoàn cảnh thì dễ chán nản rồi bỏ cuộc. Bữa nay
đi được một hai bước, chán nản ngừng lại, người khác qua mặt mất rồi. Mai mốt
hết chán nản đứng lên đi lồm cồm vài bước thì người ta đã về tới từ lâu. Người
mang tâm trạng chán nản, bữa đi bữa nằm dài, bữa tu bữa không tu thì chẳng tới
đâu. Cho nên đến giai đoạn thứ tư, người tu hành phải luôn luôn tiến thủ, đừng
bao giờ có niệm chán nản.
Chán nản là một loại bệnh. Ai để cho
tâm chán nản hiện hình nhiều thì cái xương sống bị kéo dài ra hoặc bị đóng vôi
nữa. Đang ngồi, nghe hơi mỏi mỏi, đau đau liền nằm dài xuống. Nằm dài, ngáp một
cái, thở ngược thì thôi không tiến đi đâu được nữa. Bấy giờ chỉ còn ngủ là khỏe!
Nếu để cho con ma dễ duôi phủ trùm lên, nó dẫn dắt mình đi thì tháng ngày trôi
qua trong mê muội, không tìm ra cái công tắc để mở ngọn đèn trí tuệ, không tìm
được chìa khóa mở kho tàng châu báu nhà mình. Thành ra đến giai đoạn này phải
miên mật, làm sao dẹp hết những cái dã dượi tai hại ấy đi.
Điều kiện thứ năm là phải gìn giữ
công phu. Luôn luôn tâm nguyện phải vững vàng. Hàng đêm, chúng ta thường tụng
mười hai lời phát nguyện, trong đó nguyện thứ mười một là nguyện học Phật Pháp,
nguyện thứ mười hai là nguyện tu Thiền Tổ sư. Tụng để làm gì? Để chúng ta nhớ
rằng mình phát nguyện như vậy thì phải làm đúng việc đó, không làm gì khác. Đây
là những điều cần thiết đối với người tu, làm sao trang nghiêm hướng nguyện duy
nhất là mong thành Phật thôi, không cầu gì khác.
Chúng ta tin chắc và nỗ lực tu tập.
Khả quyết tu tập với phương pháp mình đã chọn, không hề có niệm sai suyễn trong
công phu hằng ngày. Muốn thế chúng ta phải có tinh thần sáng suốt, tỉnh táo,
sống trong tinh thần nhân quả. Hằng ngày áp dụng pháp tu một cách khéo léo để
chấm dứt tất cả những đối nghịch chung quanh. Được vậy rồi chúng ta có thể giẫm
qua mọi chướng ngại, an ổn, không sợ những duyên đối nghịch nữa. Thật ra như
chúng tôi đã nói, những đối nghịch, những khó khăn là chất liệu không thể thiếu,
trái lại rất cần thiết đối với người tu chúng ta. Trên con đường Phật đạo mình
phải giẫm qua, vượt lên những thứ ấy đó mới thành tựu sự nghiệp giác ngộ giải
thoát.
Trong kinh Pháp Cú, Phật dạy:
Nó làm nhục tôi, tấn công tôi,
Nó chiến thắng tôi, cướp của tôi…
Ai chứa trong lòng tư tưởng ấy
Hận thù như vậy chẳng hề nguôi.
Bây giờ nếu chúng ta gặp những hoàn
cảnh khó khăn, những chướng ngại trước mắt mà nhớ lời dạy của Phật như vậy thì
nhất định những chướng ngại đó sẽ ngàn đời không làm gì được chúng ta, chúng
không còn là chướng ngại nữa mà trở thành nhân tố trợ duyên giúp ta thành công.
Nếu chúng ta chưa nhận định được, chưa có quyết tâm, chưa thương mình để lo tu
hành, thì những chướng ngại là chướng ngại, khó khăn là khó khăn, và vì thế con
đường tu hành của ta bị ngăn ngại. Đó là những hiện thực trong đời sống, trong
nếp tu hành của chúng ta.
Phật dạy tiếp:
Nó làm nhục tôi, tấn công tôi,
Nó chiến thắng tôi, cướp của tôi…
Không chứa trong lòng tư tưởng ấy
Hận thù như vậy sẽ dần nguôi.
Bây giờ là lúc chỉnh đốn, sửa lại cái
nhìn trong lòng của mình. Ta không có tư tưởng như vậy, không có cái nhìn như
vậy, không có quan niệm như vậy, xem như mình hóa giải, tiêu dung xong mọi
chướng duyên. Hòa thượng Viện trưởng thường dạy “Biết tất cả những thứ đó là
vọng, không thiệt, bỏ đi đừng theo”. Chỉ biết nó không thật, là đồ giả thì mình
sẽ yên, sẽ tiến được thôi. nếu trong lòng chúng ta thường nuôi dưỡng như vậy thì
tất cả những niệm hận thù, khó khăn sẽ nguôi ngoai, tiêu hết, dần dần ta sẽ tươi
sáng và an lạc. Đó là một pháp tu.
Khi biết những dấy niệm là vọng tưởng
thì chúng ta gây gổ với nó làm gì? Các mối quan hệ trong đời sống, nhà cửa, địa
vị, tiền bạc… đều không thật thì tham đắm, tức giận nó làm gì? Cho nên người tu
phải sáng suốt thấy được phúc báo, vị trí, cuộc sống của mình, ta bình thản.
Phúc duyên như vậy, chúng ta ráng nỗ lực đừng nuôi dưỡng niệm xấu xa, dữ dằn
hoặc gây nhân không tốt. Đối tất cả cảnh ta bình thản, không giận tức, không tự
ti mặc cảm, cũng không có ý niệm gì về mình về người. Được vậy ta sẽ bình an
thôi. Ví dụ mình sanh trong một gia đình giàu sang, học giỏi, đỗ đạt có bằng cấp
cao, có địa vị trong xã hội… nhưng mình biết tu nên vẫn cứ bình thản, không kiêu
hãnh. Kiêu hãnh gây ra bệnh ung thư, tức giận cũng gốc gác của ung thư. Chỉ
người nào bình an tiêu dung được tất cả mới là người an lạc. Pháp tu thiền dạy
chúng ta luôn luôn sống trong niệm bình an ngay đây bây giờ, không đợi chừng nào
hết. Hoà thượng dạy “Biết tất cả những dấy niệm là vọng, không theo”.
Nếu chúng ta cứ lao theo những dấy
niệm thì sẽ thấy khổ. Ví dụ mình đang ngồi đây mà nhớ lại con đường về Thành phố
Hồ Chí Minh. Hôm qua mình đi ngang đoạn đường đó sao mà bụi bặm quá. Tại sao mấy
nhà kỹ sư cầu đường lại làm như vậy. Vừa đánh mõ tụng kinh, vừa thấy hình ảnh
đoạn đường hôm qua. Thấy một hồi rồi tự nói trong bụng “Tại sao không làm như
vầy như kia…” Nói một hồi thì tức lên, thế là suốt cả giờ tụng kinh hoặc ngồi
thiền toàn nhớ con đường với sự tức tối vô lý. Có phải là vọng tưởng điên đảo
không? Việc của người ta làm có liên can gì tới mình, tại sao lại khởi phiền
não? Chẳng qua tại mình hiểu biết nhiều quá, rồi tự kiêu hãnh về sự hiểu biết
của mình thành tối thui! Cho nên kiêu hãnh là gốc của ung thư.
Tự ti mặc cảm hay tự tôn tự đại đều
là gốc của bệnh ung thư. Thêm nữa, người nóng giận tức bực chính là gầy dựng cơ
sở, sào huyệt của bệnh ung thư. Chỉ có lòng thoải mái bình thản đối với tất cả
pháp mới là lành lặn, an lạc thôi. Như con đường người ta làm như vậy, đừng nói
“năm hai ngàn rồi sao còn lạc hậu thế”, mà tới năm ba bốn ngàn gì cũng được, nó
ra sao ta cũng cứ bình thản. Bình thản đây không có nghĩa là đầu hàng, sợ sệt.
Bình thản của người con Phật là biết cái giả không phiền, không quan trọng nó.
Vậy thôi. Đi dính bụi về tắm rửa cho sạch bụi, có sao đâu. Đâu phải ta dính bụi,
người khác không dính bụi. Chính những người làm đường họ đi trong bụi bặm để
làm mà, họ cũng dính bụi chứ. Thấy bụi thì bịt mũi lại đừng cho nó bay vô, đó là
người khôn ngoan. Chúng ta biết bụi bặm không sạch đừng cho nó vô trong người
mình, chứ đi giận con đường và người làm đường làm chi? Người sống bình thản tức
không tạo sào huyệt cho vi trùng mang bệnh tật đến.
Do đó Phật nói Không chứa trong lòng
tư tưởng ấy, Hận thù như vậy sẽ dần nguôi. Rõ ràng như vậy. Phật dạy không
chứa những tư tưởng sai lầm, chứ không biểu chúng ta phải tụng kinh gì để
được yên. Cũng ý này, trong kinh Pháp Cú Phật dạy:
Các mối hận thù giữa thế gian
Chẳng hề tiêu diệt bởi lòng sân.
Vô sân trừ khử niềm sân hận,
Định luật muôn đời của cổ nhân.
Đây là bài kệ kết cái ý trong đoạn
tôi nói nãy giờ. Phật dạy các mối hận thù giữa thế gian này chẳng hề tiêu diệt
bởi lòng sân. Nghĩa là không thể đem hận thù tiêu diệt hận thù. Không thể đem
sân giận, tức tối để tiêu diệt hận thù. Vô sân trừ khử niềm sân hận, là người
muốn diệt được sân hận thì trước phải hóa giải được những sân hận. Định luật
muôn đời của cổ nhân. Coi như đó là cái định luật muôn đời. Trong kinh A Hàm
Phật thường dạy chỉ có tâm từ bi mới hóa giải được sân hận. Thành ra người
Phật tử phải có tâm từ bi. Mà từ bi thì phải thương mình, tức đừng bị mắc mứu
mọi thứ trần cảnh bên ngoài, mọi vọng tưởng… những thứ đó nó sẽ làm khổ mình.
Chúng ta không tỉnh, trí tuệ không
đầy đủ thì khó tiến thủ được, khó tu tập cho viên mãn. Điều quan trọng là người
tu phải có đầy đủ trí tuệ. Có đầy đủ trí tuệ mới có thể giác ngộ được. Giác ngộ
cái gì? Giác ngộ mình có tánh giác. Biết như vậy, tin như vậy mới yên lòng tu
tập. Nếu chúng ta không giác ngộ, không biết rõ như vậy thì sự tu tập khó hoàn
bị. Người có trí tuệ tu một ngày bằng người kém trí tuệ tu cả tháng cả năm. Nếu
chúng ta sáng suốt cộng với sự quyết tâm tiến thủ tu hành, nghĩa là mở đúng
công-tắc, nhất định bóng đèn sẽ cháy sáng. Còn người không biết, không tiến thủ
thì cứ quờ quạng đi tới đi lui trong bóng tối. Không biết công-tắc chỗ nào, thì
làm sao đèn cháy sáng được? Vì vậy người có trí tuệ sẽ thâu ngắn đoạn đường hay
quá trình tu tập của mình. Trong công phu sẽ phát huy trọn vẹn được hướng nguyện
duy nhất là thành Phật.
Hầu hết chúng ta có bệnh hay phóng ra
ngoài. Lúc nào mình cũng lăng xăng ngược xuôi, hoặc bị mắc mứu bởi những giả
cảnh giả hình, những hiện tượng bên ngoài. Đã thế còn tự hào mình đảm đang, hoàn
thành những sự việc thế này thế nọ. Cả hai trường hợp, người bị mắc mứu và người
có chút tỉnh giác nhưng rồi cũng ngược xuôi đều không khác nhau. Đối với người
tu, trở về phương thức tu hành thì phải soi lại mình. Người biết thương mình
phải phát huy việc của chính mình. Từ đó mới có thể thâu ngắn đoạn đường tu tập
được.
Có bốn vị tu thiền trên núi cùng hẹn
nhau là sẽ tịnh khẩu để nỗ lực tu hành. Hôm ấy trong phòng thắp đèn sáng, bốn vị
cùng ngồi thiền, hứa không ai nói gì hết. Vừa ngồi thiền một chút bỗng cơn lốc
từ đâu thổi đến làm mấy cánh cửa bung ra, ngọn đèn chao đảo sắp tắt. Trong bốn
vị đó, vị trẻ nhất thông minh nhất liền mở miệng la lên “Đổ cây đèn rồi!” Vị thứ
hai chịu không nổi liền nói “Quy luật của chúng ta là không được nói chuyện,
chưa gì anh đã la lên rồi”. Vị thứ ba phát biểu “Như vậy cả hai người đều vi
phạm hết”. Vị thứ tư bảo “Chỉ có tôi mới là người bất động”.
Tóm lại cả bốn vị đều không áp dụng
đúng quy luật. Bốn vị này đại diện cho chúng ta. Chúng ta dễ bị mắc mứu, dễ chạy
ra ngoài, dễ bị hoàn cảnh chung quanh chi phối. Bất cứ hoàn cảnh nào, ngồi tại
nhà hay đang đi trên xe, chúng ta cũng bị hoàn cảnh chi phối. Tinh thần bất động
hay năng lực bất động là năng lực tự tại nhất của người tu thiền. Đó là loại
thiền định bất động trước tất cả các cảnh duyên. Nhờ thiền định này tự mình gầy
dựng và an toàn cho chính mình. Nếu không như vậy thì ta luôn luôn bị động bởi
những hiện tượng chung quanh. Bị động nhiều chừng nào thì khổ nhiều chừng ấy. Đó
là điều không ai giúp mình được cả.
Người tu theo đạo Phật là người cảm
nhận, hiểu biết rõ ràng như vậy. Hiểu biết như vậy để làm gì? Để có sức can đảm
bất động đối với tất cả các hiện tượng. Với người tu thiền phải bất động trước
tất cả hoàn cảnh vô vàn khó khăn đó. Có bất động như vậy mới thể hiện được tinh
thần thiền. Thiền trong đi, đứng, nói năng, ăn nghỉ, trong mọi sinh hoạt tương
giao. Như bốn vị thầy trên là thiền từ cái miệng thôi nên cuối cùng chẳng đi đến
đâu cả. Chúng ta biết và nhận như vậy để cố gắng. Không tỉnh táo, định tâm thì
dù đang ở trên núi cũng chẳng khác chi ở ngoài chợ, giữa phố phường, luôn bị
cảnh bên ngoài kéo lôi.
Với tinh thần tu hành chân chánh,
không luận chúng ta phải lên non hay đến chùa am, mà trong mọi sinh hoạt luôn
luôn phấn đấu, thương mình, phát huy trí tuệ của chính mình để làm chủ tất cả
hiện tượng chung quanh. Người nào sắp đặt được như vậy là người biết tu, cũng có
thể là thiền sư trong cuộc đời này. Người thấy được lẽ thực của các pháp là
người thấy đạo, là người kiến đế. Thật ra việc tu dễ dàng, trực tiếp như vậy,
không phải là cái gì khó khăn quá sức chúng ta. Người biết tu ở đâu tu cũng được
hết. Còn chạy trốn lên núi lên non mà không biết tu cũng vẫn bị các cảnh duyên
kéo lôi như thường.
Phật tử nên nhớ việc tu hành thì lúc
nào cũng tu hết, không phải đợi đến lúc tụng kinh, ăn chay hoặc đi chùa, cúng
kính mới là tu. Chúng ta tu trong mọi thời, mọi cảnh, trong mọi sinh hoạt của
mình. Nếu không tu được như vậy, chúng ta sẽ bị cảnh duyên bên ngoài làm mất đi
ý nghĩa tu của mình, thành ra công phu dễ bị người khác chê cười. Có bà già nọ
cứ khoảng ba giờ bà thức dậy tụng kinh đánh mõ đánh chuông um sùm. Trong xóm
người ta ngủ không được, họ tức mình. Bây giờ muốn góp ý với bà già cũng khó,
bởi vì bà tu hành mà nói gì? Nhưng cứ ba giờ bà thức dậy đánh chuông không ai
ngủ được, làm sao bây giờ? Mấy đứa nhỏ mới nghĩ cách thế này, tới giờ chúng kéo
nhau lại nhà bà nói chuyện, cười giỡn um sùm. Lúc đầu bà không để ý, nhưng lần
lần bà thấy “Mấy đứa nhỏ này quả thực nó bôi bác mình”. Bà nghĩ thầm trong bụng
“Mình tu hành không đụng gì tới nó, sao nó lại phá mình?” Nhiều khi bà đang tụng
kinh mà muốn bỏ dùi mõ ra rầy mấy đứa nhỏ mới được. Lúc đầu bà mới chỉ nghĩ,
nhưng lâu dần cái nghĩ đó thành hình. Cho đến một hôm, giờ bà đang niệm Phật
tụng kinh, đánh mõ đánh chuông ì xèo, mấy đứa nhỏ ở ngoài giỡn, tức quá bà la
lên: “Bà đang tụng kinh nghen con! Chốc nữa bà tụng kinh xong bà sẽ trị tụi
bây!” Quý vị thấy, như vậy bà già đâu có tiêu dung nổi hoàn cảnh bên ngoài. Nó
vẫn là những chướng ngại, là trở lực làm cho bà tu không được.
Thành ra ở đây nói tu thiền là tu
trong mọi hoàn cảnh. Nuôi dưỡng tánh giác của mình, trước nhất tự nhận lại từ
những phương tiện do vị Thầy giảng dạy. Biết mình có tánh giác là quý báu nhất.
Bây giờ tập trung sự tu hành, công phu trang nghiêm, hướng nguyện duy nhất là
sống thực với tánh giác. Lúc nào chúng ta cũng tu, cũng sống như vậy, chứ không
lệ thuộc vào thời khóa buổi sáng hay buổi chiều gì hết. Nếu chỉ áp dụng trong
thời khóa thì thời gian tu mất mát nhiều lắm. Ngày đêm 24 tiếng đồng hồ, trong
đó việc ăn nghỉ, sinh hoạt cá nhân chiếm trên mười tiếng rồi, những tiếng còn
lại nếu chúng ta không tỉnh giác thì ma si mê, vọng tưởng sẽ quậy phá khiến mình
mất trắng luôn. Cho nên người biết thương mình không gây nhân khổ cho mình nữa.
Tập luyện áp dụng tu hành trang nghiêm thế nào để chúng ta sử dụng hết thời
gian, lúc nào mình cũng tỉnh cũng tu. Làm sao trong mọi lúc mọi thời ta làm chủ
được mình, nguôi ngoai tất cả những sân niệm, những si mê điên đảo. Đó là áp
dụng đúng tinh thần thiền, biết thương mình hơn ai hết.
Buổi nói chuyện hôm nay là hướng
nguyện thành Phật. Mong rằng tất cả chúng ta là những người con Phật, mà Phật là
giác, chúng ta là con Ngài thì cũng sống được với tánh giác của mình phần nào.
Phật tử phải biết thương mình trước nhất, không phải thương ai hết. Thương ai là
có vấn đề, khổ lắm. Càng thương càng khổ. Bây giờ mình thương mình, để tháo gỡ
những nghiệp tập còn tồn đọng trong ta. Dần dần mình hoàn toàn làm chủ được, tu
tập được trong tất cả thời, chừng đó mới thương tới chúng sanh được.
Việc tu không thể hẹn hò mà cần thực
hiện ngay. Chúc các vị thành tựu được hướng nguyện thành Phật của mình một cách
rốt ráo nhất.
---o0o---
Nguồn: www3.thientongvietnam.info
Cập nhật: 01-05-2006