Ý Nghĩa Đản Sanh
Đã có khá nhiều tín đồ biết
đến ngày Phật Đản là ngày truyền thống của Phật giáo, thế nhưng ít ai hiểu
rõ ý nghĩa “Phật Đản” và nguyên nhân có sự Đản sanh, chúng ta cũng cần tìm
hiểu qua ý nghĩa và nguyên nhân này.
Tình cảnh
xã hội Ấn độ vào thời ấy như thế nào, và buổi bình minh nước ấy cách nay
mấy ngàn năm ra sao? Ấn độ, một xã hội đa thần, nhiều giai cấp, con người
không sao tránh khỏi những họa hoạn từ giai cấp thống trị đang nắm quyền
hành trong xã hội. Chán nản cuộc sống, con người bước vào sự tuyệt vọng,
sự mất niềm tin, sự chán nản cùng tột vì không có lối thoát nào khác hơn.
Người lìa thành thị vào rừng thâm, kẻ khác lại ép xác khổ hạnh, người
người không ngớt bàn tán về nguyên nhân của sự khủng hoảng tinh thần,
nhưng rốt cuộc không ai đi đến đâu. Con người xoay quanh mọi hướng như tế
lễ, cầu khẩn nơi thần linh nhưng không thay đổi được gì, cảnh tang thương
vẫn bao trùm lên khắp xứ sở Ấn độ.
Tại cung
tời Đâu Suất, đức Bồ-tát lúc nào cũng trầm tư mặc tưởng về chí nguyện độ
đời của mình. Vì thế, chư thiên và phạm thiên trong 10 ngàn thế giới câu
hội cung thỉnh Bồ- tát giáng phàm để tế độ chúng sanh. Khi thấy đầy đủ
nhân duyên, vào một ngày trăng tròn tháng tư âm lịch (tháng Visakka), năm
624BC, tại vườn Lâm-tỳ-ni (Lumbini), thành Ca-tỳ-la-vệ (kapilavatthu), xứ
Nepal ngày nay, bậc Bồ-tát đại sĩ đã giáng phàm. Đây là bước ngoặc quan
trọng cho loài người hướng về ánh sáng và hạnh phúc
Sự “đản sanh”, “giáng phàm”, “giáng sanh”, “giáng đản”, “đản nhật”, v.v…
đều mang ý nghĩa là ngày mà các bậc Phật, Thánh xuất hiện sẽ mang đến sự
an vui vĩnh hằng cho nhân thế.
Trong bộ
Buddhavamsa có ghi: Theo thông lệ của chư Phật, mỗi vị Bồ-tát khi đản sanh
phải quán sát 5 điều kiện:
1. Thời kỳ (Kàla): Tuổi thọ chúng sanh thời này không quá 1000
tuổi mà cũng không kém 100 tuổi. Lý do là, nếu sống lâu thì con người đâm
ra dãi đãi, bất chấp tội phước; còn như yểu số thì con người chỉ lo mưu
cầu danh lợi, thỏa mãn vật chất, không đủ thời gian tu niệm. Do đó, Ngài
xuất hiện ở thời kỳ này và tồn tại đến 80 tuổi rồi vào Niết-bàn.
2. Quốc độ (Desa): Ngài chọn Trung Ấn Độ, ở đấy không quá giàu mà
cũng không quá nghèo, sự bất công và sự phủ phàng lúc nào cũng hiện diện
trong cuộc sống. Hơn nữa, có nhiều sự bất đồng về giai cấp, nghèo khổ,
bệnh hoạn luôn là mối đe dọa con người, nhờ thế loài người dễ hướng thiện.
3. Dòng dõi (Kula): Ngài chọn hoàng tộc Sakya. Vì trong 30 tục lệ
của chư Phật, tất cả các vị Chánh đẳng giác kiếp cuối không được tái sanh
trong dòng dõi thấp hèn, vì nếu tái sanh vào đó thì sẽ bất lợi cho việc
hoằng pháp độ đời. Còn như giáng phàm trong giòng dõi cao quý thì việc
hoằng pháp sẽ khế lý khế cơ, do đó sẽ có kết quả tốt.
4. Châu (Padìpa): Loài người đang sống và tồn tại ở bốn châu
thiên hạ: Đông thắng thần châu, Tây ngưu hóa châu, Bắc cu lô châu và Nam
thiệm bộ châu. Ngài chọn Nam thiệm bộ châu vì ở châu này loài người không
văn minh kiêu kỳ mà cũng không quá lạc hậu đần độn. Nhờ vậy khi gặp Phật,
họ dễ dàng lãnh hội giáo lý, tu hành mau đắc đạo.
5. Cha mẹ (Màtara): Đức Phật là thầy của tam giới nên Ngài phải
chọn người có đại duyên, đại nguyện với Ngài trong vô lượng kiếp. Vua
Suddhodana và chánh hậu Mahamayadevi, nhị vị này đã từng là cha mẹ của
Ngài trong nhiều ngàn kiếp nên Ngài chọn hai vị này làm quyến thuộc. Chính
vì hạnh nguyện Ba-la-mật mà Ngài xuất hiện nơi đời, khai mở, và hướng dẫn
đời sống tâm linh cho bao triệu nhân sinh trên trái đất. Từ đó, tên tuổi
của thành Ca-tỳ-la-vệ và khu vườn Lâm-tỳ-ni, xứ Nepal ngày nay đã được
khắc sâu mãi mãi vào tâm thức nhân loại do sự giáng phàm của bậc Bồ-tát vĩ
đại mà sau này là Phật Thích-ca Mâu-ni.
Cũng ngày ấy trên hai ngàn năm trước
Khắp vòm trời nhẹ thoảng một mùi hương,
Hoa không riêng mà chung cả mười phương
Đã nở với tình thương nhân loại.
(Vân Hà)
Ngài chào
đời giống như bao nhiêu hài nhi khác nhưng có điều khác thường là thân thể
không bị hoen ố mà còn rực rỡ như ánh binh minh. Điểm đặc biệt là khi Ngài
Đản sanh, lúc đó thế giới sáng rực trong hào quang và thơm ngát mưa hoa
của các vị thiên vương đến cung hạ Ngài, mây trời kết ngũ sắc cúng dường,
hoa đàm bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi tu di dường như cúi
đầu để tiếp đón bậc thầy của nhân thiên, ba ngàn thế giới vang động theo
sáu cách (Phương Đông vọt lên phương Tây lặn xuống, phương Tây vọt lên
phương Đông lặn xuống, phương Nam vọt lên phương Bắc lặn xuống, phương
Bắc vọt lên phương Nam lặn xuống, bốn bên vọt lên chính giữa lặn xuống,
chính giữa vọt lên bốn bên lặn xuống). Sau khi Đản sanh, Ngài mở mắt hướng
về phía Đông, thấy vô số chư thiên cúng dường hoa cho Ngài. Ngài bèn quay
mặt hướng Bắc, ung dung bước đi bảy bước, một tay chỉ trời, một tay chỉ
đất, ứng khẩu:
Aggohamámi lokámim
Settho ettho anuttaro
Ayaca antimà jàti
Natthidàni punabbhavo.
Dịch nghĩa:
Đây là kiếp chót của ta
Duyên sanh không, không còn nữa
Trên trời và dưới đất
Ta là bậc chí tôn.
Trong
lịch sử nhân loại, lần đầu tiên sự kiện hy hữu đã xảy ra, một tin mừng
thật sự đã đến với loài người, vì đúng như tên gọi của bậc giáng trần,
thái tử Tất-đạt-đa (siddatha) có nghĩa là “vạn sự cát tường”, thái tử sẽ
là người mang lại an lạc cho toàn thể chúng sanh đang quằn quại trong vòng
luân hồi sanh tử.
Đứng về
mặt ngôn từ, quan điểm của Phật giáo Theraveda không dùng từ “Phật Đản
sanh” mà dùng từ “Bồ-tát Đản sanh”, vì Phật giáo Theraveda cho rằng, nếu
nói Phật Đản sanh thì có người sẽ hiểu Phật đã thành đạo từ nhiều kiếp
trước, kiếp này chỉ là thị hiện lại; nhưng nếu đã là Phật rồi lại Đản sanh
thì tại sao đến năm 35 tuổi Ngài còn phải chiến thắng ma vương và thành
đạo dưới cội Bồ-đề? Còn quan điểm của Phật giáo Đại thừa, sở dĩ có sự xuất
hiện của một vị Phật không phải là biến cố ngẫu nhiên mà chính là kết quả
được thành tựu từ bao nhiêu tâm nguyện nung nấu ở quá khứ. Trước khi hóa
thân làm thái tử, Ngài sống đời sang trọng sung sướng với vợ đẹp con thơ,
rồi thức tỉnh cắt đứt những ràng buộc ân ái để sống kiếp khổ hạnh không
nhà của người xuất gia, và sau cùng chứng đạo. Phật Thích-ca trong tiền
kiếp đã là vị Bồ-tát thực hành Bồ-tát đạo trải qua trăm ngàn muôn ức kiếp
không hề mỏi mệt. Những việc Bồ tát đã làm chỉ vì một nguyên nhân sâu xa,
một “đại sự nhân duyên” như trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phương tiện, đã mô
tả: “Các đức Phật Thế Tôn vì muốn cho chúng sanh khai tri kiến Phật để
đặng thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; vì muốn chỉ tri kiến Phật cho chúng
sanh mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật mà
hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh chứng vào tri kiến Phật mà hiện ra
nơi đời.” (Chư Phật Thế Tôn, dục linh chúng sanh khai Phật tri kiến sử đắc
thanh tịnh cố, xuất hiện ư thế. Dục linh chúng sanh nhập tri kiến đạo cố,
xuất hiện ư thế). Sự xuất hiện của thái tử Tất-đạt-đa là “nội bí ngoại
hiện”. Tất cả những điều ấy nhằm chỉ bày “tri kiến Phật” nơi mỗi con
người. Tri kiến Phật chính là cứu cánh rốt ráo của tất cả những nỗ lực của
hàng Phật tử, dầu thuộc tại gia hay xuất gia. Tri kiến ấy là kết quả đạt
được trong quá trình thực hành Bồ-tát đạo của đức Phật Thích-ca Mâu-ni và
cả những chư Phật trong quá khứ. Tri kiến ấy là một cái nhìn thật sâu,
thật sáng vào bản thể của nhân sinh quan và vũ trụ quan, mà danh từ Phật
học gọi là “như thật tri kiến”. Người nào đạt được một cái nhìn như thế
đối với vũ trụ và con người thì người đó đã thực hiện được lý tưởng giải
thoát. Người ấy tuyệt đối chẳng còn bị chi phối bởi những biến cố tâm lý,
vật lý hay hoàn cảnh xã hội nào.
Chính vì
thể nhận rốt ráo sự tướng của vạn hữu và nhân sinh như thế nên Ngài tuyên
bố rằng: tất cả mọi người bất kể sang hèn, bần tiện hay cao quý, đều có
Phật tánh và có khả năng thành Phật như nhau. Sự chứng ngộ Phật tánh của
mỗi người là tùy vào nỗ lực riêng tư của từng cá nhân, chứ không phải ân
huệ của một đấng thượng đế hay thần linh nào cả. Lần đầu tiên con người
nghe thấy lời xác nhận hùng hồn đến thế, một năng lực tối thượng trong
công trình tự giải phóng chính mình.
Từ trước
tới nay, chúng sanh đã trầm luân vô tận theo dòng thời gian, trải qua biết
bao kiếp sống khác biệt, nhưng họ vẫn nhìn những kiếp sống ấy như một hiện
tượng tự nhiên, một định mệnh tất nhiên đã bày sẵn mà con người không cách
nào chuyển đổi. Vì thế, sự kiện Đản sanh của đức Từ Phụ đã chiếu soi một
làn ánh sáng mới mẻ, như trong kinh Cửu-la-đàn-đầu (kutadanta sutta) đã
xưng tụng: “Thật vi diệu thay! Tôn giả Cồ Đàm! Như người dựng đứng những
gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ
bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể
nhìn thấy sắc”.
Sự Đản
sanh là bằng chứng cụ thể cho lời quả quyết: mặc dù trôi lăn trong vòng
sanh tử luân hồi nhưng con người là một thực thể có khả năng “chuyển mê
khai ngộ, ly khổ đắc lạc” bằng chính nỗ lực tu tập của cá nhân. Đau khổ
hay luân hồi sanh tử không phải là định lý tất yếu, một định mệnh nghiệt
ngã mà thực ra chỉ là hậu quả của mê mờ vọng tưởng, của vô minh. Hào quang
sáng rực trong ngày Đản Sanh là dấu hiệu báo trước một ngày kia Ngài sẽ
xóa tan bóng tối vô minh bao trùm tâm thức con người, đưa con người lên
địa vị tôn quý tối thượng.
Thời đại
đức Phật xuất hiện là thời đại quá suy đồi và hỗn độn cùng cực của xã hội
Ấn Độ mà chúng ta có thể thấy qua các kinh điển. Những cuộc chiến tranh
khốc liệt giữa các vương quốc lớn nhỏ, sự tranh giành quyền lực trong
những người nắm quyền thống trị, chiến tranh đói rét, bệnh tật làm nảy
sanh những cảnh cướp bóc để có sự sống còn đã xảy ra khắp xã hội Ấn Độ
thời ấy. Sự tranh giành quyền lực đưa đến thảm cảnh con giết cha, em giết
anh để đoạt vương vị. Tất cả xã hội Ấn độ là một cơn lốc bạo loạn khổng
lồ, thêm vào đó là sự hỗn loạn tinh thần của 62 học thuyết ảnh hưởng lên
tâm trí con người.
Bằng
nguyện lực, Bồ-tát đã giáng phàm vào một xã hội như thế. Vì hơn ai hết,
Ngài thấy rõ ràng, chỉ trong nỗi đau cùng cực con người mới vươn lên bằng
chính khả năng của mình, mà sự vươn lên đó chính là sự đứng vụt dậy xác
nhận khả năng giải thoát tiềm tàng nơi bản thân mình, xác nhận giá trị tôn
quý của mình. Sở dĩ chúng ta không hiểu nên cho rằng chúng ta cách Phật
khá xa, nhưng thật ra là rất gần, gần trong gang tấc. Về lĩnh vực tinh
thần, Phật có trí tuệ thuần khiết, có đức từ bi rộng lớn, có sức tự tại vô
ngại; nhưng về phương diện nhục thể, qua hiện tượng Đản sanh làm người,
Ngài cũng giống như chúng ta. Có điều, ý chí Ngài siêu phàm nên đã đạt đến
quả vị tối hậu chấm dứt tất cả khổ đau. Điều đó cũng bao hàm ý nghĩa rằng,
toàn thể nhân loại đều có khả năng chấm dứt khổ đau thành tựu Phật quả.
Sự giáng
phàm của đức Phật là một bước ngoặt để đánh dấu một sự khai sanh mới cho
xã hội Ấn Độ nói chung và toàn thể nhân loại nói riêng. Ngài không buộc ai
phải quy ngưỡng Ngài, cũng không buộc ai tin Ngài mà chỉ mong mọi người
hãy tin, hiểu và thực hành đúng với tâm nguyện của mình thì mới đem lại
cho mình sự liễu sanh thoát tử. Có điều, đức Phật đã chiến đấu chống lại
những trói buộc của chính mình, chống lại bản ngã nhỏ bé của mình nên Ngài
thành tựu như sở nguyện.
Hôm nay, lễ kỷ niệm 2550 năm là để tưởng nhớ về
Người, Bậc khai đạo, chỉ đạo và hướng đạo. Một bậc thầy hoàn thiện trong
mọi lãnh vực, để mọi người thấy đó cùng quyết tâm bước theo con đường của
Phật, đạt được mục đích như Phật thì biểu ngữ Kính Mừng Phật Đản được treo
nơi mỗi tự viện từ Bắc chí Nam, mở mang một ý nghĩa cao đẹp đáng được duy
trì. Đó mới chính là ý nghĩa “Đản Sanh”.
Tại
sao lúc đản sanh thái tử Tất-đạt-đa không đi 1, 2, 3 bước hay 8, 9 bước mà lại
đi 7 bước?
Theo quan
niệm triết học phương Đông, số 7 là con số biểu trưng cho sự hoàn hảo
nhiếp thâu cả vũ trụ. Nó được xác lập trên 7 nguyên lý của thời gian và
không gian.
Con số 7 tiêu biểu cho không gian có 4 là: Đông, Tây,
Nam, Bắc và thời gian có 3 là: quá khứ, hiện tại và vị lai.
Theo tư tưởng kinh Hoa Nghiêm,
toàn thể vũ trụ nhân sinh từ vật nhỏ như vi trần đến vật to lớn như núi Tu
Di, tất cả không ngoài con số 7:
- Thất đại: địa, thủy, hỏa,
phong, không, kiến, thức
- Thất thánh tài: tín, tấn,
giới, tàm quý, văn, xả, huệ
- Thất chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo
ni, thức-xoa-ma-na, sa di, sa di ni, ưu bà tắc, ưu bà di.
- Thất Phật: Phật Tỳ-bà-thi,
Phật Thi-khí, Phật Tỳ-xá-phù, Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni,
Phật Ca-diếp và Phật Thích-ca.
- Thất thánh quả: Tu-đà-hoàn,
tư-đà-hàm, a-na-hàm, A-la-hán, Duyên giác, Bồ-tát và Phật.
Ngoài ra, 37 phẩm trợ đạo cũng
chia làm 7 khoa: Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực,
thất bồ đề phần và bát chánh đạo.
Vậy, con số 7 tượng trưng cho
sự sinh hóa cả vũ trụ, ngay cả sự sống chết của con người như lập đàn Dược
sư thất bảo để cầu an hay tổ chức thất thất trai tuần để cầu siêu cũng
dùng đến nó. Vì thế, con số 7 mang ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình
thành và phát triển của nhân sinh quan, vũ trụ quan qua tầm nhìn Phật
giáo.
---o0o---
Nguồn: phattuvietnam.org
Cập nhật: 01-05-2006