...... ... |
. |
Phật
Giáo Khắp
Thế Giới
Thích
Nguyên Tạng
Melbourne, Úc Châu 2001
---o0o---
NHÀ
VĂN
LEO
TOLSTOY
VÀ
ĐẠO
PHẬT
Thời
gian
gần
đây,
có
nhiều
độc
giả
thắc
mắc
về
mối
liên
hệ
giữa
Đạo
Phật
và
nhà
văn
Nga
Leo
Tolstoy.
Vì
họ
phát
hiện
trong
sách
truyện
của
ông
có
nhiều
quan
điểm
rất
tương
đồng
với
giáo
lý
nhà
Phật.
Trong
bài
viết
này,
dù
chưa
đầy
đủ
lắm,
nhưng
hy
vọng
nó
sẽ
cung
cấp
cho
độc
giả
một
ít
khám
phá
mới
về
mối
liên
hệ
ấy.
Nhà
văn
Leo
Tolstoy
(
1828-1910)
Leo
Tolstoy
(1828-1910)
là
một
bá
tước,
nhà
thơ,
nhà
văn,
nhà
tư
tưởng
người
Nga
nổi
tiếng
và
được
kính
trọng
trên
khắp
thế
giới
qua
tác
phẩm
Chiến
tranh
và
hòa
bình
(War
and
Peace),
và
học
thuyết
mang
chính
tên
ông_
Học
thuyết
Tolstoy.
O⮧
ra
đời
vào
ngày
28
tháng
8
năm
1828
trong
một
gia
đình
quý
tộc
lâu
đời
tại
điền
trang
Yasnaya
Polyana,
tỉnh
Tula,
Liên
Xô
(cũ).
Ông
mồ
côi
cha
lẫn
mẹ
từ
lúc
lên
bảy.
Ở
tuổi
16,
ông
bắt
đầu
học
ngành
luật
và
ngôn
ngữ
phương
Đông
tại
đại
học
Kazan.
Năm
1847,
bất
mãn
với
lối
giáo
dục
bằng
cấp
tại
nơi
này,
ông
đã
bỏ
ngang
việc
học
và
trở
lại
quê
nhà
để
quản
lý
trang
trại
gia
đình
với
300
nông
nô
và
sống
một
cuộc
đời
xa
hoa
quý
tộc.
Năm
1851,
theo
lời
khuyên
của
người
anh
ruột,
ông
gia
nhập
quân
đội,
tham
gia
chiến
đấu
ở
Caucasus
và
chỉ
một
năm
sau
được
tuyển
vào
trung
đoàn
pháo
binh.
Tại
nơi
đóng
quân
này
đã
để
lại
trong
ông
nhiều
ấn
tượng
đẹp
đẽ
và
chính
nó
đã
thúc
đẩy
ông
bắt
đầu
sự
nghiệp
văn
chương
của
mình
qua
tác
phẩm
đầu
tay:''
Câu
chuyện
hôm
qua''
(An
Account
of
yesterday,
Xb
1851),
tiếp
đó
ông
lại
cho
ra
một
loạt
sách
hồi
ký
văn
học
về
đời
mình
Thời
thơ
ấu
(Childhood,
xuất
bản
1852),
Thời
thiếu
niên
(Boyhood,
Xb
1854)
và
Thời
Thanh
niên
(Youth,
Xb
1857).
Nhà
văn
chiến
sĩ
này
viết
rất
khỏe,
ông
viết
mọi
lúc
mọi
nơi,
từ
đó
đến
suốt
sáu
mươi
năm
hoạt
động
văn
học,
dường
như
không
có
ngày
nào
mà
ông
không
viết.
Sau
khi
giải
ngũ
(năm
1856),
ông
bắt
đầu
đi
một
vòng
du
lịch
sang
các
nước
Pháp,
Thụy
Sỹ,
Ý
và
Đức.
O⮧
đã
viết
nhiều
truyện
ngắn
cho
chuyến
đi
này.
Sau
khi
trở
lại
quê
hương,
ông
mở
trường
dạy
cho
trẻ
em
nghèo
ở
làng
Yasnaya
Polyana.
Trong
chuyến
du
lịch
châu
Aⵍ
lần
hai
(1860-61)
ông
nghiên
cứu
ngành
giáo
dục
của
họ,
rồi
cho
xuất
bản
tạp
chí
giáo
dục
và
nhiều
loại
sách
giáo
khoa.
Năm
1862,
ông
kết
hôn
với
Sonya
A.
Bers,
một
phụ
nữ
xinh
đẹp
và
có
học,
nhỏ
hơn
ông
16
tuổi,
hai
người
đã
sống
rất
hạnh
phúc
và
có
với
nhau
15
người
con.
Nhà
văn
Tolstoy
trong
một
chuyến
đi
vô
định
vào
cuối
đời
mình
Leo
Tolstoy
luôn
quan
tâm
và
giúp
đỡ
những
nghèo
khổ
cũng
như
tìm
cách
cải
thiện
đời
sống
của
họ.
Ông
đưa
ra
triết
lý
rằng
con
người
đừng
cố
gắng
tỏ
ra
khôn
ngôn
hơn
cuộc
sống
và
tự
nhiên.
Lý
thuyết
này
được
thể
hiện
trong
suốt
Chiến
Tranh
và
Hòa
Bình
(Voyni
i
mir
/War
and
Peace,
viết
và
Xb
trong
khỏang
1865-69),
tác
phẩm
được
xem
là
một
bộ
tiểu
thuyết
anh
hùng
ca
hiện
đại
trong
lịch
sử
văn
học
Nga
va
văn
học
thế
giới.
Và
sau
đó
nó
đã
nhanh
chóng
được
dịch
ra
nhiều
thứ
tiếng
trên
thế
giới
(bản
tiếng
Việt
do
học
giả
Nguyễn
Hiến
Lê
dịch
và
Lá
Bối
xuất
bản
lần
đầu
tiên
1969)
LEO
TOLSTOY
VÀ
ĐẠO
PHẬT:
Sau
cuộc
khủng
hoảng
tinh
thần
cá
nhân
vào
cuối
thập
niên
1870,
Tolstoy
đã
cống
hiến
hết
thời
giờ
của
mình
cho
văn
học
và
nhu
cầu
tâm
linh
của
mình.
Những
năm
cuối
đời,
ông
sống
một
cuộc
sống
thanh
bần,
giản
dị
và
thoát
tục
như
một
thầy
tu.
Ông
đã
để
lại
toàn
bộ
gia
sản
cho
vợ
con,
và
cùng
với
người
con
út
thực
hiện
một
chuyến
đi
vô
định,
nhưng
vài
ngày
sau
đó,
ông
bị
cảm
lạnh
và
qua
đời
tại
một
nhà
ga
nhỏ
ở
Astapovo,
thọ
82
tuổi.
Ông
đã
để
lại
cho
chúng
ta
160
tác
phẩm
các
loại.
Toàn
bộ
trong
số
này
đều
đề
cập
đến
đạo
đức
xã
hội,
triết
học,
tôn
giáo,
nhất
là
quan
niệm
duy
tâm
về
vấn
đề
sinh
tử,
về
tình
thương
yêu
đồng
loại...
tất
cả
đều
gần
gũi
và
phản
ánh
đúng
với
tâm
tư
và
nguyện
vọng
của
hàng
vạn
con
tim
trên
hành
tinh
này.
Tolstoy
vốn
xuất
thân
từ
một
gia
đình
quý
tộc
và
theo
Chính
Thống
giáo.
Nhưng
ông
là
người
có
đầu
óc
phóng
khoáng,
muốn
nghiên
cứu
nhiều
đạo
giáo
khác
nhau
để
có
lợi
cho
đời
sống
tâm
linh
cũng
như
làm
giàu
có
thêm
vốn
liếng
trong
lĩnh
vực
viết
văn
của
mình.
Đặc
biệt
ông
quan
tâm
và
nghiên
cưú
giáo
lý
Đạo
Phật
trong
một
thời
gian
dài
và
kết
quả
là
giáo
lý
này
đã
ít
nhiều
ảnh
hưởng
đến
quan
niệm
nhân
sinh
quan
của
ông.
Trong
thư
viện
riêng
của
ông,
với
hơn
20
ngàn
cuốn
sách
đủ
các
thể
loại,
chủ
đề,
người
ta
tìm
thấy
rất
nhiều
kinh
sách
Phật
giáo
và
triết
học
Aᮮ
Điển
hình
trong
các
số
đó
như
Kinh
Phật
(Buddhist
Sacred
Text)
của
Friendrich
Max
Mueller
(1823-1900);
Đức
Phật,
cuộc
đời,
lời
dạy
và
giáo
đoàn
của
Ngài
(Buddha,
His
life,
His
Teachings
&
His
Order,
xb
1881)
của
Hermann
Odenberg,
Lời
dạy
của
Phật
(
the
Gospel
of
Buddha
của
Paul
Carus,
Xb
tại
Mỹ
1896);
Niết
bàn,
câu
chuyện
triết
học
Phật
Giáo
(Nirvana:
A
story
of
Buddhist
Philosophy,
của
Paul
Carus,
Xb
tại
Chicago
1896),
quyển
này
được
ông
Boulanger
dịch
sang
tiếng
Nga
và
ấn
hành
tại
Mátxcơva
năm
1901),
Cuộc
đời
và
lời
dạy
của
Phật
(The
Life
and
Teachings
of
Gautama
Buddha,
xb
1878)
của
nhà
Phật
học
người
Anh
Rhys
Davids,
A 蠳áng
á
châu
(The
light
of
Asia,
xb
1879)
của
thi
sĩ
Edwin
Arnold,
Lời
dạy
của
Phật
(The
Word
of
the
Buddha,
của
Tỳ
kheo
người
Đức
Nyanatiloka,Xb
tại
Miến
Điện
1907),
đặc
biệt
trong
số
này
có
quyển
Phật
giáo:
nghiên
cứu
và
tài
liệu
(Buddhism:
Studies
and
Materials,
Xb
tại
St.Petersburg,
Nga,
năm
1887)
tác
giả
là
một
nhà
Phật
học
người
Nga
Ivan
P.
Minayev
và
một
số
Kinh
Tiểu
Thừa
(Hinayana
sutras)
bằng
tiếng
Nga
cũng
do
đạo
hữu
này
chuyển
ngữ
và
in
tại
Mátxcơva
vào
năm
1888.
Người
ta
cũng
tìm
thấy
nhiều
đoạn
trích
chép
tay
của
Toltoy
khi
đọc
qua
những
quyển
kinh
hệ
Nikaya
này.
Qua
những
tài
liệu
trên
cho
thấy
rằng
Tolstoy
đã
biết
đến
Phật
giáo
từ
đầu
thập
niên
tám
mươi
của
thế
kỷ
thứ
19.
Như
vậy
là
ông
biết
và
nghiên
cứu
đạo
Phật
qua
tài
liệu
và
sách
báo
của
hầu
hết
các
nhà
nghiên
cứu
Phật
học
Tây
Phương.
Đặc
biệt
là
các
kinh
sách
Phật
giáo
theo
hệ
tư
tưởng
Nam
Truyền.
Điều
đó
cho
thấy
rằng
quan
điểm
của
ông
về
tôn
giáo
và
sự
hiểu
biết
của
ông
chính
yếu
về
PG
chỉ
giới
hạn
trong
khuôn
khổ
của
giáo
lý
hệ
Nikaya.
Điều
này
đã
thể
hiện
qua
tác
phẩm
Lời
Thú
Tội
(Ispoved
/
A
confession,
xb
1882),
bộc
lộ
nỗi
khổ
tâm,
dằn
vặt
trước
những
cảnh
bất
công
trên
đường
ông
đi
tìm
chân
lý
cho
người
nông
nô
nghèo
khổ.
Trong
tác
phẩm
này
ông
đã
viết
về
PG
một
cách
trực
tiếp
hơn
những
cuốn
sách
khác.
Đặc
biệt
ông
nhắc
lại
sự
kiện
xuất
trần
của
Thái
tử
Tất
Đạt
Đa,
Người
đã
nhận
ra
được
cái
hư
ảo
của
tiến
trình
sanh,
già
,
bệnh
và
chết
của
kiếp
người
mà
Ngài
đã
mạnh
dạn
từ
bỏ
cung
vàng
điện
ngọc
để
đi
tìm
chân
lý.
Tolstoy
kết
luận
rằng
:
''
Thích
Ca
Mưu
Ni
đã
nhận
ra
được
cái
chân
tướng
không
chắc
thật
của
cuộc
đời
và
ngài
đã
khẳng
định
rằng
cuộc
đời
là
một
bể
khổ
cần
phải
được
thoát
ly.
Ngài
đã
minh
chứng
cho
tất
cả
thấy
rằng
chính
nhờ
vào
sự
nỗ
lực
không
ngừng
của
bản
thân
mà
ngài
đã
thoát
ra
khỏi
cảnh
khổ
đau
của
vòng
sinh
tử
luân
hồi,
chứng
thành
đạo
quả
và
không
bao
giờ
trở
lại
trạng
thái
khổ
đau
ấy
nữa.
Nhiều
nguồn
tài
liệu
của
AᮠĐộ
đã
đề
cập
đến
sự
kiện
này''.
Trong
quyển
''Những
gì
tôi
tin
tưởng''
(What
I
believe,
xb
1883)
Tolstoy
đã
nhấn
mạnh
rằng
cái
cốt
lõi
của
Đạo
Phật
là
giúp
cho
con
người
nhận
ra
cuộc
sống
luôn
ở
trong
vòng
khổ
đau
và
cần
phải
được
giải
thoát.
Trong
tác
phẩm
''Rồi
chúng
ta
phải
làm
gì?''
(What
Then
Must
We
Can
Do
?
xb
1886),
trong
phần
ông
đề
cập
đến
những
nhà
tư
tưởng
lớn,
Tolstoy
đã
tôn
vinh
Đức
Thích
Ca
Mưu
Ni
là
một
nhà
tư
tưởng
vĩ
đại
nhất
trong
lịch
sử
loài
người.
Hai
bản
dịch
Kinh
Pháp
Hoa
tiếng
Anh:
The
Lotus
of
the
True
Law
(do
đạo
hữu
H.Kern
dịch
và
in
1884)
và
tiếng
Pháp
:
Le
Lotus
de
la
Bonne
Loi(
do
ông
Eugene
Burnouf
dịch
và
in
1840)
không
tìm
thấy
trong
thư
viện
của
ông.
Tuy
nhiên,
vào
thời
điểm
ấy,
rất
có
thể
ông
đã
biết
đến
sự
hiện
hữu
của
hai
bản
Kinh
Đại
thừa
này
ở
châu
A
Bởi
vì
trong
thư
viện
của
ông
có
một
quyển
khác
viết
bằng
tiếng
Anh
là
Các
lượm
lặt
từ
những
bài
nghiên
cứu
Phật
giáo:
về
Hành
Động
và
Tâm
linh
trong
khu
vực
viễn
Đông''
(Gleanings
in
Buddhafields
Studies
of
Hand
and
Soul
in
the
Far
East,
xb
1897)
,
quyển
sách
không
được
hoàn
hảo,
vì
bị
mất
một
số
trang.
Nhưng
ngay
đầu
chương
bốn
ta
đã
thấy
có
một
đoạn
trích
lấy
từ
Phẩm
Thường
Bất
Khinh
Bồ
Tát
của
Kinh
Pháp
Hoa,
được
in
nghiêng:
"Tôi
rất
kính
trọng
các
bạn,
không
dám
khinh
mạn
và
xem
thường
các
bạn.
Vì
sao
?
vì
các
bạn
đang
thực
hành
đạo
Bồ
tát
và
sẽ
được
thành
Phật''
(I
deeply
revere
you.
I
dare
not
slight
and
contemn
you.
Wherefore?
Because
you
all
walk
in
the
Bodhisattva-way
and
are
to
become
Buddha).
Qua
đây,
ta
thấy
rằng,
chắc
chắn
Tolstoy
đã
từng
biết
qua
tư
tưởng
của
Kinh
Pháp
Hoa,
một
bộ
Kinh
được
xem
là
vua
trong
các
thứ
kinh
(the
king
of
all
sutras)
của
hệ
tư
tưởng
Đại
Thừa
Phật
giáo.
Trên
tinh
thần
đó,
sự
tương
đồng
giữa
những
quan
điểm
về
nhân
sinh
quan
của
nhà
văn
Nga
vĩ
đại
này
và
Kinh
Pháp
Hoa
là
điều
không
thể
tránh
khỏi,
vì
quan
niệm
chính
của
Tolstoy
khi
viết
văn
là
''
Vương
quốc
của
Thượng
Đế
luôn
ở
bên
trong
bạn''
(God's
kingdom
is
within
you).
Tolstoy
cố
gắng
chuyển
đạt
thông
điệp
rằng
sự
hạnh
phúc
đích
thực
của
con
người
chỉ
tuỳ
thuộc
vào
cái
tiềm
lực
bên
trong
họ
mà
thôi,
ngoài
ra
không
gì
khác,
điều
này
đã
được
Đức
Thích
Ca
tuyên
bố
từ
trước
trong
Kinh
Pháp
Hoa
:
mọi
người
đều
có
tánh
Phật
và
sẽ
thành
Phật''.
Sống
an
vui,
không
bạo
độ 笠thương
yêu
và
giúp
đỡ
mọi
người
ngay
cả
những
kẻ
đối
đầu
với
mình
là
những
nguyên
tắc
cơ
bản
và
đóng
vai
trò
chính
trong
triết
thuyết
đạo
đức
nhân
sinh
của
Leo
Tolstoy.
O⮧
cũng
cho
rằng
mục
đích
của
con
người
là
muốn
hạnh
phúc
và
không
ai
muốn
khổ
đau
là
điểm
tối
quan
trọng
cho
đời
sống
con
người.
Nếu
có
một
bản
phân
tích
và
so
sánh
rõ
ràng
giữa
Giáo
lý
nhà
Phật
và
quan
điểm
nhân
sinh
quan
của
Leo
Tolstoy
vào
những
năm
cuối
đời,
nhất
là
qua
các
vở
kịch
sau
cùng
của
ông
Sức
mạnh
của
bóng
tối
(the
Power
of
Darkness,
1887),
Đạo
quả
của
Giác
Ngộ
(the
Fruits
of
Enlightenment,
1889),
Thây
ma
sống
(The
Living
Corpse,
1910)?
chắc
chắn
sẽ
cho
chúng
ta
nhiều
điều
lý
thú
,
cũng
như
giúp
ta
biết
rõ
hơn
về
mối
liên
hệ
giữa
Leo
Tolstoy
và
Phật
giáo.
Tổng
hợp
theo
các
tài
liệu
:
-
Echoes
of
Lotus
Sutra
in
Tolstoy's
Philosophy/
Dharma
Work/
Japan/10-1998
-
Russia
&
the
former
Soviet
Union/
Cambridge
Press
/Australia/
1990.
-
The
Macmillillan
Dictionary
of
Biography/
Barry
Tones/
Australia/
1989
---o0o---
---o0o---
|Danh
Nhân
Phật Giáo Thế
Giới | Tủ sách
Phật Học |
---o0o---
Kỹ thuật vi tính: Hải
Hạnh,
Ðàm
Thanh,
Diệu
Nga,
Tâm
Chánh,
Nguyên
Tâm
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật: 01-04-02
|
|