VÀO ĐẠO PHẬT
QUA LỐI NGÕ JEAN PAUL SARTRE
HT Thích
Ðức Nhuận
---o0o---
Cuộc
tâm tình nổi loạn khởi đầu từ Kierkegaard với đặc tính hoàn toàn tình cảm
chủ quan phi hệ thống. Sang tới Nietzsche đã thành ý chí chủ quan phi hệ
thống. Cả hai đều lấy bản thân ra để thể nghiệm cho chân lý mà họ tìm kiếm
ra được, và do họ chủ xướng.
Trong sự nhập cuộc
ấy, họ đã trung thành nói lên những xúc động của mình. Và, từ những xúc
động đó họ đều thăng hóa thực tại khổ đau của bản thân hữu hạn thành viễn
vọng vô hạn, nghĩa là cố gắng đưa ra một lối giải thoát cho tâm tư, bằng
sự thể nhập vào trạng thái hiện sinh tuyệt đối, hoặc đạt tới trạng thái
siêu nhân. Nhưng trên thực tế con người hiện sinh vẫn chỉ là con người hữu
hạn bị sự chết giới hạn một cách tàn nhẫn. Nên Heidegger đã định nghĩa :
“con người là một hữu thể hướng về cái chết”. Chết, là hành vi tối hậu của
con người và là hành vi tối quan trọng của cuộc đời. Vậy, tự do có nghĩa
là “tự do để chết”. Bức tường chết đã được Heidegger dựng lên cách ngang
những hoài vọng của Kierkegaard và Nietzsche. Chính sự kiện này đã là một
dấu chấm câu xuống hàng của giòng tư tưởng hiện sinh. Sartre là một sự thể
hiện của việc xuống hàng đó, để đưa phong trào hiện sinh sang giòng phi lý
toàn triệt.
Nhớ vào phương
pháp Hiện tượng luận của Husseri, Sartre đã khai triển Tư tưởng hiện sinh
một cách đúng nghĩa và trọn vẹn. Đến Sartre tự trào hiện sinh không còn
nằm trong trạng thái tình cảm và ý chí thuần tuý nữa. Nó đã tràn ngập một
suy tư của con người. Do đó, tính cách hiện sinh phi hệ thống biến mất, để
nhường bước cho một hệ thống hiện sinh rất mực đầy đủ. Hơn nữa, nó còn
được Sartre gọi là “Hiện sinh Chủ nghĩa”, tức là có khuynh hướng muốn nhập
cuộc với một lối sống hiện sinh không phải cho riêng mình mà còn cho cả
thời đại nữa. Chính ở điểm này mà mỗi khi nhắc tới hai chữ Hiện Sinh mọi
người đều liên tưởng ngay tới Jean Paul Sartre. Mà thực vậy, đối với phong
trào hiện sinh hôm nay, Sartre xứng đáng là một tay “cờ đầu” . Ông viết
rất nhiều sách dưới hình thức luận thuyết và sáng tác để biện minh cho
quan điểm hiện sinh vô thần của ông. Nhắc tới danh từ Vô thần, tất bên
cạnh đó phải có danh từ Hữu thần. Đúng vậy, các nhà thần học như M.
Marcel, Jaspers, P. Ricoeur Ợ cũng đã nương vào tinh thần hiện sinh của
Kierkegaard và phương pháp Hiện tượng luận của Husserl để thành lập phái
hiện sinh hữu thần, nhằm phản ứng lại quan điểm hiện sinh vô thần của
Nietzsche, Heidegger, Sartre Ợ Nhưng dù sao đây cũng chỉ là sự biến thái
hợp thời của tư tưởng Duy thần mà thôi.
Nhận thức của
Sartre về ý nghĩa sự sống là một thứ nhận thức hoàn toàn phi lý. Tất cả
mọi hiện tượng đều bắt nguồn từ phi lý và trở thành phi lý. Nghĩa là
chẳng bắc nguồn từ đâu và chẳng đi tới đâu cả. Đó là một sự kiện phi lý
toàn triệt, sự có mặt và những sinh hoạt của giòng hiện sinh đều là thừa
và vô nghĩa. Sống cũng chỉ là một nghiệp dĩ thừa mà chết cũng chỉ là một
sự kiện thừa, sống chết là một cuộc sinh hóa rất phi lý của giòng hiện
sinh. Với vạn hữu thì chẳng có lý do gì khiến chúng phải sinh hóa cả, thế
mà chúng vẫn tiếp tục lầm lũi sinh hóa, nên mọi sinh hoạt của chúng đều
trở thành gượng gạo như muốn ngưng lại nửa vời trên đường sinh hóa. Trong
cái vũ trụ lầm lì dầy đặc ấy vốn có những khe hở của hư vô. Nói cách
khác, trong cái bản thể vô thức tự tại, vốn có hữu thể ý thức tự quy của
con người, nhờ tự thể ý thức nên con người có những dự phóng, tức là những
mong muốn luôn luôn vượt từ trạng thái đang có đến những trạng thái chưa
có. Như vậy thức giác con người phát sinh từ những khe hở của một bản thể
vô thức dầy đặc tăm tối, rồi quay trở lại soi vào chính mình, để cố tìm ra
bản thể đích thực của mình, hòng thể nhập vào với bản thể đó. Nhưng bản
thể đây lại chỉ là một thực tại vô thức dầy đặc lầm lì tăm tối hoàn toàn
ngược với thức giác sáng suốt hư vô. Nên công cuộc đồng nhất hóa, giữa bản
thể và thức giác, không thực hiện nổi. Chính sự kiện này đã khiến dự phóng
của con người siêu hoá cuộc đồng nhất đó thành lý tưởng đồng nhất với bản
thể vô hạn là Thượng đế. Mà thượng đế ở đây không phải là bản thể hiện
sinh, thượng đế chỉ là ảo ảnh của thức giác phản chiếu trên bức phông vô
hình mà thôi. Bản thể hiện sinh chỉ là một bản thể vô thức lầm lì như đoạn
rễ cây mà Ropuentin - trong truyện La Nausée :
J.P. Sartre
Nôn mửa, của J.P.
Sartre - đã bắt gặp nó lù lù đen ngòm sần sùi ở nơi công viên. Trong phút
giây thể nghiệm hiện sinh đó, Roquentin đã quên tất cả những hoạt động ý
thức của mình, quên mọi ấn tượng thường dùng để chỉ sự vật của người đời
mà đồng nhất hóa vơi bản thể vô thức dầy đặc lù lù sần sùi qua sự hiện
sinh của khúc rễ cây. Cuộc đồng nhất hóa này đã làm Roquentin phát sợ.
Phản ứng “sợ” đó là phản ứng của thức giác. Thức giác con người, theo
Sartre, là những khoảng trống hư vô. Như thế thức giác không thể đồng nhất
với bản thể vô thức lâu được. Thức giác luôn luôn vượt khỏi các cuộc đồng
hóa vô thức đó để trở lại bản sắc của mình. Lúc thức giác trở lại bản sắc
của mình cũng là lúc Roquentin nghẹt thở và buồn nôn. Sự giằng xé đối
kháng giữa bản thể vô thức và tự thể ý thức đã sản ra tâm trạng phiền
muộn, bao trùm lên thân phận con người.
Ta thấy phương
pháp đồng nhất hóa, giữa con người với bản thể hiện sinh của Sartre, cũng
tương tự như phương pháp của Lão Trang : là phải từ bỏ hết mọi sinh hoạt ý
thức và cá tính, tức là khạc nhổ thông minh thánh trí và những thành kiến
do xã hội tạo ra để trở về với đạo thể hồn nhiên mộc mạc. Thế nhưng, ở Lão
Trang có tham vọng vĩnh viễn hòa đồng với đạo thể; còn ở Sartre tuy đã từ
chối tất cả để thể nhập với bản thể hiện sinh, nhưng sự thể nhập đó không
được bao lâu thì thức giác lại đã bừng sáng để lộn lại, lôi về trạng thái
đích thực của nó là hư vô, sai biệt với bản thể dầy đặc. Rồi tiếp tục cuộc
dự phóng không ngừng. Con người càng có nhiều dự phóng bao nhiêu thì càng
nhiều khổ đau hãi hùng bấy nhiên. Theo Sartre, nếu thức giác chịu dừng ở
trạng thái hư vô thì có lẽ sẽ bớt khổ. Thế nhưng con người và cả vũ trụ
này cũng chỉ là những sự kiện thừa, giả tạo, vô nghĩa, nên thức giác vẫn
phải tuân theo cái nghiệp dĩ khổ đau dư thừa ấy. Chính thức giác đã nhận
được sự phi lý toàn triệt của tất cả, nên con người phát sinh tâm trạng
phiền muộn và tuyệt vọng. Trong sự tuyệt vọng đó, con người không còn cách
nào để vùng vẫy nữa, ngoài một phương pháp cũng tối phi lý, tối giả tạo là
sự Tự do lựa chọn, tự do sáng tạo, tự do bịa ra chân lý cho chính mình: tự
do khám phá ra chính mình. Như vậy tính cách thiết yếu của tự do là lựa
chọn, lựa chọn và hăng say nhập cuộc. Sartre định nghĩa : “Tự do là môt
điều bất hạnh lớn lao mà cũng là nguồn vinh dự duy nhất cho thân phận con
người”. Nhưng sự tự do đây chỉ có thể tìm thấy trong việc nhập cuộc. Nhập
cuộc mà chẳng cần tin tưởng gì vào mục đích của mình cả. Điều này làm then
chốt của lối sống hiện sinh hôm nay.
Bằng vào một nhận
thức quan phi lý, Sartre đã hệ thống hóa tư tưởng hiện sinh (nhất là của
Nietzsche) trên ba thành tố : Bản thể vô thức tự tại (L’En-soi), Hữu thể ý
thức tự qui (Le pour - soi), Hữu thể ý thức tha qui (Le pour-autrui). Vấn
đề bản thể vô thức tự tại mà Sartre đã thức giác được qua sự thể nghiệm
của nhân vật tiểu thuyết Roquentin đã khiến ông có cảm giác nghẹt thở và
lợm giọng. Nghẹt thở vì tính chất dầy đặc lầm lì của sự vật làm cho ý thức
của con người bị ngừng đọng. Từ phút đó ông thâm cảm được rằng bản thể mà,
trước đây nhân loại và ông, đã cố gắng tìm thì giờ đây ông đã tìm thấy nó
hiện sinh trước mắt đen ngòm sần sùi, hoàn toàn vô thức, khiến ông lợm
giọng. Cảm giác lợm giọng ấy làm cho ông tỉnh mộng và thức giác được thân
phận của mình, thức giác được giòng hiện sinh của mình là dư thừa và phi
lý. Trước đây, Nietzsche cũng đã cho rằng : "giòng hiện sinh của con
người, vốn bắt nguồn từ một vũ trụ hữu cơ mênh mang tối tăm và vô nghĩa ”.
Nhưng từ bản thể tăm tối vô nghĩa đó lại chứa sẵn một hiện tượng xán lạn
là ý thức người. Ý thức đó vốn có khả năng dự phóng để làm sai biệt với
bản thể tăm tối kia đi. Do đó con người tự quy cho mình một bản ngã. Ngoài
sự tự quy bản ngã ý thức lại còn tạo ra cho mình một đối tượng, và làm nổi
bật những hình ảnh, sắc thái của mỗi hiện tượng lên khỏi bản thể tăm tối
đồng nhất, rồi lại gán cho những hiện tượng đó những ý nghĩa nữa.
Về vấn đề dự
phóng, Sartre cho rằng : con người có ba phạm trù dự phóng, phạm trù thứ
nhất là : Làm (faire), phạm trù thứ hai là : Có (avoir), phạm trù thứ ba
là : Là (être). Tính chất của dự phóng bao giờ cũng là làm vì có làm mới
đạt tới có được; có, ở đây mang một đặc tính chiếm hữu. Chiếm hữu là một
khát vọng của con người. Con người sinh ra vốn là một sự kiện thừa thãi
phi lý giữa giòng hiện sinh của vũ trụ vốn thừa thãi phi lý. Nhưng trong
tất cả những cái thừa đó, đối với ý thức của con người, đều trở thành
thiếu, con người tự cảm thấy mình luôn luôn thiếu, vì thiếu nên mới phải
lựa chọn. Lực chọn cho sự hoài bão vô cùng của lòng tham con người, mà
lòng tham con người vốn chỉ là những lỗ hổng hư vô thì có bao giờ đầy được
cho. Sau khi đã có rồi, tức là chiếm hữu được những gì mình ước muốn thì
lòng tham đó lại vượt lên một bước nữa, vượt lên để chiến thắng với cái
hữu hạn của sự có. Lúc này con người lại muốn mình là tất cả. Vì chỉ có
khi nào đạt được tới trạng thái là tất cả thì mới thoát khỏi giới hạn cuộc
đời. Nhưng con người vốn không thể Là tất cả được. Ý thức người luôn luôn
tách rời ra khỏi bản thể vô thức để thức giác sâu xa được rằng : mình chỉ
là môt giòng hiện sinh cô độc trong một vũ trụ lầm lì tăm tối. Thâm cảm
như vậy, Sartre đã kết luận : “đời người là một đam mê vô ích”. Dù biết là
vô ích, dù sống với những sự kiện thừa thì con người vẫn phải sống và ý
thức bao giờ cũng nằm trong trạng thái thiếu thốn, thèm khát. Thiếu thốn
vì sự chấp giữ cái bản ngã của mình.
Trong cuộc chấp
ngã và chiếm hữu đó, con người đã gặp một lực lượng thù địch hết sức nguy
hiểm : đó là kẻ khác. “kẻ khác luôn luôn rình rập để đánh cắp cái bản ngã
của mình”. Mình có khả năng tự qui thì kẻ khác cũng có khả năng tự quy như
mình. Ở điểm này, Sartre đã gặp được biện chứng chủ nhân và nô lệ của
Hégel. Trong khi mình nhìn kẻ kia để làm bật hình ảnh kẻ kia lên khỏi cái
nền tảng tăm tối, thì lúc đó mình là kẻ tự qui mà người kia là kẻ bị qui.
Nhưng rồi kẻ kia lại nhìn lại mình và lập tức mình bị kẻ kia quy định theo
chủ quan của họ. Lúc đó họ là người được nhìn mà mình thì là người bị
nhìn. Mình với người là hai kẻ thù không đội trời chung. Bên cạnh thứ hữu
thể ý thức tự qui vốn có thứ hữu thể ý thức tha qui, nó làm cho bản ngã
con người bị xét nét giới hạn. Trong trường hợp khác, mình chịu nhẫn nhục
khổ đau từ chối chức chủ nhân của mình để cố biến mình thành kẻ nô lệ,
mình từ chối chức vụ được nhìn để làm kẻ bị nhìn. Đó là trường hợp Tình
yêu. Mình yêu người tức là mình muốn được người yêu mình. Vì muốn được
người yêu, nên mình đã tự hiến thân mình làm một sự vật để cho người yêu,
thì kẻ kia cũng mang một tâm trạng như mình, tức là muốn làm người yêu của
mình. Cả hai đều cố tình từ chối bản ngã để hoàn thành một cuộc yêu đương.
Thật là đau khổ. Cả hai đều mê hoặc lẫn nhau rồi biến thành dụng cụ khoái
lạc. Tình yêu chỉ là dự phóng đầy đau khổ mà thôi. Ngoài cái lối khổ ái
này vẫn còn một lối khác là bác ái. Bác ái là mình luôn luôn tỉnh trong
khi kẻ kia say, mình mạnh kẻ kia yếu. Kẻ kia là vật sở hữu của mình, rồi
mình bóc lột tâm hồn kẻ kia. Nhưng kẻ kia lại đã mở mắt nhìn mình. Cái
nhìn đó bao hàm một sự trách oán và phản đối hành động của mình. Lúc đó
mình bị nằm trong sự tự qui của kẻ kia. Cái nhìn tự qui đó đã tố cáo sự
bất lực của mình. Nên mỗi con người là môt sự cô độc hoàn toàn không hề cò
một tương quan xây dựng nào cả. Sự tương quan nếu có cũng chỉ là một sự
thất bại thê thảm và ghê tởm mà thôi. Sự thất bại cuối cùng bao giờ cũng
là cái chết. Cái chết không thuộc phạm vi hiện sinh của chủ thể nữa, nó là
sự chết để cho tha thể qui định, nó vượt ngoài sự tự qui của mình. Nó hoàn
toàn nằm trong lĩnh vực của hữu thể ý thức tha qui. Mình đã thảm bại :
cuộc hiện sinh không còn nữa. Sở dĩ mình không tự tử vì tự tử cũng chỉ là
một hành động thừa, đưa tới sự chết ở ngoài mình, như mình vẫn cứ đang đi
tới sự chết thừa đó. Sự chết không phải cho mình mà sự chết đó cho kẻ
khác. Hình ảnh mình vẫn tồn tại trong kẻ khác. Thân xác mình là nơi sinh
hoạt của côn trùng và cây cỏ. Tất cả đều trở thành thừa thãi phi lý, mình
chẳng cần mà kẻ khác cũng chẳng cần nốt. Phí lý, phi lý toàn triệt.
Sartre đã nhìn sự vật bằng con mắt phi lý, đã biện chứng cuộc hiện sinh
trong một chiều hướng phi lý. Nên cuộc sống càng hợp lý bao nhiêu thì ý
nghĩa lại càng trở thành phi lý bấy nhiêu. Vì khởi thủy cuộc hiện sinh đã
là phi lý rồi. Tại sao mình lại có mặt ở đây hôm nay ? Tại sao mình lại có
thức giác để chịu những giằng xé hãi hùng và tuyệt vọng ? Nếu có một “thứ
ý thức nào đó” sinh ra vũ trụ và con người đầy khổ đau lớp nhớp này thì
quả tình ý thức đó đã làm một việc tối ngu xuẩn, thiếu hẳn suy nghĩ. Nếu
chỉ có mỗi một mục đích bắt loài người tôn thờ mình thì thật là ích kỷ bất
nhân, đúng như Lão Tử đã nói “trời đất bất nhân, nên coi vạn vật như loại
chó rơm”, hoặc như phái Védanta cổ xưa của Ấn Độ cũng cho rằng : “sự mong
cầu của thần ngã làm cho vạn vật sai biệt xa lìa bản tính bình đẳng thể,
là ác”. Chính nguồn ác lớn nhất đã bắt đầu từ một ý thức sáng tạo kia
rồi. Nhưng dù nhận hay phủ nhận một ý thức sáng tạo, cái đó không phải là
vấn đề chính, mà vấn đề chính ở đây là trạng thái khổ đau khắc khoải của
con người. Con người đã hiện sinh, khổ đau đã hiện hữu, khỗ đau lớn lên
cùng với những tham vọng của con người. Càng nhiều tham vọng thì hô hào
thì mọi người từ ngàn xưa tới ngàn nay đều vẫn phải nhập cuộc rồi. Nhập
cuộc để tìm lấy mình tìm ra đối tượng cuộc đời, thì cuộc tìm thấy mình ở
Sartre tạm kể là thấy theo khía cạnh chủ quan rồi đó. Nhưng đối tượng thì
con người hiện sinh của Sartre tuyệt nhiên không tìm thấy một đối tượng
nào dù chỉ là đối tượng do chính mình bịa đặt ra. Con người của Sartre
cũng đã có lúc đồng nhất với bản thể vô thức, nhưng đã bị ý thức của mình
lôi lại. Vào với xã hội thì sợ bị tha nhân đánh cắp mất bản ngã. Muốn lên
cõi siêu hình làm Thượng đế thì thực tại nặng nề của sự sống đã kéo về với
khổ đau, phi lý và ngay cả việc làm Thượng đế kia cũng là một hành động
thừa nữa. Quan niệm phi lý và hành động thừa thãi của Sartre đã làm cho
tâm tư con người ngưng đọng trong trạng thái hãi hùng tuyệt vọng. Nhưng
thức giác con người vốn là một hiện tượng động, dù chỉ là một hiện tượng
vô hình. Như thế thức giác không phải là Hư vô như Sartre quan niệm. Thức
giác là một thực tại siêu hình, là một năng lực sống động luôn luôn vượt
mọi giới hạn của cuộc sống vô thường, để đạt tới trạng thái thường hằng.
Tất cả đều đã hiện
hữu dù sự hiện hữu đó không có ý nghĩa gì hết. Vũ trụ hiện hữu bằng ba
trạng thái : trạng thái vô thường tương đối, trạng thái ngã chấp tự đối,
và trạng thái chân như tuyệt đối. Trong cái cõi vô thường tương đối này,
mọi hiện tượng đều tương quan với nhau hết sức mật thiết. “cái này sinh,
thì cái kia sinh”. “cái này diệt thì cái kia diệt”. Sinh diệt của vạn hữu
đều nằm trong luật nhân duyên. Vậy, đặc tính của vô thường là nhân duyên
tương sinh. Trong cái cõi nhân duyên tương sinh ấy có một hiện tượng độc
đáo phát sinh, đó là hiện tượng chấp ngã của tâm thức. Không phải chỉ con
người mới có khả năng chấp ngã, mà tất cả chúng sinh hữu tình hữu cảm đều
có khả năng đó. Tuy nhiên, ở con người khả năng thức giác vốn lớn mạnh
hơn, vì lớn mạnh cho nên có nhiều tham vọng, nhiều tham vọng nên nhiều khổ
đau. Trong biển khổ đó, con người nhờ khả năng tự đối để luôn luôn tìm
cách này hay cách khác nhằm vượt khổ. Nhưng sự vượt khổ không có nghĩa là
từ chối tất cả, chán nản tất cả. Vì nếu mình có từ chối đi nữa thì vũ trụ
và tha nhân cũng không từ chối mình, luôn luôn lôi mình vào cảnh sống vô
thường, để giam hãm giới hạn tâm thức mình trong vòng luẩn quẩn. Nên đạo
Phật luôn luôn chủ trương phải đối diện với khổ đau, phải tự thân nhập
cuộc vô thường, nhưng không trầm mình trong đà sống tăm tối đó, mà phải
luôn luôn từ chối, tự vượt mình, thăng hóa ý thức mình khỏi cảnh lầy lội
của phân biệt, biến ý thức thành tuệ giác để làm nổi bật chân tâm thường
hằng tuyệt đối của chính mình lên. Đồng thời soi ngược lại cuộc sống vô
thường khiến mình sáng suốt cởi bỏ những tương quan khổ đau cho chính mình
và cho cuộc đời. Đạo Phật luôn luôn quan niệm “con người đã mắc bệnh thì
thầy thuốc phải tìm cách chữa, không cần hỏi ý nghĩa của việc chữa ấy. Mà
chữa bệnh là chữa chính con bệnh đó, với những căn cơ riêng biệt của chứng
bệnh. Lẽ tất nhiên không có thứ thuốc phổ biến cho mọi chứng bệnh được,
nhưng vẫn có phương pháp trị từng chứng bệnh. Con bệnh cứ kể bệnh, thầy
thuốc sẽ nói phương pháp để cho con bệnh tự chữa lấy mình”. Con người hãy
tự thắp đuốc mà đi, vì chỉ có mình mới cứu nổi mình mà thôi. “Đừng vội tin
vào bất cứ lời lẽ hay ho của một ai, dù người đó là thầy của mình, là
Thiên chúa, là Tiên tri, là Phật cũng vậy. Hãy tự chứng đi, hãy tự thể
nghiệm lấy sự giải phóng và giải thoát. Tất cả các học thuyết, các chủ
nghĩa, các lýtưởng chỉ là phương tiện giúp mình để đạt tới sự giải phóng
và giải thoát mà thôi. Đừng vội chấp chặt lấy những phương tiện đó, để rồi
quên mất cứu cánh giải phóng cuộc đời, giải thoát khổ đau”.
Tiếng nói của Hiện
sinh hôm nay đã gặp tiếng nói của đạo Phật ở điểm con người phải tự thể
nghiệm lấy chân lý. Thế nhưng hiện sinh đã không mở lối cho tâm tư tự giải
thoát. Hiện sinh không chấp nhận vấn đề tương quan giữa vạn hữu, cố kéo
dài tình trạng đau khổ của bản thân thêm mãi ra ngoài cuộc đời và vũ trụ.
Thái độ đó chẳng qua chỉ là thái độ tiêu cực đề kháng nhất thời để chống
lại các hệ thống tư tưởng hữu vi, chống lại các chế độ bất nhân mà thôi.
Đối với lịch sử
phong trào hiện sinh có sứ mạng là đập nát tất cả các cái vỏ thành kiến,
trút bỏ một lớp sơn nặng nề để rồi chuyển mình sang giai đoạn mới. Hiện
sinh đã đặt toàn thể thân phận con người trong một cảnh khổ tuyệt vọng,
rồi đào bới tất cả những khả năng tự tạo của con người đã có, để bắt buộc
đem ra thi hành, nhưng bất cứ cuộc ứng dụng nào cũng đưa tới kết luận là
thảm bại. Tâm thức con người đang bị những đường roi hiện sinh quất xuống
rất mạnh, bắt buộc tâm thức phải tự dao động, mà chỉ có sự dao động cùng
tột của tâm thức thì tuệ giác của con người mới bừng dậy nổi. Ý thức con
người không được quyền an nghĩ nữa. Phải vùng lên để tự thăng hóa. Đó là
một thực trạng của thời đại.
Source:
http://www.phattuvietnam.org/
---o0o---
Cập
nhật : 1-8-2003