GIÁO DỤC HỌC PHẬT GIÁO
Nguyên Hồng
---o0o---
I.
DẪN NHẬP
Nói chung khái niệm
về giáo dục. Các quan niệm buổi đầu về giáo dục của cổ Trung Hoa và
của Phương Tây. Từ đó nhận định về giáo dục theo Phật giáo.
II.CÁC LÃNH VỰC GIÁO DỤC
1. Tư Tưởng Giáo Dục
Phật Giáo
1.1.Tư tưởng nhất
thừa
Giáo dục Phật giáo lấy tư tưởng nhất thừa làm cứu cánh. Mọi sự phân chia
thứ bậc chỉ là phương tiện để đạt tới cứu cánh giải thoát Niết bàn. Với tư
tưởng nhất thừa, giải thoát không có nghĩa là trốn chạy và Niết bàn không
phải là một cõi hư ảo xa xôi. Tất cả đều từ thực tại. Nhất thừa là lý
không hai. Giáo dục Phật giáo lấy con người làm đối tương và cứu cánh cũng
ở con người, lấy thế giới làm đối tượng và cứu cánh cũng ở thế giới này.
Tư
tưởng nhất thừa trong giáo dục Phật giáo không dạy ta chối bỏ con người
thực tại để tìm kiếm một hiền thánh mà dạy chúng ta làm cho con người trở
thành hiền thánh, không dạy ta từ bỏ Ta bà để đi tìm Tịnh độ mà dạy ta
chuyển hoá ta bà thành tịnh độ.
1.2. Tư tưởng xã hội
Trong 45 năm hoạt
động giáo hóa, từ những việc lớn liên quan chính trị quốc gia đến những
việc nhỏ như kinh tế tiêu phí của tăng đoàn và chi tiêu trong gia đình của
tín đồ tại gia, từ vấn đề lớn như chế độ chủng tính đến nhỏ như như quyền
lợi và nghĩa vụ của vợ chồng, nhiều vấn đề hiện thực đa dạng thuộc phạm vi
thế tục đều được Phật dạy đến. Từ sau thời đức Phật nội dung giáo dục đa
dạng này đã được triển khai, thực tiễn hóa trong sinh hoạt kinh tế xã hội
hiên thực. Đến nay nếu hệ thống kết quả đó chắc chúng ta sẽ có một kho
tài liệu không nhỏ các kinh điển và những trước tác về “học thuyết xã
hội của Phật giáo”.
1.2.1. Xã hội quan
trong Phật giáo nguyên thủy.
Giáo nghĩa căn bản
của đức Phật là dạy chúng ta giải thoát vô minh phiền não, giác ngộ thành
Phật bằng thực hành 8 con đường chân chính. Xã hội quan Phật giáo thường
được biểu hiện bằng tăng già, tức chúng hòa hợp. Nghĩa hẹp của tăng già là
đoàn thể xuất gia sống hòa hợp. Nếu ai có hành vi phá hoại sự hòa hợp đó
là phạm tội ngũ nghịch. Qua đó rõ ràng xã hội quan của Phật giáo nguyên
thủy đặt nền móng trên chủ nghĩa lợi tha và chủ nghĩa liên đới. Đây có thể
coi như tế bào của một cộng đồng để từ đó phát triển ra xã hội, đến quốc
gia, thế giới trong lý tưởng xã hội của Phật đà. Đức Phật không chỉ chú
trọng vào tăng già mà còn mở rộng sự hòa hợp vào các tổ chức, đoàn thể
bằng đường lối 4 phép nhiếp hóa, tức bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.
1.2.2. Đạo đức kinh
tế trong Phật giáo nguyên thủy.
Cuộc đời đức Phật
phần lớn du hành này đây mai đó. Phật tán thán người đời đã vì những người
xuất gia tu hành thiết lập tinh xá, cung cấp giường nằm, tọa cụ, y phục,
ẩm thực vật, chăm sóc thuốc thang cho người xuất gia. Những việc làm đó
gọi là tạo phúc lợi thế gian. Còn hoan hỉ tu tập Phật đạo là tạo phúc lợi
xuất thế gian.
Phật tử hành thiện hạnh tu thiện nghiệp là tïạo phúc đức. Vì ý nghĩa đó,
nơi phát sinh phúc đức gọi là phúc điền. Và do đó phúc điền trở thành
nguyên nhân của hành vi lợi tha. Kết quả đó, cũng giống như đối với tăng
ni, Phật tử mở rộng phúc điền đối với đông đảo dân chúng, đặc biệt là tăng
tiến các hoạt động trợ giúp người nghèo, người bệnh, và các hoạt động phúc
lợi công cộng. Với người tại gia Phật khuyên trước tiên phải siêng năng
trong nghề nghiệp. Phật dạy mối quan hệ hỗ tương quan trọng nhất là phải
nắm vững chức năng của mình trong trật tự xã hội.
1.2.3. Tinh thần và
nội dung của luân lý Đại thừa phát triển.
Tư
tưởng phúc điền đôi khi cũng chỉ vào 8 hành sự sau đây: 1. Mở đường, đào
giếng 2. Làm cầu qua sông 3. San lấp lối đi hiểm trở 4. Hiếu dưỡng cha
mẹ 5. Cung kính Tam bảo 6. Cấp dưỡng bệnh nhân 7. Cứu tế người nghèo
khổ 8. Mở pháp hội vô giá (tức cúng thí cô hồn). (Sự phân chia này được
mô tả trong Kinh Phạm Võng).
Ở Nhật Bản cũng như các quốc gia theo Phật giáo ở Đông Nam Á có thể nói đã
dựa trên cơ sở này mà phát huy tư tưởng chính sách xã hội và sự nghiệp xã
hội. Các cao tăng nhiều đời đã dốc chí suy nghĩ và thực hiện ý nghĩa về
chính sách xã hội của tư tưỏng phúc điền mới để lại cho đời nhiều sự
nghiệp quí trọng nay đã trở thành tài sản của cộng đồng như tinh xá,
phòng tăng, bệnh xá, trường học, nhà cứu tế, vườn cây, rừng trồng, bến
thuyền, cầu đường, giếng nước công cộng, nhà vệ sinh công cộng v.v... Và
những tài sản ấy ngày nay còn là của công là do liên quan căn bản đến giới
không trộm cắp trong giới luật nhà Phật.
1.2.4. Lý tưởng và
thực tiễn trong Phật giáo Đại thừa phát triển.
Tuyệt đỉnh lý tưởng của xã hội Phật giáo là thế giới Tịnh độ. Một thế giới
bình đẳng, hòa bình an vui không phải lo âu về cuộc sống, “tưởng y y chí,
tưởng thực thực lai”. Thế nhưng hiện tại cộng đồng xã hội Phật giáo chỉ
thực hiện một phần. Cho nên đương nhiên dù mang một lý tưởng siêu xuất thế
gian, Phật giáo cũng không thoát khỏi sự chi phối của hoàn cảnh xã hội,
đặc biệt là về chính trị và luật pháp. Tất nhiên dưới chế độ xã hội đương
thời, muốn đưa Phật giáo vào trong dân chúng không thể không thông qua
những hoạt động chính trị của quốc gia.
Các kinh điển hậu kỳ
Đại thừa còn dạy vị quốc chủ phải có 3 chức năng xây dựng đất nước: 1.
Kiến lập đế vương nghiệp luận dạy rằng: “Khéo dạy binh sĩ việc quân trận,
chiến đấu, hàng phục binh chúng nước ngoài, phủ dục nhân dân.” 2. Kiến lập
điền trạch nghiệp luận dạy rằng: “Khéo dạy nhân dân xây dựng nhà ở, kinh
doanh nông nghiệp cho đời sống được an cư no đủ.” 3. Kiến lập tài bảo
nghiệp luận dạy rằng: “Khéo dạy nhân dân học các ngành công thương tạp
nghệ để có nhiều của cải tùy ý tiêu dùng, cuộc sống thêm an vui.” Ngoài
ra, thế giới Hoa Nghiêm mở ra một mô dạng xã hội sinh thái học của Phật
giáo. Nơi đây dân chúng trong xã hội chỉ trồng một căn lành rất nhỏ cũng
được một kết quả vô cùng to lớn (Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Ly Thế Gian).
Qua đó ta khám phá ra một nguyên lý kinh tế học quan trọng.
1.2.5. Các kinh điển
đậm màu sắc xã hội.
Kinh Pháp Hoa, kinh
Hoa Nghiêm, Kinh Duy Ma, kinh Khổng Tước Minh Vương, luận Du Già Sư Địa,
kinh Đại Tập, kinh Kim Quang Minh, kinh Phạm Võng, kinh Vô Lượng Thọ, Luận
Bảo Hành Vương Chính, kinh Đại bảo Tích.v.v…
1.2.6. Tinh thần bình
đẳng trong giáo dục Phật giáo.
Tư tưởng nhất thừa là cứu cánh của giáo dục Phật giáo nên nó bao trùm mọi
tư duy và hành động của giáo dục Phật giáo, trong đó có tư tưởng bình đẳng
trong xã hội. Phật dạy: “Tất cả chúng sinh đềàu có Phật tính tất hữu.” cho
nên đối với quan hệ giữa người và người là một quan hệ tuyệt đối bình
đẳng, không có người cao thượng hay hèn hạ vì phân biệt giai cấp, không có
tôn ti vì phân biệt nam nữ, cũng không có hạng giáo dục được và hạng
người nào là không giáo dục được. Vai trò của giáo dục Phật giáo là quan
sát cái xã hội đang liên tục biến đổi để cải thiện con người và xã hội.
Người tu Phật hành Phật sự phải đứng trên lập trường lấy hiện tượng sinh
hoạt thực tế của xã hội làm cơ sở giải đáp nguyện vọng về tinh thần cũng
như vật chất của dân chúng. Nói vắn tắt là Phật giáo phải hiện đại hóa và
thực tế hóa. Nói hiện đại hóa, thực tế hóa, động thái hóa tức đương nhiên
bao hàm vấn đề xã hội hóa và dân chủ hóa. Điều mà người tu Phật, hành Phật
sự ngày nay là triển khai nguyên lý, giáo thuyết của đức Phật, vận dụng
làm sống lại tính xã hội hóa của đạo Phật. Trong kinh giáo nguyên thủy
cũng như kinh giáo thời Đại thừa phát triển đức Phật đã từng dạy phải làm
thế nào.
III.1.3 TƯ TƯỞNG HOÀ BÌNH.
1.3.1 Tư tưởng hoà bình trong giáo dục Phật giáo đối với vấn đề cấu tạo xã
hội.
Theo tư tưởng hoà bình trong giáo dục Phật giáo đối với tổ chức cơ cấu xã
hội thì bình đẳng là yếu tố cơ bản cho việc cải tạo xã hội nếu không nói
là cách mạng cơ cấu tổ chức xã hội. Danh từ xã hội được hiểu từ tế bào của
cơ cấu xã hội là gia đình hạt nhân (nuclear family) trở lên cho đến gia
tộc, đẳng cấp, tập đoàn, làng xã, quốc gia, cộng đồng quốc tế và thế giới.
Khởi nguyên luận về xã hội của Phật giáo thường bao gồm những thuyết minh
về sự phát sinh của gia tộc, về tư hữu tài sản, quân chủ, quốc gia, cho
đến những chức phận đoàn thể v.v... có tính hiện thực hết sức phổ quát và
cao độ.
Trong quan hệ xã hội, Phật giáo chủ trương thực hiện tinh thần bình đẳng
tuyệt đối của tư tưởng
nhất thừa.
1.3.2 Tư tưởng hoà
bình trong giáo dục Phật giáo đối với vấn đề chính trị, chiến tranh và
quốc phòng.
Theo Phật giáo nguyên thủy thì mục đích của người Phật tử là lấy giải
thoát làm đầu. Thế nhưng, vận mệnh tổ quốc Kapilavastu sớm muộn không khỏi
bị đe doạ bởi cường quốc láng giềng Kosala, cho nên những vấn đề về quốc
gia, chính trị, chiến tranh, không phải người đạo sĩ xuất thân vương tộc
ấy không quan tâm.
Đức Phật không phải chỉ coi những hoạt động chính trị của quốc gia là
đường lối quan trọng nhất nâng cao hạnh phúc nhân dân trong cuộc sống hiện
tại, mà còn coi đó là chính pháp, tức là nguyên lý căn bản của Phật giáo
mà thực hiện theo đó tức là thực hiện trực tiếp lý tưởng của Phật giáo.
Chính trị của đức
Phật là triệt để “Vô hại chủ nghĩa”, là triệt để “Bất sát chủ nghĩa” do
đóù đề cao chủ nghĩa hoà bình. Chủ nghĩa hoà bình của đức Phật là không
làm hại một quốc gia dân tộc khác, và do đó sẽ là một quốc gia độc lập
không bị nước khác xâm lược. Đường lối cốt yếu của chính trị là hành xử
nội bộ quốc gia bằng chính pháp. Đức Phật đã nói lý do vì sao Bạt Kì là
một nước nhỏ nằm giữa các nước lớn mà không bị diệt vong.
2. NỘI DUNG GIÁO DỤC
PHẬT GIÁO.
Giáo dục Phật giáo là nền giáo dục có bình diện rộng. Đối tượng của giáo
dục Phật giáo là con người trong hoàn cảnh sống của nó. Vượt ra ngoài mọi
phân biệt về chủng tộc, ranh giới địa lý hay văn hoá, giáo dục Phật giáo
lấy con người trong thế giới này làm đối tượng và cứu cánh cũng ở con
người trong thế giới này. Phật giáo quí trọng giá trị con người.
2.1. Trí dục, đức
dục, thể dục trong giáo dục Phật giáo.
Các nền giáo dục hiện đại trên thế giới đều chủ trương ba phương diện của
giáo dục là Trí dục, Đức dục và Thể dục và gïọi là xây dựng con người toàn
diện . Đức Phật tuy không thiết lập ba phạm trù như ngôn ngữ hiện đại,
nhưng nội dung giáo dục của đức Phật đã bao gồm đầy đủ từ trên hai nghìn
năm trước.
2.2. Giới, định, tuệ
trong giáo dục Phật giáo.
Nội dung giáo dục của Phật giáo là không ra ngoài ba môn học: Giới học,
Định học và Tuệ học. Điểm này rất thống nhất trong nhiều bài phát biểu và
tham luận tại Hội thảo giáo dục Phật giáo
3. Phương pháp giáo
dục Phật giáo.
Các nhà giáo dục xưa nay khi đề cập phương pháp giáo dục thường quan
tâm đến ba lĩnh vực. Đó là phương pháp soạn thảo chương trình (curiculum
planning), phương pháp tổ chức học đường và các tiện ích giáo dục
(schools and facilities), phương pháp giảng dạy và học tập (teaching and
learning).
Tuy nhiên phương pháp giáo dục nói trên thực ra nhằm khoanh vùng trong hệ
thống giáo dục học đường (school education), một hệ thống giáo dục mang
tính hàn lâm, có thi cử và có bằng cấp học vị. Nếu là phương pháp giáo dục
đó thì không phải là phương pháp ứng dụng của Phật giáo vì giáo dục Phật
giáo không nhằm mục đích đó. Còn giáo dục với ý nghĩa rộng hơn, hay nói
khác hơn là ý nghĩa thực sự của nó thì vươn tới mọi sinh hoạt của con
người trong cuộc sống cũng như trong cộng đồng xã hội.
Trong giáo dục Phật giáo, không một đối tượng được áp dụng một phương pháp
nào mà chưa trải qua thể nghiệm. Như thế có thể nói một trong các phương
pháp giáo dục trong Phật giáo là phương pháp kinh nghiệm, phương pháp giáo
dục từ kinh nghiệm thực tế. Ngoài ra có phương pháp tự tỉnh, về sauđược áp
dụng nhiều trong thiền học. Trong các công án thiền, có những câu gợi ý
ngắn gọn, có những câu hỏi phản vấn, có những câu sử dụng tính mâu thuẫn
và cả đến sử dụng cái “vô ngôn” như một cú đánh, một tiếng hét. Dùng lời
hay không dùng lời, trong giáo dục Phật giáo cả hai đều là phương pháp có
giá trị. Trong Phật giáo thường nói Ngôn giáo và Thân giáo. Phương pháp
Thân giáo có trường hợp còn có phần hữu hiệu hơn Ngôn giáo. Phương pháp
giáo dục Phật giáo còn triển khai hai phân ngành có tính chuyên môn như
phương pháp phân tích tâm lý, áp dụng cho lãnh vực hiện tượng học mà
chuyên từ Phật học gọi là Pháp tướng duy thức học. Phương pháp này chủ yếu
phân tích triệt để các hành tướng của tâm thức để nhận diện mọi hiện tượng
và mối liên quan của nó trong thế giới nội tâm ngoại cảnh. Một ngành nữa
là phương pháp Luận lý, trong Phật học gọi là Nhân minh học. Ngành luận lý
còn triển khai rộng sâu với những kiểu lý luận sắc bén, nhất là thời kỳ
Đại thừa thành lập mà Asvaghosa (Mã Minh) và Nagarjuna (Long Thọ) là
những tên tuổi sáng chói trong ngành luận lý học Phật giáo.
IV.PHẦN KẾT.
Ở đây muốn đề cập đến hình tượng mẫu người lý tưởng trong giáo dục Phật
giáo để tạm làm phần kết khép lại giảng khoá này.
Mẫu người lý tưởng trong giáo dục Phật giáo có thể nói đó là hình tượng
của bồ tát. Hình tượng này vô cùng đa dạng vì cuộc sống vốn đa dạng. Cuộc
sống đa dạng nên Bồ tát tuy đa hạnh nhưng hạnh nào cũng là hạnh Bồ tát
miễn sao không “trụ tâm thủ tướng” và thực hành hạnh nguyện đến chỗ rốt
ráo tức thực hành Bồ tát đạo. Chính vì tinh thần Bồ tát thể hiện một cách
linh động và đa dạng mà giáo dục Phật giáo đã thâm nhập một cách hoà bình
và phát huy tích cực nhiều mặt vào đời sống con người và xã hội.
Trong giáo trình CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC do Hội đồng trung ương chỉ đạo
biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lê Nin tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội ấn hành năm 2002, trang
469 đoạn nói về Tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam và việc thực hiện chính
sách đối với tôn giáo của đảng và nhà nước ta hiện nay có đánh giá về Phật
giáo như sau:
“Phật giáo là một tôn giáo thế giới xuất hiện ở Ấn Độ từ thế kỷ VI trước
Công nguyên và được truyền vào Việt Nam những thế kỷ đầu Công nguyên. Nhìn
chung, quá trình tồn tại và phát triển Phật giáo gắn liền với dân tộc, góp
phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển đạo đức, tâm lý, phong
tục tập quán và văn hoá của nhân dân ta.”
@@@
---o0o---
Cập
nhật: 1-12-2004