---o0o---
"Tịnh độ là lòng trong
sạch, đâu còn ngờ hỏi đến Tây phương;
Di đà là tính sáng soi,
mựa phải nhọc tìm về Cực lạc"
Ðây là hai câu phú trong
bài Cư Trần Lạc Ðạo phú của Sư tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông, vị sáng tổ của
phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một phái Thiền mang đậm đà bản sắc Việt nam.
Có thể nói, hai câu phú trên đã đúc kết được phần nào cách lý giải mà các
Thiền giả dành cho pháp môn Tịnh độ. Và đây cũng chính là nội dung của bài
viết này muốn đề cập đến.
I. SƠ LƯỢC ÐÔI NÉT VỀ
TỊNH ÐỘ
1. Các kinh chủ yếu của
Tịnh độ tông
Tông phái Tịnh Ðộ gồm các
kinh căn bản sau đây:
a. Vô Lượng Thọ Phật Kinh:
Kinh này nói về thời quá khứ có một Sa môn tên là Pháp Tạng, nhân thấy
chúng sanh đang chìm trong bể khổ triền phược, muốn cứu vớ chúng sanh
thoát bể trầm luân, Ngài bèn đi đến trước đức Thế Tự Tại Vương Như Lai,
phát 48 lời nguyện, liền được đức Như Lai ấn chứng.
Sau đó, trải qua công phu
tu hành theo những hạnh nguyện của mình, cuối cùng Ngài thành Phật hiệu là
A di đà. A di đà nghĩa là Vô lượng quang, Vô lượng thọ (ánh sáng vô lượng
và thọ mạng vô lượng).
b. A di đà Kinh: Ðây là
bản toát yếu của bộ kinh trên, đồng thời nêu ra vài nhận xét đặc biệt và
cổ vũ tu theo pháp môn Tịnh độ.
c. Quán Vô Lượng Thọ Phật
Kinh: Kinh này đức Phật dạy cho Ngài A nan và bà Vi Ðề Hi về 16 cách quán
tưởng để thấy được đức Phật A di đà, hai vị Bồ tát Quán Aâm, Thế Chí và
cõi nước Cực lạc.
Ngoài 3 bộ kinh căm bản kể
trên còn có bộ luận Vãng Sanh của Ngài Thế Thân, luận Khởi Tín, luận Bửu
Tánh, kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa v.v.. đều có đề cập đến Tịnh độ.
Xem qua lịch sử phát triển
của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có
Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ; do đó, Tông
phái này dần dần được phổ cập trong quần chúng nhân dân khiến cho mỗi ngày
mỗi lớn mạnh. Ngài được xem là vị Sơ tổ của Tông Tịnh độ tại Trung Hoa. Kế
tục sự nghiệp của Tổ Huệ Viễn có các Ngài Ðàm Loan, Ðạo Xước, Thiện Ðạo
đều là những bậc long tượng nhiệt thành chấn hưng Tông phái này. Sang đời
Tống có Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ (tịch năm 975), đến đời Minh có Ngài Chu
Hoằng hiệu là Liên Trì Ðại sư đều là những người cục lực xiển dương Tông
Tịnh độ, đưa đến đỉnh cao nhất của sự hưng thịnh.
2. Phân loại Tịnh độ:
Các học giả đã phân tích
và sắp xếp Tịnh độ thành ra 4 loại sau đây:
a. Phàm Thánh đồng cư độ:
Cõi này lại chia làm 2:
- Tịnh độ đồng cư: tức thế
giới cực lạc của Ðức Phật A di đà an trú.
- Uế độ đồng cư: tức thế
giới ta bà mà chúng ta đang sống đầy những chông gai, bất tịnh và khổ đau
này.
b. Phương tiện hữu dư độ:
quốc độ của những bậc Nhị thừa và Tam thừa, hạng người này tu tập đạo pháp
phương tiện, dứt trừ các mê hoặc, được vãng sanh ngoài 3 cõi, gọi là
phương tiện hữu dư độ.
c. Thật báo trang nghiêm
độ: Bồ tát tu hành đạo pháp chân thật, hợp với chân lý trung đạo, cảm được
thắng báo, sắc tâm không chướng ngại; quốc độ của những bậc ấy an trú gọi
là thật báo trang nghiêm độ.
d. Thường tịch quang độ:
Tịch là tướng yên lặng của lý thể, quang là tướng soi sáng của trí tuệ, độ
là cảnh đế nương tựa. Nghĩa là nơi cư trú của Phật, tức chân như thật tánh
hay Ðại Niết bàn.
3. Những yếu tố cơ bản
để hình thành Tịnh độ:
a. Tín: gồm có tự tín và
tha tín. Tự tín: là phải nhận rõ tâm niệm hiện giờ của chúng ta vốn rộng
rãi, không bờ bến. Tuy chúng ta mê mờ điên đảo, nhưng nếu trong một ý niệm
biết hồi tâm, thì quyết định sẽ được sanh về Cực lạc. Tín tha: là tin đức
Phật Thích ca quyết không nói dối,., tin đức A di đà quyết không thệ
nguyện suông.
b. Nguyện: Ðã tin tưởng,
chúng ta phải phát nguyện vãng sanh, biết chán cảnh phù hoa hư giả, phải
ưa cõi thanh tịnh trang nghiêm, lánh xa ác nghiệp, siêng tu chánh đạo, thể
thành chánh giác, nguyện độ chúng sanh.
c. Hành: Khi đã phát
nguyện, chúng ta phải nỗ lực thực hành. Nhưng thực hành có nhiều cách như:
Quán tưởng, lễ bái, cúng dường, sám hối v.v… Song chỉ có phương pháp trì
danh niệm Phật là dễ dàng thực hiện nhất và cũng phù hợp với nhiều căn cơ
nhất.
Pháp môn trì danh niệm
Phật này thông thường chia làm 3 loại:
1. Giác tánh niệm Phật:
bất cứ lúc nào cũng soi sáng tâm tánh mình, không có sự phân biệt, tức tâm
tức Phật.
2. Quán tưởng niệm Phật:
Chúng ta quán tưởng thân Phật là thanh tịnh, mầu nhiệm, cõi Phật là trang
nghiêm, đến khi thông cảm sẽ thế nhập vào tam muội.
3. Trì danh niệm Phật: Có
mặc trì và cao thanh trì. Nghĩa là hoặc niệm thầm, hoặc niệm lớn tiếng.
Trong kinh nói: "Nếu ngọc
minh châu ném vào nước đục, thì nước đục quyết phải hóa trong, cũng như
danh hiệu Phật gieo vào tâm mê thì tâm mê quyết phải tỏ ngộ". Ðể đánh thức
chúng sanh đang mê ngủ trong cảnh trần lao và cổ vũ họ tu theo pháp môn
Tịnh độ, trong kinh Vô Lượng Thọ Phật có đoạn viết:
"Loài người sống trong cõi
đời này, cha con, anh em, vợ chồng, nhiều khi không biết sống theo đạo lý,
chẳng vâng phép tắc, hoang dâm, kiêu ngạo, càn dỡ, phóng túng, chỉ mong
khoái ý nhất thời; siểm nịnh chẳng ngay, dối gạt lẫn nhau, a dua bợ đỡ,
bất tín bất trung, ghét kẻ hiền lành, gièm người lương thiện, đến nỗi vùi
dập người ngay trong chỗ oan khuất. Kẻ làm vua thì bất minh, kẻ làm tôi
thì bất trung, kẻ làm cha thì bất từ, kẻ làm con thì bất hiếu, kẻ làm vợ
thì phản chồng, kẻ làm em thì lừa anh. Tất cả chỉ vì buông lung theo dục
vọng si mê mà chuốc lấy hậu quả hại mình hại người. Rốt cuộc phải lăn lộn
đời đời kiếp kiếp trong chốn khổ đau bất tận không có ngày nào ra khỏi!
Những ai tỉnh giấc, hãy
dũng mãnh cất mình vượt khỏi hang sống chết, dang tay xé toạc lưới si mê
thì cảnh giới an vui quyết có ngày bước đến! (sđd, tr. 87)
Thế nhưng người đời thói
bạc, cùng giành nhau những việc không đâu. Ở trong cảnh cực khổ dữ dội
này, họ làm việc nhọc nhằn để cung cấp cho những nhu cầu thiết yếu của
mình. Không cứ người sang kẻ hèn, người giàu kẻ nghèo, tất cả già trẻ, gái
trai đều lo lắng chạy theo kiểu tiền tài danh vọng. Có của hay không đều
như vậy cả, lăng xăng sầu khổ, ưu tư nghĩ ngợi, làm đầy tớ cho cái tâm sai
khiến, không có lúc nào được yên định. Kẻ có ruộng lo ruộng, kẻ có nhà lo
nhà, cho đến trâu bò, súc vật tôi tớ, của cải mọi thứ ăn mặc, nhất nhất
đều phải lo toan chu đáo, chập chồng mối tham, chất chứa cõi lòng, lo sợ
buồn rầu, không lúc nào dứt. Thế nhưng vẫn bị những sự vô thường như kẻ
thù, chủ nợ, lửa đốt, nước trôi, kẻ cướp giựt ngang, làm cho tiêu tan, sự
nghiệp hoang phế. Ðến nỗi lo buồn ủ rũ không lúc nào nguôi! Chứa giận
trong lòng, chẳng rời oán hận, canh cánh bên lòng, chẳng buông ra được.
Tới khi nhắm mắt lìa đời, buông tay theo nghiệp, không thể đem theo một
thứ gì cả. Biết vậy thì trong cõi đời này cha con, anh em, vợ chồng, họ
hàng nội ngoại, tất cả nên yêu kính lẫn nhau, đừng sinh tâm ghét bỏ. Kẻ có
người không giúp đỡ cho nhau, không được keo kiệt. Lời nói sắc mặt thường
hòa vui, đừng gây oan trái cho nhau. Hoặc có khi vì sự tranh giành sinh ra
giận dữ. Cái ý oán hận ở đời này chỉ ganh ghét một chút, nhưng qua đời sau
càng trở nên dữ dội, đến nỗi trở thành ra thù oán liên miên, trải nhiều
đời nợ đền, oán trả, khó mà dứt được. Người ta ở trong vòng phiền trượt
đầy tham dục này, sinh một mình, chết một mình, đến một mình, đi một mình;
cực khổ hay vui sướng chỉ một mình mình chịu lấy, không một ai thay thế
được! Lành dữ biến hoá, họa phúc khôn dò, sanh tử đắp đổi, nối nhau không
dứt: Hoặc cha khóc con, hoặc con khóc cha, anh em vợ chồng thương khóc
tiễn nhau, tất cả đều trôi qua trong cõi vô thường chuyển dịch. Tuy sự
thực của dòng đời là thế, nhưng người ta vì màn vô minh che lấp, nên chẳng
tin kinh pháp, lòng chẳng lo xa, chỉ mong khoái chí nhất thời chạy theo
ham muốn, chẳng hiểu đạo lý, đắm say tài sản sắc đẹp, kết cuộc phải chịu
trầm luân mãi hoài trong vòng khổ lụy, chưa biết ngày nào thoát khỏi, thật
đáng xót thương. (sđd, tr.79)
"Nay ta làm Phật ở tại cõi
này, diễn thuyết kinh pháp, chỉ lối dẫn đường, dứt các lưới nghi, nhổ gốc
ái dục, lấp nguồn tội ác, dẫn người vượt khổ, đến cõi an lành.(sđd, tr.
81)
"Muôn loài chúng sanh từ
bao kiếp tới nay, lăn lộn trong 5 nẻo, lo buồn, sợ sệt, đau khổ khôn cùng,
cho đến nay dòng sanh tử vẫn chưa đoạn dứt… Ngày nay may mắn được gặp Phật
nghe pháp, các ngươi cũng nên chán ghét nỗi thống khổ của sinh lão bệnh tử
mà quyết tâm vượt qua bể khổ trần lao. Hay đoan thân, chánh hạnh, làm mọi
điều lành, sửa mình trong sạch, rửa những bợn dơ trong tâm, lời nói thành
thật, tính tình ngay thẳng, trong ngoài đều ứng hợp đạo mầu. Người nào độ
được lấy mình thì nên tự cứu lấy, tinh cần cầu nguyện, vun bón cội lành.
Tuy là khó nhọc một đời mà được an vui vĩnh cửu, nhổ dứt cội rễ sinh tử,
chung sống trong cảnh đạo đức muôn thuở, không còn cái hại của 3 độc tham
sân si bức ngặt. (sđd, tr. 83)
II TỊNH ÐỘ QUA CÁCH LÝ
GIẢI CỦA THIỀN
1) Cõi Tịnh độ theo kinh
Duy Ma Cật: Khi bàn về cõi Tịnh độ, Duy Ma Cật nói: "Này Bảo Tích, Ông nên
biết! Trực tâm là Tịnh độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, chúng sanh
không dua nịnh sanh sang nước đó.
Thâm tâm là Tịnh độ của Bồ
tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh đầy đủ công đức sanh sang nước đó.
Bồ đề tâm là tịnh độ của
Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh có tâm Ðại thừa sanh sang nước
đó.
Bố thí là Tịnh độ của Bồ
Tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh hay thí xả tất cả tài sản sanh sang
nước đó.
Trì giới là Tịnh độ của Bồ
tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh tu mười điều lành, hạnh nguyện đầy
đủ sanh sang nước đó.
Nhẫn nhục là Tịnh độ của
Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh đủ 32 tướng tốt trang nghiêm
sanh sang nước đó.
Tinh tiến là Tịnh độ của
Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh siêng tu mọi công đức sanh sang
nước đó.
Thiền định là Tịnh độ của
Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh biết thu nhiếp, tâm chẳng tán
loạn sanh sang nước đó.
Trí tuệ là Tịnh độ của Bồ
tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh được trí tuệ sanh sang nước đó.
Tứ vô lượng tâm là Tịnh độ
của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh thành tựu từ, bi, hỷ, xả
sanh sang nước đó.
Tứ nhiếp pháp là Tịnh độ
của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh được giải thoát sanh sang
nước đó.
Phương tiện là Tịnh độ của
Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh khéo dùng phương tiện, không bị
trở ngại sanh sang nước đó.
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo
là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh đầy đủ niệm xứ,
chánh cần, thần túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác chi, 8 thánh đạo sanh sang nước
đó.
Hồi hướng tâm là Tịnh độ
của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh được cõi nước đầy đủ tất cả
công đức.
Nói pháp trừ tám nạn là
Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, cõi nước không có 3 đường ác và
tám nạn.
Tự mình giữ giới hạnh
không chê chỗ kém khuyết của người khác là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát
thành Phật, cõi nước không có sự hủy phạm giới cấm.
Mười điều lành là Tịnh độ
của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sanh sống lâu, giàu có, phạm
hạnh, lời nói chắc thật, giọng nói dịu dàng, quyến thuộc không chia rẽ,
khéo hòa giải việc tranh chấp, kiện tụng, nói lời có ích, không giận,
không ghét, thấy biết chân chánh; tất cả các chúng sanh ấy sanh sang nước
đó.
… Cho nên, này Bảo Tích,
Bồ tát nếu muốn được cõi Phật thanh tịnh, nên làm cho tâm được thanh tịnh;
tùy chỗ tâm thanh tịnh mà cõi Phật được thanh tịnh. (Kinh Duy Ma Cật, HT.
Huệ Hưng dịch, xb.1946, tr.20 –22).
2)Bồ Ðề Ðạt Ma nói về Tây
phương Tịnh độ:
Phật ở trong tâm như trầm
hương ở trong cây, phiền não nếu hết thì Phật theo tâm hiện ra, vỏ mục nếu
hết thì hương theo cây tỏa ra. Nên biết ngoài cây không có hương, ấy là
hương ngoài của cây khác. Nếu ngoài tâm có Phật, ấy là Phật ngoài của ai
khác.
Trong tâm có 3 độc, đó gọi
là quốc độ dơ bẩn. Trong tâm không có 3 độc, đó gọi là quốc độ thanh tịnh.
Kinh nói: "Nếu khiến chi quốc độ vẫn đục, dơ xấu cứ dẫy đầy lên, rồi chư
Phật Thế Tôn sẽ từ trong đó xuất hiện, thì điều đó không thể nào có được.
Cái vẩn đục dơ xấu ấy, tức là3 độc vô minh vậy. Chư Phật Thế Tôn ấy, tức
là tâm thanh tịnh giác ngộ vậy". (Thiếu Thất Lục Môn, tr.64)
Hỏi: Như lời kinh nói:
"dốc lòng niệm Phật chắc được vãng sanh qua cõi Tịnh độ Tây phương", chỉ
cần theo một cửa ấy tức được thành Phật, sao còn nói quán tâm để cầu giải
thoát làm gì?
Ðáp: Phàm nói niệm Phật,
cốt cần niệm chánh, rõ nghĩa là chánh, không rõ nghĩa là tà. Niệm chánh
chắc được vãng sanh; còn niệm tà thì sao qua đó được?
Phật là giác, tức tỉnh
thức vậy: Tỉnh thức để thấy rõ thân tâm mình, đừng khiến niệm dữ lừng lên.
Nói niệm tức ghi nhớ vậy: Ghi nhớ giữ giới hạnh, chẳng quên tinh tấn. Có
hiểu như vậy mới gọi là niệm. Cho nên niệm cốt ở tâm, chẳng ở lời nói.
Phải biết:
Mượn nôm bắt cá, được cá
phải quên nôm.
Mượn lời cầu ý, được ý
phải quên lời.
Ðã xưng niệm Phật trên
danh từ
Nên biết niệm Phật trong
đạo lý.
Nếu tâm không thực thì
miệng tụng tiếng suông, 3 độc chất chồng, nhân ngã chèn lấp, làm sao thấy
Phật?
Ðem tâm vô minh hướng
ngoài cầu Phật, chỉ nhọc sức nào có ích gì ?
Nên biết chư Thánh ngày
xưa tu niệm Phật, phải đâu nói ngoài miệng, chính là tìm xét trong tâm.
(sđd, tr.42)
3) Tịnh độ theo cách lý
giải của Lục Tổ Huệ Năng:
Hỏi: Ðệ tử (Thứ Sử họ Vi)
thường thấy kẻ tăng người tục niệm Phật Di đà nguyện sanh Tây phương, xin
Hòa thượng nói cho biết có được sanh về nước kia chăng?
Ðáp: Khi Thế Tôn ở thành
Xá Vệ nói về cõi Tây phương để dẫn dắt chúng sanh, và văn kinh nói rõ cách
đây không xa. Nếu xét về tướng thì có 10 vạn 8 ngàn dặm, tức là con số chỉ
vào 10 điều ác và 8 điều tà ở trong người chúng ta. Vì thế nói là xa. Xa
là đới với người hạ căn. Gần là đối với bậc thượng trí. Người có 2 hạng,
phương pháp không có 2 thứ. Do mê ngộ khác nhau nên kiến giải có mau có
chậm. Người mê niệm Phật cầu sanh về Tây phương. Người ngộ tự tịnh tâm
mình. Cho nên Phật dạy: "Tùy tâm mình tịnh tức cõi Phật tịnh" (Duy Ma Cật)
Sử Quân là người phương
Ðông nhưng nếu tâm tịnh thì không có tội; còn tuy là người phương Tây, mà
tâm không tịnh vẫn có tội như thường. Nếu không thế, người phương Ðông tạo
tội, niệm Phật cầu sinh phương Tây, còn người phương Tây tạo tội, niệm
Phật cầu sinh xứ nào?
Phàm ngu không rõ tự tánh,
không biết tịnh độ ngay trong ta nên mới nguyện Ðông nguyện Tây. Còn đối
với người ngộ thì ở đâu cũng vậy. Cho nên Phật nói: "Tùy bất kỳ ở đâu cũng
thường được an lạc"
Nay tôi khuyên các thiện
tri thức trước hết trừ mười điều ác, như vậy tức đi được 10 vạn dặm
đường,sau trừ 8 điều tà, mới qua được 8 ngàn dặm nữa. Mỗi niệm kiến tánh,
thường làm việc ngay thẳng, được như thế thì chỉ búng ngón tay là thấy
Phật Di đà. Sử Quân chỉ cần thực hành 10 điều thiện thì cần chi phải
nguyện vãng sanh nữa? Trái lại, nếu tâm không trừ bỏ 10 điều ác thì Phật
nào đến rước ? Nếu ngộ pháp đốn giáo vô sanh, Tây phương sẽ thấy ngay tức
khắc. Không ngộ mà niệm Phật cầu sinh Tây phương, đường xa lắm làm sao tới
được! Nghe kệ ta đây:
"Bồ đề tìm nơi tâm nọ,
Chẳng nên tìm kiếm ngoại
duyên.
Nghe xong tu hành theo đó,
Tây phương ắt thấy nhãn
tiền
(Pháp Bảo Ðàn
Kinh, tr.79)
4) Trầøn Thái Tông nói về
Tịnh độ:
Khi bàn về pháp môn Tịnh
độ mà việc cụ thể là niệm Phật, ông viết:
"Niệm Phật có thể dập tắt
được 3 nghiệp ác.
Vì rằng trong lúc niệm
Phật, thân ngồi ngay thẳng, không làm việc tà, như vậy là dập tắt đươc
nghiệp thân. Miệng tụng chân ngôn, không nói lời xằng bậy, thế là dập tắt
được nghiệp miệng. Ý chăm chú tinh tấn, không nảy sinh tà niệm, thế là dập
tắt được nghiệp ý. Nhưng kẻ tu hành có 3 bậc:
1. Bậc thượng trí thì tâm
tức Phật, không phải nhờ thêm sự tu hành. Vọng niệm là bụi trần không
vướng một mảy. Nhưng vọng niệm trần lao vốn thanh tịnh, cho nên nói như
như không động tức là thân Phật. Thân Phật tức là thân ta, Ðó là Phật
sống.
2. Bậc trung trí ắt nhờ
vào niệm Phật. Chú ý tinh cần, luôn luôn niệm mà không quên thì tâm mình
ắt tự nhiên thuần thiện. Ý nghĩ thiện đã hiện ra thì ý nghĩ ác đã tiêu
diệt thì trở về với chính đạo, đến lúc mệnh chung sẽ được niềm vui Niết
bàn.
3. Kẻ hạ trí miệng chuyên
cần niệm lời Phật, lòng mong thấyhình tướng Phật, thân nguyền sinh về nước
Phật, ngày đêm tu hành chăm chỉ, không thoái chuyển, như vậy đến khi mạng
chung sẽ theo ý nghĩ thiện mà sinh về nước Phật.
Ba hạng người ấy giác ngộ
sâu cạn tuy có khác nhau, nhưng cái nhận được là một. Nhưng bậc thượng trí
nói thì dễ làm thì khó. Ðời nay ít kẻ theo được.
Như muốn niệm Phật hãy lấy
cách của kẻ hạ trí làm đầu. Vì như xây tòa lâu đài 3 tầng mà không làm
tầng dưới trước là điều chưa từng có vậy".
III. THIỀN VÀ TỊNH CÓ LIÊN
QUAN GÌ KHÔNG?
Nếu xét một cách tương
đối, ta thấy pháp môn Tịnh độ có vẽ phổ cập bình dân còn pháp môn Thiền
thì có tính cách thượng lưu trí thức hơn. Xét bề ngoài, phép niệm Phật đối
lập hẳn với thiền. Vì thiền không nương vào ai ngoài mình, còn niệm Phật
thì nhất thiết nương vào đức Phật. Nhưng nếu phân tích về tâm ly ùcủa phép
niệm Phật vẫn còn có cái tương đồng giữa việc duy trì một công án ở Thiền
Tông và việc niệm danh hiệu Phật ở Tịnh độ tông. Do nền tảng tâm lý chung
này mà cả hai có thể gần gũi nhau, Thiền vói niệm Phật và niệm Phật với
thiền.(Thiền luận II, tr.204)
…Thiền và niệm Phật dường
như không đồng mà đồng. Vì đích của Thiền là thấu hiểu ý nghĩa của cuộc
sống, đích của niệm Phật cũng vậy. Thiền chỉ thẳng lòng người, thấy tánh
thành Phật. Trong khi đó, niệm Phật nhắm đi tới cõi Tịnh độ vốn dĩ không
chi khác hơn là tự tâm, và nhắm thấy rõ tự tánh vốn dĩ chính là đức
A-di-đà.
Nếu thế làm sao phân biệt
niệm Phật và thiền? Kinh nói: Như đi vào một thành lớn mà khắp bốn phía
đều có cửa; từ những nẻo khác nhau, người ta tìm thấy lối vào riêng biệt
của mình. Vì cửa không chỉ có một. Nhưng khi vào rồi, họ cũng ở trong
thành như nhau. Thiền và niệm Phật mỗi bên có một căn khí riêng, như ng
khi đi đến đích thì đều gặp nhau.
Ở niệm Phật, các người có
thể phân biệt đằng nào linh nghiệm, đằng nào không linh nghiệm. Tại sao?
Nếu việc tụng niệm của tín giả chỉ ỡ trên môi miệng còn tâm thì chẳng nghĩ
tưởng chút gì đến Phật thì tụng niệm ấy không linh nghiệm. Trái lại, nếu
miệng và tâm cùng chung hướng về Phật trong lúc tụng đọc danh hiệu Ngài,
khiến cho tâm với Phật không
rời nhau một bước, thì niệm Phật như thế chắc chắn sẽ có kết quả. Giả dụ
có một người tay cầm tràng hạt, miệng niệm danh hiệu Phật; nhưng nếu cứ
vọng tưởng cuồng tâm, chạy xuôi chạy ngược, thì đó là một người chỉ tụng ở
miệng chứ không tụng ở tâm, chỉ luống công vô ích, nhọc sức mà chẳng
được lợi ích gì; tốt hơn là
nghĩ tưởng đến Phật trong tâm dù môi không mấp máy. Vì như thế mới là đồ
đệ chân chính của pháp môn niệm Phật.
Há không thấy kinh nói
rằng mười phương Như Lai thương nhớ chúng sanh như mẹ thương con. Nếu con
cũng nhớ tưởng đến mẹ như thế thì tại sao mẹ con không
có ngày hội ngộ? (Thiền luận
II, Suzuki, T.S dịch, An Tiêm xb. 1971, tr. 208)
- Kẻ học thiền hãy cứ một
mực theo thiền, người niệm Phật hãy cứ khăng khăng niệm Phật. Nếu tâm bị
phân chia giữa hai thứ sẽ chẳng thành tựu được gì cả. Người xưa đã nói ví
dụ về tình trạng bị phân tâm như thế giống như một người cố bước vào hai
con thuyền một lúc, nhưng chẳng bước vào đâu được.
Vĩnh Minh Diên Thọ (tịch
năm 975) đã nói sự dung thông giữa thiền và tịnh. Ông được xem như một
trong những người chủ trương tôn giáo hòa hợp vĩ đại trong lịch sử Trung
Hoa, đã cố gắng dung hòa giữa Thiền và Tịnh độ (Sđd, tr.210)
Quán Kinh nói: "Mỗi một
đức Phật Như Lai hiện thân trong pháp giới và thâm nhập trong tâm của tất
cả hữu tình. Vậy mỗi khi các ngươi tưởng đến Phật, chính tâm của các ngươi
được trang nghiêm bằng 32 tứơng tốt và 80 vẻ đẹp. Tâm ấy được chuyển thành
Phật tánh, tâm ấy chính là Phật. Biển chánh trí của chư phật nổi dậy trong
tâm tưởng của các ngươi. Vì lẽ đó, các ngươi hãy nhất tâm tu tập quán
tưởng Phật Như Lai, Ngài là bậc A La hán, Chánh đẳng giác (Sđd tr.256)
- Cứ để cho sự chú tâm lên
tới cao độ của nó thì sẽ có một trực giác về những chân lý huyền diệu như
vậy. Vãng sanh tức vô sanh, niệm Phật tức không có gì để niệm. Tâm này
chính là Như Lai, dù sắc thân còn lệ thuộc thế giới này mà tâm thì vui
sướng trong cõi tịnh độ. (Sđd. 260)
- Lại nữa củi sẽ cháy nếu
châm lửa vào - lửa đốt cháy và lửa vốn có trong củi là một. Như thế chính
do hòa hợp nội duyên và ngoại duyên mà hết thảy các pháp hiện hành. Dù tất
cả chúng ta có sẵn Phật tánh, nhưng tự Phật tánh nó không đốt cháy những
tham dục nếu như không châm ngọn lửa của trí tuệ siêu việt. Ngọn lửa trí
tuệ đó vốn là danh hiệu Phật. (Sđd. 264)
Dưới cái nhìn của thiền,
câu "Nam mô A di đà Phật" là một công án đề ra cho các môn đồ của Tịnh độ
tông. Ðấy là lúc chìa khoá được đặt vào tay hành giả, toàn thể kho tàng ý
thức tôn giáo dành cho y nay được toàn quyền tự do sử dụng. (Sđd. 268)
- Tôn giáo trọn vẹn được
xây dựng trên nền tảng kinh nghiệm, không có kinh nghiệm này, tất cả cơ
cấu giáo lý của nó sẽ sụp đổ. Ðây là chỗ khác nhau giữa tôn giáo và triết
học. Hết thảy các hệ thống triết học mai kia có thể sẽ băng hoại, nhưng
đời sống tôn giáo mãi mãi được chứng nghiệm những huyền bí sâu xa của nó.
Tịnh độ tông và Thiền tông không thể tách rờikhỏi những huyền bí này. Tịnh
độ tông đặt trọng tâm của mình trên việc niệm Phật và Thiền tông thì đặt
trên thực hành công án. Nếu như xét về những kiến trúc của chúng thì cả
hai hình như rất gần gũi nhau. (Sđd. 269)
Thiền sư Bạch Ẩn nói:
"Ðiều mà tôi trách cứ nhiều nhất là thái độ của các môn đệ thiền. Họ cần
phải tự mình luyện tập nơi thiền thì lại biếng nhác, hoặc hèn kém, và
trong khi bê trễ ở pháp môn này họ lại sợ hãi mà nghĩ tới một ngày tàn sắp
đến của tuổi già, và lại bắt đầu với pháp môn niệm Phật là pháp môn giải
thoát tốt đẹp nhất và thích hợp nhất dành cho chúng sanh trong thời mạt
pháp này. Họ thật đáng thương. Họ như những con sâu, sinh ra từ cột gỗ,
trở lại gặm nhắm gỗ và cuối cùng kéo nó đổ xuống. Vì vậy, họ đáng bị khiển
trách nặng nề. (Sđd. 282)
IV. ÐỐI CHIẾU TỊNH ÐỘ
VỚI NHỮNG THIẾT BỊ VĂN HÓA HIỆN ÐẠI
Chúng ta thấy có những bản
nguyện Tịnh độ như:
- Nguyện nhân dân trong
một nước không có sự bất đồng về sắc tướng. Nguyện cho nhân dân trong nước
đều một sắc vàng.
Những nguyện trên đây đều
cùng một chủ ý là muốn thủ tiêu chế độ phân biệt chủng tộc để thực hiện lý
tưởng nhân chủng bình đẳng trong cõi Tịnh độ.(Ðại Thừa Phật giáo Tư Tưởng
Luận, Kimura Taiken trước, Thích Q.Ð. dịch. Tu thư Vạn Hạnh xb.1969, các
trang 417. 418, 420, 422, 458).
- Nguyện không có sự phân
biệt về loài trời, loài người v.v…
Bản nguyện này mang chung
một ý thú là muốn hủy bỏ sự phân biệt giai cấp. Do đó trong tịnh độ nếu
không có sự tranh chấp về nhân chủng về màu da vàng, trắng, đỏ, đen, thì
tất nhiên cũng không còn những cuộc đấu tranh giai cấp, tự nhiên lòng
người sẽ hòa hợp, nhất trí, tất cả đều xem nhau như anh em, chung sống
trong hòa bình,
chỉ vui cùng đạo và sống theo
chánh pháp.{Ðại Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận, Kimura Taiken trước, Thích
Q.Ð. dịch. Tu thư Vạn Hạnh xb.1969, các trang 417. 418, 420, 422, 458}.
… Những ý niệm mới trên
đây mới nghe qua có vẻ như là không tưởng, nhưng nếu đối chiếu nó với cuộc
sống thực tế của xã hội thời bấy giờ thì ta thấy Aán Ðộ thật đã có nhiều
chủng tộc, nhiều đẳng cấp và nhiều ngôn ngữ khác nhau. Nếu ta khảo sát đến
tình trạng phân hóa của xã hội đương thời thì ta sẽ thấy những lý tưởng
trên đây
của Phật giáo thật đã có một
ý nghĩa phản kháng mãnh liệt và sâu sắc về tình trạng phân biệt chủng tộc
và giai cấp thời ấy. (Ðại Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận, Kimura Taiken
trước, Thích Q.Ð. dịch. Tu thư Vạn Hạnh xb.1969, các trang 417. 418, 420,
422, 458).
… Nguyện đất bằng phẳng,
sáng cũng như gương. Nguyện đất toàn bằng vàng.v.v…
Có thể nói tất cả các
nguyện được biểu hiện trên đây để hình dung cõi nước đều liên quan đến
trạng thái đường sá. (Ðại Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận, Kimura Taiken
trước, Thích Q.Ð. dịch. Tu thư Vạn Hạnh xb.1969, các trang 417. 418, 420,
422, 458).
Nghĩa là tất cả đường sá
được chỉnh trang rất thuận tiện cho sự giao thông theo mô hình của một xã
hội văn minh hiện đại nhất.
Nguyện 46 nói, chúng sanh
trong nước hễ muốn nghe pháp, thì tự nhiên được nghe. Ðiều này ngày nay
chúng ta thấy rất thực tế…
Nguyện sự ăn mặc, ở đều tự
nhiên thành tựu. Ðây là một ước vọng về trạng thái kinh tế và đời sống của
dân chúng trong cõi Tịnh độ đều dễ dàng và sung sướng. Trước hết là vấn đề
đèn, thì ai cũng biết có nguyện "ánh sáng vô lượng", về nước, thì có
nguyện "nước tám công đức". Nếu giải thích những thiết bị trên đây theo
tinh thần văn hóa hiện đại, ta thấy có điểm rất thú vị!; Nghĩa là trong
nhà có đầy đủ tiện nghi đèn nước. Ðặc biệt là vấn đề thiết bị vệ sinh có
nguyện "Nguyện nhân dân trong quốc độ ta không có cái nạn đại tiểu tiện"
(Khi muốn đại tiểu tiện thì đất nứt ra,sau đó khép lại). Mới nhìn qua ta
thấy nội dung của nguyện trên có vẻ như là không tưởng, nhưng nếu suy nghĩ
một chút ta sẽ thấy nó hoàn toàn muốn lý tưởng hóa vấn đề vệ sinh, nghĩa
là đưa ra nhũng thiết bị tại nơi đại tiểu tiện công cộng đến một trạng
thái hoàn toàn tối tân hiện đại. Những vấn đề này ngày nay tại những đô
thị văn minh gần như đã hoàn toàn thực hiện được. Cách đây hơn 2500 năm,
đối với khung cảnh Tịnh độ mà có thể dự tưởng đến một trạng thái như thế,
thì quả thực đã có những đặc điểm cực kỳ tiến bộ.
Rồi đối với các cơ quan
thông tin, giao thông, tuy bề ngoài không được biểu hiện rõ ràng, nhưng
trong nội dung các bản nguyện đã mặc nhiên bao hàm những ý nghĩa đó. Chẳng
hạn, nguyện nhân dân trong nước đều được năm thứ thần thông là Thiên nhãn,
thiên nhĩ, tha tâm, thần túc và túc mạng. Thiên nhãn nghĩa là cái năng lực
thấy được tất cả những vật ly ti ở rất xa; Thiên nhĩ là sức nghe được tất
cả âm thanh ở mọi nơi; Tha tâm là năng lực biết được lòng người khác; Thần
túc là năng lực bay, đi được tự tại và Túc mạng là biết được sự tình ở quá
khứ.
Tất cả những ý niệm trên
đây nếu được chuyển dịch thành ngôn ngữ hiện đại thì ta có thể nói đó là
các thứ điện tín, điện thoại, vô tuyến điện, truyền thanh, truyền hình, xe
lửa, xe hơi, máy bay, phi thuyền v.v… cho đến tất cả những thiết bị khoa
học khác đều dự kiến đầy đủ. Tuy có điểm bất đồng là khoa học ngày nay tìm
những thiết bị đó ở bên ngoài còn bản nguyện thì tìm nó ở trong năng lực
nội tâm của chúng sinh. (Ðại Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận, Kimura Taiken
trước, Thích Q.Ð. dịch. Tu thư Vạn Hạnh xb.1969, các trang 417. 418, 420,
422, 458). Hơn nữa về phương diện đạo đức và tôn giáo thì nền văn minh
hiện đại và lý tưởng Tịnh độ còn cách nhau xa lắm. Cho nên cần phải đợi
đến thời kỳ hội Long Hoa của Phật Di Lặc xuất hiện họa may mới thực hiện
được. Gần đây có nhiều người than phiền là cuộc sống tinh thần càng ngày
càng sút kém, lại cũng có những người nguyền rủa sự tiến bộ của nền văn
minh vật chất. Tôi thiết tưởng những quan điểm đó đều không thích đáng. Dĩ
nhiên, nếu cho rằng chủ nghĩa vật chất là vạn năng thì không nên, nhưng
sinh hoạt tinh thần chân chính cần phải thông qua vật chất mà biểu hiện
thì mới hoàn toàn, trái lại, lìa vật chất mà cô lập thì tức khắc sẽ rơi
vào tình trạng mất thăng bằng. Nếu cho vật chất là vật chất, tinh thần là
tinh thần, hai lãnh vực ấy không liên quan gì với nhau, thì nền văn hóa đó
chưa phải hoàn toàn và cũng không thể nào tồn tại. Trái lại, nếu đặt văn
hóa vật chất lên hàng đầu mà coi thường tinh thần, như thế là quên mất
sinh hoạt tự do của tinh thần; cho nên đối với quan niệm cho vật chất là
vạn năng, chúng ta cần phản đối; nhưng nếu lại đi quá trớn mà coi tinh
thần là độc tôn thì như thế đã bỏ một cực đoan này để chạy sang một cực
đoan khác, thái độ ấy cũng sai lầm nốt.
Thí dụ nếu bảo: Ðèn điện
là sản phẩm của văn minh vật chất, nên ta phải dùng đèn dầu và nến, để
thay thế chúng, nhưng dầu và nến cũng vẫn là văn minh vật chất; vậy thì ta
phải bỏ luôn chúng đi để chỉ dùng ánh trăng mà thôi; thử hỏi tình trạng
như thế có thể gọi là một nền văn minh tinh thần lý tưởng được không ?
Chung cuộc, Tịnh độ không
phải chỉ thanh tịnh hoàn hảo ở phương diện vật chất, cũng phải là một nơi
lý tưởng nữa. (Ðại Thừa Phật giáo Tư Tưởng Luận, Kimura Taiken trước,
Thích Q.Ð. dịch. Tu thư Vạn Hạnh xb.1969, các trang 417. 418, 420, 422,
458).
Như thế mới là cảnh giới
Tịnh độ hoàn toàn viên mãn.
(Tập văn Thành đạo Phật Ðản
số 50/ Pl 2545-2001)