---o0o---
Tế Tỉnh Đại Sự, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường, người
đời Thanh, con nhà họ Mã ở huyện Phong Nhuận.
Thuở bé ngài đã thông thuộc kinh sử. Sau khi xuất gia,
lại đi tham học các nơi, rộng suốt cả hai tông: Tánh và Tướng. Chỗ tâm
đắc nhất cúa ngài là chỉ thú Thập Thừa Tam Quán của Kinh Pháp Hoa. Kế đó,
ngài lại tham phỏng với Tụy Như Thuần thiền sư ở Quảng Thông, tỏ ngộ
thấu suốt, được truyền tâm ấn. Sau Thuần công về an dưỡng ở chùa Vạn Thọ,
Đại sư kế nhiệm tại Quảng Thông, sách tiến hàng hậu laii, tông phong rất
thạnh.
Bình
nhật, Đại sư thường bảo: "Ngài Vĩnh Minh nguyên là bậc tông trượng trong
thiền môn, mà còn quy tâm về Tịnh Độ. Huống nay là thời mạt pháp, chúng
ta cũng phải tuân theo". Do đó, ngài chuyên tu tịnh nghiệp, chủ trương
Liên tông. Mỗi ngày hạn thời giờ dạy chúng hoặc tiếp khách nội một cây
hương. Ngoài ra chỉ chuyên lễ sám niệm Phật mà thôi.
Không bao lâu, Đại sư sang trụ trì chùa Giác Sanh. Kế
đó lại lui về ngụ chùa Tư Phước ở Hồng Loa Sơn. Tăng chúng các nơi mến
đức nương về ngày càng đông, khiến chỗ ấy trở thành đại tòng lâm. Đại sư
vì pháp lợi sanh lòng không chán mỏi, tất cả đều dùng Tịnh độ làm chỗ
quy thú. Mỗi khi giảng đến ân cứu khổ ban vui của Như Lai, thường lệ rơi
theo tiếng. Thính chúng ngồi nghe đều cảm động sa nước mắt. Trong hai
quyển Ngữ Lục của ngài, lời khuyến hóa lại càng chí thiết. Đại lược như
sau:
-"Đầu mối quan hệ trong vòng sống chết của chúng ta,
duy có hai thức: Tâm lực và Nghiệp lực. Tâm lực là tâm niệm có nhiều mối,
khi lâm chung đi theo mối nặng nhất. Nghiệp lực ví như người mang nợ,
chủ nợ mạnh lôi kéo trước tiên. Nghiệp lực tuy lớn, nhưng tâm lực lại
càng lớn hơn. Bởi nghiệp không tự tánh, hoàn toàn nương nơi tâm, nên khi
tâm chú trọng thì làm cho nghiệp thêm mạnh. Nếu ta dùng trọng tâm mà tu
Tịnh độ, tất tịnh nghiệp mạnh, khi lâm chung quyết định sanh về Tây
phương. Ví như cây to tường cao, nghiêng hướng về Tây, ngày kia khi đã
đổ tất cũng hướng về Tây vậy.
Thế nào trọng tâm? Chúng ta tu Tịnh độ, lòng tin qúi
ở nơi sâu, chí nguyện qúi ở nơi thiết. Do tín nguyện sâu thiết, nên tất
cả tà thuyết không thể lay động, tất cả cảnh duyên không thể lay động,
tất cả cảnh duyên không thể kéo lôi. Giả sử đang khi ta niệm Phật, bỗng
tổ Đạt Ma hiện ra, bảo phải bỏ Tịnh tu Thiền có thể liền giác ngộ, thì
cũng từ tạ không dám tuân lời. Hay dù đức Thích Ca hiện thân, bảo có
pháp môn khác hơn Tịnh độ, dạy ta phải bỏ niệm Phật để tu môn kia, ta
cũng đảnh lễ mà từ khước. Giữ vững như vậy, mới gọi là lòng tin sâu sắc.
Về phần nguyện, ví như có vòng sắt nóng đỏ xoay vần
trên đầu, ta cũng không vì sự khổ ấy mà thối thất chí vãng sanh. Lại như
có cảnh dục lạc mầu nhiệm nhất của Chuyển luân vương hiện đến, ta cũng
không vì sự vui sướng đó mà quên tạm niệm cầu về Cực Lạc. Gặp những cảnh
duyên nghịch thuận cùng cực như thế, mà vẫn không đổi lòng, mới gọi là
chí nguyện tha thiết.
Lòng tin sâu, chí nguyện thiết ấy, gọi là trọng tâm.
Dùng tâm này mà niệm Phật thì tịnh nghiệp mạnh và lần lần thành thục.
Khi nghiệp thanh tịnh Cực Lạc thành thục, tất duyên nhiễm Ta bà phải dứt.
Như thế, lúc lâm chung dù có muốn cảnh luân hồi hiện ra, cảnh Tịnh độ
cùng đức Di Đà chẳng hiện tiền, cũng không thể được. Nhưng tín nguyện
sâu thiết ấy lúc bình thời phải rèn luyện cho thành, khi lâm chung mới
khỏi lạc vào nẻo khác. Như cổ đức lúc sắp mạng chung, chư Thiên ở sáu
cõi trời trổi nhạc cầm tràng phan, kế tiếp đến rước, mà vẫn cố từ, một
lòng chờ Phật, đợi khi Phật hiện đến mới chịu đi. Lâm chung là cảnh tứ
đại sắp phân tán, chư Thiên đến rước là cảnh tốt đẹp tuyệt vời! Nếu bình
thời tâm tín nguyện chưa được mười phần vững chắc, thì khi lâm chung gặp
phải cảnh ấy, làm sao tự chủ được!"
Có nhà tu thiền hỏi: "Tất cả các pháp, đều như mộng
huyễn. Cõi Ta bà cố nhiên vẫn huyễn, song cảnh Cực Lạc cũng lại là mộng.
Như thế, niệm Phật cầu về Cực Lạc nào có ích chi được?
Đại sư đáp: - Không phải thế đâu! Các bậc Bồ Tát từ
đệ Thất địa trở về trước, đều tu hành trong huyễn mộng. Đến như bậc Đẳng
Giác vẫn còn ở trong mộng lớn vô minh. Duy có Phật mới là bậc Đại Giác,
hoàn toàn thức tỉnh. Đang lúc còn trong mộng, thì cảnh vui cùng khổ vẫn
uyển nhiên! Như thế, cam chịu cảnh mộng khổ ở Ta bà, sao bằng về hưởng
cảnh mộng vui nơi Cực Lạc? Phương chi, mộng ở Ta Bà là từ mộng vào mộng.
Mộng ở Cực Lạc là từ mộng ra khỏi mê, lần lướt đến ngôi Đại Giác. Cho
nên mộng cảnh tuy vẫn đồng, mà kết qủa ở đôi nơi rất khác xa, vì thế
phải niệm Phật cầu về Cực Lạc!
Niên hiệu Gia Khánh thứ mười lăm, vào tháng hai, Đại
sư dự biết ngày lâm chung, chẳng còn bao xa, đi từ giã những người ngoại
hộ, dặn rằng: "Duyên hư huyễn chẳng bền lâu, giờ sống thừa nên qúi tiếc.
Các vị hãy cố gắng niệm Phật, ngày kia sẽ cùng gặp nhau nơi cõi Liên
bang!". Đến ngày mùng hai tháng chạp, Đại sư cảm bịnh nhẹ, đang chí tâm
niệm Phật, bỗng thấy có vô số tràng phan từ phương Tây bay đến, liền
nhìn môn đồ nói: "Cảnh Tịnh độ đã hiện, ta sắp về Tây phương!. Rồi bảo
đại chúng, luân phiên trợ niệm. Sang ngày 17, vào giờ Thân, ngài nói với
chúng rằng: "Hôm qua tôi thấy ba vị đại sĩ: Văn Thù, Quán Âm, và Thế Chí.
Hiện giờ lại được đức Phật tự thân đến tiếp dẫn. Tôi đi đây!". Đại chúng
nghe nói, niệm Phật càng chí thiết, Đại sư ngồi thẳng, chắp tây hướng về
Tây, bảo: "Xưng một cầu hồng danh, thấy một phần tướng hảo"! Dứt lời,
liền kiết ấn mà tịch.
Lúc ấy, tất cả chúng đều nghe mùi hương lạ ngào ngạt.
Để lộ khám bảy ngày, dung sắc Đại sư tươi như sống, tóc bạc biến thành
đen. Lúc trà tỳ, được hơn một trăm hạt xá lợi lóng lánh. Đại sư thọ được
bảy mươi, tăng lạp bốn mươi chín.
---o0o---
Mụclục >
01 > 02 >
03 >
04 >
05 >
06 >
07 > 08 >
09>
10>
11 > 12 >
13