Những truyện Niệm Phật cảm ứng
mắt thấy tai nghe
Tác giả: LÂM KHÁN TRỊ
Người dịch: THÍCH HOẰNG CHÍ
MỤC
LỤC
- Lời người dịch
- Lời tựa
- Lời nói đầu
Một câu Phật hiệu
khởi tử hồi sinh
Bồ tát thị hiện
khuyến hóa niệm Phật
Phật A Di Đà phóng
quang gia bị
Mẹ già
niệm Phật, con được tai qua nạn khỏi
Chị lạy Phật,
em trai được nhờ phước
Phật vốn là y vương có thể trị dứt các chứng bệnh
Trợ giúp cha vãng sanh Tây phương thật là đại hiếu
Vốn đến đòi
nợ, niệm Phật được giải oan
Bị tai nạn giao thông nhờ niệm Phật được cấp cứu
Xe hư, niệm Phật
được hiệu lực
To tiếng niệm
Phật, đuổi được oan hồn
Niệm Phật có thể độ được hung thần ác sát
Bên bờ sống
chết, được cứu sống lại
Nơi ở của
hung thần hoá thành tốt lành
Thuốc A Già Đà trị
dược vạn bệnh
Thuốc
đại bi khiến cho thai đã chết sống lại
Té
xuống lầu bị thương, qua ngày sau không sao
Bồ tát gia bị
khai mở trí tuệ cho tôi
Chí tâm niệm Phật, khắc phục được tai nạn gió lửa
Đến lúc việc xảy ra mới ôm chân Phật cũng có kết quả
Té xuống
kênh rạch niệm Phật được cứu
Bụng đau khó
chịu, bà ngoại dựa vào
Niệm
Phật: nước rút, người và vật đều bình an
Xe lật, được bình an vô
sự
Xe ba bánh rớt xuống khe một phen thất kinh hồn vía
Nhành dương rải vào thân, cái đau ở ngực liền tiêu
Đức Di Đà tiếp dẫn, cả nhà ánh hào quang kim sắc
Con khỉ sắp bị giết được chuộc mạng biết lạy Phật
Con chó
đầy đủ căn lành theo chủ nghe pháp
Khóa tụng sớm tối,
rắn đến nghe
Cô hồn có
tánh linh theo người nghe kinh
Một đạo bạch
quang tiếp dẫn người mất
Trợ niệm cho người vãng sanh Tây phương, công đức vô lượng
Bàn
luận trống rỗng vô ích, quỷ thần tính nợ
Bạch y nữ nhân
trong mộng cho thuốc
Con
khỉ, cái móc câu – phúc đến lòng sáng ra
Trong mộng
niệm Phật, gặp dữ hóa lành
Con mèo đòi nợ, yêu
cầu siêu độ
Cháu gái nói chuyện phạm lỗi với ma quỷ, nhờ niệm Phật giải oán
Việc sanh
tử của ai, tự người đó giải quyết
Thường
niệm Phật được thoát khỏi tai nạn
Cành
trúc báo bình an, rớt xuống nước được cứu
Ở cõi đời này được nghe thiên nhạc ở hư không
Một tiếng
Di Đà, khiến xe được ngừng lại
Địa Tạng Bồ tát
chỉ điểm bình an
Chí thành niệm Phật được vãng sanh sắc diện hòa vui
Diêm Vương cũng sợ
Phật A Di Đà
Trong mộng
niệm Phật, cứu mẹ thoát hiểm
Lúc giải phẫu khoét thịt ở cánh tay, thần thức dạo chơi thiên
đường
Nghiệp
lực cản trở khiến nhân hết quả dứt
Vợ chồng thổ địa quy
y Tam Bảo
Cô dâu niệm
Phật lật xe được vô sự
Sát sanh phải bị
quả báo đoản mạng
Dát vàng trang nghiêm tượng Phật, lửa nhảy qua khỏi nhà
Chuyện
cảm ứng chuyển nghiệp kỳ diệu nhất
Niệm Phật chuyển nghiệp hưởng thọ phước báo
Phật, Bồ tát
không phụ người chí tâm
Tai nạn bị treo ở sườn núi, nguy hiểm kinh sợ, rốt cuộc không sao
Đứng
chấp tay mỉm cười vãng sanh Tây phương
Hiện bốn tướng lành, nhất định vãng sanh
Bệnh cũ mười
năm, không thuốc mà khỏi
Con cháu
học Phật cảm hóa được người lớn
Tài xế niệm
Phật, tai ương tiêu trừ
Niệm Phật cảm ứng được Quán Thế Âm Bồ tát ứng hóa cứu đứa em
Nhân duyên tin
Phật của hai bà cháu
Oan
hồn theo đuổi bị sốt cao, niệm Phật hết sốt
Ở trong tù được nghe pháp, kính tu tịnh nghiệp được kết quả
Không gieo
nhân Phật, đâu được quả Phật
Nhờ thiện tri thức khai đạo, người mù được sanh Tây phương
Trong mộng được bác sĩ cắt lá gan cứu chữa, và chuyện cứu độ những
con rệp
Sự linh ứng mầu nhiệm lúc trợ niệm cho mẹ vãng sanh Tây phương
Vong hồn quấn quít theo quấy phá, niệm Phật được giải oán kết
Tác giả của sách này niệm Phật vãng sanh Tây phương |
Lời người dịch
Pháp
môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng Thọ ([1])
và Kinh Đại Tập ([1])
là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt
pháp này. Chư Tổ như các ngài Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả, Huệ Viễn,
Thiện Đạo, Thanh Lương, Vĩnh Minh, Thiên Như, Liên Trì, Ấn Quang, v.v…
cũng đều đề xướng tuyên dương pháp môn Tịnh độ. Và trên thực tế chúng ta
thấy hành giả tu Tịnh độ ngày một nhiều. Thế nhưng dịch giả nhận thấy
những sách viết về Tịnh độ thì dường như quá ít! Đã thế, mà trong số ít
ỏi đó lại còn có những sách nội dung chẳng những không làm tăng trưởng
niềm tin nơi hành giả, mà còn gây cho hành giả thêm hoang mang. May
thay, dịch giả được đại đức Thích Minh Quang hiện đang du học ở Đài
Loan, trong một chuyến về nước tặng cho quyển “Những Truyện Niệm Phật
Cảm Ứng Mắt Thấy Tai Nghe” này, dịch giả xem thấy rất hay, cảm thấy
quyển sách này nếu được dịch ra chữ Việt và in ấn lưu hành thì có thể
giúp tăng trưởng tín tâm nơi hành giả tu Tịnh độ rất nhiều, nên dịch giả
không ngại vốn liếng Hán học còn nông cạn và văn từ tiếng Việt cũng rất
vụng về, mạnh dạn phát tâm dịch quyển sách này ra chữ Việt, để các hành
giả tu Tịnh nghiệp cùng xem, với ước nguyện thông qua quyển sách nhỏ
này, mọi người càng thâm tín hơn nơi pháp môn thù thắng mà mình đã chọn.
Ngưỡng mong trên
Hòa Thượng bổn sư (Hòa Thượng thượng Trí hạ Tịnh) chứng minh, cùng toàn
thể chư liên hữu hoan hỷ với pháp sự này.
Đây là lần đầu
tiên dịch giả mạo muội cầm bút dịch một quyển sách Phật ra mắt đại
chúng, chắc chắn sẽ có rất nhiều sai sót. Ngưỡng mong được các bậc cao
minh chỉ giáo.
Nam mô A Di Đà
Phật
Mùa Hạ năm Tân Tỵ
Dịch giả cẩn bút
Tỳ kheo
Thích Hoằng Chí
Lời tựa
Tuyết Lô lão
nhân Lý Bính Nam ([1])
Sách vở của Tam
Đại (ba đời: Hạ, Thương, Chu) như thế nào? Gặp ngọn lửa của nhà Tần, nên
nay không còn biết! Còn lưu lại chỉ là sách vở từ nhà Hán trở về sau.
Nhìn tổng quát những Kinh, Sử, Tử, Tập đều không ngoài hai chữ “Nhân
Quả”. Lấy đó làm gương, làm khuôn phép thì phong hóa trong xã hội được
thuần khiết (trong sáng, tốt đẹp). Trong phần Tập (một trong bốn phần
Kinh, Sử, Tử, Tập) thì có những tiểu thuyết giả sử, tiếp diễn đến nay
vẫn thịnh hành và sự phổ cập đến các hàng độc giả, thực ra còn vượt lên
trên cả Kinh, Sử. Chỉ có điều chất lượng của tiểu thuyết không đồng đều,
nên không được xếp vào văn hiến. Nhưng những loại tiểu thuyết có nhiều
loại phức tạp như loại lịch sử, loại phong tục, loại võ hiệp, loại thần
quái, loại ngụ ngôn biếm đời, loại tình yêu nam nữ, v.v… Thể loại tuy
nhiều, nhưng đều dùng “thiện ác” để khuyên răn đời, lấy đó làm tông chỉ.
Do có công năng giúp đỡ cho Kinh, Sử, cho nên các bậc danh nho, học sĩ
đều không bài xích nó, nhưng có những chuyện có hư cấu, dùng từ khoa
trương quá đáng; cũng có cái vừa phải xác đáng, cho nên có người tin, có
người không tin, vì vậy sách Mạnh Tử có lời than: “Tin hết vào sách
không bằng không có sách!”, đây là vì ghét sự khoa trương quá đáng. Sách
đã như vậy mà lòng người phần nhiều cũng không đồng: có người tin những
điều ghi chép trong sách xưa; có người thì tin những lời nói của người
nay; có người tin sách không tin người; có người tin người không tin
sách; có người tin xưa không tin nay; có người tin nay không tin xưa.
Như thế thì chẳng phải đều tin hết, cũng chẳng phải đều chẳng tin hết.
Quyển sách này
người biên soạn là người nay, những điều người nay ghi chép là những
việc nay. Người nay thì nhiều người quen; việc nay thì nhiều người biết,
cho nên chẳng có hư cấu và khoa trương quá đáng, như thế thì sao mà
không tin? Nếu tin thì tăng thêm phước đức, làm cho phong hóa xã hội
được thuần khiết (trong sáng, tốt đẹp). Tác phẩm ghi lại những chuyện
nhân quả này được viết ra là vì người có lòng tin, cũng làm ra là vì
người chưa có lòng tin. Người chưa có lòng tin hiện nay chưa chắc sau
này không tin, cho nên tác phẩm được viết ra cũng không uổng phí vậy.
Có người bảo: “Cái
nhân quả mà ngài nói, tôi không dám bác, nhưng những chuyện cảm ứng ghi
ở đây, không khỏi đáng nghi?”. Ôi, nhân quả là hiện tướng của Sự; cảm
ứng là động thái của Lý. Sự và Lý, Động và Hiện nếu có thể tách làm hai,
thì làm gì có nhân quả? Lại có người nạn vấn rằng: “Nhân quả, Kinh, Sử
đã nói rõ rồi, cần chi đến những chuyện cảm ứng này?”. Đáp: “Ông không
nghe việc phương tiện khéo léo trong kinh Pháp Hoa sao? Thuyết pháp thì
hàng trung căn, hạn căn không khế ngộ; thuyết thí dụ thì hàng thượng căn
trung căn đều nghe; thuyết nhân duyên thì ba căn đều thông suốt, mà
quyển sách này đã giúp thêm được cho Kinh, Sử, thế há chẳng tốt hơn
sao?”. Như ai thực sự tin được điều này, mới có thể thấy được chỗ thâm
áo của Kinh, Sử.
Trung Hoa Dân
Quốc năm thứ 58,
Cuối Xuân năm
Kỷ Dậu
Lý Bính Nam
ghi
Lời nói đầu
“Người tu Tịnh
nghiệp phải nên thực tiễn. Nếu như tu hành mà không niệm Phật, thì cũng
giống như người nói ăn mà không có ăn và người đếm tiền của người khác,
không có ích gì cho việc tu hành cả. Nói một trượng không bằng làm một
tấc! (nói nhiều không bằng làm ít). Đây là lời của ân sư Bính Công (Lý
Bính Nam) thường hay khuyên gắng những người tu học. Ngài (Bính Công)
hằng tự tu và hóa độ cho người, hai mươi năm ở tại Đài Trung, ngài hoằng
dương chánh pháp chưa từng có một ngày gián đoạn, với tâm Từ Bi khuyên
người không biết mệt mỏi, khuyên người chân thật niệm Phật, cầu sanh Tây
phương, độ người vô số. Tất cả Sĩ, Nông, Công, Thương cho đến những bà
già không biết chữ hoặc những trẻ nhỏ ba tuổi … rất nhiều người đạt được
sự lợi ích của niệm Phật.
Hiện nay đang là
thời mạt pháp, tà thuyết rối rắm, những người tu học muốn đầy đủ pháp vị
tốt đẹp, chỉ có y giáo phụng hành, chuẩn bị tư lương chờ đến kỳ hạn có
thể vãng sanh về An Dưỡng (cõi Cực Lạc). Đồng trong loài người, mà có
người nhân nơi chí tâm niệm Phật mà có được những cảm ứng kỳ diệu, tiêu
tai giải nguy, hoặc có người nhất tâm niệm Phật, khi lâm chung nhờ Phật
tiếp dẫn thị hiện những tướng lành. Học nhơn (tôi, lời khiêm xưng của
tác giả) không ngại ngu muội vụng về, nghĩ ra nên đem những sự thật cảm
ứng không thể nghĩ bàn, chính mình mắt thấy tai nghe trong hơn mười năm
trở lại đây, nhất nhất ghi chép lại, để cho những người chưa tin Phật,
niệm Phật, sớm biết tin Phật niệm Phật; những người đã tin Phật niệm
Phật rồi sẽ càng gắng gỏi nỗ lực hơn, tinh tấn hơn gấp bội; những ai
thấy nghe đều được lợi ích trong Phật Pháp. Đây chính là nguyện vọng của
bút gia.
Lâm Khán Trị
1. MỘT CÂU PHẬT HIỆU
KHỞI TỬ HỒI SINH
Có một vị liên hữu ở làng Bắc
Đồn, ngoại ô của Đài Trung tên là Lại Lâm Trị, vì chồng của bà tên là
Tuấn, cho nên mọi người đều gọi bà là thím Tuấn, năm nay bà sáu mươi bốn
tuổi. Mỗi thứ tư và thứ bảy bà đều đến thư viện và Liên xã chùa Từ Quang
nghe thuyết pháp; hai thời khóa tụng sáng, tối chỉ biết niệm Phật. Bà có
một người con gái tên là Lan, năm mười tám tuổi đã lấy chồng và sanh
được một đứa con trai tên là Đạt Tử. Mười ba năm trước lúc Đạt Tử vừa
mới ba tuổi, một hôm đi chơi trước cổng, bỗng nhiên có một con heo nái
chạy lại đụng ngã Đạt Tử, từ hôm đó trở đi bị sốt cao, lại hôn mê bất
tỉnh, theo chẩn đoán của bác sĩ là viêm màng não. Trung y, Tây y, thuốc
thang gì đều vô hiệu, hai mươi ngày sau thì chết! Vào khoảng 8 giờ tối
là dứt thở, người trong nhà để Đạt Tử trên nền gạch trong phòng khách
dùng một bao vải rách đắp lên, giấy khai tử mọi việc chuẩn bị xong, dự
định sáng mai đem đi chôn.
Thím Tuấn nhìn thấy đứa cháu
chết đi, vô cùng đau lòng, chiều tối đó đến thời khóa, bà vẫn cứ lên
niệm Phật như thường, nhưng tình cảm đau thương khó mà ngăn chận. Bà vừa
niệm Phật vừa khóc, hướng lên Phật Bồ Tát nói rằng: “Nam mô A Di Đà
Phật, Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát! Các Ngài sao không phò hộ cho con? Vùng
này chỉ có mình con tin Phật, niệm Phật, vậy mà người ta còn cười con,
đã nghèo mà còn bày đặt tin Phật, niệm Phật cái gì? Sau này nhất định họ
càng cười con! Phật, Bồ Tát ơi! Các Ngài sao không phò hộ cho con?”.
Thím Tuấn lại khóc to lên một hồi, rồi nặng nề lên giường đi ngủ, nhưng
nhớ lại đứa cháu dễ thương bị chết đi, bà lăn qua lăn lại hoài mà không
ngủ được. Vào khoảng 4 giờ hơn, bỗng nhiên thấy một đạo kim sắc quang
minh (ánh sáng màu vàng) từ trong hư không xẹt thẳng vào trong nhà
khách, ánh sáng rực rỡ không thể nghĩ bàn. Trong khoảnh khắc, bỗng nhiên
nghe được tiếng của Đạt Tử hơn hai mươi ngày không biết khóc và tay chân
cứng còng khóc ré lên! Thím Tuấn và con gái là A Lan, vội vã tới xem,
thấy hai tay của Đạt Tử đã kéo cái bao vải ra, hai mẹ con vừa mừng vừa
sợ, bế nó lên và rót cho nó một tí nước, thì nó cũng uống được, thật là
không thể nghĩ bàn. Sáng sớm hôm sau, hai mẹ con lại bồng Đạt Tử đi Bắc
Đồn cho bác sĩ khám, bác sĩ cũng thấy kỳ lạ, làm sao chết rồi mà sống
lại? Bảo hai mẹ con nhanh chóng đưa lên bệnh viện tỉnh Đài Trung. Lúc đó
thím Tuấn yêu cầu tôi phụ giúp bà đưa cháu đi bệnh viện nhập viện!
Đạt Tử liền được đưa đi bệnh
viện ở Đài Trung vào Khoa Nhi. Nhưng khi thím Tuấn nhìn thấy mấy chục
đứa nhỏ bị viêm màng não trong bệnh viện bị biến dạng kỳ quái: có đứa
mắt lệch, có đứa miệng méo, có đứa tay chân không động đậy gì hết, trong
lòng rất là buồn. Bà hỏi thăm thì đa số nhập viện từ sáu tháng đến hai
năm, sức khỏe vẫn chưa bình phục, mà bác sĩ chẩn đoán cho Đạt Tử, tối
thiểu phải nằm viện bốn tháng, còn khả năng hết bệnh hay không cũng
không dám chắc! Thím Tuấn mới nói với tôi: “Về tình hình kinh tế nhà tôi
làm sao có thể nằm viện lâu đến bốn tháng được?!”. Tôi liền khuyên bà
rằng: “Thím Tuấn à! Thím thực là cả đời khôn ngoan, lại đi tính dại một
lúc! Đạt Tử là nhờ phước ấm của thím mà được Phật, Bồ Tát phò hộ, mới
chết mà được sống lại, tôi nghĩ cháu nhất định sẽ khỏi, chỉ cần chúng ta
vừa cố hết sức trị liệu cho cháu, vừa thành khẩn cầu Phật, Bồ Tát cứu
giúp, rồi mới phó mặc mạng cho trời!”. Thím Tuấn vẫn còn do dự chưa
quyết định, rốt cuộc tôi lại khuyên bà: “Thôi tạm nằm hai tuần đi, khỏe
hay không cũng xuất viện, nhưng thím cần ở lại bên cạnh Đạt Tử niệm Phật
không được gián đoạn”. Thím Tuấn cuối cùng bị tôi thuyết phục, bèn làm
thủ tục nằm viện điều trị!
Đạt Tử nằm viện trị liệu được
tốt đẹp, sốt cao đã lui dần; tròng đen con ngươi vốn đã bị lật vào trong
chỉ còn thấy tròng trắng nhìn không thấy người, cũng ngày một khôi phục
như cũ; dần dần cũng đã nói chuyện lại được, xưng hô với người thân cũng
từ từ rõ ràng lại. Khoảng một tuần thím Tuấn muốn về nhà, liền kêu A Lan
lại thay thế cho bà chăm sóc Đạt Tử. Nhưng có điều kỳ lạ là thím Tuấn
vừa ra khỏi cổng bệnh viện, thì bệnh của Đạt Tử lại nặng trở lại, trong
miệng nổi lên hai cái lưỡi và trạng thái hôn mê cũng trở lại, còn chảy
máu đầy cả miệng, bác sĩ liền dùng bông gòn nhét vào giữa hai hàm răng.
Thím Tuấn vừa về đến trong nhà, con rể bà liền nói: “Má à! Má về làm gì?
Nhanh chóng đi vào bệnh viện lại đi! Nhanh đi! Nhanh đi!”. Thím Tuấn trở
lại bệnh viện, vừa thấy biến chứng của cháu như thế liền vội ngồi xuống
bên mình cháu, chí thành niệm Phật. Kỳ tích lại phát sanh lần nữa, thật
là vạn đức hồng danh linh nghiệm không gì bằng! Bà niệm được nửa giờ,
Đạt Tử đã thở nhè nhẹ đi vào giấc ngủ, lúc thức dậy, chứng bệnh hai lưỡi
đã hết, thật là Phật pháp vô biên. Thím Tuấn đi về chỉ có ba tiếng đồng
hồ mà bệnh tình đã biến đổi xấu nghiêm trọng như thế. Khi trở lại, vừa
qua niệm Phật thì bệnh càng lúc càng hồi phục bình thường. Đến ngày thứ
mười ba, bác sĩ tuyên bố ngày mai có thể xuất viện. Mọi người đang vui
mừng, nhưng vào lúc nửa đêm bệnh của Đạt Tử lại lần nữa biến đổi xấu
nghiêm trọng, phát sốt rất cao, trong khoảnh khắc thím Tuấn vô cùng hốt
hoảng, nhứt thời không có cách gì, bèn lấy mười đồng kêu A Lan đi ra chợ
tìm thầy tướng số đưa ngày sinh tháng đẻ của Đạt Tử cho thầy đoán xem số
mạng của nó có tới số chết chưa? A Lan đi xem số mạng về nói: “Trong số
mạng của Đạt Tử mang chứng tê liệt, năm ba tuổi chắc chắn bị phát sởi mà
chết!”. Lúc đó bác sĩ và y tá lại đến chẩn bệnh, lột hết quần áo của Đạt
Tử ra xem, phía sau lưng phát hiện đầy những chấm đỏ nhỏ, liền lắc đầu
nói: “Đáng tiếc! Đáng tiếc! Thằng bé này đột nhiên lại phát sởi, sau khi
bị viêm màng não lại bị sởi rất dễ dẫn đến sưng phổi. Nếu như thế, thì
thật không còn cách trị!”. Thím Tuấn và A Lan trước đã nghe đoán số mạng
sẽ chết, nay bác sĩ cũng nói sẽ chết càng đau lòng vô cùng! Lúc đó lại
hối hận là không nên vào viện, trong hai tuần đã tốn hết mấy ngàn đồng.
Lúc đó tôi cũng ở kế bên, liền nói với họ rằng: “Có lẽ Đức Phật A Di Đà
và Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi thương xót cho bà là người đệ tử trung thật,
mới đặc biệt gia bị, khiến Đạt Tử trước khi xuất viện tái phát sởi, ở
trong bệnh viện y dược dễ dàng thuận tiện, chớ nếu sau khi xuất viện về
nhà rồi mà tái phát sởi thì càng nguy hiểm hơn! Không tin, ở lại thêm
một tuần lễ nữa liền có thể bình an xuất viện. Bây giờ bà phải khẩn
thiết hơn nữa ở bên cạnh nó niệm Phật, không được gián đoạn, không nên
nản lòng!”. Lúc đó tôi cũng chỉ an ủi họ như thế thôi, thật ra tôi còn
sốt ruột hơn họ nữa!
Một tuần lễ trôi qua, trải
qua sự trị liệu rất thuận lợi, quả nhiên Đạt Tử đã vượt qua cửa ải tử
vong một cách an nhiên, có thể xuất viện được rồi. Nhưng theo nguyên tắc
của bệnh viện, người bệnh muốn xuất viện, nhất định phải qua bác sĩ tái
khám một lần. Khi bác sĩ khám lại cho Đạt Tử, miệng nói luôn không ngớt:
“Kỳ lạ! Kỳ lạ! Làm sao mà bệnh trạng nghiêm trọng quá sức như thế, lại
mau khỏi như vậy?”. Liền hỏi thím Tuấn: “Trong miệng bà không ngớt niệm
những gì vậy?”. Thím Tuấn nói: “Niệm A Di Đà Phật”. Bác sĩ nghe xong
nói: “Mẹ tôi cũng là người ăn chay trường hai, ba chục năm nay rồi, vì
sao không biết niệm A Di Đà Phật?”. Đáng tiếc thím Tuấn không biết trả
lời, lỡ mất một cơ hội! Lại nói về Đạt Tử, từ khi xuất viện về nhà, sức
khỏe cùng với những đứa trẻ bình thường khác mạnh khỏe như nhau, nhưng
hay hỏi bà ngoại: “Con còn nhỏ như thế này tại sao biết tự mình ăn cơm,
lại biết nói chuyện, biết đi?”. (có lẽ bị ảnh hưởng viêm não nên hơi bị
thần kinh - dịch giả). Thím Tuấn liền đổi tên nó lại là “A Châu”
Thời gian qua như tên, mới
chớp mắt, A Châu năm nay đã mười bảy tuổi, anh ta thường ngày làm việc
rất siêng năng, lại hiếu thuận với người lớn, là một thanh niên tốt có
lễ giáo nhân nghĩa.
Cuối cùng chúng ta hãy nghiên
cứu một chút, một câu Thánh hiệu này thế mà hơn khoa học. Hãy xem các
bác sĩ đã nghiên cứu khoa học mấy chục năm họ chẩn đoán: nếu như thằng
nhỏ nằm viện ít nhất phải bốn tháng, còn khả năng khỏi hay không còn
không dám chắc! Và một vị khác có khả năng bói bát tự, khéo đoán về âm
dương, đoán là chỉ sống có ba tuổi bị ban sởi mà chết, rốt cuộc bị câu
Thánh hiệu A Di Đà Phật mà tiêu tai giải nạn, gặp dữ hóa lành. Nhưng có
lẽ có người sẽ hoài nghi: “Niệm Phật thì không chết ư?”. Đương nhiên tôi
không dám nói quả quyết như thế, do vì đời người có sanh ắt có tử. Nhưng
trong kinh có nói rằng: “Chí tâm niệm một câu A Di Đà Phật có thể tiêu
diệt tội nặng sanh tử trong tám mươi ức kiếp”. Chỉ cần xem người niệm
Phật có phải là “chí tâm” niệm hay không? Nếu như không chí tâm, niệm
Phật không có cảm ứng, không tự trách mình, lại đi trách ai đây?
2. BỒ TÁT THỊ HIỆN
KHUYẾN HÓA NIỆM PHẬT
Đầu tuần tháng 5 năm ngoái,
con gái của thím Tuấn là A Lan, do vì đẻ non nên sức khỏe rất yếu, một
hôm bị băng huyết té ngã trên giường hôn mê, thím Tuấn tưởng cô ta ngủ,
không để ý. Vài giờ sau tỉnh dậy, cô nói với mẹ: “Con vừa rồi bị hôn mê,
thần thức sợ sệt đi đến một nơi rậm rạp um tùm, dường như rất xa, nhưng
con vẫn cứ đi mãi về phía trước, giữa đường gặp một người nữ trẻ tuổi,
rất là đoan chánh trang nghiêm, vừa chặn con lại, lại thêm duỗi tay đẩy
con một cái té lộn nhào, lúc bò dậy con liền mắng cô ta: “Ngươi… cái cô
gái này sao mà vô cớ xô ta vậy? Cô tên là gì?”. Cô gái đó liền nói với
con rằng: “Chỗ này không phải chỗ ngươi đến, mau mau về đi, ngươi về nhà
sẽ biết tên ta”. Nói như thế xong, cô liền cung kính chắp tay lại, miệng
niệm: “Nam mô A Di Đà Phật”. Lúc đó con liền tỉnh dậy”. Thím Tuấn nghe
xong liền nói với con gái rằng: “Cô gái đó e rằng chính là Quán Thế Âm
Bồ Tát biến hóa ra để cứu con đó. Có khả năng là Đức Đại Từ Đại Bi cứu
khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát rồi!”.
Từ đó về sau sức khỏe của A
Lan hồi phục mạnh khỏe như thường. Sau việc đó, thím Tuấn đến Liên Xã
thăm tôi và kể cho nghe chuyện của A Lan trải qua và còn hỏi tôi rằng:
“Tại sao Quán Thế Âm Bồ Tát cũng phải chắp tay niệm A Di Đà Phật? Quán
Thế Âm Bồ Tát không phải là một trong Tam Thánh của Tây phương Cực Lạc
thế giới sao?”. Tôi liền nói với bà ta rằng: “Quán Thế Âm Bồ Tát chắp
tay niệm Phật là dạy cho A Lan niệm, không phải ngài tự mình cần phải
niệm. Đây chính là dùng tự bản thân làm khuôn phép dạy cho người (thân
giáo) muốn khuyến hóa A Lan con gái của bà, không niệm Phật làm sao có
thể thoát ly được Ta Bà khổ hải, khỏi vào trong vòng luân hồi?”. Từ đó
con gái của thím Tuấn cũng bắt đầu niệm Phật.
3. PHẬT A DI ĐÀ PHÓNG QUANG
GIA BỊ
Đây là một câu chuyện thật
xảy ra vào ngày mồng 9 tháng 11 ÂL năm Dân Quốc thứ 52 (Dân Quốc sơ niên
là 1911) do niệm một câu đại chú vương vạn đức hồng danh mà được cảm ứng
không thể nghĩ bàn. Một phụ nữ họ Lại ở trong vùng nông thôn mới do
thành phố Đài Trung hỗ trợ, năm nay 54 tuổi, bà ta đã từng dẫn đứa cháu
mới 5 tuổi của bà sang một vị liên hữu tên Lý Kim Phương đối diện với
nhà bà để nhờ gia trì chú Đại Bi “thâu cảnh”. Gia trì chú Đại Bi “thâu
cảnh” là một phương pháp rất hiệu nghiệm, cũng là một pháp môn phương
tiện hay, khéo khuyên người niệm Phật.
Buổi trưa mồng 9 hôm đó, bà
họ Lại đang làm việc trong nhà bếp, bỗng dưng đầu bà cúi gục xuống, toàn
thân co giật. Đứa cháu 5 tuổi đó thế mà rất thông minh, thấy tình trạng
như thế, vội vã chạy sang nhà đối diện lớn tiếng kêu lên: “Bà cụ ăn chay
ơi! Bà cụ ăn chay ơi! Mau qua giúp bà của con “thâu cảnh”. Vị liên hữu
Lý Kim Phương lập tức đến nhà bếp bà Lại, vừa xem, bà giựt mình hốt
hoảng, chỉ thấy bà Lại hai con mắt trắng dờ, đã hôn mê bất tỉnh nhân sự,
bà mẹ chồng hơn 70 tuổi đang đỡ một bên hông phải của bà ta; đứa con
trai lớn đang đỡ hông bên trái, hai người đều sợ đến mức chỉ biết kêu
la. Vị liên hữu Lý Kim Phương bảo họ cần phải trấn tỉnh và mọi người
phải cùng nhau niệm A Di Đà Phật. Như thế niệm được khoảng 20 phút bà
Lại đang trong hôn mê thở ra một hơi, mới mở miệng nói: “Ông ta đứng ở
kia kìa, bảo tôi đi với ông ta”. Vị liên hữu Kim Phương hỏi bà ta: “Ông
ta là ai vậy?”. Bà Lại đáp: “Là ông Lâm chồng tôi”. Vị liên hữu Kim
Phương vừa cao giọng niệm Phật vừa nói với hồn quỷ rằng: “Ông Lâm à! Ông
không nên dẫn bà Lại đi, mà nên cố gắng phò hộ sức khỏe của bà được bình
an, vì bà ấy là một người con dâu hiếu thảo, trên thì lo hầu hạ mẹ của
ông, dưới còn có con nhỏ chưa trưởng thành, cần phải nuôi dạy, ông nhất
thiết không được dẫn bà ấy đi!”. Bà mẹ chồng của bà Lại lúc đó cũng nói:
“Con à! Từ sau khi con qua đời, vợ con và mẹ cùng nương nhau mà sống,
con không được dẫn nó đi, con nếu dẫn nó đi, để lại mẹ già cả thế này và
mấy đứa nhỏ còn nhỏ như thế kia, làm sao mà sống đây? Như vậy con chính
là đại bất hiếu!”. Vị liên hữu Kim Phương lần nữa lại khuyên hồn quỷ:
“Ông Lâm à! Ông phải nên niệm A Di Đà Phật phát nguyện cầu sanh Tây
phương, mới có lối thoát, luân hồi trong sáu đường là cái khổ nói không
cùng. Bây giờ tôi niệm A Di Đà Phật, ông cũng phải phát tâm niệm A Di Đà
Phật theo!”. Nói xong liền niệm “A Di Đà Phật”, niệm liên tục không
dừng. Niệm được khoảng nửa tiếng đồng hồ, thì nghe bà Lại bắt đầu nói:
“Tam Tiên ánh vàng rực rỡ, Tam Tiên ánh vàng rực rỡ, chồng tôi cũng đi
rồi”. Vị liên hữu Kim Phương hỏi bà ta: “Bà hỏi thử xem, Tam Tiên tên là
gì?”. Bà Lại nói: “Họ nói là Phật A Di Đà phóng quang gia bị”. Bà Lại
đang trong hôn mê tức thời tỉnh táo trở lại, chưa đầy mấy ngày sức khỏe
của bà bình an vô sự (Tam Tiên tức là Tam Tôn, do vì bà Lại không phải
tín đồ chính thức của Phật giáo, nên không biết tôn xưng Tam Tôn). Bà
Lại lần này bị sự nguy khốn đó, cũng không phải không có nguyên nhân,
việc xong bà mẹ chồng của bà ta nói với vị liên hữu Kim Phương rằng:
“Thằng Lâm con tôi sau khi kết hôn với con dâu họ Lại này chưa từng có
gây gổ với nhau lần nào, thật là một cặp vợ chồng hạnh phúc. Từ ba năm
trước khi thằng Lâm chết rồi, con Lại ngày ngày đều thương nhớ chồng.
Mười mấy hôm trước nó một mình đi ra mộ dọn dẹp, cúng bái, khóc lóc thảm
thiết một trận nữa, cho nên bắt đầu từ hôm đó, đêm nào cũng mộng thấy
hồn chồng về trong nhà. Điều kỳ lạ là không chỉ một mình nó mộng thấy,
trong nhà lớn nhỏ đều mộng thấy cả!”.
Vị liên hữu Lý Kim Phương có
hơi không hiểu: Tại sao một người đã chết ba năm rồi, thần thức còn ôm
giữ trong mộ? Riêng tôi, tôi cho rằng việc này có hai cách giải thích:
Một là ông Lâm này lúc còn
sống, “chấp ngã” rất nặng cho nên sau khi chết đọa vào quỷ đạo vẫn lưu
luyến cái thi thể cũ của mình như trước mà trở thành loài quỷ giữ xác!
Hai là lúc bà Lại đi ra mộ
quét dọn cúng bái, thì những cô hồn ngạ quỷ ở gần mộ đó biến hóa ra hình
tướng của ông Lâm theo bà ta về nhà làm loạn! Căn cứ theo trong Kinh Địa
Tạng có nói: “Cõi Diêm Phù Đề này, người hành thiện, lúc lâm chung, cũng
có trăm ngàn quỷ thần ác đạo hoặc biến ra làm cha mẹ, nhẫn đến biến ra
những bà con quyến thuộc, dẫn dắt người chết khiến vào đường ác, huống
nữa là người lúc sống vốn tạo ác nghiệp.
Hai cách giải thích trên đây,
không biết thuộc về cách nào? Những vị độc giả thông minh, các ngài có
thể giải đáp cho tôi không?
4. MẸ GIÀ NIỆM PHẬT, CON ĐƯỢC
TAI QUA NẠN KHỎI
Vị liên hữu Lý Thủy Cẩm
trưởng ban Kim Cang trong Liên Xã ở Đài Trung là một vị đệ tử Phật phát
tâm Bồ Tát rất thành khẩn. Nhà của bà ở số 31 đường Nam Kinh trong nội
thành, chẳng những làm cho cả gia đình theo Phật mà còn độ được cả nhà
của mẹ mình. Nhà của mẹ bà ở trên núi làng Minh Tú trấn Sa Lộc. Vào ngày
mồng 8 tháng 9, tám năm về trước bắt đầu mời các vị hoằng pháp trong
Liên Xã đến đó tuyên giảng chánh pháp, khuyên người niệm Phật. Trong nhà
bà thờ phụng tượng Tây phương Tam Thánh, đặt tên là “Tín Nghĩa Đường”,
lại còn lấy ngày mồng 8 tháng 9 hằng năm làm ngày lễ kỷ niệm định kỳ.
Những tín đồ ở gần đấy, mỗi lần đến ngày đó đều sắm sửa hương hoa quả
phẩm đến Tín Nghĩa Đường lễ Phật, nghe pháp. Ngày mồng 8 tháng 9 năm Dân
Quốc thứ 52, học nhơn (lời khiêm xưng của tác giả sách này: Khán Trị)
được mời đến đó giảng Phật Pháp kết duyên. Hôm đó có một bà lão cùng một
người nam trong tay bưng một khung kiếng đi đến Tín Nghĩa Đường, trên
mặt hai người lộ nét rất vui vẻ, ở trước Phật, năm vóc sát đất, rất là
cung kính dập đầu ba lạy, tôi nhìn thấy không khỏi hiếu kỳ liền đến hỏi
bà lão: “Các vị tin Phật lễ bái thành khẩn như thế, không biết là nhân
duyên gì?”. Lúc đó bà lão lập tức trả lời rằng: “Tôi đến để đáp tạ Phật,
Bồ Tát đã phò hộ”. Tôi tìm cho bà ta một chỗ ngồi, thế là bà từ từ nói
ra một đoạn nhân duyên tin Phật như sau:
“Vào trung tuần tháng rồi, có
một đêm tôi nằm mộng thấy răng của tôi toàn bộ rụng hết. Trời sáng thức
dậy suy nghĩ đây là một điềm báo trước không tốt lành, tôi liền đem việc
chiêm bao không tốt lành này nói với em dâu Cẩm Tỉ, cô ta dạy tôi quỳ
trước Phật, nhứt tâm niệm Phật, khẩn cầu Phật Tổ phò hộ cho cả nhà bình
an, gặp dữ hóa lành, nạn lớn biến thành nhỏ, nạn nhỏ biến thành không”.
Bà lão nói một mạch đoạn nguyên nhân trước này, dừng lại một chút lại
nói tiếp: “Tôi có đứa con lớn tên là Thành, làm công nhân đốt than trong
vùng núi sâu ở miền Trung. Sáng hôm đó nó đang công tác nổi lửa đốt củi,
thì bên tai bỗng nghe có người gọi: “Thành à! Về nào!”. Nó quay nhìn
xung quanh, hoàn toàn không thấy ai, tại sao lại có tiếng kêu? Lại chạy
ra bên ngoài nhìn xem cũng chẳng thấy người nào gọi nó, nhưng khi nó đi
lại vào trong nhà, thì bên tai lại nghe tiếng gọi: “Thành à! Về nào!”.
Lúc đó anh Thành cảm thấy rất kinh ngạc, liền nghĩ đến bà mẹ già hơn bảy
mươi tuổi ở nhà, có phải đã xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn rồi không? Lập
tức đến ông chủ xin nghỉ phép, kiên quyết sửa soạn hành trang về nhà
thăm. Khi anh Thành vai mang quần áo, mền bông rời khỏi nơi đốt than
khoảng hơn một trăm bước, thì bỗng nhiên nghe “bình” một tiếng thật to,
quay đầu nhìn lại xem thử, thì chính là cái gian nhà của anh ta ở đốt
than vừa bị sập xuống, anh Thành lúc đó thở phào ra một hơi, mừng rỡ đã
thoát khỏi tai nạn bị đè chết, trong lòng rất là an ủi, sau đó anh vẫn
cứ vai mang hành lý lên đường về nhà.
Suốt đường đi toàn là đường
núi, anh Thành vượt qua mấy ngọn núi rồi, còn phải đi qua một cái khe
núi lớn, cái khe núi này không có cầu, mà phải dùng một loại dây thừng
to, cái giỏ tre để làm dụng cụ qua lại hai bờ, người ngồi trong cái giỏ
tre, trên hai bờ đều có người kéo dây thừng qua lại cho khách, anh Thành
cần qua khe núi này cũng không ngoại lệ, ngồi trong giỏ tre, mền bông và
các thứ đồ v.v… đều để kế bên, đang lúc được kéo đến giữa khe thì bỗng
nhiên dây thừng bị đứt, cả người và hành lý đều bị rớt xuống khe và bị
nước cuốn đi, do vì khe sâu mấy trượng, nên nước trong khe chảy rất
mạnh, người ở hai bên bờ đều đành bó tay, không có cách gì, chỉ có kêu
lên “tội nghiệp” mà thôi! Anh Thành rơi vào trong khe cũng tự lượng
không sống được, nhưng bị nước cuốn đi một đoạn, kỳ tích lại phát sanh:
anh ta đang quẫy đạp trong nước, mạng sống như ngàn cân treo sợi tóc,
bỗng ở trong khe phát hiện một đám cỏ nước, tay mặt tức thời nắm đám cỏ
nước đó, chuyển mình một cái liền đứng lại trong nước, sau đó bò dần lên
trên bờ, đương nhiên là những hành lý v.v… đã bị nước cuốn trôi mất, đơn
độc một thân, rốt cuộc được bình an vô sự về đến nhà”. Trên đây là câu
chuyện thật, không thể nghĩ bàn như thế, do bà lão đó kể lại, nhờ mẹ già
nhứt tâm niệm Phật mà cảm ứng được người con tiêu tai thoát nạn nguy
hiểm hai lần.
5. CHỊ LẠY PHẬT, EM
TRAI ĐƯỢC NHỜ PHƯỚC
Phật và Bồ Tát là thầy tốt,
là phước điền của chúng sanh. Vị liên hữu Lý Thủy Cẩm, cũng là một vị
thiện hữu tri thức, gieo rắc hạt giống Bồ Đề. Bà mỗi lần mời hẹn các
nhân viên hoằng pháp của Liên Xã ở Đài Trung, ngày giờ đã định xong,
liền về nhà trước đi tuyên truyền khắp các nơi ở trên núi, già trẻ trai
gái không ai không đến niệm Phật, nghe pháp. Gieo giống thì nhất định sẽ
nảy mầm; có niệm Phật thì nhất định có cảm ứng. Vào khoảng tháng 5 năm
trước, có một hôm vị liên hữu Thủy Cẩm nói với tôi: “Trong xóm nhà của
mẹ tôi có một bé gái mười tuổi, rất là thông minh và có căn lành, cô ta
lần nào cũng đến tham gia nghe các vị giảng về Phật pháp, cảm thấy rất
là hay, bèn phát tâm hàng ngày niệm A Di Đà Phật. Do vì trong nhà cô ta
chưa có lập bàn thờ Phật cho nên sáng tối đều đến nhà bên cạnh có bàn
thờ Phật để nhờ lạy Phật”.
Khoảng mấy tháng sau, đứa con
trai ở nhà có bàn thờ Phật kia mắng cô: “Mầy không biết thể diện, không
biết xấu hổ, Phật ở nhà tao, không cho mày đến lạy!”. Cô gái thông minh
này không dám đến nhà đứa con trai kia lạy Phật nữa, nhưng trong lòng
lúc nào cũng nhớ nghĩ đến lạy Phật, tâm không rời Phật, Phật không rời
tâm. Có một đêm đang ngủ bỗng nhiên thức dậy, quỳ trên giường, chắp tay
niệm: “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm mãi không thôi. Mẹ của cô ta cũng thức
dậy nói: “Con nhỏ này nửa đêm nửa hôm thức dậy làm gì vậy?”. Cô bèn nói:
“Má! Con thấy được kim thân to lớn của Đức Phật A Di Đà, diện mạo tươi
vui, từ trong hư không bay đến trước mặt con, con vội vã thức dậy cung
kính niệm Phật. Má! Con rất mong có được một tượng Phật để cúng dường.
Con cầu xin má thỉnh một tượng Phật về nhà thờ được không má?”. Cô ta
chắp tay lại cầu xin mẹ: “Má! Con nghĩ ra rồi, con heo đất của con ngày
mai sẽ đập ra, có được bao nhiêu tiền, nhờ ba đến đường Sa Lộc thỉnh về
một tượng, như thế mỗi ngày con đã có Phật, có thể lễ lạy được rồi”. Má
của cô ta liền hứa nhận lời. Sáng sớm thức dậy, đập vỡ con heo ra đếm,
tất cả được 28 đồng, cha của cô ta đi đến đường Sa Lộc, tìm được một
tượng Quán Thế Âm Bồ Tát đến 50 đồng thỉnh về nhà. Buổi sáng ngày mồng 1
hôm đó liền an vị tượng, mẹ cô ta chuẩn bị bánh dày đỏ và mua về hương
hoa quả phẩm v.v… Đang khi cả nhà vui vẻ, bỗng nhiên phát hiện mất đứa
em trai bốn tuổi của cô bé! Thế là cả nhà hoảng hốt lập tức cho người đi
tìm khắp nơi, đồng thời tổng động viên mấy trăm người bà con trên núi
dưới núi chia ra đi tìm, ngay cả mấy ao cá lớn trong làng, cũng đều có
người lặn xuống mò tìm, vẫn không tìm ra!… Từ sáng đến tối vẫn không tìm
được! Có mấy người cười cha mẹ cô ta rằng: “Vợ chồng mấy người là người
lớn cũng đi nghe lời của con nít, muốn lạy Phật cái gì! Mấy người ngày
hôm nay cũng chính vì bận lo việc an vị tượng Phật mới xảy ra đại họa
như thế!”. Tội nghiệp cho cô bé thông minh này, bị người này một câu,
người kia một câu đàm tiếu, sợ đến nỗi một mình lén lén quỳ trước tượng
Bồ Tát hai mắt đoanh tròng lệ rơi, khổ sở cầu xin: “Phật, Bồ Tát ơi! Các
ngài phải phò hộ cho đứa em trai bốn tuổi của con được bình an về nhà.
Nếu như xảy ra điều không may gì, con từ nay về sau không thể tiếp tục
lạy Phật, niệm Phật được nữa, những người hàng xóm đây cũng không dám
tin Phật nữa!”. Lúc đó cha của đứa bé sực nhớ lại thằng bé bốn tuổi này
sau khi sanh, đã từng có đi xem quẻ bát tự (bát tự hà lạc) liền tìm
trong tủ lấy ra tờ giải về số mạng của thằng bé đưa cho mọi người xem.
Quả nhiên trong quẻ giải viết rất rõ ràng vào năm đó tháng đó (vừa khéo
chỉ đúng vào tháng này năm này!) sẽ xảy ra tai họa bất ngờ! Thế là mọi
người nhìn nhau nhưng rồi cũng không ai biết làm thế nào!
Nguyên thằng bé bốn tuổi này,
từ lúc sáng sớm, tự mình chạy ra khỏi nhà, cũng không biết là thuận theo
đường sắt dọc biển, hay là từ đường đó chạy đi thẳng một mạch đến hơn 5
giờ chiều. Ở gần trạm xe Vương Điền có một anh sinh viên trẻ trông thấy
nó một mình cắm đầu chạy trên đường sắt, anh sinh viên trẻ đó liền kêu:
“Em bé! Em bé! Ở đó nguy hiểm lắm, mau dừng lại đi!”. Thằng nhỏ cũng
chẳng thèm quay đầu lại, cứ cắm đầu chạy miết. Anh sinh viên tốt bụng
này liền chạy thẳng tới trước ôm cứng thằng bé lại. Ai có ngờ thằng nhỏ
này, mắt trợn lên dữ dằn, há miệng cắn trên tay anh sinh viên một cái.
Anh này vẫn không giận nó, cố nén chịu đau, ôm thằng bé ép đưa đến trạm
xe, giao cho trưởng trạm giữ nó. Hỏi ở đâu, tên họ là gì cũng không biết
nói, trưởng trạm sực nhớ đến hồi sáng ở trạm xe Long Tỉnh có liên lạc
điện thoại đến dặn chú ý ở trên núi Long Tỉnh có một đứa bé bốn tuổi đi
lạc, trưởng trạm xe Vương Điền liền gọi điện thoại cho trạm xe Long Tỉnh
mời người nhà của thằng bé đến nhận lãnh về.
Bà vợ của trưởng trạm thấy
thằng bé toàn thân bụi bặm, bộ dạng đáng thương và rất đói, liền dắt nó
về nhà, trước tắm cho nó, lại lấy quần áo của con mình thay cho và cho
nó ăn hai chén cơm. Có lẽ chạy suốt ngày đường mệt quá, nên nuốt hai
chén cơm xuống bụng xong, liền lăn ra ngủ, bà vợ của trưởng trạm liền bế
lên giường để nó ngủ yên.
Người ở trạm xe Long Tỉnh lập
tức cho cha mẹ nó hay, nhanh chóng đi nhận về. Từ nhà của trưởng trạm xe
Vương Điền đem nó về, lúc đó đã 11 giờ đêm. Mặc dù đã nửa đêm, nhưng
những bà con già trẻ lớn bé ở vùng đó đều đến thăm nó. Thằng bé này đã
được bà vợ tốt bụng của trưởng trạm dùng xà bông thơm tắm cho toàn thân
thơm phức, lại mặc cho bộ đồ đẹp nữa, mọi người ai nấy đều nói: “Hôm nay
thằng bé được bình yên về nhà, chính là nhờ phước phần của chị nó lạy
Phật. Thật là tin Phật, niệm Phật có cảm ứng vậy!”. Nếu không thế thì
thằng bé này từ Long Tỉnh đến Vương Điền chạy suốt một ngày trên đường
sắt dọc biển lại không gặp việc gì bất trắc ngoài ý muốn… Đồng thời lại
còn gặp được người tốt giúp đỡ, gặp được sự thương yêu giúp đỡ của anh
sinh viên và bà vợ tốt bụng của ông trưởng trạm xe. Đây nếu không phải
Phật, Bồ Tát phò hộ thì làm sao có thể về nhà bình yên vô sự như thế?
6. PHẬT
VỐN LÀ Y VƯƠNG CÓ THỂ TRỊ DỨT CÁC CHỨNG BỆNH
Câu chuyện thật ở trên là của
một bé gái mười tuổi nhờ nhất tâm niệm Phật, được Phật A Di Đà phò hộ
cứu đứa em trai 4 tuổi của cô ta tiêu tai thoát nạn. Các vị độc giả có
lẽ suy nghĩ rằng: “Đây có lẽ do nghiệp chướng của cô bé còn nhẹ, hãy
chưa kết oán cừu với nhiều người cho nên niệm Phật dễ được cảm ứng, nếu
như người già lớn tuổi niệm Phật sao có thể có được cảm ứng như thế?”.
Nhưng phải biết Phật Pháp vốn bình đẳng, không có cao thấp, người già
lớn niệm Phật cũng có cảnh giới bất tư nghì. Tôi một lần nữa kể ra một
chuyện thật để chứng minh:
Mẹ của liên hữu Lý Thủy Cẩm
là một vị thọ Bồ Tát giới ở thư viện Từ Quang vào ngày 10 tháng 6 năm
Dân Quốc thứ 49, mọi người đều gọi bà là lão Bồ Tát. Bốn năm trước lúc
bà 80 tuổi, ở dưới vú bên phải bỗng nhiên nổi lên một cục thịt to bằng
cái chén trung. Theo bác sĩ chẩn đoán là ung thư gan, đã rất nguy kịch,
hết phương cứu chữa, chẳng những dùng thuốc không hiệu quả, mổ lại càng
không được, chỉ có để bà muốn ăn gì thì cố mua cho bà ăn, thế là tốt
rồi! Tây y, Đông y đều nói như thế, không kê thuốc cũng không chích
thuốc, châm cứu gì
cả! Cứ như thế nằm trên giường bệnh đau đớn triền miên suốt 6 tháng, nhờ
vào đứa con trai tên là Nghĩa, là một cư sĩ và người con dâu chăm sóc
phục dịch kề bên; con gái là Thủy Cẩm cũng về nhà chuẩn bị hậu sự (đám
tang). Nhưng trong 6 tháng, lão Bồ Tát mỗi ngày hai thời sáng tối, bất
luận thế nào đều nhất định đứng dậy lạy Phật, dầu là đang trong cơn bệnh
khổ, nằm trên giường bệnh, miệng cũng không rời Thánh hiệu A Di Đà Phật.
Vào khoảng đầu tuần tháng Tám (từ mồng 1 đến mồng 10) bệnh trạng đã rất
trầm trọng, thân thể không thể cử động được, miệng không nói được! Một
đêm kia, lúc bệnh trạng đang rất nguy cấp bỗng nhiên thấy bà nói lẩm
bẩm: “A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát … các ngài viết chi nhiều chữ như
thế, con một chữ cũng không biết! Các ngài sao không nói thẳng với con
có tốt hơn không?”. Ngưng lại một chút, lão Bồ Tát lại nói tiếp: “Cảm ơn
lòng từ bi của Phật rất nhiều, các ngài 10 giờ tối mai sẽ đến giải phẫu
cho con cắt bỏ đi cục thịt ở dưới ngực bên phải này, A Di Đà Phật, Quán
Thế Âm Bồ Tát, các ngài thật là từ bi quá!”. Những lời này đều là vợ
chồng A Nghĩa và vị liên hữu Thủy Cẩm tự tai nghe được, nhưng lúc đó lại
cho là người già trước lúc lâm chung, tinh thần rối loạn nói lung tung
vậy thôi! Nhưng đến sáng lão Bồ Tát liền kêu con, cháu đi chuẩn bị hương
hoa quả phẩm, đặt một cái bàn thờ trong phòng để tiếp đón Phật Bồ Tát
đến trị bệnh. Thật là không thể nghĩ bàn, vừa đợi đến 10 giờ, liền nghe
tiếng khua của dao kéo… Đột nhiên nghe một tiếng “sựt”, cục thịt ở dưới
ngực bên phải đó bỗng bị cắt rời ra, máu chảy ra đen như than, từng giọt
từng giọt to bằng ngón tay cái, chảy ra rất nhiều. Từ đêm đó trở đi, sức
khỏe của bà mạnh khỏe dần dần, miệng của vết thương nơi cắt cục thịt,
nhờ con dâu hằng ngày dùng nước trà rửa, rửa không đến một tháng, không
cần thuốc gì mà khỏi bệnh.
Hiện nay lão Bồ Tát gặp người
nào cũng liền khuyên niệm A Di Đà Phật; xâu chuỗi từ nào đến giờ chưa
từng rời tay. Năm nay dù đã tám mươi bốn tuổi nhưng sức khỏe còn mạnh
hơn người thường. Giữa Đài Trung và Minh Tú thường đi đi về về tinh thần
sung mãn khác thường. Phật vốn là đại Y Vương, ngoại khoa đại phẫu thuật
của Phật, Bồ Tát là trị muôn người lành muôn người, nhưng điều quan
trọng là chỉ hỏi nơi bạn là có đúng “nhất tâm niệm Phật” hay không? Độc
giả nếu không tin, lão Bồ Tát đến nay vẫn còn mạnh khỏe, nếu không ngại
xin mời đích thân đến thăm một lần. Bà cụ già rồi, đã không vì danh cũng
không mưu lợi, cần gì phải dựng ra câu chuyện này để lừa gạt người?
7. TRỢ GIÚP CHO CHA VÃNG SANH
TÂY PHƯƠNG THẬT LÀ ĐẠI HIẾU!
Ban trợ niệm của Liên Xã ở
Đài Trung khởi đầu là do một tay của lão cư sĩ Giang Ấn Thủy tổ chức
dựng nên, cho nên mọi người cử ông làm trưởng ban trợ niệm, chuyên phụ
trách niệm cho người lâm chung được vãng sanh Tây phương. Mọi người đều
quen tôn xưng lão cư sĩ là Giang tiên sinh. Lúc ông 71 tuổi còn kiêm
nhiệm chức giáo sư lịch sử ở Học Uyển chùa Linh Sơn, ông gánh vác mọi
việc vì người, rất tận tình, không từ khó nhọc. Không may vào hạ tuần
(khoảng 20 đến 30) tháng 8 năm Dân Quốc thứ 48, ông bỗng bị chứng bệnh
suyễn mệt tim, Đông Tây y đều không hiệu quả, đến khi bệnh quá nguy
kịch, có một hôm vào lúc 7 giờ sáng, con trai của ông là Giang Trọng
Phan Quân (dạy học tư gia trong thành phố Đài Trung), đến nhà tôi nói
với tôi: “Sư cô Khán Trị! Hôm qua bác sĩ nói cha tôi sống tối đa thêm
bảy ngày nữa thì lìa đời, kêu tôi phải lo chuẩn bị hậu sự, không biết
nên làm thế nào đây?”. Tôi vốn biết Trọng Phan Quân lúc bình thường là
đứa con rất hiếu thuận, liền hỏi anh ta: “Từ lúc cha anh bệnh đến nay,
anh đã tốn hết bao nhiêu tiền cho cha anh rồi?”. Anh ta nói khoảng hơn
năm mươi ngàn đồng. Tôi nói: “Nếu theo pháp thế gian mà nói, như thế đã
hết sức vì người rồi. Nhưng tốn nhiều tiền như thế đối với cha anh mà
nói lại không có ích gì cả, chỉ có thể làm tăng thêm đau khổ cho thân
xác! Tôi nghe nói anh mấy tháng nay không nhớ đến thay đổi y phục, ngày
đêm chỉ lo hầu hạ thuốc thang, có thể nói anh là một người con có hiếu
trong đời, nhưng như thế cũng chưa thể gọi là lòng hiếu chơn chánh!”.
Trọng Phan Quân nghe xong lấy làm lạ không biết gì, lặng lẽ nhìn tôi,
tôi liền vì anh ta mà giải thích: “Theo lý nhà Phật nói, anh phải làm
cho cha anh tâm được an, chết có chỗ về (tâm hữu sở an, tử hữu sở quy).
Anh nếu thật có lòng hiếu, ắt phải về nhà ở bên cha mà niệm Phật, bắt
đầu hôm nay niệm 7 ngày, tâm của cha anh chắc chắn sẽ vô cùng vui vẻ,
khiến cho ông ra đi được nhẹ nhàng, vãng sanh về cõi Phật, như thế mới
là đại hiếu chơn chánh. Hiếu hạnh chung chung của người thế gian chỉ là
cung cấp những sự hưởng thụ trong cuộc sống của cha mẹ vào lúc tuổi già,
sau khi chết thần thức đọa lạc vào đâu lại không cần biết, đây chỉ là
hiếu về vật chất, cho nên không thể nói là đại hiếu”. Giang Quân nghe
xong rất vui mừng tiếp nhận đề nghị của tôi, tôi bèn chỉ cho anh phương
pháp niệm Phật, hy vọng anh ta mỗi lần niệm một giờ cho đến hai giờ, cần
chí tâm thành khẩn, mỗi câu phải rõ ràng, mới có hiệu quả.
Ngày hôm ấy là ngày tôi giảng
kinh định kỳ ở giảng đường Tân Trúc Văn Nhã, nhưng từ lúc sáng sớm sau
khi nghe được tin này, nghĩ đến việc một thành viên quan trọng trong
Liên Xã chúng tôi chỉ sống thêm 7 ngày nữa sẽ lìa đời, trong lòng khó
tránh khỏi tình cảm đau thương của sự sinh ly tử biệt, cho nên không thể
đi Tân Trúc, vốn muốn đi thăm họ (gia đình Giang tiên sinh), lại nghĩ có
lẽ Trọng Phan Quân đang niệm Phật, cha anh ta chắc chắn nghe rất hoan
hỉ. Mãi tới 8 giờ tối, tôi mới đến nhà họ Giang. Giang tiên sinh vừa
nhìn thấy tôi liền nói: “Chị Khán Trị! Mời ngồi! Mời ngồi. Có lẽ chị rất
bận, cho nên mấy ngày nay không đến thăm tôi, hôm nay pháp sư Sám Vân
tặng cho tôi hai xâu chuỗi Bồ Đề Tinh Nguyệt, mấy đứa đem lại cho chị
Khán Trị xem nào”. Lại nói rất nhiều về con cái của ông ta. Lúc đó tôi
liền nói với ông: “Vạn pháp đều vô thường, gia tài con cái đều là giả
tướng, biển khổ thế gian không nên lưu luyến thêm, Tây phương là vườn
nhà yên ổn, là quê hương an lạc của chúng ta, tâm chúng ta nhất thiết
không được điên đảo, bây giờ tôi niệm A Di Đà Phật cho ông nghe, ông
phải buông bỏ hết mọi duyên, nhất tâm niệm Phật!”. Tôi liền cầm cái
khánh dẫn lên, to tiếng niệm Phật. Cả nhà ông ta từ bà Giang và vợ chồng
của Trọng Phan cho đến con gái, con rể tổng cộng 7 người, đều cùng niệm
Phật, niệm khoảng 30 phút, bỗng nhiên Giang lão cư sĩ tự mình ngồi dậy,
hai tay chấp lại, hai chân ngồi kiết già, hai mắt mở to, nét mặt vui
tươi, lúc nằm xuống lại, an tường vãng sanh trong tiếng Phật hiệu A Di
Đà. Trong khoảnh sát na hiện ra kỳ tích không thể nghĩ bàn như thế, thật
tình mà nói, tôi lúc đó cũng giật mình!
Cả nhà con cháu của Giang lão
cư sĩ do tôi hướng dẫn phân ban trợ niệm, niệm đến trời sáng đã qua 8
giờ đồng hồ, thử sờ trên đỉnh còn rất ấm, thân thể vẫn mềm mại như bông,
nghi dung còn tươi tốt, trang nghiêm hơn cả lúc còn sống.
Tôi liền hỏi Trọng Phan Quân:
“Anh hôm qua khi về nhà, có niệm Phật cho cha anh nghe không?”. Giang
Quân liền nói: “Có! Có. Tôi từ nhà bà cô về, liền ngồi bên cạnh cha mà
niệm Phật. Lần đầu niệm được hai tiếng đồng hồ, buổi chiều được hai
tiếng nữa, cha tôi vô cùng hoan hỉ, gọi tôi là con ngoan và hỏi ai dạy
tôi niệm Phật? Làm sao hôm nay có thể niệm Phật được nhiều như thế? Tôi
liền trả lời: “Ba! Đó là tự con phát tâm niệm Phật, con từ nay trở đi
phải niệm Phật hàng ngày, cầu nguyện cho ba sớm được khỏe mạnh”. Cha tôi
nghe xong rất hài lòng, vui vẻ, buổi trưa liền ăn một chén cháo, nửa dĩa
rau xanh, đau đớn hầu như bớt phân nửa. Bác sĩ nói có thể sống thêm 7
ngày nữa mới chết, không ngờ có mấy tiếng đồng hồ sau linh giác lại an
tường vãng sanh trong tiếng niệm Phật, thật là Phật Pháp vô biên, không
thể nghĩ bàn.
Lão cư sĩ Giang Ấn Thủy là
người vãng sanh vào tháng 2 năm Dân Quốc thứ 49. Vào khoảng tháng 6 tôi
đi bộ vô ý bị té gãy cánh tay rất nặng, xương gãy làm ba khúc, đêm đó
đau đến nỗi không thể ngủ, đến 2 giờ khuya vẫn không thể nhắm mắt. Tôi
liền lẩm bẩm nói với cánh tay bị đau rằng: “Mi là thứ đồ giả! Cái túi da
hôi thối sống đã mấy chục năm! Đau là do mi đau, vì mi là mi, ta là ta.
Ta cần đi Tây phương, không liên can gì tới mi!”. Tôi liền một mực quán
tưởng đến Phật, trong lúc nửa tỉnh nửa thức, bỗng thấy một người từ
trong hư không đáp xuống, đi thẳng đến trước mặt tôi, ông ta mặc áo vải
màu xám, thân thể to lớn, gương mặt cũng to, chỉ thấy phân nửa thân trên
còn phân nửa thân dưới bị mây màu che khuất. Người này đột nhiên gọi
tôi: “Chị Khán Trị! Tay của chị đau lắm hả? Đây là thời vận không tốt
nhưng tai nạn đã qua rồi, không sao đâu!”. Tôi vừa nghe tiếng liền ngẩng
đầu lên xem lần nữa, rất giống Giang tiên sinh, tôi liền hỏi: “Giang
tiên sinh! Ông có vãng sanh không?”. Ông ta trả lời liên tiếp: “Có!
Có!…” rồi xoay mình biến mất. Lúc tôi mở mắt ra xem là đúng 3 giờ, tay
cũng không còn đau nữa, không đầy mấy ngày liền khỏi. Đây là lần thứ
nhất tôi nhìn thấy người vãng sanh, có bút mực thế nào cũng khó mà diễn
tả hết cái tướng trang nghiêm tốt đẹp đó được!
Tháng 3 năm thứ 50 là ngày
giáp năm của Giang tiên sinh, nhà ông ta ở đường Dân Tộc dời về nhà mới
ở đường Đài Trung, bà Giang nhờ tôi thỉnh tượng Phật về an vị nhà mới và
niệm Phật siêu độ, chuyển các lư hương bài vị của tổ tiên, chủ thần. Bận
rộn suốt một ngày, đến tối ngủ lại chiêm bao thấy Giang tiên sinh hình
tướng cũng như lần trước, đến trước mặt tôi nói: “Chị Khán Trị! Cám ơn
chị nhiều. Thọ nhận sự giúp đỡ của chị rất nhiều!”. Tôi lại hỏi ông ta
như lần trước: “Giang tiên sinh! Ông có vãng sanh không?”. Ông ta cũng
lại như lần trước nói: “Có! Có!”. Xong liền biến mất. Sáu năm sau không
còn chiêm bao thấy nữa, tôi hối hận tâm mình ngu si, điều quan trọng
không hỏi, hai lần đều chỉ hỏi ông ta có vãng sanh không? Tại sao không
hỏi: “Khán Trị tôi đây có thể được vãng sanh không? Phải đến ngày nào
mới được vãng sanh?”.
8. VỐN ĐẾN ĐÒI NỢ, NIỆM PHẬT
ĐƯỢC GIẢI OAN
Nhớ lại vào đầu tuần tháng 2
mười năm trước, Ái cô nương, trụ trì của chùa Đại Nhã Long Thiện, gặp
tôi ở trạm xe cục Công lộ, bèn nói với tôi rằng: “Chị Khán Trị, ngày 19
tháng 2 là ngày khai pháp hội của chùa tôi, tín chúng đều muốn nghe chị
giảng Phật Pháp, xin mời chị phát tâm đến”. Tôi liền nhận lời. Ngày ước
định đến liền đi, lại còn mang theo rất nhiều “vô thượng chí bảo” và
những sách về pháp môn Tịnh độ, hôm đó sau khi giảng xong, phân phát cho
các thính chúng để kết duyên. (Vô thượng chí bảo là một loại như tấm
thiếp xếp bỏ túi, in hình Tây phương Tam Thánh và những phương pháp giản
tiện về niệm Phật)
Tháng 2 năm sau lúc tôi đả
thất tại chùa Linh Sơn ở Đài Trung, hôm đó là ngày sư tỷ Huệ Phồn hộ
thất; khoảng hơn 3 giờ chiều, tôi đang niệm Phật trong Niệm Phật đường,
sư tỷ Huệ Phồn đi vào nhè nhẹ kéo áo tràng tôi một cái, tôi liền đi theo
Huệ Phồn ra ngoài xem coi chuyện gì, chỉ thấy một người đàn bà ở dưới
quê, hoàn toàn không quen biết, khoảng hơn 50 tuổi, đang đứng ngoài sân.
Tôi liền hỏi: “Bà ở đâu kêu tôi có việc gì?”. Bà ta nói: “Ông nhà tôi
kêu tôi kiếm bà, gặp mặt bà để nói lời tạ ơn bà. Tôi từ sáng sớm vào
thành, ở trong thành hỏi thăm khắp hết: “Sư tỷ Khán Trị ở đâu?”, trong
đó có người chỉ, nói bà ở trong Liên Xã. Đến Liên Xã, người trong Liên
Xã nói bà đang ở chùa Linh Sơn cho nên tôi tìm đến đây, muốn nói một
chuyện để bà biết, cũng là báo đáp cái ân của bà”. Tôi nghe xong lấy làm
lạ, thật chẳng biết ất giáp gì cả! Xem ra chuyện này không thể nói hai
ba lời mà xong được, vả lại quy củ Phật thất ở chùa Linh Sơn rất nghiêm,
ở sân chùa không được nói chuyện, tôi liền dẫn bà ta cùng ra phía ngoài
tường, để tiện hỏi cho rõ, lúc đó Huệ Phồn cũng đi theo.
Người đàn bà kia liền nói:
“Tôi là người ở trong làng Lại Lịch mười ba giáp, hồi tháng 2 năm ngoái
lúc bà giảng Phật Pháp ở chùa Đại Nhã Long Thiện, con trai của tôi là
Lại Phúc Hưng cũng có nghe giảng ở đó. Sau khi nghe xong có thỉnh “vô
thượng chí bảo” và một ít quyển sách nhỏ về nhà nữa. Từ hôm đó, nó bắt
đầu tin Phật, lại còn mỗi ngày lạy Phật, niệm Phật, y theo phương pháp
trong “vô thượng chí bảo”, hai thời khóa tụng niệm sáng tối, từ đó đến
giờ không hề gián đoạn, gần như là được đến trình độ đi, đứng, nằm, ngồi
Phật không rời tâm, tâm không rời Phật”. Tôi nghe xong rất là ngạc
nhiên, trong thế giới Ta Bà này sao lại có người có phúc khí lớn như
thế, mới nghe Phật pháp một lần, liền bắt đầu tu hành sớm tối như vậy?
Tôi liền hỏi bà ta: “Con bà bao nhiêu tuổi? Làm nghề nghiệp gì? Làm sao
mà phát tâm được như thế?”. Người đàn bà đó lại nói: “Con tôi hồi năm
ngoái hai mươi lăm tuổi, nó học xong trung học vào đại học và hai mươi
ba tuổi thì tốt nghiệp đại học, song về nhà nó bị lao phổi, hàng ngày
chạy chữa Đông Tây y, chích thuốc châm cứu v.v… trong ba năm tốn rất
nhiều tiền, mãi đến sau khi nó niệm Phật sức khỏe mới đỡ hơn lúc trước,
về mặt tinh thần cũng rất lạc quan, nó cũng thường vào thành phố thỉnh
mua những sách Phật Pháp về xem, cho nên thấy nó rất là vui vẻ”.
Tôi hỏi bà ta: “Trong nhà bà
có mấy người?”. Bà nói: “Ông nhà tôi ngoài tôi là vợ chính ra, còn có
một người vợ lẽ, cùng với con tôi tổng cộng bốn người. Vì bệnh của con,
chúng tôi ba người già đều phải hết sức trông nom nó, hy vọng nó mau
lành bệnh, một lòng nuôi con phòng lúc tuổi già, hy vọng ba người già
chúng tôi có chỗ nương tựa. Nhưng đến cuối năm ngoái, đầu tuần tháng
chạp âm lịch, Phúc Hưng bỗng nhiên mời ba người già chúng tôi đến bên
giường, nói rằng: “Ba và hai má! Con trưa hôm nay sẽ vãng sanh Tây
phương Cực Lạc thế giới, ba má đều già, nhất thiết chớ quá đau buồn,
than thở tuổi già không con, anh cả của con đi qua Nhật mười mấy năm bặt
vô âm tín, nhưng ba má không cần phải lo, hiện nay anh ấy đã lập nghiệp,
thành gia thất, lấy vợ sinh con ở Nhật Bản rồi, anh ấy vào đầu tuần
tháng 2 sẽ có thư về hỏi thăm, về sau sẽ qua qua lại lại giữa Đài Loan
và Nhật Bản, cảnh già của ba má không đến nỗi cô quạnh đâu!”.
Ông nhà tôi nghe xong những
lời như thế, liền khóc mà nói với con rằng: “Sức khỏe con gần đây đã đỡ
hơn trước nhiều rồi mà, con không được bỏ ba má. Con nên cầu Phật A Di
Đà phò hộ cho con đi”. Lúc đó Phúc Hưng con chúng tôi lại nói: “Con vốn
là đến đây để đòi nợ, ba má ba người trong đời quá khứ đã kết oán cừu
với con rất sâu, thiếu nợ của con rất nhiều, đời này đến làm con của ba
má, từ lúc sanh cho đến khi tốt nghiệp đại học, rồi bị cái bệnh lao phổi
ác ôn này, thuốc thang suốt ba năm, đến nay nợ vẫn chưa hết, con vốn
muốn chờ đến sau khi bán tiêu căn nhà này đi khiến cho ba má ba người
già nghèo cùng khốn khổ, không có chỗ nương thân, sống khổ như chết.
Nhưng năm nay nhờ gắng sức nhất tâm niệm Phật, nên đã tiêu diệt được tội
nghiệp nhiều đời, sắp vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới. Từ nay bốn
người chúng ta không còn oán cừu gì nữa, oán cừu đã được cởi mở hết rồi.
Ba má ba người cũng phải chí tâm niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây phương,
về sau chúng ta sẽ có thể ở chung một chỗ mãi mãi, không còn chia lìa
nữa. Mong rằng ba má nhờ kỹ lời con! Thôi thời gian đã đến rồi, đem giùm
quyển “Vô Thượng Chí Bảo” lại cho con, không được khóc, cũng không nên
động đến thân con, ba má ba người nên quay lưng lại, không nên nhìn con,
con cũng sẽ tự niệm Phật”
Phúc Hưng để quyển “Vô Thượng
Chí Bảo” trong lòng bàn tay và chắp tay lại, bắt đầu to tiếng niệm Phật,
chúng tôi cũng giúp trợ niệm, mặc dù nó đã nói không nên nhìn nó, nhưng
chúng tôi cũng cứ lén lén quay đầu lại nhìn. Niệm được 20 phút, tiếng
của Phúc Hưng từ từ nhỏ dần, đến khi dứt thở, hai tay buông ra, quyển
“Vô Thượng Chí Bảo” rớt trên ngực, liền ra đi một cách nhẹ nhàng tốt
đẹp. Người đàn bà nói tới đây thở một cái, lại nói tiếp: “Nhà của tôi có
nhiều phòng đều cho mướn, số người mướn trong đó có người tỉnh này, có
người tỉnh khác đến, lâu nay thấy Phúc Hưng bị lao phổi, mọi người đều
sợ lây bệnh, nên đã đi khắp các nơi muốn dời chỗ, bây giờ nhìn thấy con
chúng tôi khi lâm chung nói chuyện một cách sáng suốt rõ ràng, tướng
trạng trang nghiêm khác người thường như thế, ai cũng khen ngợi Phật
Pháp vô biên, không thể nghĩ bàn! Thế là họ đều không dời nhà nữa. Nhưng
cái việc nó nói lúc lâm chung về anh cả của nó ở Nhật Bản, mới đầu chúng
tôi không tin, nhưng gần đây quả thực có thư anh nó từ Nhật gửi về nói
sắp về Đài Loan thăm chúng tôi, so với lời dự báo trước của Phúc Hưng
hoàn toàn phù hợp. Ông nhà tôi rất vui nói: “Nếu không có sư tỷ Khán Trị
đến dạy người niệm Phật, thì Phúc Hưng làm sao lúc lâm chung biết được
nhân duyên đời trước và cái quả sau này, đồng thời giải hết được oán
kết? Từ việc lá thư của anh cả nó từ Nhật Bản gửi về có thể chứng minh
những lời của Phúc Hưng có thể tin chắc được”. Ông nhà tôi lại nói ba
người chúng tôi về sau có thể sống an nhiên trong tuổi già đây đều là
công đức của sư tỷ Khán Trị. Cái ân tình này nhất định cần tôi phải đến
Đài Trung tìm sư tỷ Khán Trị, gặp mặt sư tỷ để nói ra việc cảm ứng đặc
biệt này cho sư tỷ biết, cũng là để sư tỷ hoan hỷ! Đây chính là chúng
tôi muốn báo đáp ân tình của sư tỷ, nên tôi từ sáng sớm đến bây giờ mới
tìm ra được sư tỷ đấy!”. Sau khi nói những lời cám ơn liền muốn đi về.
Lúc đó tôi liền hỏi bà: “Nhà bà ở đâu? Chồng của bà tên họ là gì?”. Bà
ta nói: “Tôi ở số 13 giáp, đường Đại Nhã, chồng tôi tên là Lại Tuấn, con
tên là Lại Phúc Hưng”. Lúc đó sư tỷ Huệ Phồn ở kế bên, nghe từ đầu đến
đây bỗng nhiên nói với bà ta: “Thì ra cô là em dâu Tuấn, tôi là chị của
ông Tuấn, do vì nhiều năm không có qua lại, thật có lỗi! Xin mời đến nhà
tôi dùng trà đi”. Bà ta nói cám ơn xong liền bỏ đi. Lúc đó mặt trời đã
lặn về phía Tây, hơn 5 giờ rồi. Ba người chúng tôi đứng ngoài tường chùa
Linh Sơn, lâu hơn hai tiếng đồng hồ.
Hai câu chuyện vãng sanh ghi
đúng sự thật ở trên đều có thể chứng minh đích thực có Phật A Di Đà,
đích thực có thế giới Cực Lạc ở Tây phương; niệm A Di Đà Phật đích thực
có thể giải được oán kết, tiêu diệt được oán thù trong nhiều đời nhiều
kiếp. Căn cứ theo Đức Phật Thích Ca trong Kinh A Di Đà có nói: “Chúng
sanh trong cõi đó, thường vào lúc sáng sớm đều lấy đãy đựng hoa tốt đem
cúng dường mười muôn ức Đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về
bổn quốc…”. Đây là Đức Phật nói về chúng sanh ở Tây phương, sau khi vãng
sanh về đó liền có được thần túc thông. Còn căn cứ theo kỳ tích của Lại
Phúc Hưng mà suy đoán, Lại Phúc Hưng lúc lâm chung đã phát sanh được tha
tâm thông, mặc dù không thể tìm ra chứng cứ trên kinh điển, nhưng sự
thật là như thế. Các độc giả thông minh có thể giải thích dùm cho tôi
không?
9. BỊ TAI NẠN GIAO THÔNG, NHỜ
TIẾNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC CẤP CỨU
Ở Đài Loan có câu tục ngữ:
“Không có quỷ không làm cho chết người” thật là đúng. Mấy năm gần đây, ở
các nơi, tai nạn giao thông liên tiếp không ngừng, có lẽ là cô hồn uổng
tử các nơi quấy phá, mắt phàm của chúng ta không thể thấy biết được. Tuy
không thấy được, nhưng nếu như biết trì một câu Thánh hiệu vạn đức hồng
danh A Di Đà Phật thì có thể khiến cho những ma quỷ đó bỏ đi ngay tức
thời, lập tức được an nhiên vô sự. Độc giả nếu như không tin thì mấy câu
chuyện thật sau đây sẽ chứng minh:
Vị liên hữu Khưu Liên Châu
hiện ở làng Nội Tân phía ngoài cửa thành Nam Đài Trung, mọi người đều
gọi bà là sư tỷ Ngọc. 10 năm trước bà mở một tiệm chụp ảnh ở gần chợ Đệ
Tam đường Đài Trung. Một hôm sư tỷ Ngọc ở ngã tư trước bưu điện, bị một
chiếc xe hơi không rõ của hãng nào đụng ngã trên đường, chiếc xe gây ra
tai nạn bỏ chạy mất! Tội nghiệp sư tỷ máu ra đầy mặt, hơi thở thoi thóp
không còn biết gì nữa, những người vây quanh nhìn nhau, không nhận biết
người bị thương là ai? Ngay lúc đó có một anh lính trẻ đi đến, bỗng
nhiên kêu lên: “Sư tỷ! Đây là sư tỷ ở tiệm chụp hình đây mà!”. Lập tức
cõng bà ta đưa về tiệm chụp hình, con cái bà vừa thấy liền hoảng kinh,
thất sắc, cả nhà đều lớn tiếng niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát,
anh lính trẻ kia cũng niệm Phật cùng với mọi người. Không bao lâu sau sư
tỷ Ngọc đang hôn mê bỗng lên tiếng, chỉ nghe bà ta nói rằng: “Các người
đông như thế muốn ta đi theo các người, ta không đi! Các người lái xe
hơi lại, muốn ép ta lên xe hả? Ta cũng không đi. Không đi là không đi!
Ta là đệ tử của Tam Bảo, suốt ngày niệm A Di Đà Phật, chỉ muốn đi Tây
phương thôi, làm sao có thể tùy tiện đi theo các người được chứ? Nếu như
Phật A Di Đà đến tiếp dẫn thì ta mới đi”. Nói đến đây ngừng một hồi, lại
tiếp: “Rất đông người như thế, muốn đến kéo ta đi, nghe tiếng niệm Phật
của các con ta, đã chạy ra ngoài hết rồi, xe hơi cũng chạy luôn”. Không
bao lâu sư tỷ tỉnh táo lại hẳn, lúc tôi đến thăm thì trên đầu bà ta đã
được bao lớp vải gạc và may mười mấy mũi, bà kể việc bà thấy rất nhiều
tà ma quỷ quái muốn ép bà lên xe. Tôi khen ngợi công sức niệm Phật của
bà là rất tốt. Nếu như là người không có tin Phật hoặc không dụng công
sức nhiều, thì thần thức không sáng suốt, thấy xe hơi có thể đi được,
liền vui mừng đi theo họ ngay, há chẳng đáng sợ ư? Thì ra anh lính trẻ
cõng bà về nhà là một liên hữu trong ban thanh niên của Liên Xã, đã
nhiều năm nghe kinh với Bính Công ân sư, do đó mọi người đều biết nhau,
sư tỷ Ngọc nếu không gặp được anh ta, nhẫn đến tự mình không được chánh
niệm rõ ràng, chắc chắn khó hồi phục mạnh khỏe.
10. XE HƯ, NIỆM PHẬT ĐƯỢC
HIỆU LỰC
Sư tỷ Hoàng Khoan Châu là phó
ban trưởng của ban Cửu Liên, là người từ bi, cũng là trưởng ban của Ban
48 lời nguyện. Nhà sư tỷ ở đường Nguyên Tử thành phố Đài Trung, là một
gia đình theo Phật, rất là phát tâm Bồ Đề, lúc bình thường, thường
khuyên mọi người niệm A Di Đà Phật và thiện xảo phương tiện độ người.
Hàng xóm có con nít hay bị hoảng sợ, giựt mình không ngủ được, đều bồng
lại nhờ sư tỷ gia trì chú Đại Bi, đứa trẻ liền nhẹ nhàng thoải mái dễ
ngủ. Vào khoảng 8 năm trước, một hôm tôi đến nhà sư tỷ chơi, thấy một
phụ nữ trẻ tay bồng một đứa bé, xin sư tỷ niệm chú Đại Bi cho cô ta,
niệm xong, sư tỷ còn khuyên cô ta rằng:“Lúc cô bồng con cho bú, cũng
phải thường niệm A Di Đà Phật, con của cô sẽ được dễ nuôi. Thực ra lúc
nào ở đâu cũng có thể niệm, lúc quét nhà, lúc giặt đồ cho đến khi đi
đường, một bước một tiếng đều có thể niệm A Di Đà Phật, như thế trong
nhà của cô sẽ được bình an vô sự”. Sư tỷ hỏi cô ta: “Chồng của cô làm
nghề gì?”. Cô ta đáp: “Tài xế xe hàng”. Sư tỷ nghe vậy lại nói rất khẩn
thiết nói rằng: “Cô về nhà nhất định phải chỉ cho chồng cô niệm A Di Đà
Phật, nếu như lúc gặp tai nạn hay nguy hiểm phải to tiếng niệm “Nam Mô A
Di Đà Phật” thì có thể tiêu tai khỏi nạn”. Người phụ nữ kia thế mà có
căn lành, lại thông minh, khi về nhà, đúng như lời sư tỷ dạy, nói cho
chồng nghe và chỉ cho chồng lúc lái xe phải niệm, lúc nguy cấp càng phải
to tiếng niệm hơn, chắc chắn có thể đổi nguy thành an.
Trải qua một tháng, tôi đến
nhà sư tỷ thông báo về tin tức Ban 48 Nguyện sẽ mở hội, không hẹn mà gặp
lại người phụ nữ bồng con lần trước, trong tay bồng đứa con nhỏ và còn
dẫn chồng cô cùng đến, sắc mặt vui tươi, cầm hương hoa quả phẩm, nói là
đến để lễ Phật A Di Đà, làm cho sư tỷ vô cùng ngạc nhiên! Thì ra chồng
của cô do nghe lời khuyến cáo của vợ lúc lái xe niệm Phật được cảm ứng.
Anh nói: “Đa tạ lòng từ bi của cư sĩ dạy cho nhà tôi niệm Phật, còn dạy
cô ta khuyên tôi cũng niệm Phật. Tôi ngày hôm qua chở một xe lớn cải
xanh đi Đài Bắc, lúc về đã hơn 2 giờ khuya, đang lúc đi đến ngã tư
khoảng giữa Trung Lịch và Đào Viên, bỗng nhiên xe không thể chạy được
nữa, làm thế nào cũng không nhúc nhích, rất kỳ lạ là trong lúc tứ chi
mệt mỏi, tinh thần lo lắng không biết làm thế nào, bỗng nhớ lại việc cư
sĩ dạy nhà tôi niệm Phật, lúc đó tôi đang ngồi sau tay lái, hai tay ôm
chặt tay lái, có hơi buồn ngủ, miệng nói mơ mơ màng màng rằng: “Vợ của
tôi đi đến vị cư sĩ tin Phật ở đường Nguyên Tử, vị đó dạy vợ tôi lúc nấu
cơm, quét nhà phải niệm A Di Đà Phật, lúc bồng con cho đến lúc giặt đồ
cũng phải niệm A Di Đà Phật, và dạy tôi lúc nguy hiểm hay lúc gặp tai
nạn càng nên to tiếng niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật”. Đang lúc nói đến đó,
thật là lạ lùng, trong tích tắc chiếc xe chở hàng tự nhiên bỗng khởi
động lại chạy về Đài Trung, tôi lập tức giật mình tỉnh giấc, thấy có một
chiếc xe khác cũng đang đậu ngủ, lúc đó cũng mới thức dậy, trời còn chưa
sáng, tôi liền lái xe về nhà an nhiên vô sự”
Anh tài xế đó lại nói: “Cư
sĩ! Nhà của tôi muốn thỉnh an vị một tượng Phật để lễ bái, không biết có
được không?”. Sư tỷ rất vui nói: “Rất tốt! Rất tốt!”. Sư tỷ liền tặng
cho anh ta một bức Tây phương Tam Thánh của Hồng Kông in, chỉ cho anh ta
về để khuôn kiếng và chỉ cho anh ta phương pháp các thời khóa đơn giản
sáng tối.
Vợ chồng tài xế cảm tạ rồi ra
về. Đoạn cảm ứng bất khả tư nghì này là chính tai tôi nghe được. Xin
khuyên chư vị: Thân người khó được, ai có miệng đều nên niệm A Di Đà
Phật, một câu đại chú vương vạn đức hồng danh, đời này gặp được chớ nên
bỏ qua!
11. TO TIẾNG NIỆM PHẬT, ĐUỔI
ĐƯỢC OAN HỒN
Chí tâm niệm được một câu lục
tự hồng danh, cũng có thể giải được oán cừu của người khác. Câu chuyện
xảy ra vào tháng 4 năm Dân Quốc thứ 46, ở ngay cửa rạp hát Đông Bình ở
khu trung tâm, có một chiếc xe tải lớn vì muốn tránh xe đạp mà tông
thẳng vào trong rạp hát Đông Bình, ngã hai cây cột lớn ở hành lang gây
ra tai họa tử thương sáu người, trong đó có một người bị thương nặng
chết liền là một bà cụ hơn sáu mươi tuổi, bà ta mới từ Đài Bắc về đây
hôm trước, do vì cãi nhau với đứa con trai mà bỏ nhà ra đi đến nhà con
gái ở Đài Trung đây. Con gái bà ta lại rất hiếu thuận với mẹ, khuyên bà
không cần phải về, đứa con rể cũng rất vui tiếp bà ở lâu lại Đài Trung.
Ngày hôm đó khoảng 5 giờ
chiều, bà cụ này tắm, xong lại tắm cho đứa cháu gái nhỏ nhất, sau đó
cõng đứa cháu gái nhỏ đi ra ngoài chơi, đến dưới hành lang rạp hát Đông
Bình, tội nghiệp cho bà ta bị xe đụng vào đầu chết liền, may mà đứa cháu
gái đang cõng trên lưng lại bình an vô sự. Qua ngày sau, sau khi hỏa
táng, lấy tro xương làm lễ vĩnh biệt ở nhà con gái, mời được mấy vị đạo
sĩ về làm lễ siêu bạt vong linh. Hôm đó đứa con trai của bà cũng từ Đài
Bắc vội vã đến, tay trái cầm gậy, tay phải cầm phướng, đi theo đạo sĩ
khóc thút tha thút thít làm người con hiếu nam. Đang lúc nghi lễ ồn ào,
bỗng người con hiếu nam, gậy và phướng đang cầm trong tay, một chân còn
bên trong cửa, một chân ngoài cửa đứng nghệch ra đó, không nhúc nhích
gì, tròng mắt ngây ra hơi nhướng cao, trong miệng thở khò khè, gương mặt
xám đen.
Lúc đó
ở nhà kế bên là vị liên hữu cư sĩ Hà Tùng Vinh, vợ là sư tỷ Hà Trần
Nguyệt Nga. Tối đó sư tỷ Nguyệt Nga đang ngồi trên ghế ngay cửa tay cầm
xâu chuỗi niệm Phật, bỗng nhiên nghe ở cửa nhà kế bên có tiếng la lớn,
không biết xảy ra chuyện gì, vừa rồi tiếng chiêng trống hãy còn vang,
tại sao lập tức biến thành âm thanh hỗn loạn như thế. Sư tỷ Nguyệt Nga
vì lòng hiếu kỳ xui khiến, trong tay cầm xâu chuỗi, trong miệng vẫn niệm
danh hiệu Phật, đi đến gần xem thử. Vừa nhìn thấy hình dáng của người
con hiếu nam như thế, sư tỷ Nguyệt Nga giựt mình hoảng sợ không tự chủ
được, lớn tiếng la lên “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm Phật to tiếng như thế
liên tục được hai phút, sau đó sư tỷ Nguyệt Nga nói: “Nói thật tình
nghe, lúc đó tôi to tiếng niệm Phật hết sức như thế thật tình là do sợ,
không nén được mà niệm ra, hoàn toàn không phải do vì cứu người mà niệm.
Nhưng thật không thể nghĩ bàn, người con hiếu nam đang đứng ngây ra đó,
nghe được tiếng niệm Phật, sắc đen trên mặt dần dần tan đi, tay chân
cũng hoạt động trở lại, tròng mắt hết ngây dại, không bao lâu lại hồi
phục như cũ, cây gậy trong tay trái, lá phướng bên tay phải lại tiếp tục
phất phơ đi theo đạo sĩ bình an vô sự”
Qua ngày kế, người con hiếu
nam đó muốn đem bài vị và tro xương của mẹ thỉnh về Đài Bắc an táng,
liền đến cảm tạ sư tỷ, anh ta nói: “Ngày hôm qua may mắn được sư tỷ niệm
A Di Đà Phật, nếu không thật không thể tưởng tượng được, tôi không biết
niệm Phật có lợi ích như thế”. Sư tỷ Nguyệt Nga nhân cơ hội khuyên anh
ta: “Sau khi anh về nhà cần phải niệm hàng ngày, thì có thể giải oan kết
với mẹ anh, anh cũng có thể tiêu tai giải nạn, tiền đồ rạng rỡ không
lường”. Người con hiếu nam đó vừa nhận lời vừa cảm tạ mà về.
Qua ngày hôm sau nữa, sư tỷ
Nguyệt Nga đem cái việc ghê sợ của ngày hôm kia kể cho tôi nghe từ đầu
đến cuối. Sư tỷ nói: “Tối hôm kia việc xong rồi, tôi vẫn còn sợ đến nỗi
không dám vào nhà, ngồi một mình trên ghế ngoài cửa niệm Phật, niệm đến
11 giờ càng nghĩ càng thấy kỳ lạ, cho dù bị cảm dịch (lúc bấy giờ đang
có dịch cảm) cũng không thể có cái lý chỉ hai phút mà khỏi được, không
tránh khỏi phải mời bác sĩ chích thuốc, uống thuốc mới có thể bình an”.
Sư tỷ Nguyệt Nga là một người thông minh, sư tỷ suy đoán có lẽ là mẹ của
người con hiếu nam kia, do vì cái chết thê thảm bất ngờ, oan hồn không
tan, ôm lòng hận con trai của bà đã gây gổ với bà, mới khiến bà đến Đài
Trung gặp tai họa thảm khốc này. Thế là lúc dẫn vong, liền đi đến con
trai của bà tính nợ, oan hồn nẹp cứng đầu cổ của con trai bà, làm cho
anh ta gần như chết. Làm xong bà ta đi lại (hướng của sư tỷ) sư tỷ vừa
thấy liền niệm to “Nam mô A Di Đà Phật”. Ai ngờ sức đại từ bi, sức đại
thần thông của sáu chữ hồng danh này lại công hiệu lớn như thế, nhất là
lúc đó sư tỷ sợ đến niệm Phật hết sức, cũng có thể nói là nhất tâm bất
loạn, cho nên mới có được hiệu quả lớn như thế, đồng thời hồn quỷ nghe
được Thánh hiệu, tâm oán hận đều được tiêu trừ, cho nên mới thả tay ra.
Các vị! Chúng ta thử nghĩ
xem, nếu như khuyên người học Phật, niệm Phật, mọi người đều nói: “Không
có tiền bố thí không dám tin Phật”. Những hạng người này sao mà phước
mỏng như thế? Bạn hãy xem sư tỷ Nguyệt Nga chỉ là niệm có mấy câu Phật
hiệu, không có hóa ra được đồng xu nào mà làm ra được công đức bố thí
lớn, cứu được mạng người còn hơn xây tháp bảy tầng. Sư tỷ Nguyệt Nga
tánh tình hiền hậu, phẩm hạnh đoan chánh, đã từng được bầu là người mẹ
mẫu mực của thành phố Đài Trung, là một người vợ hiền mẹ tốt, con cháu
đầy nhà, gia đình rất là tốt đẹp.
12. NIỆM PHẬT CÓ THỂ ĐỘ ĐƯỢC
HUNG THẦN ÁC SÁT
Vào thời đại khoa học
hưng thịnh của thế kỷ 20 này, nếu nói với người nào đó rằng: “Sức khỏe
bình thường nếu như xung khắc với hung thần ác sát, các loài linh quỷ
v.v... thì sẽ chết”, những người tự cho mình là nhân vật tân tiến kia
chẳng những không tin mà còn nói là mê tín, không phù hợp với trào lưu
thời đại! Thế thì giới Phật giáo có nên, hay không tin những việc “tương
xung tương sát” này? Theo cách nhìn của tôi thì: Thà là tin nó có, nhưng
không a dua theo lễ bái, hoặc cầu họ che chở.
Nếu như chí thành khẩn thiết
niệm câu Thánh hiệu A Di Đà Phật, liền có thể gặp dữ hóa lành, gặp quỷ
mà được bình an vô sự. Đầy đủ được diệu pháp cứu cánh này, hung thần ác
sát bị câu chú vương trong các chú chánh đại quang minh này, sợ đến nỗi
chạy ra khỏi chín tầng mây luôn! Có lẽ một câu Thánh hiệu vạn đức hồng
danh này hàng phục được cả tâm ý của loài ác quỷ sát thần si mê không
biết quay đầu hàng phục này, hàng phục một cách tâm phục khẩu phục, được
chuyển sanh về đường lành cũng không chừng, sau đây xin dẫn ra ba câu
chuyện thật để chứng minh:
Liên hữu Lý Chuẩn là phó ban
trưởng ban Phương Quảng, ngụ ở đường Kiến Trung khu Đông, thành phố Đài
Trung, nhà của bà có phòng ốc dư cho tài xế chở hàng loại trung mướn. Vợ
anh tài xế đó tên A Châu, năm đó 31 tuổi. Vào buổi sáng ngày 20 tháng 12
âm lịch năm rồi, đến một cửa hàng đồ ngoại đường Nam Kinh, muốn lấy y
phục mới đặt đem về. Lúc đó bỗng nghe tiếng trống nhạc ầm ĩ trên đường,
có người lớn tiếng rằng: “Ngài Tam Tạng Nghệ Các thỉnh kinh về rồi!”. Có
người lại nói: “Vòng hoa, xe hoa nhiều quá!”. A Châu ở trong tiệm nghe
như thế, khởi tâm hiếu kỳ ra xem thử, không ngờ chỉ thấy tám người
khiêng một cỗ quan tài to, A Châu liền rùng mình một cái, miệng cứ nói
suốt là đau đầu, ở ngực như có khối đá đè, liền bị hôn mê ngã xuống. Lúc
đó người trong tiệm đồ ngoại hết hồn, vội vàng kêu một chiếc xe ba bánh
và phái một người hộ tống đưa đi, ngang qua cửa bệnh viện Ngụy Bảo Thuận
đường Phục Hưng thì xuống xe, đỡ bà ta xuống, trước mời bác sĩ chích
thuốc cho bà ta, sau đó đưa bà ta về nhà.
Vị liên hữu Lý Chuẩn nhìn
thấy A Châu hôn mê bất tỉnh nhân sự, ngũ quan và móng tay đều đen thâm,
kinh sợ đến mức la to lên:“A Di Đà Phật đến cứu mạng!”. Lúc đó các công
nhân nhà kế bên của anh tài xế loại trung đó nghe tiếng người kêu la đều
chạy lại, chỉ thấy hai mắt của A Châu trắng dờ, toàn thân đều đen, hôn
mê bất tỉnh, mọi người đều nói không có hy vọng sống lại, có người gọi
điện thoại đến miền Nam kêu chồng cô ta về; có người gọi điện thoại kêu
má chồng của cô ta lại; chỉ có vị liên hữu Lý Chuẩn là trấn tĩnh, cầm
xâu chuỗi trên tay đặt lên ngực A Châu, miệng niệm “A Di Đà Phật”, “Quán
Thế Âm Bồ Tát ” không dứt, khẩn cầu Phật, Bồ Tát từ bi cứu giúp A Châu.
Niệm được 20 phút, hai mắt và da thịt của A Châu dần hồi phục như cũ,
miệng nói: “Sư cô! Bà thật là đại ân nhân cứu mạng tôi, tôi gần như bị
đè đến muốn đứt hơi, đang lúc muôn phần đau khổ, xâu chuỗi của bà để
trên ngực của tôi, lại nghe được tiếng niệm A Di Đà Phật, sức khỏe dần
dần cảm thấy nhẹ nhàng trở lại. Cám ơn sư cô đã thi ân cứu giúp”.
Những người hàng xóm lăng
xăng chúc mừng cho A Châu: “Chúc cô may được người niệm Phật cứu thoát
mạng, nếu không thì ba đứa con gái của cô trở thành mồ côi rồi!”. Nghe
nói hồi tháng 7 năm ngoái trong hẻm đối diện có một cô gái mới 17 tuổi
đi chợ, cũng xem người ta đưa đám tang, về nhà liền la lớn đầu đau tim
lạnh, thuốc men gì cũng không hiệu quả, rồi qua đời. Càng bất hạnh hơn
là hôm đưa đám tang cô gái này, thì vị nữ chủ nhân của một ngôi nhà ở
đầu hẻm là người tin theo ngoại giáo, lúc đó đang đứng ở bên cửa xem
cũng bỗng bị đau đầu, cũng đồng chứng bệnh với cô kia, thuốc men gì cũng
không hiệu quả, rốt cuộc cũng qua đời. Nghe chuyện của người hàng xóm,
mọi người đều chúc mừng cho A Châu. Đây là chuyện trong tháng 2 năm nay,
vị liên hữu Lý Chuẩn đến Liên Xã, chính miệng nói với tôi.
13. BÊN BỜ SỐNG CHẾT, ĐƯỢC
CỨU SỐNG LẠI
Gia đình Liên xã niệm Phật ở
Đài Trung, tổng cộng có 48 ban, đều do lão ân sư Bính Công tổ chức và
đặt tên. Ban Song tu là một ban được lập hồi tháng 8 năm Dân quốc thứ
44, Ban trưởng Khâu Tâm Trí, Phó Ban trưởng Lâm Đức Kim, Lý Trần Trù
v.v. đều là những người rất nhiệt tâm khuyên người niệm Phật. 13 năm trở
lại đây, cứ hai tuần giảng Phật pháp một lần, chưa từng gián đoạn. Mỗi
lần trước khi giảng có cư sĩ Triệu Đàm Thuyên và phu nhân Lệ Lượng hướng
dẫn khóa tụng, cho nên ban viên mọi người gần như đều thuộc lòng kinh
chú.
Ngày 20 tháng 4 âm lịch lần
này lúc học nhơn (lời khiêm xưng của bút giả Khán Trị) đang giảng
“Khuyên tu pháp môn niệm Phật”, nhắc lại chuyện cảm ứng của vị Liên hữu
Lý Chuẩn cứu A Châu. Lúc đó, trong hội giảng có một vị liên hữu họ Tiêu
tên Hiệp, nhà ở đường Thái Bình, tức thời đứng dậy nói với mọi người:
“Tôi có thể chứng minh đích thật là có ma quan tài, do vì em gái tôi hồi
hai tháng trước suýt nữa bị nó hại chết. Em gái tôi tên là Tuyết ở làng
Bán Bình Lịch, vào hai tháng trước, A Tuyết sau khi sanh hơn hai mươi
ngày còn chưa đủ tháng, sáng sớm hôm đó bỗng nghe một hồi chiêng trống
của một đội nhạc, bà mẹ chồng ở nhà kế bên, nhìn không rõ ràng, cứ mãi
kêu: “Tuyết à, đi ra nhanh xem đón thần, thật là vui nhộn quá!”. A Tuyết
từ trong phòng ló đầu ra xem, thì ra không phải đám rước thần, mà là đám
tang khiêng một cỗ quan tài đi qua, tự dưng cảm giác lông tóc dựng đứng,
quay mình vào phòng, liền nghe đau đầu, ớn lạnh phát sốt, em rể tôi liền
mời bác sĩ chích thuốc, chẳng những không hiệu quả gì mà còn trầm trọng
hơn. A Tuyết liền kêu anh ta đi mượn xe hơi đến nhà tôi nhanh chóng chở
tôi đến. Tôi vừa nhìn thấy A Tuyết em tôi tim đập liên hồi, nằm trên
giường rên rỉ, lập tức đứng lên thắp ba nén hương cầu nguyện Phật, Bồ
Tát gia hộ, lại cố sức niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát. Niệm
khoảng nửa giờ đồng hồ và niệm chú đại bi vào nước cho nó uống. Sau khi
A Tuyết uống nước chú đại bi liền nói đầu hết đau, tim cũng đập nhẹ lại
nhiều, về sau sức khỏe hồi phục dần dần.
Nhưng đời người thì tai nạn
nhiều, phiền não nhiều. Sau hơn mười ngày, em rể tôi lại buồn bã đến đòi
tôi lập tức lên xe hơi đến nhà nó. Tôi hỏi là có chuyện gì? Em rể tôi
nói: Bé Anh, đứa con gái sáu tuổi của nó bị bệnh sởi bỗng nhiên biến
chứng không biết việc gì hết, hiện đặt nằm trên gạch chỉ còn có hơi thở
yếu ớt. Khi tôi đến nhà em gái xem, con bé Anh bình thường rất là lanh
lợi, bây giờ đang nằm trên nền gạch dáng vẻ như sắp dứt thở, rất nhiều
người hàng xóm đều đang than thở tiếc thương. Tôi liền cũng y như lần
trước lớn tiếng niệm A Di Đà Phật và Cứu khổ Cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát
và niệm chú Đại bi vào nước, dùng muỗng canh đút nước vào miệng của bé.
Thật là Phật pháp vô biên không thể nghĩ bàn, con mắt ngây dại của bé
Anh đã biết nhìn xem người rồi. Lúc đó những người hàng xóm đứng phân ra
hai bên trái, phải. Tiếng kêu bên trái: “Anh à!”, thì đầu của bé Anh
quay qua bên trái nhìn người; tiếng kêu bên phải “Anh à!”, thì đầu của
bé Anh quay qua bên phải nhìn người. Lúc đó mọi người đều khen ngợi bà
chị vợ thỉnh được Phật tổ lại cứu sống được bé Anh, về sau cho uống
thuốc liền có hiệu nghiệm, sức khỏe cũng hồi phục lại dần dần”.
Tiêu
Hiệp nói đến đây, trong hội chúng mọi người đều nghe thấy, tôi liền hỏi
cô ta: “Cô đã biết sự lợi ích của việc niệm Phật, tại sao lại không dạy
em gái cô xưng niệm danh hiệu Phật, hai thời sớm tối để có thể ai ăn nấy
no, tội nghiệp của người nào thì người đó tự tiêu, tự mình biết niệm há
chẳng lợi ích còn lớn hơn sao?”. Tiêu Hiệp đáp: “Tôi đã có dạy nó niệm,
tôi còn thỉnh Tây phương Tam Thánh về an vị cho nó rất trang nghiêm,
nhưng mà bốn đứa con nhỏ của nó cứ quấn lấy bên mình, không rảnh để nghe
Phật pháp, làm sao mà có thể niệm được như pháp đây? Tôi từ ba năm nay
nghe bà giảng pháp môn Tịnh độ không hề gián đoạn, hiện nay đi, đứng,
ngồi, nằm tâm không rời Phật, Phật không rời tâm, quyết định đời này
thoát khỏi biển khổ sanh tử này”. Tôi nghe xong rất là khen ngợi, nếu
không phải cô ta dụng công em gái và cháu gái ngay nơi bờ vực sanh tử
được?
14. NƠI Ở CỦA HUNG THẦN HÓA
THÀNH TỐT LÀNH
Từ xưa đến giờ trong nhà Phật
có câu thành ngữ: “Một người con trì trai thì ngàn Phật hoan hỉ, cửu
huyền thất tổ được siêu sanh”. Câu này lại là sự thật. Một câu danh hiệu
Phật có thể tiêu tai giải oán, nơi ở của hung thần hóa thành tốt lành.
Các vị nếu không tin, tôi xin đưa ra một việc để chứng minh.
Việc này xảy ra tại Tân Trúc
Văn Nhã Bố giáo sở. Đây là một đạo tràng Tịnh độ tông ở Đài Trung mà
chúng tôi mở ra để các liên hữu trong liên xã hoằng pháp. Từ tháng 4 năm
Dân quốc thứ 44 sáng lập đến nay, cứ cách một tuần là giảng kinh một
lần, chưa từng gián đoạn. Trong hội chúng có một vị liên hữu nam, mọi
người đều gọi là anh Kiềm. Có một hôm anh Kiềm này nói với những nhân
viên hoằng pháp rằng: “Pháp môn niệm Phật thật là tốt, thật có thể lợi
ích chúng sanh, chắc chắn có cảm ứng lớn”. Các nhân viên hoằng pháp hỏi
anh ta: “Anh niệm Phật được cảm ứng gì?”. Anh Kiềm liền nói: “Tổ tiên
nhà tôi có một phần mộ rất kỳ lạ, từ rất lâu đến nay không thể nào tảo
mộ, cũng không thể cúng tế được. Nếu như cúng tế thì sau khi cúng về,
không bệnh thì cũng chết! Nếu như có mục đồng dẫn trâu, dê ăn cỏ trên mộ
hoặc là giẫm đạp trên mộ, mục đồng và trâu, dê đó sau khi về nhà, người
và vật không chết thì cũng bệnh nặng. Vì cớ này nên dân địa phương đều
không một ai dám chạm đến phần đất của ngôi mộ này”.
Đến năm Nhật Bản đầu hàng,
Đài Loan được khôi phục, một người anh họ của tôi nói với tôi rằng:
“Ngôi mộ kỳ lạ đó của chúng ta, hiện nay mộ bia đỏ hết phân nửa, nếu đi
tảo mộ, nhất định con cháu thêm phước phát tài”. Tôi nói: “Tôi không dám
nghĩ đến, tôi cũng không cần dựa vào phần mộ đó để thêm phước phát tài”.
Người anh họ đó lại nói: “Chú không đi, thì tôi tự đi quét dọn cúng tế
cũng được”. Đến ngày tiết Thanh minh, người anh họ của tôi quả nhiên
chuẩn bị ba thứ gia súc, rượu lễ đến trước mộ cúng tế. Việc này trải qua
sau đó một tháng, ba đứa con trai của người anh họ tôi lần lượt chết
hết! Các vị thử nghĩ xem việc này có đáng sợ hay không? Tôi tin rằng
không có người nào từng nghe qua việc quái dị như thế!
Đến sau khi nạn lụt “bát
thất” năm Dân quốc 49, lại có một người anh họ đến nói với tôi: “Ngày
hôm qua tôi đi ngang qua cái nơi quái gở đó, nhìn thấy mộ bia bị nước
cuốn ngã đi, đầu mộ cũng bị nước xoáy một lỗ lớn, nếu như không sửa
sang, mộ này nhất định sẽ sụp tiêu đi, nếu sửa sang lại không dám động
đến, do vì nếu như vừa động đến liền xẩy ra đại họa! Làm sao bây giờ?”.
Tôi liền nói: “Không sao đâu, chúng ta đi sửa sang đi!”. Người anh họ đó
vui mừng nói: “Chú biết cách sửa sang cứ làm đi, tất cả tiền công, cát
đá, xi măng đều do tôi lo liệu, nhưng mà chú chừng nào thì làm?”. Tôi
nói “Đợi một tháng nữa”.
Tôi từ khi nghe được pháp môn
Tịnh độ, mấy năm nay hai thời khóa sáng tối chưa từng gián đoạn. Từ lúc
nhận lời chắc chắn sửa sang cái phần mộ kỳ lạ kia, hai thời khóa sáng
tối xong, tôi liền hồi hướng cho tổ tiên của phần mộ đó, đồng thời chí
tâm, khẩn thiết cầu xin Phật, Bồ Tát rằng: “Bạch Phật và Bồ Tát, xin phò
hộ cho con, con sau khi biết tin Phật, bạn bè thân thích đều nói con là
mê tín, lạc hậu, con lần này nhất định muốn thỉnh cầu Phật, Bồ Tát thi
triển Phật pháp vô biên cho họ thấy, xin Phật, Bồ Tát phò hộ cho con,
sau khi sửa sang phần mộ, đừng có xảy ra những sự việc tai hại cho người
và vật.”. Tôi mỗi ngày sau khi xong hai thời khóa sáng tối, đều cầu
nguyện như thế.
Đêm
trước tới ngày sửa sang, tôi càng khẩn thiết cầu xin, nửa đêm bèn nằm
mộng, thấy phần mộ đó, có một phần mộ nằm phía Bắc hướng về Nam, mặt
trước có một khe nước nhỏ, nước trong khe trong vắt, chảy về phía trước,
hai bên mộ có hai cây đại thọ cao lớn, mộ bia ngã xuống, ở đầu phần mộ
lộ ra một cái hang tỏ rõ sự suy sụp hoang vắng. Bỗng nhiên trong mộ xuất
hiện một người con gái hung dữ, trang phục theo lối cổ, lúc đó tôi rất
là sợ, liền chắp tay lại niệm “Nam mô A Di Đà Phật”… Nam nữ đứng gần đó
xem rất đông, trong đó có một ông già nói với tôi rằng “Đứa con gái này
trước là một con quỷ nữ rất hung dữ, do vì con cháu đời sau của nó niệm
Phật, bây giờ nó đã trở thành con quỷ lành rồi”. Tôi nhìn thật rõ ràng,
nghe cũng rõ ràng, lúc tỉnh lại thì ra chỉ là giấc mộng, trong lòng nghĩ
cảnh giới này trong giấc mộng nhất định là Phật, Bồ Tát, đại từ đại bi,
đại oai thần lực dẫn mình đi xem trước, để ngày mai mình có thể an tâm
đi sửa sang ngôi mộ. Sáng sớm, người anh họ của tôi đến nói: “Kiềm à,
tôi dẫn thợ cùng tất cả những dụng cụ như xi măng, cát đá đều đem đến cả
rồi, chú đi nhanh đi!”. Tôi mới hỏi: “Tôi xin hỏi anh phương hướng và
tình trạng chung quanh ngôi mộ đó và người chôn trong mộ có phải là
người nữ không?”. Anh họ của tôi kinh ngạc nói: “Chú có phải đã đi xem
qua trước rồi không? Nếu không thì chú làm sao biết được?”. Tôi mới nói
“Đêm qua tôi mộng thấy”.
Tôi đi mua hương hoa, quả
phẩm và đem theo quyển khóa tụng. Đến trước mộ nhìn xem, quả nhiên giống
y như cảnh đã thấy trong giấc mộng đêm qua. Tôi mới bày các hương hoa
quả phẩm ra, đốt đèn hương lên, lễ lạy nói: “Tôi hôm nay là chỉ đến sửa
sang phần mộ của bà, trước sẽ tụng kinh A Di Đà, chú vãng sanh và Thánh
hiệu A Di Đà Phật cho bà, bà cũng phải niệm Phật thì cũng sẽ lìa khổ
được vui, nhất thiết không được hại người, chẳng những không được hại
người trong nhà, cũng không được hại người khác”. Sau khi nói xong, liền
ở trước mộ tụng kinh niệm Phật, sau đó mới bắt đầu làm cỏ, ban đất, sửa
sang, rửa mộ bia đá cho sạch, nhìn xem tên khắc trên mặt bia tính ra
chính là bà nội của ông nội tôi. Tôi và nhóm thợ từ đó đến giờ vẫn bình
yên vô sự.
Chuyện kể đến đây, chắc có
người vẫn nhất định không tin. Thọ mạng của quỷ làm sao có dài như thế?
Mời các vị xem trong kinh nói đây: “Đọa lạc vào cảnh giới quỷ, thọ mạng
ngắn nhất là năm trăm tuổi”. Mà một tháng ở nhơn gian thì chỉ bằng một
ngày ở cảnh giới quỷ thôi. Như thế tính ra thì biết thọ mạng của loài
quỷ vừa dài vừa khổ! Có người vẫn còn nghi hoặc: tại sao tổ tiên lại đi
hại con cháu mình? Trong kinh Phật có nói: “Chúng sanh ngã chấp ngã
kiến, phải ở trong lục đạo đời đời kiếp kiếp. Ta, ngươi tranh đoạt,
ngươi giết ta, ta giết ngươi, cùng nhau gây tạo nhân quả, kết ân báo ân,
kết oán báo oán, đòi nợ trả nợ, cứ như thế mãi không dứt!”. Tổ tiên của
anh Kiềm cùng với cái quá khứ của ngôi mộ quái lạ kia, chắc chắn là đã
kết oán thù với nhau rất nặng, không cởi mở được, cho nên mới hung ác
hại người như thế, nếu như không có anh Kiềm chánh tín niệm Phật, dùng
sức đại từ đại bi của Phật, thì không cách gì tiêu giải được oán cừu
này. Do đây xin khuyên các vị cố gắng niệm “Nam mô A Di Đà Phật” nhiều
lên.
15. THUỐC A GIÀ ĐÀ TRỊ
ĐƯỢC VẠN BỆNH
Nhân duyên hoằng pháp của
Liên xã Đài Trung đến miền Đông, khởi đầu từ đại hội diễn giảng của liên
xã Đài Trung nhân dịp tân xuân năm Dân Quốc thứ 43. Trong thính chúng có
vị nữ sĩ Hồng Lâm Trản liên tục năm ngày nghe giảng. Từ Đài Đông xa xôi
đến đây, thời gian ở Đài Trung, bà ta ở cửa hàng bách hóa Vĩnh Phong,
được sự chiêu đãi chân thành của Hoàng Hỏa Triều cư sĩ Ký phu nhân
Nguyễn Miến. Lúc bấy giờ nữ sĩ Lâm Trản rất xanh xao, vàng vọt, trên cổ
đeo một sợi dải băng, chốc chốc lại ho, bà ta hỏi Hoàng phu nhân: Ở Đài
Trung có bác sĩ giỏi không, dẫn bà ta đi xem bệnh. Ở Đài Đông bà đã từng
đi rọi X quang nghe nói là phổi bên trái có ba lỗ. Mấy tháng nay uống cả
ký Cao ly sâm chính hiệu và chích hơn một trăm mũi thuốc, đều không thấy
hiệu quả!
Lúc đó là khoảng 5 giờ chiều,
nhà họ Hoàng là một gia đình Phật tử thuần thành, hai thời khóa sớm tối
từ nào tới giờ chưa từng gián đoạn, bà Hoàng phu nhân Nguyễn Miến mời bà
Trản đến bàn thờ lạy Phật, còn lấy một xâu chuỗi, chỉ cho bà ta phương
pháp niệm Phật và nói rõ về đạo lý trị hết được muôn bệnh của môn thuốc
A Già Đà này cho bà ta nghe. Khóa tụng xong còn cầu nguyện xin một ly
nước chú đại bi cho bà ta uống. Sau buổi cơm tối bà Miến liền nói: “Chị
Trản à, chị thật là có phước, bắt đầu từ tối nay, Liên xã của chúng tôi
liên tiếp giảng pháp năm ngày”. Tối đó liền dẫn bà ta đi nghe giảng.
Thật là không thể nghĩ bàn, đêm đó bà Trản suốt một giờ không ho một
tiếng nào, khi ngủ, ngủ thẳng đến sáng. Bà Trản cảm thấy Phật pháp thật
là lý thú, ở nhà họ Hoàng ban ngày chí tâm niệm Phật, đến tối đi nghe
giảng, liên tục năm ngày, một phần khái luợc về Phật pháp sơ cơ đã hiểu
được đôi chút, tinh thần đã có chỗ nương tựa, sức khỏe cũng tốt rất
nhiều. Bà than thở: “Người ở Đài Trung rất là có phước, người Đài Đông
chúng tôi chưa từng được nghe qua chánh pháp sâu sắc như thế này!”. Bà
Miến đáp lại: “Chị hiện nay đã hiểu rõ được cái hay của việc tin Phật,
niệm Phật, chị nên phát Bồ đề tâm, thỉnh nhân viên hoằng pháp của Liên
xã đến nơi của chị hoằng dương Phật pháp, khiến những chúng sanh có
duyên cũng được lợi ích, thì công đức của chị thật là vô lượng!”. Bà
Trản nghe xong, vui mừng nhận lời, nói: “Được! Vậy thì nhờ chị thỉnh
dùm. Tiền xe hay tiền máy bay đi lại, tôi chịu hết, nhưng chị cũng phải
cùng đi tới chỗ tôi chơi mới được”.
Giao thông từ 14 năm về trước
không tiện lợi như ngày nay, đi Đài Đông chỉ một ngày là đến rồi. Lúc
bấy giờ phải mất hai ngày, phải ngủ một đêm ở Cao Hùng. Cuối cùng một
đoàn ba nguời: bà Trản, bà Miến cùng với Pháp Viên. Khi ngủ lại phòng
trọ ở Cao Hùng, thì xảy ra việc linh cảm Phật, Bồ Tát phò hộ. Nguyên là
trên chân của Pháp Viên có cái mụt nhọt, đã từng trị liệu hơn một tháng,
bị lầy rữa ra hai tấc, chung quanh không còn cảm giác đau nữa. Lúc bấy
giờ vì nhiệt tình, quên đi cái mụt nhọt trên chân, nhưng đến phòng trọ ở
Cao Hùng, phát đau đến mức không chịu nổi, bà chủ phòng trọ nhìn thấy
chân của khách đau ghê gớm như thế, liền giới thiệu nói, ở vùng này có
một loại thuốc mỡ cỏ xanh tinh luyện rất hay, có thể trị được bệnh này,
liền nhờ người mua hai hoàn. Vừa thoa vào, thật là loại thuốc có công
hiệu đặc biệt: hết đau, nuôi thịt, sanh da, ba phần đều tốt, sáng hôm
sau khỏi được phân nửa, ba ngày sau khỏi hẳn. Đây đều là sự linh cảm của
Phật, Bồ Tát từ bi đặc biệt gia hộ, thật là thuốc đến bệnh tiêu, nếu
không thì đi không được rồi.
16. NƯỚC ĐẠI BI KHIẾN CHO
THAI ĐÃ CHẾT SỐNG LẠI
Pháp Viên giảng năm ngày tại
chùa Hải Sơn ở Đài Đông. Ngày viên mãn, những người nghe và người giảng
sắp sửa chia tay, cái lúc lưu luyến không rời, bỗng nhiên có một bà lão
khoảng hơn sáu mươi tuổi đến, đưa ra một câu hỏi: “Những điều của cô
giảng đều là những đạo lý giải thoát sanh tử luân hồi, cho đến cải ác
hướng thiện, thay đổi tâm tánh. Nhưng bây giờ yêu cầu tiêu trừ bệnh
hoạn, giải quyết những đau khổ, thì lại phải cầu pháp như thế nào? Cô có
thể từ bi chỉ bày cho được không?”.
Pháp
Viên lúc đó nhìn xem bà lão này trên cổ có một cái nhọt lớn cổ áo cài
lại không được, hở ra khoảng năm - sáu tấc, Pháp Viên suy nghĩ người
ngày ắt là muốn cầu phương pháp tiêu trừ bệnh nhọt của bà ta, lúc đó
thiệt là tiến thối lưỡng nan, nếu như bảo bà ta cầu Phật, Bồ Tát gia bị,
cái nhọt lớn trên cổ sẽ hết, chưa chắc nắm chắc được không? Nếu như
không bảo bà ta cầu, nhưng mà đã phô trương Phật pháp vô biên năm ngày
rồi, có cảm ứng không thể nghĩ bàn, chung quanh lại có đông người đang
chờ nghe, Pháp Viên nhứt thời phải dùng phương tiện khéo léo đáp rằng:
“Nếu như yêu cầu tự mình hoặc là người khác tiêu tai thoát nạn, hết bệnh
khổ v.v… nhất định phải sớm tối tụng niệm một quyển kinh A Di Đà, bảy
biến chú vãng sanh, vài trăm câu Thánh hiệu A Di Đà Phật, hoặc vài ngàn
câu, vài muôn câu càng tốt; nếu như người không biết tụng kinh A Di Đà,
thì chỉ niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật cũng được, nhưng nhứt định phải
tụng bài Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung... sau đó có yêu cầu điều
gì thì lại dùng tâm chí thành, niệm Thánh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát và gia
trì nước chú Đại bi cho uống, nếu thọ mạng ở đời chưa dứt, thì có thể
giảm nhẹ đau khổ của bệnh tật; còn nếu thọ mạng ở đời sắp hết, thì nhờ
sức công đức của khóa tụng niệm Phật được vãng sanh Tây phương, như thế
thì được mãi mãi thoát ly bệnh khổ và tử khổ. Đây là phương pháp rốt ráo
vậy”.
Ngày tháng như thoi đưa, thời
gian như tên bay, thoáng một cái đã một năm trôi qua, Lâm Trản ở Đài
Đông lại đến Liên xã, lần này sắc mặt tươi rói vui vẻ, so với năm ngoái
như là hai người, bệnh chứng của bà ta đã dứt hẳn không còn thấy tăm hơi
gì nữa, trọng lượng thân thể cũng tăng hơn mười kí, y phục toàn là đồ
mới may, đồ cũ không còn cái nào mặc vừa nữa, bà ta nói với Pháp Viên
rằng: “Thưa bậc nhân sĩ của Đài Đông, mọi người đều yêu cầu tôi đến mời
bà đến Đài Đông giảng diễn Phật pháp lần nữa, không những tôi niệm Phật
được cảm ứng, mà còn bà Phổ Ái Cô, trên cổ có mụt nhọt to, bà dạy bà ta
phương pháp niệm Phật và thời khóa tụng niệm, về sau lại xin nước Đại Bi
chú uống, bà ta ngày ngày đúng như pháp mà làm, cái mụt nhọt to của bà
ta đã hết hẳn, cổ áo cũng đã cài lại được rồi, ai thấy cũng đều khen là
“kỳ diệu””
Bà Trản lại nói tiếp: “Không
những mụt nhọt to của Phổ Ái Cô tiêu trừ, được cảm ứng, cái việc càng
khiến cho người khó tin hơn nữa chính là việc con dâu của Phổ Ái Cô, cô
ta ở trên núi vùng phụ cận của Đài Đông, đã có mang mười tháng, người
phụ nữ này rất là siêng năng làm lụng, tự nghĩ sắp tới ngày sanh nở rồi,
trong ngoài cần phải dọn dẹp cho sạch sẽ, cả phân trong chuồng heo cũng
gánh hết mấy gánh, không ngờ từ hôm đó thai nhi ở trong bụng không còn
động đậy nữa, hỏi thăm những người lớn ở trên núi, người ta nói là lúc
quét dọn làm sạch chuồng heo động thổ, động đến thai khí, đến ngày thứ
ba vẫn không động đậy gì, người phụ nữ mang thai này, sáng sớm đã xuống
núi đến tìm mẹ chồng cô ta, Phổ Ái Cô lại không có ở nhà, cô ta tự đi
đến khoa phụ sản để khám, bác sĩ phụ sản nói: “Thai nhi ở trong bụng của
cô chết đã ba ngày rồi, tự mình sanh không phải là việc dễ, ắt phải dùng
đến khí cụ cắt thai nhi ra từng miếng, từng miếng lấy ra, hoặc là phải
phẫu thuật mới đem thai nhi chết ra được. Ngoài ra không còn cách nào
khác”.
Người phụ nữ mang thai đắn đo
suy nghĩ, việc phẫu thuật lấy thai nhi ra không phải là việc nhỏ, không
có mẹ chồng hay chồng cho phép, cô không dám chủ động, liền trở về trên
núi, lại trải qua bốn ngày nữa, thai nhi trong bụng vẫn không có động
đậy gì, cô ta lại xuống núi lần nữa tìm mẹ chồng: Phổ Ái Cô, nói rõ việc
thai nhi bất động đã bảy ngày rồi, Phổ Ái Cô liền dẫn con dâu đến một
bác sĩ phụ khoa khác khám. Vị bác sĩ này cũng chẩn đoán y như vị bác sĩ
trước, nói thai đã chết trong bụng bảy ngày rồi, không cắt thai nhi ra
từng miếng từng miếng lấy ra, hoặc phẫu thuật thì không được! Phổ Ái Cô
dẫn con dâu đi về, quỳ trước bàn Phật, thắp hương đốt đèn dạy con dâu
xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, bà ta bắt đầu tụng kinh. Sau đó niệm một
ly nước chú đại bi, bảo con dâu uống và phải chí tâm cầu xin Phật, Bồ
Tát phò hộ, hy vọng tử thai trong bụng con dâu sanh ra được cách tự
nhiên, không phải đau đớn, phiền phức vì mổ xẻ, lúc đó mặt trời cũng đã
lặn rồi, Phổ Ái Cô liền giữ con dâu ở lại ngủ với bà không phải về núi.
Đang ngủ nửa đêm con dâu bà kêu mẹ chồng nói: “Thai nhi trong bụng động
đậy lại rồi”. Mẹ chồng cô ta đáp lại cô ta rằng: “Chắc là Phật, Bồ Tát
phò hộ, tử thai sắp sanh ra đấy”. Đến sáng, thai nhi của người phụ nữ
mang thai này đã động đậy bình thường như trước, sức khỏe cũng khỏe
khoắn nhiều, không còn chút gì khó chịu nữa, liền lại trở về trên núi,
lại trải qua một tuần lễ, người phụ nữ mang thai này sanh ra một bé trai
rất là thuận lợi, mẹ con đều bình an vô sự. Hồng Lâm Trản đến Liên xã
nói ra việc này, thật là một sự linh cảm kỳ dị, rất nhiều người nghe,
chắt lưỡi khen là kỳ lạ mãi không thôi.
17. TÉ XUỐNG LẦU BỊ THƯƠNG,
QUA NGÀY SAU KHÔNG SAO
Lần thứ hai đến Đài Đông, nơi
khoảng đất trống lớn chùa Hải Sơn liên tiếp giảng năm ngày, khuyên người
niệm Phật sửa ác làm lành, những thiện tín phát tâm cả một vùng miền
Đông đều đến ước hẹn đi kết pháp duyên, mỗi nơi đều ước định ba ngày.
Năm ngày ở Đài Đông viên mãn, liền đến Tân Cảng. Đoàn này do ba vị ở Đài
Đông phát Bồ đề tâm lãnh đạo, đó chính là Hồng Lâm Trản, Trần Ngọc
Phương và một vị lão Bồ Tát khác, thêm vào hai vị: Pháp Viên và Huệ Lâm
ở Đài Trung, tổng cộng là năm người, ngủ lại trong một ngôi chùa kiểu
Nhật thời kỳ Nhật chiếm cứ, địa thế, phong cảnh đều rất tốt, phía sau
hướng ra biển, chiều tối các thuyền đánh cá trở về thắp đèn nhấp nháy
giống như một bức tranh vẽ, cảnh sắc mê người, đến nay nhớ lại vẫn như ở
trước mắt, ba ngày hoằng pháp đều ở trong ngôi chùa này, Phật, Bồ Tát
cũng ban cho một cảm ứng đặc biệt.
Sự việc là vào buổi sáng ngày
thứ hai, có người đến chùa nói: “Có một bà tối qua đến nghe Phật pháp về
nhà, leo lên trên lầu liền bị té xuống, khắp mình đau nhức khó chịu, kêu
la cả đêm, không thể cử động, chỗ nào bị thương vô phương chẩn đoán, xin
nhờ các vị tiêu trừ tai ách cho bà”. Pháp Viên nghe nói như tiếng sét
giữa trời nắng, không biết làm sao, đành phải cùng với vị sư đương gia ở
chùa và Huệ Lâm, ba người đến nhà bà ta, lên lầu liền nhìn thấy bà lão
khoảng bảy mươi tuổi này đang nằm rên rỉ trên giường, rất là tội nghiệp,
Pháp Viên liền quỳ xuống trước tượng Phật của họ thờ một cách đơn giản,
dùng tâm chí thành khẩn thiết hướng lên Phật, Bồ Tát cầu nguyện rằng:
“Vị lão tín nữ này là người tối hôm qua đi nghe pháp về nhà té xuống lầu
bị thương. Nếu như không phải đến nghe Phật pháp thì đối với chúng tôi
không can hệ gì, do vì chúng tôi thành tâm thành ý đến đây khuyên người
niệm Phật, sửa ác làm lành khiến cho người thoát khổ được vui; không may
xảy ra tai nạn ngoài ý muốn này, khiến cho tâm chúng tôi không yên, bạch
Đức Phật A Di Đà và Quán Thế Âm Bồ Tát, các ngài cũng phải chịu một phần
trách nhiệm, nhanh chóng biến hóa cứu giúp cho bà già này tức thời sức
khỏe được hồi phục mạnh khỏe, bình an vô sự. Nếu không thì bà lão này
nếu như bị chết thì khó tránh khỏi người ta chê cười Phật pháp không
linh!”. Sau khi khấn thầm như thế liền tụng một phẩm Phổ Môn, niệm Thánh
hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát và gia trì một ly nước chú đại bi, tự tay đưa
cho bà ta uống, cũng dạy cho bà ta niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.
Thật là Phật pháp vô biên không thể nghĩ bàn, đến trưa ngày hôm sau, sức
khỏe của bà lão này đã an nhiên vô sự, tinh thần khoan khoái có con dẫn
đi, trong tay cầm một cây gậy chống, đi bộ đến chùa lạy Phật và hướng về
đại chúng nói lời cám ơn. Đây không phải Phật, Bồ Tát gia bị, làm sao
được hồi phục dễ dàng như thế! Đến bây giờ nhớ lại vẫn còn cảm thấy mắc
cười, lúc đó trong lòng của Pháp Viên hoảng loạn như đang có tang, đau
khổ không chịu nổi, vì là sợ hai chữ “Phật giáo” bị người hủy báng.
18. BỒ TÁT GIA BỊ KHAI MỞ TRÍ
TUỆ CHO TÔI
Giảng ở Tân Cảng ba ngày
xong, một đoàn năm người lại đi đến Quan San giảng ba ngày. Cuối cùng
lại đi chùa Hoa Sơn ở Ngọc Lý, chùa này là một chùa Tịnh độ tông vào
thời Nhật chiếm cứ, dưới sự sắp đặt của vị Đại hộ pháp và chấp sự chùa
này, mỗi tối khai giảng ở miếu Đế Quân, nơi trung tâm của phố xá rất là
náo nhiệt, thính chúng rất dễ tụ tập. Giảng đến ngày thứ hai, Phật, Bồ
Tát lại hiển kỳ tích. Trưa hôm đó bỗng nhiên có một vị cư sĩ nam ở tỉnh
khác đợi tôi ở phòng khách, nói là muốn đàm luận Phật pháp, trao đổi ý
kiến. Vị cư sĩ đó trước tự giới thiệu tên họ và nói là quy y với một vị
đại pháp sư nào đó ở Đài Bắc, hiện nay thì chỉ chuyên nghiên cứu Thiền
tông. Nghe ông ta nói như nước chảy suốt hai mươi phút, thì đã biết ý
định đến đây của ông ta, không phải đơn giản có thể đối phó được!
Lúc đó trong tâm tôi khấn
thầm đức Quán Thế Âm Bồ Tát gia bị khai mở trí tuệ cho tôi để có thể ứng
phó theo ý muốn, đối đáp trôi chảy, nếu không thì hôm nay bị xui xẻo
rồi! Vị đại đức đó thấy tôi dùng tiếng quốc ngữ lựng khựng, hỏi đâu đáp
đó, gương mặt của ông ta hơi khẩn trương hỏi một câu: “Tối qua nghe bà
giảng Tịnh độ tông, sau khi chết thần thức vãng sanh về Tây phương. Thần
thức nó ra làm sao, lấy ra đây cho tôi xem!”. Tôi liền trả lời ông ta:
“Câu ông vừa mới nóùi, nó ra làm sao, lấy ra đây cho tôi xem coi!”. Lúc
đó trong nhà khách một bầu không khí yên tĩnh, bốn mắt nhìn nhau lặng
yên không nói, tôi lại trả lời ông ta một câu: “Nói cho rõ một chút, ông
ban đêm nằm mộng cái đó là thần thức”. Ông ta khựng lại một chút, rồi
quay đầu mà đi. Tôi sợ ông ta xấu hổ thành giận, lại tìm đến quấy rầy,
bèn nói với vị trụ trì rằng: “Vị đại đức kia nếu lại đến tìm tôi thì sư
nói “bây giờ đang chuẩn bị giảng, xin lỗi!”, là được rồi”. Vị sư trụ trì
nói với tôi rằng: “Cái người đó rất là quái gở, có vị đại đức hay cư sĩ
nào đến giảng Phật pháp, hoặc giảng những sách thiện, ông ta đều đến vấn
nạn mấy câu, khiến người ta không thoát ra được, có người không cách gì
ứng phó liền bỏ đi”.
Thật là ngoài dự liệu, ngày
hôm sau, ông ta đã cùng mười mấy người bạn nam ngồi hàng phía trước nghe
giảng một cách rất thành tâm thành ý. Sáng ngày hôm sau còn đến nói:
“Thỉnh cư sĩ giảng thêm vài ngày nữa, ngày hôm kia tôi rất là bội phục
trí huệ của bà, cho nên đi tuyên truyền, khuyên được mười mấy người bạn
đến nghe giảng, tối nay sẽ càng tăng thêm số thính chúng”. Đến nay nhớ
lại tình hình lúc đó vẫn còn run, nếu không phải Phật, Bồ Tát thầm gia
bị cho, thì một Pháp Viên([1]) ngu
ngốc từ nào, làm sao có được tài năng đối đáp cùng vị đại đức tông môn
đó?!
19. CHÍ TÂM NIỆM PHẬT, KHẮC
PHỤC ĐƯỢC TAI NẠN GIÓ LỬA
Cư sĩ Trần Ngọc Phương ở
đường Bảo Tang phố Đại Đồng thị trấn Đài Đông. Cô ta trước kia khi chưa
nghe Phật pháp là một chuyên gia trang phục, là người thông minh, vốn
đầy đủ trí huệ, sau khi nghe được pháp môn Tịnh độ liền giác ngộ đời
người vô thường, vạn pháp đều không, liền bỏ nghề may đồ cưới cho người,
đến chợ mua hai xâu trân châu, về nhà xỏ lại làm thành một xâu chuỗi,
sớm tối bắt đầu khóa tụng, ngày ngày niệm Phật không ngừng. Đây là về
mặt tự lợi, đồng thời phát tâm Bồ đề mong muốn đem lợi ích đến cho người
khác. Lúc bấy giờ thiện tín ở Đài Đông đều là hàng sơ cơ học Phật, rất
ít người niệm Phật, cư sĩ Ngọc Phương từ cục bưu chính chuyển 500 đồng
tiền Đài Loan mới đến thư cục Thụy Thành mua năm mươi xâu chuỗi, về sau
lấy chuỗi đến nhà những bạn thân dạy họ niệm Phật và cho họ những xâu
chuỗi đó.
Có một hôm cư sĩ Ngọc Phương
tay cầm chuỗi đến xưởng nước tương Nhựt Đông khuyên người niệm Phật,
người chủ của xưởng tên Hà Tằng Thanh, Hà phu nhân tên là Quai, lúc đó
nhà của ông ta ở đường Nhân Ái (tên cũ là đường Thảo Lịch). Đài Đông 14
năm trước không giống như bây giờ: nhà lầu xi măng cốt thép mọc đầy. Lúc
bấy giờ phần lớn nhà vẫn còn làm bằng ván, cho nên xưởng nước tương Nhựt
Đông cũng thế, cũng làm bằng cây ván và lợp lá. Có một hôm cư sĩ Ngọc
Phương tay cầm chuỗi lại đến nhà họ Hà dạy A Quai niệm A Di Đà Phật,
đang lúc nói chỗ hay của niệm A Di Đà Phật, bỗng nhiên nghe tiếng người
ầm ĩ huyên náo ngoài đường, tiếng còi hơi báo động vang lên rất khẩn
trương, có người la lớn: “Xưởng nước tương Nhựt Đông bị cháy”. Ngọc
Phương và A Quai quay đầu nhìn ra ngoài, xe cứu hỏa màu đỏ của cục Cảnh
sát đã đậu ngoài cổng, lại quay đầu nhìn ra phía sau, thì ra lửa phát
lên nhà kế bên phía bên phải, đã lan đến công xưởng phía sau của mình,
đầy nhà khói bay mù mịt, hôm đó đang là ngày công xưởng được nghỉ, người
nhà và công nhân đều đã đi chơi bên ngoài, chỉ có mỗi mình Hà phu nhân A
Quai ở nhà.
Lúc bấy giờ cư sĩ Ngọc
Phương và A Quai vừa thấy thế của lửa đã tràn vào nhà, đang lúc nguy
hiểm tột cùng đó, liền quỳ xuống đất chắp tay lại chí tâm niệm: “Nam mô
Ai Di Đà Phật, Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”.
Niệm được chưa tới năm phút, thật là “Năng phục tai phong hỏa. Phổ minh
chiếu thế gian” (tức chỉ Quán Thế Âm Bồ Tát ), liền tức thời nổi lên một
trận gió Nam, thổi thế lửa đi thẳng hướng về phía sau, năm ngôi nhà lá
nhỏ phía sau lập tức bị đốt thành tro, may mắn là công xưởng nước tương
và cửa hàng của A Quai đều không việc gì, chỉ có lúc nhà kế bên mới phát
hỏa thiêu cháy mười mấy tấm ván vách chung với nhà kế bên thôi.
Nói đến đây, có lẽ có người
sẽ hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát tại sao chỉ cứu người niệm danh hiệu của
Ngài, mà năm ngôi nhà lá không biết niệm Phật kia thì phó mặc cho lửa,
không ra tay cứu? Nên biết rằng lúc đó con đường Nhân Ái của các nhà lân
cận là một con đường nhỏ rất dài, nếu như nhà của A Quai bị lửa cháy,
thế của lửa hướng về phía Bắc thì sẽ lan ra hết con đường này và khi đã
phát lửa rồi thì không thể thu dọn gì kịp, như thế tổn thất không sao
tính cho xuể, đồng thời năm ngôi nhà lá nhỏ kia cũng không chắc được may
mắn thoát khỏi. Thật là Phật, Bồ Tát phò hộ việc lớn hóa thành việc nhỏ,
việc nhỏ hóa thành không, cũng là may mắn gặp được thiện tri thức sư tỷ
Ngọc Phương từ bi, phước đức che chở.
20. ĐẾN LÚC VIỆC XẢY RA MỚI
ÔM CHÂN PHẬT CŨNG CÓ HIỆU QUẢ
Cư sĩ Trần Phi Lâm công chức
hãng đường Đài Đông là một vị Phật tử thuần thành, nhưng vợ của ông ta
lúc đầu chống đối kịch liệt ông chồng tin Phật, niệm Phật, tuy nhiên
Trần cư sĩ cũng không thối tâm chút nào, vẫn cứ tinh tấn, và một mặt với
tâm từ bi cố sức khuyên vợ rằng: “Chúng ta có miệng phải nên niệm Phật A
Di Đà tức là cái vốn cho sau này được vãng sanh Tây phương, nhưng trước
khi chưa được sanh Tây phương, cũng có thể gặp dữ hóa lành, tiêu tai
giải nạn, đối với bản thân có sự lợi ích không gì bằng”. Bà Trần được
ông chồng hàng ngày cảm hóa như thế, lại cứ như đàn khảy tai trâu, hoàn
toàn chẳng nghe. Tuy thế bà Trần này lại là một bà chủ giỏi khéo coi sóc
việc nhà vừa cần cù vừa tiết kiệm, có lúc còn lên núi kiếm củi, gánh một
gánh củi lớn xuống núi, rồi ngồi một chiếc xe lửa nhỏ cuối cùng về nhà.
Nhưng có một lần bà Trần gánh củi xuống núi, không ngờ mặt trời đã lặn,
chiếc xe cuối cùng đã chạy rồi, chiếc xe lửa nhỏ trên núi là xe kéo mía,
không phải là xe chuyên chở khách, cho nên sau khi chuyến xe cuối cùng
chạy đi rồi, thì ai tự về nhà nấy, không có ai ở lại trạm xe cả. Trời đã
tối, bà Trần trên vai gánh một gánh củi lớn, tự mình khích lệ sức mạnh,
quyết định đi bộ về nhà, một thân một mình thuận theo con đường sắt, đi
giữa đường ray tiến thẳng về phía trước. Lúc đi được nửa đường đột nhiên
thấy giữa đường ray phía trước một bóng đen của một đại hán đang đứng,
lúc ấy bà Trần càng đi thì càng gần, nhìn càng rõ, toàn thân lông tóc
dựng đứng, sợ đến nỗi quăng gánh củi trên vai do vì bà đã hết sức gánh
tiếp. Bà Trần đang lúc đêm đen có một mình nhìn thấy bóng đen kia, trong
khoảnh khắc đó, bỗng nhiên nhớ lại việc mấy năm trời được chồng huân tập
cho một câu chú vương từ nào không chịu đón nhận, nhứt là không hề muốn
niệm, đang lúc vô cùng nguy cấp này, việc đến mới ôm chân Phật, bà đứng
ngay nơi đó, không kềm được chắp tay lại, to tiếng niệm “Nam mô A Di Đà
Phật”. Niệm được vài phút, cái bóng đen của đại hán đó, dường như đã có
cái dạng bước sang một bên rồi và dần dần mất tiêu luôn. Bà Trần nhìn
thấy thật rõ ràng, liền vội vã đi nhanh lên, cả đến gánh củi cũng không
màng đến.
Trên
đường chạy về nhà của bà Trần, trong miệng vẫn không ngớt niệm “Nam mô A
Di Đà Phật”. Nhưng đi được một hồi bỗng nhiên đôi chân không thể đi được
nữa, lúc đó trong bụng bà Trần cảm thấy rất lỳ lạ. Tại sao mà đôi chân
bỗng nhiên không đi được nữa, liền cố gắng tự phấn chấn tinh thần lên,
khom lưng xuống tay mò xuống đất. Bà Trần dùng tay mò dưới đất mới hay
lại qua một lần đại nạn nữa, hóa ra chỉ cần tiếp tục đi về phía trước
một bước nữa thì là rớt xuống một khe suối lớn rồi! Lắng tai nghe kỹ
tiếng nước chảy trong khe rất là mạnh. Bà Trần lúc đó càng cảm tạ A Di
Đà Phật đã từ bi cứu giúp, nếu như không phải hai chân bất động, đi tiếp
một bước nữa thì rơi vào trong khe, bị nước cuốn trôi rồi, cả người nhà
cũng không ai hay biết, sẽ mãi mãi ngậm hờn nơi chín suối. Lúc bấy giờ ở
khe suối đó dùng miếng ván nhỏ làm cầu, bà Trần liền dùng cả hai tay hai
chân như móc câu mà bò qua, xong mới thở ra một hơi nhẹ nhõm, thẳng lưng
lên tiếp tục chạy về phía trước, liên tục ba lần, hễ đến bên bờ khe, thì
chân tự động dừng bước, thật là không thể nghĩ bàn! Sai một bước không
phải là chết đuối mà là té chết (bể đầu gãy xương...) do vì ban đêm nhìn
không thấy rõ, nên bà Trần về đến nhà là đã 12 giờ khuya!
Ngày hôm sau bà Trần trở lại
gánh gánh củi quăng mất hồi tối, bà đã hỏi người ở trạm xe, bóng đen hồi
tối qua nhìn thấy rốt cuộc là cái gì? Người ta liền nói với bà ta: Hồi
trước có một người bị tai nạn chết ngay chỗ đó, có lẽ âm hồn không tan,
nên thường hiện ra nơi đó. Câu chuyện trên đây là do Pháp Viên và cô
Hoàng Chiêu Anh đến dự khánh thành liên xã Đài Đông và tham gia giảng
diễn năm ngày, nghe được từ chính miệng bà Trần kể lại vào mồng 1 tháng
giêng năm Dân quốc thứ 48.
21. TÉ XUỐNG KÊNH RẠCH, NIỆM
PHẬT ĐƯỢC CỨU
Chuyện
trên là câu chuyện thật của bà vợ cư sĩ Trần Phi Lâm niệm Phật được cảm
ứng, bây giờ lại nói một chuyện nữa: chuyện cảm ứng của cháu gái Trần
Phi Lâm. Cô cháu họ này mới đầu cũng không tin Phật và cực lực phản đối
lòng thành tin Phật của ông chú. Nhưng Trần cư sĩ rất từ bi, hễ gặp mặt
là khuyên cô ta niệm Phật, giảng cho cô ta nghe về đời người ở thế gian
khổ nhiều, vui ít, tai nạn nhiều, nghịch cảnh nhiều, phiền não nhiều,
muốn lìa khổ được vui cần phải niệm A Di Đà Phật, lúc nguy cấp, sợ hãi
càng phải cố sức niệm A Di Đà Phật. Nhưng cô cháu của ông cũng chỉ như
đàn khảy tai trâu, không chịu nghe theo!
Mười mấy năm về trước, cháu
gái của Trần Phi Lâm muốn dời nhà đến Hoa Liên kinh doanh buôn bán, cư
sĩ Phi Lâm liền thỉnh tượng Tây phương Tam Thánh, lộng kiếng, tự mình
đem đến bến xe Đài Đông cho cô ta. Lúc chia tay ông còn ân cần dặn đi
dặn lại cô cháu phải chí tâm thành ý niệm A Di Đà Phật. Cô cháu họ Trần
sau khi dời đến ở Hoa Liên kinh doanh buôn bán rất tốt, có một hôm do
việc làm ăn cô đi vào làng, đến nửa đêm mới cỡi xe đạp về nhà, đi qua
một con kênh bên đường lúc không để ý cả người lẫn xe đồng rơi xuống con
kênh. Con kênh này chỉ sâu hơn người một chút mà thôi, tự mình rất dễ
leo lên. Lúc đó cô cháu họ Trần phủi bụi đất trên mình, rồi xem lại tứ
chi, không có bị thương chút nào hết, liền lo kéo chiếc xe đạp lên, lúc
muốn kéo lên đó, lại rất kỳ quái, phía sau dường như có người kéo xe trở
xuống. Cứ thế, hễ muốn kéo lên lại bị kéo trở xuống mấy lần. Lúc đó cô
cháu họ Trần sợ đến nỗi lông tóc dựng đứng, sợ đến nỗi hồn bất phụ thể.
Vào lúc tiến thối lưỡng nan, không có cách nào, liền nhớ đến việc ông
chú ở Đài Đông thường dạy cô niệm A Di Đà Phật, khi gặp lúc tai nạn nguy
cấp càng phải to tiếng niệm Phật. Cô cháu họ Trần liền chắp hai tay lại,
cố sức to tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Thành tâm thành ý niệm được
khoảng nửa tiếng đồng hồ thân tâm cảm thấy an nhiên, tâm sợ hãi đã không
còn nữa. Bỗng nhiên trên đường có một chiếc xe ba bánh chạy đến, người
đánh xe đến trước mặt cô cháu họ Trần, liền thắng xe lại, không nói một
tiếng nào, liền kéo chiếc xe đạp lên, lại mời cô cháu họ Trần lên xe ba
bánh, đưa xe đạp đặt lên trên xe ba bánh, người đánh xe liền chở cả cô
cháu họ Trần lẫn xe đạp về đến cổng nhà của cô.
Cô cháu họ Trần trong lòng
rất cảm tạ người đánh xe trẻ tuổi mạnh khỏe nầy, sau khi xuống xe, muốn
lấy tiền nhiều một chút cho anh ta, nhưng lúc quay đầu lại thì không
biết đã đi đâu mất rồi! Lúc đó đã là nửa đêm, cũng không biết tìm ở đâu.
Qua ngày hôm sau, sáng sớm cô vẫn cứ nhớ cái ân của người đánh xe ba
bánh, muốn đưa tiền cho anh ta, liền đến bãi xe ba bánh tìm trong mấy
người phu xe, hỏi tới hỏi lui cả ngày, mọi người đều nói tối hôm qua
không có ai chở cả người lẫn xe ở đó. Sau đó cô liền nghĩ lại sự cảm ứng
lúc đang nguy cấp cố sức niệm A Di Đà Phật mới có sự hóa hiện xe ba bánh
đến cứu mình. Cô ta lại nhớ đến tượng Phật của ông chú đưa cho ở bến xe
Đài Đông, liền về nhà lục tìm xem, chỉ thấy tướng hảo trang nghiệm của
Phật A Di Đà rất giống với phước tướng của anh phu xe ba bánh. Lập tức
treo lên, rất là cung kính mua về hương hoa quả phẩm, đèn cầy để cúng
dường lễ bái. Lại nhớ đến tinh thần từ bi của ông chú, đích thật là ân
sâu như biển, liền từ Hoa Liên đi về Đài Đông đến chú Trần Phi Lâm nói
ra việc cảm ứng này. Câu chuyện trên đây là do chính miệng Trần cư sĩ
nói với tôi.
22. BỤNG ĐAU KHÓ CHỊU, BÀ
NGOẠI DỰA VÀO
“Có bạn từ xa đến, không phải
cũng là điều vui vẻ sao?”. Câu nói này đích thật rất đúng. Mồng 5 tháng
này, cư sĩ Trần Phi Lâm đột nhiên đến liên xã ở Đài Trung, phước tướng
trang nghiêm hơn trước, khiến tôi mới gặp nhận không ra, tôi còn hỏi anh
ta tên họ là gì? Anh ta nói “Trần Phi Lâm”, tôi liền vui mừng ra mặt nói
với anh ta: “Tháng trước tôi viết chuyện cảm ứng độc đáo của quý phu
nhân (vợ anh) và cháu gái của anh trên tờ nguyệt san Cây Bồ Đề, nhưng
quên mất tên của hai người, thật là có lỗi quá!”. Cư sĩ Phi Lâm liền
nói: “Đứa cháu tôi tên là Trần Khánh Huy, nhà tôi (vợ tôi) họ Đường tên
là Cảnh Hòa, tôi lần này đã được nghỉ hưu ở hãng đường, hãng thưởng cho
tôi một chuyến du lịch miền Tây, hôm nay nhân tiện đến thăm bà”. Bấm tay
tính ra đã tám năm, có lẽ là do đồng đạo đồng chí, chỉ chuyên nói chuyện
về đạo, anh ta từ khi may mắn gặp được Phật pháp không thể nghĩ bàn, lại
được nhiều việc cảm ứng không thể nghĩ bàn, anh ta lại nói ra mấy việc
cảm ứng nữa, nay kể ra một trong mấy chuyện ấy để độc giả thưởng thức.
Cư sĩ Trần Phi Lâm nguyên
quán là người Khê Hồ ở Chương Hóa. Vào thời Nhật chiếm cứ, sớm đã vượt
trùng dương, đi đến địa phương sông Tùng Hoa, nước Cáp Nhĩ Tân ở Đông
Bắc, làm việc ở cục Bưu Chính, vào năm hai mươi tám tuổi kết hôn với
người con gái ở vùng đó tên là Đường Cảnh Hòa, năm sau sanh ra đứa con
gái đặt tên là Nguyệt Hương, bà ngoại và cả nhà rất là thương yêu.
Nguyệt Hương có thể nói là một đứa con may mắn, vừa mới sanh, đúng vào
lúc kháng chiến thắng lợi, Đài Loan được thu hồi trở lại, trả về cho bờ
cõi của tổ quốc, cư sĩ Phi Lâm liền dắt vợ con trở về cố hương, làm việc
ở hãng đường.
Vào hồi năm năm trước đây, có
một hôm bà Trần bỗng nhiên đau bụng dữ dội, Trần cư sĩ nói: từ hồi kết
hôn đến nay chưa từng thấy qua cô ta đau đớn như thế, liền mời về mấy vị
Đông y Tây y chích thuốc, bổ thuốc, dùng các cách trị liệu đều không
thấy hiệu quả! Lúc cả nhà đang bó tay, bà Trần bỗng nhiên từ trên giường
bệnh bò dậy dường như chẳng có bệnh gì hết, ngồi trên ghế dựa nói
chuyện, bà ta dùng quốc ngữ khẩu âm miền Đông Bắc nói: “Mau mau đi kêu
cháu Nguyệt Hương lại đây, tao muốn thăm nó, do vì cách nhau đã mười tám
năm rồi, tao rất nhớ nó, mau mau đi kêu nó đi!”. Lúc đó Nguyệt Hương đã
lấy chồng, cũng may là ở gần, vừa kêu liền đến, đi đến trước mặt mẹ liền
kêu: “Má à! Má kêu con lại có việc gì vậy?”. Mẹ của Nguyệt Hương liền
nói: “Tao không phải là má mày, tao là bà ngoại mày, mười tám năm không
gặp mày rồi, nên rất muốn xem mày ra sao”. Nguyệt Hương liền hỏi: “Bà
ngoại, bà ăn cơm rồi chưa?”. “Tao ăn rồi”. Nguyệt Hương hỏi tiếp: “Bà
ngoại! Con cúng cho bà ngoại một bài vị được không?”. Bà Trần lại đáp:
“Không cần! Không cần!”. Cư sĩ Trần Phi Lâm thấy tình trạng đó, biết là
mẹ vợ dựa, liền dùng Phật pháp khai thị cho bà rằng: “Má à! Má đã đọa
lạc vào quỷ đạo, chắc chắn phải là khổ sở lắm, má nhất định phải niệm A
Di Đà Phật, cầu sanh Tây phương Cực lạc thế giới, mới có thể lìa khổ
được vui, con chỉ cho má niệm, má phải niệm theo con. Bèn chắp tay lại
niệm “Nam mô A Di Đà Phật”
Trần cư sĩ nói, anh ta lúc đó
chắp tay dùng tâm chí thành niệm, niệm chưa được hai mươi câu vạn đức
hồng danh Thánh hiệu A Di Đà Phật, bà Trần bèn tỉnh táo trở lại, sức
khỏe cũng được an nhiên, vẫn dùng tiếng Đài Loan như trước giờ, nói
chuyện hỏi mọi người: “Mấy người đông như thế này xúm lại đây làm cái gì
vậy?”. Trần cư sĩ liền hỏi bà ta: “Vừa rồi má của em đến nói cái gì em
có biết không?”. Bà Trần nói không biết một chút gì hết. Trần cư sĩ hỏi
tiếp: “Em vừa rồi bụng đau dữ dội như thế, bây giờ thế nào rồi?”. Bà
Trần nói: “Em đâu có đau bụng đâu!”.
Nghe nói từ ngày hôm đó đến
giờ bà Trần và cả nhà đều bình an vô sự, hưởng được sự an lạc tự nhiên
của một gia đình Phật tử thuần thành.
23. NIỆM PHẬT: NƯỚC RÚT,
NGƯỜI VÀ VẬT ĐỀU BÌNH AN
Có một tín đồ của cơ sở hoằng
pháp ở Vụ Phong tên Đoạn Tỷ, bà ta ở làng quê Vạn Đẩu Lục Tử. Có một hôm
bà ta đến cơ sở hoằng pháp nghe kinh, bà ta nói với tôi: “Bà thật là
công đức vô lượng, tôi có một người bà con có đứa con dâu, vì chồng nhập
ngũ đi lính, ở nhà không giữ đạo đàn bà, về sau bị bắt giam trong ngục
sáu tháng, hết hạn tù, sau khi ra ngục, mang về tượng Phật Tây phương
Tam Thánh, thời khóa sớm tối niệm Phật, lạy Phật, đối đãi với bố mẹ
chồng, chồng, con cái so với hồi trước như là hai người, trở thành một
người vợ hiền, một người mẹ tốt, hiếu thuận với bố mẹ chồng, hơn nữa còn
biết khuyên người trong nhà niệm Phật và nói một chút chuyện ngắn cho
mọi người nghe. Người ta hỏi cô ta: “Cô hồi trước không tin Phật, hiện
nay tại sao có thể tin Phật và tin sâu thành khẩn như thế?”. Cô ta nói
là ở trong ngục có một vị sư tỷ ở liên xã, mỗi chủ nhật đều đến giảng
Phật pháp, dạy người niệm A Di Đà Phật, sửa ác làm lành, nghe rất có đạo
lý, đồng thời tặng cho kinh Phật, tượng Phật, chuỗi v.v… khiến cho người
sau khi về nhà an phận giữ mình, sống hạnh phúc. Bà Đoạn Tỷ lại nói:
“Tôi nghĩ vị sư tỷ ở Liên xã đến nhà giam nữ giảng Phật pháp đó nhất
định là bà. Cả nhà người bà con đó của tôi đều rất cảm tạ bà, kêu tôi
đại diện cho họ đến nói lời cảm ơn bà”. Tôi nói: “Đây là căn lành của cô
ta, nhân duyên Phật pháp đã đến, đối với tôi đâu có can hệ gì”.
Những lời trên đây là bà Đoạn
Tỷ nói với tôi trong mùa Hạ tháng 6 năm Dân quốc thứ 48. Đến sau khi nạn
lụt bát thất (mùng 7 tháng 8), bà Đoạn Tỷ lại đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ
Phong nghe kinh, lại một lần nữa nói với tôi: “Sư tỷ! Những việc tôi đã
nói hồi trước, việc người bà con của tôi có con dâu, sư tỷ dạy cho cô ta
niệm Phật, trong lần nạn lụt bát thất này, được sự cảm ứng rất lớn”.
Nguyên là nhà cô ta ở ba gian nhà tranh ở dưới cầu phía cửa Nam nuôi mấy
trăm con vịt mái làm phương kế sinh sống, con dâu của bà ta từ sau khi
ra ngục, do vì thường sống bên con kênh này nên cuộc sống không thể phát
triển, liền tính kế mua mười tám con heo nhỏ về nuôi, đợi đến lớn bán đi
thì có thể mua đất cất nhà ở nơi khác làm ăn, cô ta lợi dụng khoảng đất
trống, trồng một ít khoai lang… làm thức ăn để nuôi heo. Suốt ngày bận
rộn, đến cái hôm lụt bát thất đó, cô ta nhìn thấy nước trong con kênh
dâng lên, liền lấy một cây thang bò lên nóc nhà, sau đó cùng với chồng
đi lùa mười tám con heo lại, rồi cũng từng con, từng con lùa lên thang
lên trên nóc nhà, cuối cùng tự mình cũng lên trên nóc nhà, nhìn thấy thế
nước trong con kênh lên quá mạnh, cô ta vẫn bình tĩnh kêu cả nhà chắp
tay đồng niệm “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”, niệm được
mười mấy phút, liền đổi niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm một lúc lại
niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm đến sau khi nước trong con kênh rút, người
và vật đều bình an vô sự từ trên nóc nhà xuống. Bà Đoạn Tỷ lại nói tiếp:
“Sư tỷ nghĩ xem đây có phải là Phật, Bồ Tát gia bị không?”.
Tôi thật nghĩ không ra việc
cảm ứng của Phật, Bồ Tát này! Thật là ít có! Do vì một vùng trên hai bờ
của cây cầu ở cửa Nam này bị nước lụt cuốn mất hơn một trăm căn nhà mặc
dù là nhà tường đất, nhưng cũng có rất nhiều ngôi nhà lớn xây cất kiên
cố, cũng đều bị nước cuốn đi, chết rất nhiều người, tại sao căn nhà
tranh cũ nát bên bờ khe dưới cầu lại không bị nước cuốn đi? Trên nóc nhà
chẳng những chịu đựng mấy người cả nhà, lại còn có cả mười tám con heo
to nữa, rốt cuộc người và vật đều an nhiên vô sự! Điều khiến tôi càng
nghĩ càng lấy làm kỳ quái là heo mà cũng biết leo thang, thật là mầu
nhiệm vô cùng không thể nghĩ lường!
Khi đến ngày chủ nhật, tôi
lại đến nhà giam nữ giảng pháp, tôi liền đem chuyện chí thành niệm Phật
Bồ Tát được cảm ứng, giải cứu được cái nguy khổ vì nước lụt, được tiêu
tai khỏi nạn này giảng cho các nữ tù nghe, trong đó có một người đứng
dậy nói: “Cô ấy chính là cô số mười sáu ở đây với chúng tôi, cô ta cũng
từng nói có bố mẹ chồng nuôi vịt dưới cầu cửa Nam”. Cô này lại nói: “Sau
khi cô ta ra ngục bèn muốn sửa lỗi làm mới lại, cố gắng làm người tốt,
tạm thời nuôi mấy con heo, sau này sẽ đổi nghề”. Mời các vị thử nghĩ
xem, Phật, Bồ Tát thật là từ bi, bình đẳng, bất cứ người nào chỉ cần
chịu chí thành xưng niệm, liền được lợi ích rất lớn.
24. XE LẬT, ĐƯỢC BÌNH AN VÔ SỰ
Lại nói tiếp có một vị lão sư
tỷ cũng ở Vạn Đẩu Lục tên là Hồng Liên Di, bà ta có một đứa cháu gái tên
là Hoàng Mẫn, năm nay mười tám tuổi. Cô ta từ nhỏ chịu sự hun đúc của bà
ngoại, trong thức thứ tám đã trồng được hạt giống Phật. Sau khi tốt
nghiệp tiểu học ở trường Quốc Dân năm mười ba tuổi, lúc muốn thi vào
trung học, tự cô ta đã cầu Phật Bồ Tát gia hộ có thể thi đậu vào trường
trung học Thảo Đồn, cô ta đã phát nguyện trọn đời niệm A Di Đà Phật và
ăn ngọ, do vì trường trung học Thảo Đồn gần nhà, cho nên cô ta mong muốn
thi đậu vào trường trung học Thảo Đồn. Thật là Phật, Bồ Tát không phụ
người có tâm, cô Hoàng Mẫn này cuối cùng đã đạt được hy vọng của cô ta.
Sau ba năm cô tốt nghiệp, năm mười sáu tuổi cô đến làm việc ở một y viện
tổng hợp tại Đài Trung, làm y tá. Cô ta làm việc rất cẩn thận, cố gắng
học tập, đối với người bệnh rất thân thiết, mặc dù bận rộn với công việc
suốt cả ngày, hai thời khóa sớm tối cũng niệm Phật không gián đoạn, do
vì cô mang theo tượng Phật nhỏ có lộng khung kiếng theo mình, hai thời
khóa sớm tối thỉnh ra lễ bái, niệm Phật xong rồi cất vào lại.
Vào mùa xuân năm nay, bác sĩ
trưởng phái cô đưa người bệnh đến Thảo Đồn, ngồi một chiếc xe taxi trở
về, đến nửa đường vùng phụ cận của Thảo Hồ, chiếc xe này bỗng nhiên bị
hư máy, lộn lật nhào, lật vào trong đám lau bên đường, bốn bánh xe chổng
lên trời. Lúc đó có một vị sư tỷ tên Ngân Tiếu đứng ngay cổng nhà nhìn
rất rõ ràng, buột miệng kêu lên: “A Di Đà Phật! Tội nghiệp người trong
xe tiêu hết rồi!”. Trong khoảnh khắc đó, lại thấy cửa xe mở ra, một cô
gái trẻ, tay dắùt một ông cụ chun ra, tài xế cũng chun ra, ba người
chẳng những bình an vô sự, mà ngay cả da cũng không có trầy sướt chút
nào, nhưng kiếng của xe thì vỡ nát hết. Sư tỷ Ngân Tiếu nói cô nghĩ
không ra ba người này sao mà may mắn như thế, không có bị thương một
chút nào hết, họ đổi xe khác đi về Đài Trung. Ngày hôm sau được nghỉ cô
Hoàng liền về nhà nói với bà ngoại rằng: “Bà ngoại! Đức Phật A Di Đà
thật là linh cảm, đã phò hộ cho con”. Liền đem chuyện kinh sợ xe lật vào
đám lau hôm qua nói cho bà ngoại nghe, cô ta còn nói “Con mỗi lần lên
xe, trong tâm đều nhứt tâm niệm A Di Đà Phật, cho nên hôm qua ngồi trong
xe cũng đang niệm Phật, sau khi xe lật gọng, con đỡ ông bác già ngồi kế
bên dẫn ra, cùng về Đài Trung, đến Đài Trung xuống xe con liền mua trái
cây về cúng dường lễ bái Phật A Di Đà, cảm tạ ân đức cứu mạng con để bày
tỏ chút lòng thành kính”.
Chuyện trên đây là vào mùng 1
tháng 5 tôi đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong giảng kinh, lão sư tỷ Hồng
Liên Di nói với tôi, lúc đó sư tỷ Ngân Tiếu cũng có ở đó.
25. XE BA BÁNH RỚT XUỐNG KHE,
MỘT PHEN THẤT KINH HỒN VÍA
Một niệm chân thành, nhờ Phật
gia bị, anh phu xa Trần Phong Nam nhà ở đường Trung Sơn ở Vụ Phong, đêm
khuya ngày rằm tháng 6 năm Dân quốc thứ 49, chở vợ con đầy xe trên đường
từ Đài Trung về Vụ Phong xảy ra tai nạn xe. Muốn rõ như thế nào, xin mời
xem chuyện dưới đây:
Mỗi năm vào ngày rằm tháng 6
là ngày lễ đản sinh của đức Thành hoàng ở Đài Trung, ngày này, ngoài
những đệ tử nhà Phật chánh tín ra, phần lớn người ta đều đại khai sát
giới, mời mọc bạn bè thân hữu đến ăn tiệc, nhất là những bà con bạn bè ở
ngoại ô hoặc ngoài thành phố, đều không hẹn mà đến, lại còn mỗi người
đều mang cái tâm lý và tục lệ “không say không về”; đương nhiên anh Trần
Phong Nam cũng thế, không ngoại lệ, lúc mặt trời sắp lặn, liền lấy xe ba
bánh của mình chở người vợ yêu của mình tên là Ái (lúc đó đang mang thai
được tám tháng) và hai đứa con trai, lòng tràn đầy vui sướng đi đến Đài
Trung dự tiệc. Lúc sắp nửa đêm mới cáo biệt chủ nhân ra về. Trong đêm
trăng thanh gió mát đạp xe từ từ về nhà.
Lúc
gần đến Thảo Hồ, cô Ái (vợ anh ta) liền nghĩ: nghe nói vùng phụ cận Thảo
Hồ ban đêm thường xảy ra tai nạn xe và những việc không tốt, mình nên
nhanh chóng niệm Phật, cầu Phật, Bồ Tát gia hộ mới đúng. Cô ta liền ở
trong tâm một mạch niệm thầm mãi “Nam mô A Di Đà Phật”.
Xe đến trên cầu, bỗng nhiên
không biết tại sao cả người lẫn xe rơi xuống đáy khe sâu đến mấy trượng!
Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc này cô Ái lớn tiếng hét to lên: “A Di Đà
Phật! Độ chúng con vãng sanh Tây phương”. Thật là không thể nghĩ bàn,
chiếc xe ba bánh không nghiêng không ngã, rơi xuống đáy khe một cách
ngay ngắn, chồng vợ con cái bốn người cũng vẫn ngồi trên xe y nguyên như
trước, chẳng những không có bị trọng thương mà ngay cả da cũng không có
trầy sướt gì cả, chỉ là bị một phen thất kinh hồn vía mà thôi, sau đó
còn phải nhờ mấy người bạn đi đường kéo giúp chiếc xe lên, về đến nhà đã
hơn 2 giờ rồi.
Qua ngày sau, anh Trần lo đứa
con trong bụng của cô Ái vợ anh không biết có sao không, nên kêu cô ta
đi đến khoa phụ sản khám, nhưng cô Ái nói “Em thấy không có chút gì khác
lạ hết, không cần khám đâu”. Những người hàng xóm sau khi hay tin lăng
xăng lại hỏi thăm anh Trần tình hình tai nạn xe xảy ra lúc đó, anh ta
nói: “Tôi đến trên cầu thì rất cẩn thận điều khiển xe, nhưng phía sau
làm như có người bẻ quẹo xe tôi đẩy xuống đáy khe. Lúc đó tôi cũng cố
gắng dùng sức muốn quẹo xe trở lại nhưng lại không có cách, may nhờ vợ
tôi cố gắng niệm Phật, nếu không thì làm gì có được dễ dàng như thế, có
thể bình an vô sự được?”.
Lúc cô Ái bồng đứa con trai
mập mạp trắng trẻo của cô ta đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong lễ Phật thì
cô Trần Giang Đào dẫn cả nhà của anh lại giới thiệu với tôi (Khán Trị),
nói ra sự thật cảm ứng cảm động lòng người này.
Lợi ích của niệm Phật, chẳng
những hiện đời có thể được tiêu tai khỏi nạn, chỉ cần tín tâm kiên cố,
niệm Phật không có trễ nãi, về sau sẽ được vượt ra tam giới, vãng sanh
Tây phương Cực Lạc thế giới, lợi ích càng lớn, không gì so sánh đặng.
Tôi lúc đó chúc phúc cho cả nhà anh Trần đạo nghiệp tinh tấn, hạnh phúc
mãi mãi và niệm Nam Mô A Di Đà Phật nhiều hơn nữa.
26. NHÀNH DƯƠNG RẢI VÀO THÂN,
CÁI ĐAU Ở NGỰC LIỀN TIÊU
“Thiên
xứ sở cầu thiên xứ ứng” (ngàn nơi cầu thì ứng hiện ngàn nơi). Đây là
việc xảy ra trong tháng 5 năm Dân quốc thứ 49. Cô Trần A Quyên ở số 4
hẻm Tân Lịch thôn Tứ Đức ở Vụ Phong, năm ba mươi tám tuổi vào tháng 5,
bộ ngực bên trái phát đau và xương sườn khắp người đau nhừ hết, đau đến
nói không nổi. Nhứt là điều khiến cho cô lo rầu hơn hết là: Nhà kế bên
có cô gái năm kia cũng mắc phải chứng bệnh quái ác “nhũ cao” (sưng vú)
này mà đến nỗi phải chết, nghe nói chứng bệnh này còn ghê gớm hơn cả
chứng ung thư vú nữa. Nhìn thấy một bầy con cái trước mắt, nếu như không
khỏi, về tương lai thật là không thể tưởng tượng được! Mặc dù đã trải
qua rất nhiều tay Đông Tây y nổi tiếng trị liệu, nhưng không hiệu quả,
trái lại càng ngày càng nặng. Về sau bộ ngực bên trái đã sưng trướng lên
hơn cả thước (thước Tàu), ngay cả cánh tay trái cũng không còn nhúc
nhích được, áo chỉ có thể mặc bên tay phải thôi!
Một
hôm lúc A Quyên lại đang muốn đi tìm thầy thuốc, đi ngang qua đường
Trung Chánh, bỗng nhiên gặp gỡ bạn cũ Trần Giang Đào, nước mắt đoanh
tròng kể ra nỗi thống khổ của chứng bệnh quái ác mà mình phải chịu này.
Trần Giang Đào vừa nghe cũng thương và tội nghiệp cho cảnh ngộ của cô
ta, liền nói: “Chị A Quyên không nên khóc, khóc hại người, sức khoẻ càng
không tốt. Phật, Bồ Tát là bậc từ bi nhất, chi bằng theo tôi đến cơ sở
hoằng pháp lạy Phật, cầu Quán Thế Âm Bồ Tát phò hộ cho, chỉ cần thành
tâm sám hối, thành khẩn xưng niệm “Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”
nhất định bình an hồi phục mạnh khỏe”. A Quyên đang cần người đến giúp
đỡ, vừa nghĩ đến Đông Tây y đều bó tay hết, nên cũng liền miệng bằng
lòng đi đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong.
Các vị liên hữu sau khi nghe
A Quyên nói rõ mục đích đến, ai cũng đều nói: “Cô phải cố gắng niệm
Phật, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát”. Đồng thời lại cầu nước đại bi chú cho cô
ta uống, và tặng cho cô ta tượng Tây phương Tam Thánh, dạy cô ta phương
pháp lễ bái, niệm Phật sớm tối.
A Quyên từ sau lần lễ bái
này, về mặt tinh thần có được chỗ dựa rất lớn, không còn giống như hồi
trước, suốt ngày âu sầu khổ não, hiện giờ lúc nào cũng hết sức niệm
Phật, lại niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, tự suy nghĩ nếu như bệnh này có thể
hết thì tốt, còn như nếu không hết, thì cũng nhất tâm nhất ý cầu sanh
Tây phương Cực Lạc thế giới. Cứ thế trải qua mười mấy ngày, có một đêm
nọ trong mộng thấy Quán Thế Âm Bồ Tát áo trắng, tay phải cầm nhành
dương, tay trái cầm tịnh bình, lấy nước nhành dương rải khắp người cô
ta, vừa tỉnh dậy cảm thấy thân thể nhẹ nhàng thoải mái, khắp người mát
mẻ. Về sau trong một tuần, mỗi ngày có mấy lần thân thể bỗng nhiên mát
mẻ như mới tắm ra, chứng bệnh đau vú càng ngày càng bớt, không đầy một
tháng thì khỏi hẳn.
Cảm ứng của Phật, Bồ Tát thật
là không thể nghĩ bàn, việc này còn chưa được tính là hiếm lạ, những
chuyện hiếm lạ còn ở phía sau.
Sau khi A Quyên hết bệnh,
khoảng hai tháng cũng là lúc nạn lụt bát nhất (ngày 1 tháng 8) đến, ngôi
nhà nhỏ trong làng nơi ở của A Quyên bị nước ngập mấy thước (thước Tàu),
A Quyên vẫn cứ toàn tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát cầu nguyện gia bị, bỗng
nhiên có người nói với cô ta: “Ruộng dưa của chúng ta bị nước ngập ba,
bốn thước, tất cả dưa đã chín sắp thâu hoạch, nhứt định bị nước lớn cuốn
mất hết!”. A Quyên nghe nói bất giác khóc to lên, do vì mồ hôi nước mắt
suốt nửa năm đổ vào ruộng dưa, nếu như bị nước cuốn đi thì tình hình quá
nghiêm trọng rồi! A Quyên mặc dầu lo rầu nhưng cũng không có cách gì,
chỉ còn biết thắp hương bạch lên cầu nguyện đức Quán Thế Âm Bồ Tát cứu
khổ cứu nạn cho nhà cửa không bị sập, dưa không bị cuốn trôi.
Trải qua một ngày một đêm,
nước dần rút hết, A Quyên lo cho ruộng dưa của mình, nên mặt mày âu sầu
vừa chạy vừa niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, đến ruộng dưa xem thì thấy dưa đầy
đất, chẳng những không bị trôi mất, mà còn không biết từ đâu trôi đến
chồng chất rất nhiều dưa, lại còn có rất nhiều cây tạp trôi lại nữa! vây
quanh ruộng dưa lại, qua hai ngày sau hai mẹ con của A Quyên ra gánh
những cây tạp về để làm củi, gánh suốt ngày còn chưa gánh hết.
Câu
chuyện thật trên đây là vào ngày giảng kinh ở cơ sở hoằng pháp ngày 19
tháng 9 năm ngoái, cũng là ngày Quán Thế Âm Bồ Tát thành đạo, mấy trăm
liên hữu tụ tập lại một nhà, A Quyên cảm tạ sâu sắc lòng đại từ đại bi
của Phật, Bồ Tát, tức thời đứng dậy hướng về đại chúng nói ra câu chuyện
cảm ứng của chính cô ta. Lúc đó còn có bảy, tám vị liên hữu ở Đài Trung
nữa. Cô ta khuyên mọi người nên niệm nhiều Thánh hiệu A Di Đà Phật và
Quán Thế Âm Bồ Tát.
27. ĐỨC
DI ĐÀ TIẾP DẪN, CẢ NHÀ ÁNH HÀO QUANG KIM SẮC
Đức Phật A Di Đà, quang minh
vô lượng, chiếu mười phương cõi, không gì chướng ngại được. Đây là một
sự thật đích xác một trăm phần trăm. Bây giờ đơn cử ra đây một chuyện
lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang tiếp dẫn để chứng minh khiến cho
chúng sanh khổ não trong cõi ngũ trược ác thế, nghiệp chướng sâu nặng
này tin sâu không còn nghi ngờ nữa để niệm Phật cầu sanh Tây phương Cực
Lạc Thế giới.
Cư sĩ Lý A Minh vào năm Dân
quốc thứ 52, bốn mươi tám tuổi, ở thôn Bắc Cấu, làng Vụ Phong, nhà có mẹ
già, vợ, năm con trai, bốn con gái. Pháp danh anh ta là Khoan An, là
đoàn trưởng đoàn niệm Phật của cơ sở hoằng pháp Vụ Phong Liên xã Đài
Trung. Những khi Bính công ân sư giảng kinh, ngày thứ tư anh đều đi dầu
cho có mưa gió thế nào đi nữa, anh vẫn chạy chiếc xe đạp đến nghe kinh.
Do đó có thể thấy tinh thần cầu pháp nhiệt tâm này của anh ta, thật là
khiến cho người khâm phục, mọi người đều gọi anh ta là “huynh A Minh”
Nhưng mà mạng người vô
thường, vạn pháp vô thường, huynh A Minh bỗng nhiên mắc chứng bệnh bất
trị, tự biết bệnh nặng hết phương cứu chữa nên một tháng trước, anh đã
kêu vợ lại dặn dò hậu sự: phải hiếu thuận với mẹ, dạy dỗ con cái; những
việc lớn nhỏ v.v… đã dặn dò xong, tự mình lên trên núi ở Bắc Cấu, ở nhờ
nhà người chị để dưỡng bệnh.
Người
chị của huynh A Minh và hai người cháu gái: cô Chơn và cô Phụng đều là
tín đồ thuần thành của cơ sở hoằng pháp, cho nên hầu hạ cho cậu các việc
ăn uống thuốc thang, săn sóc bệnh… thật là châu đáo, từng ly, từng tí
cũng như chính bản thân mình không khác. Mỗi ngày ngoài thời khóa tụng
sớm tối ra, đều là chí tâm niệm Phật hồi hướng cho cậu, được tiêu trừ
những tội nghiệp trong các đời trước. Nhưng mà lý do của huynh A Minh ở
dưỡng bệnh ở nhà của chị là vì để có thể buông bỏ vạn duyên, nhứt tâm
niệm Phật cầu sanh Tây phương, vì ở nhà thì e rằng mẹ già, vợ, con lúc
anh sắp lâm chung trong khoảnh khắc gào khóc kêu la làm nhiễu loạn, mất
đi chánh niệm, thì không thể vãng sanh Tây phương, cho nên mới lên trên
núi, đi nhờ hai đứa cháu gái hiền. Nhưng lúc lâm chung cũng như chiến
trường, người nuôi bệnh vừa hơi không cẩn thận thì bệnh nhân liền có khả
năng bị ma dắt đi. Huynh A Minh bốn ngày trước khi vãng sanh, bệnh trạng
biến đổi rất xấu, thần trí hôn trầm, tay chân múa lung tung. Cô Chơn
thấy cảnh giới không bình thường, liền ở bên giường to tiếng niệm Thánh
hiệu A Di Đà Phật và nói với cậu mình rằng: “Nếu Đức Phật A Di Đà đến
tiếp dẫn, mới có thể đi theo ngài, ngoài Phật A Di Đà ra, bất cứ người
nào đều không thể đi theo họ”, tiếp theo lại niệm Phật hai giờ nữa,
huynh A Minh liền tỉnh táo lại, không còn hôn mê nữa, qua ngày sau, bà
mẹ già tám mươi tuổi của anh ta liền thuê một chiếc kiệu lên núi thăm
anh.
Mới đầu dùng lời ngon tiếng
ngọt khuyên, muốn A Minh ngồi kiệu về nhà, huynh A Minh không chịu về
nhà, mẹ anh liền dùng đến cách khóc la, anh cũng không chịu về! Cuối
cùng bà dùng những tiếng ác ngữ để cưỡng bức, huynh A Minh liền nói: “Má
à! Má tự ngồi kiệu về nhà đi, con ba ngày nữa bệnh sẽ khỏi, con không
cần ngồi kiệu đâu, tự con biết về nhà mà”. Mẹ anh ta không còn cách nào,
đành một mình quay về nhà. Xem ra điểm này cũng hình như là ma quỷ xui
khiến mẹ anh ta đến ép anh ta về nhà.
Chánh niệm của huynh A Minh
thật phân minh, có thể nói là đã chiến thắng được ma, lại có thể biết
trước thời khắc đến, qua tiếp ba ngày nữa chính là mồng 7 tháng 6 âm
lịch, tối hôm đó Sở trưởng (cơ sở hoằng pháp gọi là Bố giáo sở. Vị Sở
trưởng này là trưởng ban của cơ sở hoằng pháp), cư sĩ Hoàng Hỏa
Triều và cư sĩ Triệu Đàm Thuyên từ Đài Trung đến trên núi thăm bệnh, an
ủi các thứ, lúc đó rất là vui, nói chuyện cả một tiếng đồng hồ, lúc chia
tay còn nói là muốn đưa sở trưởng xuống núi. Đến giữa trưa anh nói với
người chị rằng: “Tại sao trời đất tối đen, giống như sắp mưa vậy?”. Cô
Chơn cùng mẹ và em gái ở bên giường bắt đầu trợ niệm, chỉ niệm Thánh
hiệu A Di Đà Phật, niệm khoảng hơn hai giờ, cô Chơn liền hỏi: “Cậu à!
Bây giờ có còn trời đất tối đen nữa không?”. Huynh A Minh liền đáp: “Bây
giờ không còn trời đất tối đen nữa rồi, chỉ thấy ánh sáng rực rỡ”.
Cô Chơn liền hiểu rõ Phật lực
không thể nghĩ bàn, tiếp tục trợ niệm không gián đoạn, các vị liên hữu
trong cơ sở hoằng pháp đều nhanh chóng đến tham gia trợ niệm, chờ đến 3
giờ rưỡi chiều bỗng nhiên một đạo hào quang ánh vàng rực rỡ chiếu xuống,
trong khoảnh khắc đầy nhà ánh sáng vàng sáng rỡ. Lúc đó cô Chơn gọi lớn:
“Cậu à! Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn cậu đấy, cậu nhanh chóng đi theo
ngài đi!”. Huynh A Minh thở gấp một hơi, liền nương hào quang của Phật
tiếp dẫn, an tường mà đi. Từ đây biển khổ Ta Bà bớt đi một chúng sanh
phiền não, ao báu ở Cực Lạc tăng thêm một vị hành giả thanh tịnh.
Câu chuyện thật trên đây là
thứ ba, ngày giảng kinh định kỳ ở cơ sở hoàng pháp, chị em cô Chơn đến
nghe kinh nói với tôi. Thật là “không cần đến ba A tăng kỳ kiếp tu phước
huệ, chỉ dùng sáu chữ mà vượt ra khỏi tam giới”. Xin khuyên các vị độc
giả hãy chí tâm niệm “Nam mô A Di Đà Phật” nhiều vào.
28. CON
KHỈ SẮP BỊ GIẾT ĐƯỢC CHUỘC MẠNG BIẾT LẠY PHẬT
Trên đây đã nói kỳ tích của
cư sĩ A Minh, lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang tiếp dẫn vãng sanh, có
thể chứng minh tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chúng sanh nếu chịu
vâng làm theo lời dạy, tinh tấn không có giải đãi, thì có thể thành tựu
được đạo nghiệp, nhưng cái điều quan trọng nhất còn cần phải có sự trợ
duyên của thiện tri thức. Huynh A Minh nếu chẳng có sự dẫn dắt của cô
Chơn và cô Phụng, khiến không mất chánh niệm, chưa chắc có thể vãng
sanh. Do đây có thể thấy thiện tri thức là điều quan trọng vô cùng.
Nói đến hai chị em cô Chơn và
cô Phụng, chẳng những từ bi thân thiết đối với loài người, ngay đối với
loài động vật không chân, bốn chân… cho đến các loại quỷ, cô hồn, đều có
thể phương tiện khéo léo giúp cho, tế độ. Dưới đây sẽ cử ra vài chuyện
để làm chứng minh.
Vào một ngày hôm trước tiết
Đông chí sáu năm trước, cô Chơn đang ở bên chợ, nhìn thấy một đám người
đông vây quanh, trong đó có người lớn tiếng rao: “Thịt khỉ là món ăn bổ
nhất cho tối nay, mời tất cả nhanh chóng đến mua, thịt mới làm, rất tươi
ngon đây!”, những người bên ngoài nhìn xem nhiều người nói “tội nghiệp”.
Lòng từ bi của cô Chơn tự nhiên phát khởi, nhìn vào chỉ thấy ở trong
lồng dây kẽm có bốn con khỉ, ba con đã bị chế nước sôi lên trên mình, tự
nó vừa vuột lông vừa kêu khóc, kêu khóc đến rất là thê thảm! Lông nó bị
tự nó vuột ra hết rồi vẫn còn chưa chết, người bán thịt khỉ kia bèn dùng
con dao nhọn bén đâm vào cổ con khỉ, máu tươi phún ra, trong chớp mắt
anh ta chặt ra từng miếng, từng miếng, mọi người tranh nhau mua.
Nhìn lại lần nữa con khỉ chưa
chịu tội kia, chính mắt nhìn thấy đồng bọn chết thê thảm như thế, nó hãi
sợ đến nỗi hai tay ôm đầu, “chít chít” kêu thảm, bộ dạng như đang cầu
người giải cứu. Cô Chơn mắt nhìn thấy cảnh này, cảm thấy tàn nhẫn thái
quá, liền hỏi người chủ con khỉ: “Cái con còn sống kia cần bán bao nhiêu
tiền? Tôi muốn mua để phóng sinh”, người kia nói: “Một trăm đồng, do vì
cô muốn mua để phóng sinh, tính rẻ một chút, nửa giá tiền, 50 đồng bán
cho cô được rồi”. Cô Chơn liền móc ra 50 đồng đưa cho anh ta, dùng một
sợi dây bện bằng cỏ cột nó lại, bỏ lên phía sau xe đạp của mình để chở
nó về nhà. Người bán khỉ kia liền nói “Con khỉ này hung dữ lắm, vừa mạnh
vừa dữ, cô phải dùng một sợi dây xích, chớ dùng dây cỏ bện này nó sẽ
chạy mất”. Không ngờ con khỉ này không còn sợ hãi gì hết, nó ngồi trên
baga phía sau xe rất là ngoan. Cô Chơn nói với khỉ rằng: “Khỉ à, mày
kiếp trước không có tu, mới đọa lạc vào loài súc sanh, súc sanh thì khó
tránh khỏi cái chết thảm máu rơi thịt nát! Mục đích tao cứu mày là muốn
mày lìa khổ được vui, mày phải ngoan ngoãn theo tao lên núi, để quy y
Tam Bảo”.
Cô
Phụng là một sư phụ xuất gia giới hạnh trang nghiêm, nghe nói chị giải
cứu một con khỉ, rất là hoan hỉ. Lập tức đốt đèn thắp hương lên, quy y
Tam Bảo cho nó, đặt tên là Ngộ Không, mở dây ra cho nó và dạy nó cách
lạy năm vóc sát đất, để cho nó được tự do tự tại, chạy đi cũng được,
không chạy thì nuôi cũng được. Ai ngờ khỉ dầu súc sanh, lại biết ân báo
ân, không có chạy vào rừng sâu sống nữa, mỗi ngày lúc thời khóa sớm tối
đều đi theo chủ nhân, lạy Phật năm vóc sát đất, khi người ta niệm Phật
trong miệng nó cũng lẩm bẩm như có nói và niệm theo “Phật, Phật, Phật…”
không ngừng. Khóa tụng xong, nó đều nhất định đến vườn trái cây, leo lên
một cây cao nhất, nhìn khắp bốn phía coi có ai đến trộm trái cây không?
Nếu như bị nó nhìn thấy, nó liền chạy đến nắm chặt, làm dữ không có
buông, mãi đến khi ăn trộm bỏ trái cây xuống nó mới buông ra. Ngộ Không
hằng ngày đều đi canh gác như vậy mấy lần.
Có một hôm ba mẹ con (cô
Chơn, mẹ và em gái) đi làm cỏ trong vườn, bỗng nhiên nghe tiếng khánh
tiếng mõ vang lên không ngớt, ba người cảm thấy rất kỳ lạ, cho là có
khách từ xa lại, cho nên đánh mõ đánh khánh lên để gọi người về nhà, ba
người liền nhanh chóng về nhà để xem, không ngờ là Ngộ Không đang ngồi
ngay ngắn trên bàn Phật, một tay cầm dùi khánh, một tay cầm dùi mỏ, đánh
qua đánh lại, đang đánh rất hăng, chủ nhân vừa giận vừa mắc cười kêu lên
một tiếng “Ngộ Không xuống đây quỳ hương”. Ngộ Không lập tức nhảy xuống
quỳ trên đất. Cô Chơn đốt một cây nhang, bảo Ngộ Không cầm lấy nói với
nó: “Ngộâ Không, bây giờ phạt mày quỳ hương, do vì mày ngồi trên bàn
Phật, vậy là vô lễ với Phật, nhất định phải sám hối với Phật, từ đây về
sau không được ngồi trên bàn Phật, đánh những pháp khí lung tung. Chờ
cây nhang này cháy hết mới được đứng dậy”. Ngộ Không nghe lời, quỳ mãi
đến cây nhang cháy hết mới đứng dậy. Nhưng chưa được mấy ngày, lúc các
chủ nhơn đến làm cỏ trong vườn lại nghe tiếng đánh chuông, mọi người vừa
nghe liền biết là Ngộ Không lại nghịch phá, về nhà xem thì thấy Ngộ
Không đứng trên ghế, một tay đánh chuông, một tay đánh trống. Lần này
chủ nhơn kêu cũng không xuống, trong miệng của Ngộ Không kêu khẹt khẹt
bày tỏ cái dáng bộ rất bất mãn, ý muốn nói: tôi lần trước ngồi trên bàn
Phật đánh mõ đánh khánh, mấy người nói là không được, không có cung kính
đối với Phật, bây giờ tôi ngồi trên ghế đánh chuông trống, lẽ nào cũng
không được? Cô Chơn hiểu tâm lý của nó, liền lại nói với nó rằng: “Ngộ
Không, mày hôm nay vẫn là phạm tội bất kính, đây là những pháp khí ở
trước Phật là những thứ không thể đánh lung tung bậy bạ được, về sau
không cho mày đánh một thứ pháp khí nào nữa. Lại đây! Lại đây quỳ hương
tiếp!”. Nhưng lần này quỳ không bao lâu, nó liền bẻ gãy cây nhang rồi
đứng dậy bỏ đi.
Chúng sanh từ vô lượng kiếp
lại đây, điều khó tiêu trừ nhất là tập khí tham muốn, Ngộ Không cũng
thế, mắt nhìn thấy những trái bắp trên ruộng của nhà hàng xóm (tục gọi
là lúa nước phiên), từng cây từng cây lúc chín quằn xuống ba thước
(thước Tàu), đợi buổi trưa lúc người ta nghỉ, qua hái bắp của người ta
lặt ra từng hột từng hột, có trái chín rồi, có trái chưa chín, rải đầy
đất khiến cho người ta cười dở khóc dở, nhưng mà bắp Ngộ Không hái đi
cũng chỉ có hai trái. Cô Chơn vì việc này phải xin lỗi nhà hàng xóm và
bồi thường tổn thất cho người ta. Cô Chơn rất là thông cảm cho Ngộ
Không, nhưng cũng phải lên lớp dạy bảo cho nó một trận đàng hoàng.
Lại có một lần Ngộ Không
nghịch phá đến mức quá lớn làm cho người ta ai nấy thấp thỏm không yên,
sợ đến mức toát mồ hôi lạnh cả người! Nguyên là nhà của cô Chơn và của
hàng xóm đều là nhà tranh, có một hôm Ngộ Không lấy được một cái hộp
quẹt cây, nó phóc lên trên giữa nóc nhà, mở hộp quẹt ra, quẹt lên một
cây, nhìn thấy ngọn lửa, dùng miệng thổi lửa nó rất là khoái, quẹt từng
cây, từng cây như thế rồi dùng miệng thổi, nó chơi rất là thích thú,
nhưng lại khiến cho người ta nhìn thấy ai nấy đều thót tim hết, cô Chơn
và cô Phụng kêu thế nào nó cũng không xuống, mãi đến khi nó quẹt hết hộp
quẹt mới thôi. Nhưng hành vi nghịch lửa lần này của Ngộ Không do vì cái
tính nguy hiểm quá lớn, khiến cho bà con hàng xóm rất là bất mãn, không
trừ nó đi không được, việc này khiến cho chủ nhơn rất là mệt óc, không
biết như thế nào mới tốt (?)
Chị em cô Chơn nghĩ tới nghĩ
lui: muốn thả nó vào rừng sâu, nhưng mà nghĩ nhớ nó đã trồng sâu căn
lành, biết lạy Phật với năm vóc sát đất, còn biết kêu sư phụ, lại ăn
chay, có một lần người ta cầm đồ ăn mặn đưa cho nó ăn, nó cầm lấy dùng
mũi ngửi ngửi, liền quăng đi không ăn. Do những việc này nên không nỡ
đuổi nó vào rừng sâu, bèn nhớ đến sư phụ ở Vụ Phong, chi bằng dẫn nó đi
gởi cho sư phụ, hay là tặng cho sư phụ luôn cũng được. Thế là liền mua
một sợi dây xích dài, đưa Ngộ Không đi đến đó, cột nó dưới cây trước
cửa. Nào ngờ Ngộ Không không chịu như thế, trọn dùng tuyệt thực để bày
tỏ phản kháng, ngày ba bữa không ăn bất cứ thứ gì, suốt ngày chỉ kêu
khóc không nghỉ. Cô Chơn đã rời Ngộ Không bảy, tám ngày, cho là Ngô
Không đã thay đổi được hoàn cảnh mới, chắc đã quen rồi, liền nhín chút
thời gian rảnh đi thăm nó, Ngộ Không vừa nhìn thấy chủ nhơn, liền nắm
chặt không buông, chết cũng không chịu rời, cô Chơn mắt nhìn thấy Ngộ
Không ốm đói quá như thế, cuối cùng không nỡ lòng để Ngộ Không tiếp tục
ở lại đó, lúc sắp dắt nó về núi, cô Chơn bèn nói với nó rằng: “Mày ở đây
làm huyên náo các thầy, bây giờ sắp về nhà, mày phải đến đảnh lễ các
thầy cám ơn”. Nói cũng kỳ lạ! Ngộ Không thật là có linh tánh, và biết
phân biệt ai là trụ trì, ai là đương gia, nó tự chạy đến trước thầy trụ
trì, trước hành lễ năm vóc sát đất, đảnh lễ ba lạy, rồi chạy đến trước
thầy đương gia cũng hành lễ năm vóc sát đất, đảnh lễ một lạy, còn các
thầy khác thì nó chỉ bắt tay, không có lạy năm vóc sát đất nữa. Ngộ
Không rốt cuộc lại do cô Chơn dùng xe đạp chở về nhà, đi được nửa đường,
tự nó nhảy phóc xuống, chạy về nhà. Cô Chơn về đến nhà thì thấy Ngộ
Không đã bưng nồi cơm đặt xuống đất rồi, và nó đang ngồi đó bốc cơm dư
trong nồi của buổi trưa ăn sắp hết rồi. Ngộ Không trải qua bài học lần
này, dù cho lúc chủ nhơn đi ra ngoài không có ở nhà, cũng không còn
nghịch phá tổn hại đến người khác, càng không dám nghịch lửa nữa!…
29. CON CHÓ ĐẦY ĐỦ CĂN LÀNH,
THEO CHỦ NGHE PHÁP
Lại nói về lúc cư sĩ A Minh
còn sống, đã có nuôi một con chó dữ, cư sĩ cũng đã quy y Tam Bảo cho nó.
Đây là một con vật rất trung thành với chủ, đã có trồng căn lành. Lúc
huynh A Minh ở trên núi dưỡng bệnh (nhà cô Chơn, cô Phụng truyện 27),
con chó này mỗi ngày phải đi lại bốn lần từ trên núi xuống Bắc Cấu một
đoạn đường dài. Mỗi ngày vào buổi sáng cô Chơn dùng khăn tay bao lại cái
đơn thuốc của A Minh đưa cho con chó ngậm lấy đi đến tiệm thuốc bắc ở
Bắc Cấu hốt thuốc. Trước đó đương nhiên cô Chơn phải có thỏa ước với chủ
tiệm thuốc phải ghi nợ, và việc con chó sẽ đến lấy thuốc, cho nên chủ
tiệm coi đơn hốt thuốc xong vẫn cứ dùng khăn tay đó bao gói thuốc lại,
đưa cho con chó ngậm quay trở về. Trên đường nhất định phải đi qua một
khe nước lớn, có lúc nước trong suối vừa lớn vừa chảy mạnh, con chó do
vì miệng ngậm gói thuốc, sợ thuốc bị ướt, nó ngẩng đầu cao lên trời lội
qua, về nhà để gói thuốc xuống, chủ nhơn xem, quả nhiên không có ướt một
chút nào hết.
Trưa
mỗi ngày huynh A Minh đều phải tắm và thay đồ. Đồ dơ thay ra cô Chơn vẫn
dùng cái khăn gói lại, dặn dò con chó ngậm chạy về nhà ở Bắc Cấu đưa cho
vợ của huynh A Minh, vợ huynh A Minh sau khi giặt sạch đồ xong, gói lại
như cũ đưa cho con chó ngậm quay về trên núi, nhưng buổi trưa lúc quay
về con chó nhất định phải tắm một lần trong dòng suối trong mát, con chó
thông minh tha bao đồ lựa một hòn đá sạch và không ướt để xuống, rồi tự
mình nhảy xuống nước tắm, tắm xong lại ngậm bao đồ về trên núi. Trong
mấy tháng huynh A Minh dưỡng bệnh, ngày nào cũng như thế, đi, về bốn
lần, so với mướn người giúp việc còn tiện lợi và biết nghe lời hơn.
Con chó dữ này cũng có căn
lành rất lớn, ưa thích nghe Phật pháp. Lúc đó, cô Chơn mỗi tối chủ nhựt
đều đến cơ sở hoằng pháp nghe kinh, con chó dữ này thường đi theo cô, nó
ngồi một góc trong đại điện, chỗ gần với vị giảng sư, bộ dạng của nó còn
thành khẩn hơn con người, ánh mắt long lanh, yên lặng nghe pháp, không
có loạn động một chút nào hết; mỗi lần nghe kinh xong đều không cho cô
Chơn nói chuyện với người nào hết, cứ nhảy lên muốn đi ra. Ra khỏi cửa
lớn liền phóng chạy nhanh đến nơi cách điện Phật rất xa, nó mới đi tiểu,
đi tiểu xong thì không có chạy nữa, đi chậm chậm theo chủ. Có thể thấy
con chó này cũng biết nơi điện Phật trang nghiêm thanh tịnh, không dám
mặc ý tiểu bậy, làm ô uế đạo tràng, thật là ít có, khó được. Đáng tiếc
đời người vô thường, sau khi huynh A Minh vãng sanh, con chó dữ vừa
thông minh vừa đầy đủ căn lành này cũng đau buồn không thể tả, thật đúng
như tục ngữ nói “như chó nhà đám tang” suốt ngày gục đầu tiu nghỉu, mất
đi vẻ lanh lợi thường ngày. Đợi đám tang chôn cất xong, con chó đáng
thương này đi đâu mất không biết. Hai chuyện trên đây là sự thật của
động vật bốn chân, nhờ duyên của Phật mà hun đúc nên.
30. KHÓA TỤNG SỚM TỐI, RẮN
ĐẾN NGHE
Có một lần cô Chơn đi ra
ngoài có công việc, trên đường trở về nhà nhìn thấy một người bắt rắn,
vai mang hai túi vải, ở trong đựng hai con rắn. Cô Chơn vừa thấy liền
hỏi anh ta bắt ở đâu, anh bắt rắn đó mới trả lời với cô Chơn, thì ra là
bắt được gần bên nhà cô Chơn. Cô Chơn nói “Hai con rắn này là của tôi
nuôi, anh phải trả cho tôi”. Người bắt rắn đó làm sao chịu trả, anh ta
nói: “Lạ chưa! Tôi bắt rắn đã mấy chục năm, từ nào tới giờ chưa nghe
người nào trên núi nuôi rắn, cô nuôi rắn làm cái gì?”. Cô Chơn nói với
anh ta: “Chúng tôi sáng tối lên khóa lễ tụng kinh, hai con rắn này đều
đến nghe, nếu có cơm thì cho nó ăn cơm, như thế đã mấy năm rồi, thôi bây
giờ tôi đưa cho anh 30 đồng, mau thả nó ra đi”, anh chàng bắt rắn vẫn
không chịu, nói: “Không được! không được, 30 đồng dùng được cái gì? Da
hai con rắn đáng bao nhiêu rồi, hai cái gan của nó cũng được mấy chục
đồng, thịt rắn lại là món người ta tranh nhau mua!”. Cô Chơn lúc đó nói
to tiếng rằng “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, thật đáng thương thay!”. Nào
ngờ ngay lúc đó, hai con rắn kia đang ở trong túi vải nghe được tiếng
niệm Phật của cô Chơn, ở trong túi vải quẩy động mãi không thôi, dùng
hết sức công phá muốn chun ra, anh chàng bắt rắn kia cũng không còn cách
nào tiếp tục mang nó đi!… liền nhận 30 đồng của cô Chơn và hỏi muốn thả
ở đâu? Cô Chơn bảo anh ta thả ngay đây được rồi. Anh ta mở túi ra, hai
con rắn đó vui mừng bò về hướng núi. Tất cả loài động vật vốn dĩ không
có loài nào không tham sống sợ chết, hai con rắn kia sau khi trải qua
lần sợ hãi này, ban ngày hết dám bò ra nữa. Sự thật chính là chứng minh:
rắn, người ta rất sợ mà cũng biết thích nghe người ta tụng niệm nhờ đó
mà được cứu, khỏi tai nạn chết thảm bị người ta lột da rút gân, máu rơi
thịt nát!
31. CÔ HỒN CÓ TÁNH LINH THEO
NGƯỜI NGHE KINH
Lại nói một chuyện về cô
Chơn. Cô Chơn tâm địa quang minh chính đại. Tục ngữ nói “Tâm chánh không
sợ tà”.
Vào hạ tuần tháng 8 bảy năm
trước, một buổi tối cô Chơn chạy chiếc xe đạp muốn đến Vụ Phong nghe
kinh. Nửa đường đang chạy thì thấy xa xa có một người to lớn mặc đồ đen,
chặn ngay giữa đường không đi. Cô Chơn cũng không sợ, cứ nhắm nó mà đi
thẳng tới, lúc đến gần lại biến mất không thấy nữa. Cô Chơn mặc dù lúc
đó không sợ, nhưng lông tóc dựng đứng lên hết, trong khoảnh khắc chiếc
xe đạp phát ra tiếng nổ lớn rồi nằm im. Cô Chơn nhảy xuống xe, quan sát
xem cái xe không có hư gì cả, liền mở miệng mắng rằng: “Ngươi là loại
người gì? Ta với ngươi không oán không cừu, ta bây giờ phải đi Vụ Phong
nghe kinh, thời gian 7 giờ 30 sắp đến rồi, bản thân nhà ngươi ngu si
không biết học Phật, lại còn ở đây quấy phá người ta, tội lỗi rất lớn,
muôn năm không được siêu sanh! Hiện nay ở Vụ Phong Bố giáo sở, Khán Trị
sư tỷ đang giảng Kinh Địa Tạng, nhà ngươi ngoan ngoãn đi theo ta nghe
kinh, cũng có thể khai phát được trí huệ, lìa khổ được vui”.
Cô Chơn sau khi nói xong mấy
câu trên, tức thời lên xe. Nói cũng lạ, dường như chiếc xe tự nó chạy
được, cũng không dùng chân đạp, xe chạy như bay đến Vụ Phong, thường thì
cũng phải hơn 20 phút mới có thể đến, bây giờ chưa đến 10 phút mà đã đến
rồi… Cô Chơn liền biết có quỷ hồn cùng đến, xuống xe sắp vào cửa tường
liền nói: “Này cô hồn, đã đến Vụ Phong Bố giáo sở rồi, nhà ngươi từ cửa
sắt này mà đi vào”. Vào đến đại điện lại nói: “Này cô hồn, bây giờ bắt
đầu giảng kinh, nhà ngươi đi theo ta vào bên trong nghe kinh”. Cô Chơn
bảo với tôi, từ đó về sau trong mấy năm nay, người đi đường qua lại chỗ
đó, không còn thấy gì nữa hết (có lẽ được siêu rồi).
Mấy
chuyện ở trên đây đều là chính miệng cô Chơn nói với tôi. Bút giả viết
đến đây thật là cảm khái vô lượng, cô Chơn có thể nói là đấng trượng phu
trong giới nữ, tinh thần quả là vĩ đại, trí dũng gồm đủ.
32. MỘT ĐẠO BẠCH QUANG TIẾP
DẪN NGƯỜI MẤT
Cư sĩ Lý Thanh Nguyên là ban
trưởng ban niệm Phật Trung Chánh ở cơ sở hoằng pháp tại Vụ Phong, ông ta
từng là chồng của sư tỷ Hạc, làm tài xế ở cục công lộ. Sư tỷ Hạc từ sau
năm 48 biết học Phật, tin sâu niệm Phật, đối với đời người nhiều tai
nạn, nhiều nghịch cảnh có thể gặp dữ hóa lành, thường hay khuyên chồng
niệm A Di Đà Phật, nhất là lúc tai nạn nguy cấp càng phải cố sức niệm A
Di Đà Phật. Ông Lý Thanh Nguyên mặc dù nghe thoáng qua không được hiểu
lắm, nhưng có một lần lái xe ban đêm trên đường núi từ Bộ Lý về Đài
Trung, tại một cái cua quẹo, xe bỗng dưng bị hư, nhưng kiểm tra thế nào
cũng không tìm ra được hư cái gì, những khách ngồi trên xe lăng xăng
xuống đi bộ tìm điện thoại kêu taxi lại đi. Chị quản lý xe cũng phải đi
thông báo cho cục công lộ phái xe đến chở về, còn lại một mình ông Lý
Thanh Nguyên, ngồi trên ghế sau tay lái, trên đường núi trong đêm tối
lại không có người ta, một màn đen dầy đặc, lông tóc trên người muốn
dựng đứng, trời không lạnh mà muốn run lên! Nghĩ tới nghĩ lui bỗng nhớ
lại việc A Hạc vợ ông ta dạy ông ta niệm Phật, tức thời to tiếng niệm
lên: “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm được mấy chục tiếng, bỗng nhiên chiếc
xe có thể chạy lại được rồi, bèn lái xe chạy thẳng đến Đài Trung an
nhiên vô sự. Câu chuyện nhờ một câu Thánh hiệu mà được sự cảm ứng không
thể nghĩ bàn này là lúc bút giả đến nhà Lý tiên sinh, chính miệng Lý
tiên sinh nói với tôi. Lúc đó sư tỷ Hạc cũng nói chen vào: “Còn có một
lần nữa từ đầm Nhựt Nguyệt về cũng xảy ra tình trạng giống như thế, nhờ
niệm Phật mà thoát được nguy nàn”.
Nhưng mạng người vô thường!
Lý Thanh Nguyên tiên sinh, lúc bình thường coi rất là phước tướng, nhưng
mắc phải chứng cao huyết áp, bảy năm trước vào đầu tuần tháng tư, do bởi
huyết áp quá cao nằm triền miên trong nhà hơn năm, thuốc thang không
thấy công hiệu, trong thời gian này ông niệm Phật đến mức tâm chẳng rời
Phật, Phật chẳng rời tâm, một hôm mệnh sắp lâm chung, sư tỷ Hạc đến bố
giáo sở mời mấy vị liên hữu trợ niệm cho ông. Các vị liên hữu từ sáng
sớm luân phiên niệm mãi đến 12 giờ đêm, chỉ thấy người bệnh còn thở thoi
thóp có khả năng kéo dài đến sáng mai, bèn ai về nhà nấy nghỉ, ước định
ngày mai lại đến tiếp tục trợ niệm, chỉ có sư tỷ Tú và vợ ông cùng với
con trai con gái, năm, sáu người vẫn ở lại trợ niệm. Đến hơn 2 giờ
khuya, bỗng có một thanh niên quân nhân ở trong tỉnh cùng xin đến trợ
niệm, vị thanh niên này được cái tiếng tốt, lại thành khẩn, cùng với sư
tỷ Tú, mọi người phấn khởi tinh thần, chánh niệm đến mức có thể nói là
“nhứt tâm bất loạn”. Bỗng nhiên mọi người nhìn thấy một vầng sáng tròn
trắng, giống như mặt trời từ ngoài cửa lớn bay vào trong nhà. Do vì nhà
của sư tỷ Hạc tọa ở hướng Đông quay sang hướng Tây, chính là đối với con
đường lớn của đường Trung Chánh ở Vụ Phong cho nên anh thanh niên kia
chạy ra xem, cho rằng xe nào mà đậu ngay cửa? Nhưng vào lúc nửa đêm nửa
hôm, bốn bề vắng lặng, một màn đen dầy đặc, chỉ thấy một đường ánh sáng
từ hư không hướng Tây phóng thẳng vào trong cửa. Anh thanh niên kia vừa
thấy cảnh giới không thể nghĩ bàn như thế, không hiểu ra sao, lại quay
vào trong xem vừa đúng ngay khoảnh khắc đó, người sắp mạng chung diện
mạo tươi vui, thở ra một hơi mạnh bèn cùng với vầng ánh sáng như mặt
trời kia đồng thời biến mất, trong nhà tức thời sáng sủa trở lại như
thường. Bà vợ của ông ta và con trai, con gái, A Tú, mọi người… đều nhìn
thấy kỳ tích Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn này, do đó mà tiếng niệm
Phật cứ y nhiên không dứt, cứ niệm mãi đến trời sáng. Các vị liên hữu
Trương Thẩm, Bảo Vân ở Bố giáo sở qua ngày hôm sau lại đến trợ niệm,
niệm mãi đến hơn 11 giờ trưa, đến sau lúc người mất hết thở 8 tiếng đồng
hồ, tiếng niệm Phật mới dứt. Mọi người xúm lại xem tướng lành của người
mất còn hảo tướng trang nghiêm hơn lúc còn sống nữa, thử thăm dò đỉnh
đầu vẫn còn ấm, thân thể mềm như bông, các vị liên hữu buổi sáng trở lại
trợ niệm nghe nói sự việc người mất lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang
tiếp dẫn, mọi người đều không khỏi một phen đại thất vọng, luôn miệng
nói xấu hổ, chưa có thể chính mắt nhìn thấy quang minh của Phật.
Phàm việc gì đều có nhân
duyên quả báo, cho nên nhà Phật nói nhân quả là xác thật không sai một
mảy nào cả. Chúng ta phải biết sư tỷ A Tú suốt đêm trợ niệm cho ông ta,
vốn là vị liên hữu trung thành của Bố giáo sở, nhưng phát tâm niệm Phật
cho ông ta như thế, cũng không phải không có nhân duyên.
Cư sĩ Lý Thanh Nguyên khi còn
sanh tiền, lúc làm tài xế xe, mỗi sáng sớm lúc đi ngang Thảo Hồ, đều có
một đám nam nữ học sinh trèo lên xe muốn đến Đài Trung, những người đến
trạm xe không kịp thì cư sĩ Lý Thanh Nguyên thường dừng xe lại để cho
đám học sinh đó lên xe. Tâm địa của Lý Thanh Nguyên tốt lành như thế đó
là nhân, đến lúc ông mắc bệnh hết chữa, con cái của sư tỷ A Tú nghe nói
chú Lý sắp lìa đời, cần người trợ giúp niệm Phật, liền nhớ lại cảnh lúc
còn đi học vội vội vàng vàng lên xe và chú Lý thì dừng xe lại, hiện rõ ở
trong đầu, thế là liền thúc giục mẹ: “Mẹ à! Nhanh lên đi trợ niệm cho
chú Lý. Chú Lý đối với chúng con rất tốt, mẹ nhất định phải niệm đến lúc
chú vãng sanh Tây phương mới thôi”.
Nếu như không có sư tỷ A Tú
trợ niệm suốt đêm không ngủ đến 2 giờ khuya, thì làm sao cảm ứng đến một
thanh niên quân nhân trợ niệm nữa? Nói đến vị thiện nam tử này cũng là
một nhân duyên thù thắng không thể nghĩ bàn, anh ta vốn đứng gác ca gác
nửa đêm ở trại lính gần đó, trong đêm tối yên tĩnh, bên tai bỗng nhiên
nghe một lớp tiếng niệm A Di Đà Phật. Trong hai giờ đứng gác, câu Thánh
hiệu thanh tịnh vạn đức trang nghiêm thâm nhập vào trong ruộng thức thứ
tám của vị thanh niên quân nhân kia, trong miệng tự nhiên cũng theo đó
niệm “A Di Đà Phật” không ngớt, vị thiện nam tử này muốn xem thử là
người chân tu nào có được sự dụng công như thế, liền dò theo phương
hướng của tiếng niệm Phật đi thẳng đến nhà họ Lý đường Trung Chánh ở Vụ
Phong, chỉ thấy cửa mở, có rất nhiều người đang niệm Phật, anh ta liền
tự động tham gia trợ niệm. Anh thanh niên này nhất định có căn lành rất
lớn, nếu không thì trợ niệm hơn một tiếng đồng hồ làm sao có thể thấy
được quang minh của Phật? Tôi lúc đến Bố giáo sở giảng kinh, anh thanh
niên này cũng đến nghe, các vị liên hữu vì tôi giới thiệu gặp mặt với
anh ta, do vì anh ta giúp đỡ một phàm phu sanh tử đang ở trong biển khổ
được Phật thương xót phóng quang tiếp dẫn vãng sanh Tây phương Cực lạc
thế giới, khiến tôi vừa thấy, trong lòng vô cùng cảm kích, tặng cho anh
ta một xâu chuỗi và mấy quyển sách Phật, sau hơn một tháng anh ta được
điều đi nơi khác. Tiếc một điều lúc đó tôi quên hỏi chỗ ở và tên họ của
anh ta!
33. TRỢ NIỆM CHO NGƯỜI
VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG, CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG
Lại nói về một chuyện cười:
các vị trong ban kia của Bố giáo sở lúc bấy giờ trợ niệm cho Lý cư sĩ
(chuyện trên), chỉ có sai đi 3 tiếng đồng hồ, do vì về nhà trước đi ngủ
mà không thấy được việc Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn, đều hối hận
mãi không thôi. Sau đó mọi người liền ở lại Bố giáo sở bàn bạc: lần sau
nếu như lại có người bệnh nặng sắp qua đời, chúng ta nhất định phải đi
trợ niệm, muời mấy người đều một lòng một dạ, không thấy quang minh, thề
không chịu thôi. Sau khi phát nguyện như thế xong, liền đi tìm kiếm khắp
nơi trong làng, chưa được mấy ngày, quả thật tìm được một vị là bà mẹ
già tám mươi lăm tuổi của ông Lâm Kim Châu.
Những người vì tâm hiếu kỳ
mong muốn thấy được quang minh của Phật này, liền thuyết pháp với con
trai và con dâu của bà ta: “Chúng tôi đều là không có điều kiện gì hết,
niệm Phật cho mẹ các vị, trợ giúp cho bà vãng sanh Tây phương, không còn
lại luân hồi trong lục đạo”. Đồng thời tuyên thuyết niệm Phật tốt thế
nào, thế nào… tốn hết một phen mồm mép, người con trai và người con dâu
kia mới bằng lòng cho chúng tôi trợ niệm cho bà ta. Phải phân làm hai
ban thay phiên nhau trợ niệm, khi ăn cơm cũng thay phiên nhau về nhà ăn,
ăn cơm xong lại đến đổi ban niệm. Mọi người vì sợ không thấy được quang
minh của Phật, cho nên trước sau không dứt tiếng niệm Phật, niệm mãi một
ngày một đêm nhưng người bệnh vẫn cứ thở đều, còn chưa dứt thở. Bà ta có
một người con gái lớn ở xa về, thấy người ta niệm Phật cho mẹ mình,
không được vui lắm, lại còn nói với cha cô ta rằng: “Niệm Phật làm cái
gì? Ngược lại làm nhiễu loạn tâm của má con thôi, kêu họ về đi!”, may mà
anh trai và chị dâu của cô ta còn hiểu biết, vội nói: “Không được, không
được! Mẹ từ lúc nhờ họ niệm Phật đến giờ, trong lòng đã thanh thản
nhiều, không còn khổ não như trước đây nữa!”. Người con gái kia sau đó
cũng không còn nói bậy nữa, biết được thành ý của mọi người, trái lại
trong lòng bắt đầu biết mang ơn.
Lúc đó đã là cuối năm, nhà
nhà đều phải làm bánh Tết, trong các vị trợ niệm có nhà dặn dò con cái
hoặc con dâu bỏ không làm bánh Tết nữa mà đến trợ niệm, liên tục niệm
bảy ngày bảy đêm, người sắp mạng chung kia mới vãng sanh. Lúc đó mọi
người trong miệng thì niệm Phật, còn mắt thì lại đều chú ý xem quang
minh của Phật đến. Nhưng kết quả không thấy được gì hết, mọi người lại
vô cùng thất vọng. Mặc dù như thế, nhưng cái tâm trợ niệm của mọi người
là chân thật ngay thẳng, giúp người thì phải giúp cho đến nơi đến chốn,
liền lại niệm thêm 8 tiếng đồng hồ nữa (đúng nghi thức trợ niệm)
thăm dò trên đỉnh đầu vẫn còn một chút hơi ấm, sắc diện như sống, thân
thể vẫn mềm như bông. Đây cũng chính là tướng lành được vãng sanh Tây
phương. Điều không thể nghĩ bàn nhứt là: niệm xong 8 tiếng đồng hồ rồi,
con cháu của bà ta mở những chăn mền đắp cho bà ta ra thì thấy hai tay
của bà đang chắp ngay ngắn.
Sư tỷ Thẩm (Trương Thẩm,
bài trước) nói với tôi: “Con dâu của bà ta thấy chúng tôi niệm Phật
cho mẹ chồng của cô ta được thành khẩn như thế, mỗi đêm đều ba lần nấu
món điểm tâm mời chúng tôi ăn, mới đầu mọi người không dám ăn, do vì
thầy Lý dạy chúng tôi lúc trợ niệm cho người, không được ăn đồ ăn của
người ta, ba bữa phải về nhà ăn, cũng không được ăn đồ điểm tâm, do vì
người ta đang gặp lúc không may, không nên làm phiền người ta thêm.
Nhưng con dâu bà ta với ý tốt nói: “Thời tiết mùa đông lạnh như thế này,
các vị có lòng tốt như thế đến cứu cho mẹ chồng tôi, cả nhà chúng tôi
rất là đội ơn đội đức, có chút xíu để bày tỏ tấm lòng, các vị đừng nên
khách sáo!”. Cho nên mỗi đêm đều tiếp nhận ba lần điểm tâm của họ. Tôi
liền cười nói với họ rằng: “Tâm của các vị bất tịnh, chứa đầy những tham
muốn, muốn thấy quang minh của Phật, lại nào có thấy được đâu? Sư tỷ Tú
cùng với anh thanh niên kia, lúc đó niệm Phật là một lòng một dạ, trong
tâm thanh tịnh, niệm đến cùng Phật cảm ứng đạo giao, cho nên mới thấy
được Phật A Di Đà phóng đại quang minh đến tiếp dẫn. Hôm nay các vị vì
tham muốn xem quang minh mà vì người niệm Phật, nhưng cũng giúp được một
chúng sanh ở Ta bà vãng sanh về quốc độ an lạc ở Tây phương tu hành,
ngày kia thừa nguyện tái lai, có thể độ được vô lượng vô biên chúng sanh
khổ não. Công đức này cũng đều là do các vị phát tâm muốn thấy quang
minh của Phật mà được ban cho như thế”.
34. BÀN LUẬN TRỐNG RỖNG VÔ
ÍCH, QUỶ THẦN TÍNH NỢ
Lại nói về sư tỷ Trương Thẩm
ở Vụ Phong là một vị đệ tử Tam Bảo đầy đủ trí huệ, vào tám năm trước mới
nghe Phật pháp đã trồng được hạt giống kim cang trong ruộng thức thứ
tám, về sau đầy đủ chánh tri chánh kiến. Tin Phật chưa được mấy tháng,
lại có một lần ở trong cảnh giới nửa tỉnh nửa mê, tranh biện cùng với
quỷ lớn quỷ nhỏ, nguy hiểm chút nữa là bị quỷ đánh chết tươi rồi.
Nguyên là A Thẩm lúc trước
khi chưa tin Phật, từng bị bệnh ba năm, không có ngày nào không chích
thuốc, uống thuốc. Ở Vụ Phong chín năm trước còn chưa có một ngôi miếu
thần nào, hay một ngôi chùa nào, chỉ có một ngôi miếu chung của dân rất
nhỏ, thờ cúng là một bài vị thần chủ bằng ván. A Thẩm vì cầu cho bệnh
được mau khỏi, không khỏi cầu thần, cầu quỷ phò hộ, tự mình thường hay
mang giấy tiền vàng mã đến lễ lạy cầu thần ông phù hộ sức khỏe của bà
sớm được bình an vô sự, nhưng cầu liên tiếp mấy năm vẫn cứ như thế.
Đến năm thứ 48 ban hoằng pháp
của nữ ở Liên xã đến cơ sở hoằng pháp tại Vụ Phong, A Thẩm được nghe
pháp vị như được uống nước cam lồ, như được của báu. Từ đó hai thời khóa
sớm tối rất thành khẩn không gián đoạn, đối với ngôi miếu chung của dân
kia không còn đi nữa, biết được tự thân họ (thần) còn không cứu được,
làm sao có thể cứu người, cho nên sau khi A Thẩm tin Phật, sức khỏe liền
dần dần hồi phục mạnh khỏe.
Có một hôm vị Lâm Thái Thái
là bạn tri kỷ tốt đến muốn A Thẩm dẫn bà ta cùng đi vái cúng ngôi miếu
chung của dân kia. A Thẩm liền cùng đi bái với bà ta, bà Lâm lễ xong
nói: “Hôm nay chúng ta quên mua tiền vãng sanh và giấy vàng mã rồi!”. A
Thẩm nói “Đốt giấy vàng và tiền vãng sanh làm cái gì? Bạn không nên mê
tín, nếu như cần đốt tiền vãng sanh, chi bằng niệm vài biến chú vãng
sanh bố thí cho họ còn hay hơn”. A Thẩm gần như nói chơi thôi, rồi cũng
không niệm chú vãng sanh, thắp hương lễ xong, ai về nhà nấy.
Đến tối vào lúc nửa đêm nửa
hôm, A Thẩm như tỉnh mà không phải tỉnh, như mộng mà không phải mộng,
bỗng nhiên nhìn thấy mấy con quỷ đến nói với bà ta “Đại vương của chúng
tôi muốn mời bà đi nói chuyện”. A Thẩm hỏi nó: “Đại vương các người là
ai? Ta không đi”. Mấy con quỷ đó cũng chả nói lý lẽ gì, không đi thì
cưỡng bức lôi đi, lôi đến ngôi miếu chung của dân kia, thấy trước miếu
đứng rất nhiều người nam, nữ, lớn, bé, chính giữa ngồi một vị quỷ, thân
thể to lớn, mặt mày hung ác, mấy con quỷ nhỏ kêu A Thẩm quỳ xuống, A
Thẩm trong lòng linh cơ sáng suốt, liền to tiếng nói rằng: “Ta là đệ tử
Tam Bảo, Phật pháp vô biên, các ngươi quỷ đạo chúng sanh, còn phải cần
đến Phật pháp cứu giúp cho các ngươi nữa là!”. Lời nói chưa dứt, ông đại
vương kia nổi giận xung thiên lớn tiếng quát rằng: “Lôi nó ra đánh chết
tươi nó đi, nó dám nói lớn lối, lại không cho chúng ta tiền vàng”. Đang
lúc cả một bầy quỷ ra tay sắp đánh bà ta, A Thẩm nói: “Không sợ nhà
ngươi đâu! Ta thỉnh Bồ Tát lại!”. Tức thời chắp tay xưng niệm “Nam mô
cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát ”. Niệm hết thảy chưa đến mười tiếng,
trên hư không hiện ra một hình tượng Bạch y Quán Thế Âm Bồ Tát, tay phải
cầm bình cam lồ, tay trái cầm nhành dương liễu, đạp mây mà xuống. A Thẩm
xem thấy rất rõ ràng, bầy quỷ lớn nhỏ kia thấy được Quán Thế Âm Bồ Tát
đều quỳ xuống hết, đầu mặt dập xuống đất. Khi đó A Thẩm vẫn cứ lớn tiếng
niệm “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Lúc đó chồng của A Thẩm là cư sĩ Trần
Thiên Trụ nghe tiếng vợ mình niệm Quán Thế Âm Bồ Tát quá lâu, nghĩ chắc
là nằm thấy quái mộng gì rồi, liền kêu A Thẩm thức dậy. A Thẩm thức dậy
liền đem cảnh giới trong mộng tranh biện cùng quỷ kể cho cả nhà nghe.
Nếu như không biết niệm “Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát” có lẽ tiêu
mạng rồi, âm dương vĩnh viễn cách biệt. Câu chuyện trên đây cũng là tự
miệng A Thẩm nói với tôi. Tục ngữ có câu: “Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng
khẩu xuất”. Thánh nhơn cũng có nói “Kính quỷ thần mà xa họ ra”. Xin
khuyên chư vị là đệ tử của Phật, ngàn vạn lần chớ nên tự khoe mình hay
giỏi, nói giỡn chơi với quỷ thần. Nếu lâm vào tình trạng giống như A
Thẩm, trong mộng biết niệm Thánh hiệu Bồ Tát thì không sao, còn như công
phu chưa đến, thì tự rước lấy phiền toái vào thân rồi.
35. BẠCH Y NỮ NHÂN TRONG MỘNG
CHO THUỐC
Pháp môn niệm Phật, không
luận là già, trẻ, nam, nữ, sang, hèn, giàu, nghèo, chỉ cần tin sâu Phật
là đạo sư của ba cõi, cha lành của bốn loài, tin và niệm đó thì diệt tội
hằng sa, được phước vô lượng. Dưới đây sẽ cử ra chuyện thật được cảm ứng
để làm chứng minh.
Mười hai năm trước ở đường
Trung Hoa khu Bắc Đài Trung có một gia đình nhỏ là người từ Sa Lộc dời
đến Đài Trung ở, chủ nhân là Trần tiên sinh, vợ ông ta họ Lâm tên là A
Kiều, bà này ở quê từ lâu đã bị bệnh triền miên, đứa con lớn là Chấn
Trung tuy mới tám tuổi, lại rất biết chuyện, hầu hạ thuốc men v.v… chẳng
rời khỏi bên mẹ. Có một hôm ban trưởng ban niệm Phật là sư tỷ Trần Kim
Chi đến nhà của nó (Chấn Trung), nhìn thấy A Kiều nằm trên giường rên
rỉ, có trạng thái của bệnh tình rất nguy kịch, đứa con Chấn Trung kia
đang ở bên mẹ rơi nước mắt, sư tỷ Trần Kim Chi thấy rồi, lòng từ bi tự
nhiên phát sanh, liền nói với bà Trần rằng: “A Kiều à! Cô nên niệm Thánh
hiệu cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, cầu nguyện Bồ Tát khiến cho
bệnh tình sớm hồi phục, mạnh khỏe trở lại”. Lúc đó A Kiều thều thào nhỏ
giọng “Tôi không biết niệm”. Sư tỷ Trần Kim Chi nói: “Cô không biết
niệm, con cô niệm cũng vậy, cô chỉ cần lắng tâm nghe, trong tâm duyên
theo tiếng niệm là được rồi”, Sư tỷ Kim Chi lại đi thỉnh về một bức
tranh Tây phương Tam Thánh lộng trong khung kiếng, treo trên bức tường
đối diện với chỗ A Kiều nằm, rồi dạy cho Chấn Trung chắp tay, học niệm A
Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát. Đứa bé này rất thông minh, không bao
lâu đã học được rồi. Cứ như thế niệm hơn hai tiếng đồng hồ, lại còn dạy
nó hồi hướng, cầu nguyện Phật Bồ Tát mau đến cứu giúp cho bệnh của mẹ
mau được bình phục. Chấn Trung đều có thể nhất nhất y giáo phụng hành,
bèn luôn luôn ở trước Phật niệm Phật van cầu, trước mắt A Kiều, mặt thì
đối Thánh tượng vạn đức trang nghiêm, bên tai lại nghe được Thánh hiệu
vạn đức hồng danh, trong tâm bèn cảm nhận được có chỗ nương tựa.
Xưng niệm Thánh hiệu Phật Bồ
Tát là việc chẳng thể nghĩ bàn. Đứa con Chấn Trung kia vì cầu cho mẹ
khỏi bệnh, hàng ngày thành khẩn niệm Phật, chưa đến một tuần lễ, quả
nhiên xuất hiện kỳ tích. Có một hôm mới sáng sớm nó kêu lên rất vui
sướng: “Má à! tối qua con chiêm bao thấy một người nữ mặc áo trắng cầm
một bó cỏ thuốc dài như cây rau hẹ cho má ăn, má nhận qua tay liền cho
vào trong miệng, con nhìn thấy rất là rõ ràng. Ngài còn nói với con ngài
là Quán Thế Âm Bồ Tát, do vì bệnh của má chỉ cần ăn loại cỏ thuốc này,
liền được bình an”. A Kiều nghe xong cảm thấy rất là kỳ lạ, bà ta cũng
nói với con rằng: “Chấn Trung à! Mẹ đêm qua cũng chiêm bao thấy một
người nữ cầm một bó cỏ thuốc dài kêu má ăn, má liền lấy cỏ thuốc cho vào
trong miệng nhai và nuốt xuống. Sáng sớm vừa thức dậy, trong lòng mát
mẻ, cảm thấy bệnh tình nhẹ đi rất nhiều”. Từ đó bệnh của A Kiều ngày
càng hồi phục mạnh khỏe, mẹ con đồng hưởng niềm vui tự nhiên của đạo.
Hơn nữa trong tâm linh nhỏ của Chấn Trung đã gieo trồng được căn lành
rất là sâu dày, cho nên mỗi ngày trước khi đi học, nó nhất định đến
trước Phật xin phép, chắp tay đảnh lễ nói: “A Di Đà Phật! Con phải đi
học đây”. Tan học về nhà lại nhất định trước tiên đến trước bàn Phật vẫn
cứ chắp tay đảnh lễ nói: “A Di Đà Phật! Con về rồi”. Ngày nào cũng thế,
tập hoài thành quen.
36. CON KHỈ, CÁI MÓC CÂU 1 -
PHÚC ĐẾN LÒNG SÁNG RA
A Kiều từ lúc được sự cảm ứng
của Phật, Bồ Tát gia bị khỏi bệnh rồi, bèn tiếp tục hàng ngày lạy Phật,
niệm Phật không có gián đoạn, thời gian trôi qua rất nhanh mới đó đã hai
năm rồi. Chồng của cô ta vốn là cai thầu xây dựng, lúc đó tiếp nhận thầu
một công sự tháo giở nhà, chính ở ngay chỗ giao lộ của đường Tự Do và
đường Trung Chánh, một tòa kiến trúc hai tầng, thỏa thuận cùng người ta
định kỳ một tháng nhất định phải tháo giở xong, nếu như tới hạn làm
không xong phải bồi thường gấp đôi và điều kiện trên khế ước, nếu có bất
cứ người nào do công việc mà bị thương, hoặc là té chết bên thầu phải tự
chịu trách nhiệm, bên kia vô can. Nhưng mà tòa viện bảo tàng từ thời
Nhật chiếm cứ đó xây dựng vô cùng kiên cố, thật không dễ gì tháo giở,
bốn bức vách đều xây bằng gạch rất dày, sắt miếng và xi măng, mười mấy
người công nhân dùng chùy sắt và đục đập một tuần lễ chỉ mới đập được
một lỗ lớn mà thôi, nguyên bức tường vẫn chưa phá đổ được, ông Trần lúc
ấy rất là lo lắng, tự nguyện đền một vạn đồng để bên kia chịu bỏ khế
ước, nhưng bên kia cũng không chịu, không thế thì phải bồi thường mấy
vạn đồng! A Kiều suốt cả ngày lo rầu, cùng với Chấn Trung hai người, chỉ
còn biết hướng Phật A Di Đà và Quán Thế Âm Bồ Tát nhiều lần cầu khẩn
mong rằng không phải đền tiền. Có một ngày sáng sớm Chấn Trung bỗng kêu
lên một tiếng: “Má! Má không phải khóc nữa, việc lãnh thầu tháo giở nhà
lầu không phải lo nữa, con đêm qua mộng thấy Tam Tạng pháp sư tay cầm
cây chổi đuổi ruồi dẫn đến một đám vượn màu vàng, chỉ huy giữa không
trung, trong khoảnh khắc tháo giở hết tòa nhà chúng ta bao thầu tháo giở
kia, thật là Phật lực vô biên, con vượn vàng kia thật là đẹp. Má, vị Tam
Tạng pháp sư kia đội cái mão chính là trong phim tháng trước con đến rạp
hát nào xem nè, trông Tam Tạng đi lấy kinh giống như nhau”. Chấn Trung
ngây thơ nói với mẹ, hai mẹ con lại đến trước Phật A Di Đà và Quán Thế
Âm Bồ Tát quỳ xuống cầu nguyện và phát nguyện sẽ bỏ ra 500 đồng cho thầy
Lý lúc đó đang muốn lập ra nhà nuôi trẻ cô nhi. Thật là phúc chí tâm
linh (phúc đến tâm sáng ra), ông Trần nghe những điều Chấn Trung nói
trong mộng, tiếng Đài Loan con khỉ (hầu chừ) cùng với móc câu (câu chừ)
phát âm hơi giống nhau, liền nghĩ đến dùng móc câu sắc lớn câu tường lại
dùng máy điện quấn dây, chỉ một chút xíu kéo đổ xuống một miếng tường
lớn, như thế trong một ngày kéo đổ xuống rất nhiều bức tường dầy, không
đầy mấy ngày hoàn thành xong toàn bộ. Ông Trần lần này làm công sự giở
nhà, đã không trái với khế ước, lại không có bồi thường tiền, lại còn
trong khi làm việc kéo tường phát sanh ra hai việc không thể nghĩ bàn:
có hai người công nhân ở trên lầu hai té xuống lại không bị thương một
chút nào hết, ở dưới đất toàn là gạch bể, bê tông, làm sao không hề bị
thương? Thật là khó mà tin. Lại còn có một việc là mỗi trước khi câu
tường đổ xuống, nhất định phải xem xét bốn phía coi có công nhân ở gần
hay không? Để khỏi phải đổ tường xuống đè bị thương. Có một lần sau khi
ông Trần xem xét xong, đột nhiên có một nữ công nhân đi lại, muốn đến
công tác, vừa vặn một miếng vách tường bị kéo đổ xuống, xê xích có hai
tấc, thấy gần như là bị đè chết rồi! Có rất nhiều công nhân hỏi bà Trần
(A Kiều): “Ông thổ địa nhà của ông bà sao mà linh thế? Lần nào cũng đều
phù hộ cho các vị hết à!”. A Kiều nói: “Nhà tôi không phải thờ ông thổ
địa, chúng tôi thờ phụng là Tây phương Tam Thánh: một vị Phật hai vị Bồ
Tát, mỗi ngày đều niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát”.
Vào ngày chủ nhựt giảng kinh
ở ban song tu niệm Phật hôm đó, A Kiều mặt mày hớn hở đưa đến 500 đồng
tiền Đài Loan mới, muốn cúng cho viện cô nhi mới xây, kêu tôi đại diện
vì cô ta mà đưa cho, và còn nói: “Công sự lần này toàn là nhờ sự cảm ứng
của Phật, Bồ Tát đại từ đại bi”. Cô ta lại đem chuyện xảy ra trước sau
ra sao nói cho đại chúng nghe, nói đến chỗ Chấn Trung mộng thấy Tam Tạng
pháp sư dẫn một bầy khỉ màu vàng kim, chỉ huy tháo giở nhà, tôi liền
giải thích cho cô ta: “Chấn Trung cho là Tam Tạng pháp sư ở trong phim,
có lẽ chính là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, ở trong tay cầm đó chính
là cây phất trần hoặc là nhành liễu, không phải đồ đuổi ruồi”. Lúc đó
ban viên trong ban song tu, đều đồng lời khen ngợi pháp lực Phật, Bồ Tát
vô biên không thể nghĩ bàn, và khen ngợi lòng thành khẩn của mẹ con A
Kiều.
37. TRONG MỘNG NIỆM PHẬT, GẶP
DỮ HÓA LÀNH
Lại qua đi một năm, chồng của
A Kiều là ông Trần, có một đêm trong mộng nhìn thấy một cảnh giới: có
một ông già để râu trắng dài dẫn ông ta đi đường, đi được rất lâu, rất
xa đến một địa phương lạ ở trong một cánh đồng hoang, bốn bề không có
một người, chỉ có một cái hòm gỗ dài. Ông già kia nói: “Ông Trần, ông
phải ngã ở đó”. Ông Trần nghĩ ngã vào trong cái hòm đó tức là tiêu đời
rồi! Trong lòng không khỏi cảm thấy sợ hãi nổi lên, liền chắp tay lại to
tiếng niệm liên tiếp “Nam mô A Di Đà Phật!”. Niệm chưa được vài chục
tiếng, bỗng nhiên có một người con gái ở trong làng khoảng mười bảy,
mười tám tuổi đi đến, dùng tay chỉ tôi nói (tôi: ông Trần) “Ông mau đi
về đi thôi”. Vừa tỉnh dậy, thì ra là một giấc mộng Nam Kha, sáng sớm
thức dậy liền nói với vợ ông ta A Kiều, giấc mộng dữ tối qua, may mà ở
trong mộng biết niệm Phật, nếu không thì không biết sẽ ra sao! A Kiều
tức khắc đến trước bàn Phật thắp hương đốt đèn cầu nguyện Phật, Bồ Tát
từ bi gia bị khiến cho việc lớn hóa thành việc nhỏ, việc nhỏ hóa thành
không.
Ông
Trần lúc đó đang bao thầu xây dựng một tòa lầu ba tầng, công trình đã
sắp hoàn thành rồi. Sáng sớm hôm đó sau khi ăn cơm xong, do vì ảnh hưởng
nỗi sợ hãi giấc mộng dữ đêm qua, trong lòng rầu rĩ không vui, liền đến
hiện trường công sự. Vừa nghĩ muốn lên tầng lầu ba để xem xét, bỗng
nhiên có một công nhân đi đến nói với ông Trần: “Ông không cần phải lên,
để tôi đi xem được rồi”. Vị công nhân này liền bước lên cái giá cây của
cầu thang đi, ông Trần vẫn đứng ngay chỗ cũ, tay thò vào trong túi lấy
ra một điếu thuốc thơm, lúc đang đánh lửa, bỗng nhiên nghe “rầm” một
tiếng, vừa nhìn thì ra là vị công nhân vừa mới thay mình đi lên tầng lầu
ba, mới hơi không đề phòng chân đạp lệch, từ trên lầu té xuống ngã trên
đất. Lúc đó điếu thuốc thơm của ông Trần còn chưa hút, giựt mình hết
hồn, lập tức bước đến đỡ dậy thì đã bất tỉnh nhân sự rồi. Ông Trần ôm
anh ta ra mướn một chiếc taxi đưa đi bệnh viện cấp cứu, nhưng vì bị
thương nặng chấn thương sọ não đã dứt thở trong xe, đến bệnh viện đã về
trời rồi! Ông Trần lo đám tang cho anh ta rất là long trọng xong rồi lại
cấp mấy vạn đồng cho trong gia quyến mới kết thúc viên mãn.
Ông Trần trải qua lần tai họa
này có thể nói là “phá tài quá vận” (hao tài mà qua được vận hạn) nhưng
từ ngày hôm bị một phen hoảng vía quá sức đó trở đi dường như ba hồn bảy
vía không còn ở trong thân nữa, tinh thần không thoải mái, chẳng thiết
gì đến ăn uống. Vợ ông ta A Kiều rất là lo lắng, liền đi hỏi thăm ý kiến
sư tỷ Kim Chi, đem những việc trên kể cho sư tỷ nghe. Sư tỷ Kim Chi liền
bảo cô ta dùng một ly nước sôi, ở trước Phật sau khi thành khẩn tụng bảy
biến chú đại bi rồi cho ông ta uống, nếu hiệu nghiệm thì là rất may mắn,
nếu không hiệu nghiệm thì phải mau đưa đi bệnh viện khám. A Kiều y theo
cách của sư tỷ Kim Chi, rất là cung kính nhất tâm tụng bảy biến chú đại
bi xong, cho chồng cô ta uống. Thật là linh nghiệm dị thường, nước vào
thì bệnh dứt, tinh thần của chồng cô ta dần dần hồi phục như cũ, không
cần thuốc mà khỏi bệnh.
Chuyện kể đến đây, chắc có
người sanh nghi vấn: “Phật, Bồ Tát là bực đại từ đại bi, tại sao chỉ cứu
có một người, cái chết của anh công nhân đáng thương kia lại không ra
tay cứu?”. Mọi người chúng ta nên biết: tâm có thể tạo nghiệp, tâm cũng
có thể chuyển nghiệp. Ông Trần nhờ sự huân tập niệm Phật của vợ, mà
trong tàng thức đã gieo được hạt giống kim cang A Di Đà Phật, cho nên
những cái tốt xấu chưa đến mà đã có điềm trước. Trong giấc mộng đêm đó,
một ông già dẫn ông ta đi đến cảnh giới khác bảo ông ta chun vào trong
cái hòm, may mà hạt giống Phật A Di Đà trong tàng thức của ông ta phát
khởi hiện hành, bỗng nhiên khiến ông ta chắp tay lại niệm Phật, đây là
gặp dữ hóa lành, tiêu tai giải nạn, việc lớn hóa thành việc nhỏ, việc
nhỏ hóa không.
Đến như anh công nhân kia,
không phải là Phật, Bồ Tát không cứu anh ta; do vì phàm phu đều là nhận
giả làm chân, lấy khổ làm vui, cứ hưởng thụ những cái trước mắt, suốt
ngày mê hoặc điên đảo, chẳng kể gì việc tốt xấu đến, Phật, Bồ Tát có chỉ
điểm như thế nào thì cũng vẫn cứ mơ mơ hồ hồ, như thế làm sao có thể
chắp tay xưng niệm Thánh hiệu của Phật, Bồ Tát được? Không biết niệm
Phật thì không có thể chuyển nghiệp, lúc sắp đến thành của vua Diêm la
báo hiện diện thì phải đi thôi. Tục ngữ có câu “Diêm vương chỉ định canh
ba chết thì không cho lưu đến canh năm!”. Như thế có thể suy ra cái chết
của người công nhân kia cũng không ngoại lệ, đây là định nghiệp không
thể chuyển!
Có lẽ vẫn còn có người sanh
nghi vấn: Tại sao ông Trần mấy năm trước lúc bao thầu công sự xây dựng
nhờ Phật, Bồ Tát cảm ứng đã không bị lỗ vốn lại vẫn được bình an; lần
này lại tổn thất quá nhiều và bị một phen nguy hiểm sợ hãi, Phật, Bồ Tát
sao không gia bị? Nên biết phàm người tu hành lúc mới phát tâm phần
nhiều rất thành khẩn, nhưng qua một thời gian, hoàn cảnh thay đổi đều là
tùy theo nhân quả thuận cảnh, nghịch cảnh của mỗi người tự làm thì tự
chịu. Lúc đó vợ chồng của A Kiều, cả đứa con, cả nhà là sơ phát tâm,
dùng lòng chí thành, ngày đêm do vì thành kính khẩn thiết xưng niệm. Về
sau, lần này như thế là do vì đời người tai nạn, nghịch cảnh phiền não
nhiều, những tai nạn, nghịch cảnh phiền não này luôn hiện ra trước mắt,
giống như cái tai họa đột nhiên này, ông Trần mặc dù có bị kinh sợ, hao
của, vẫn là từ trọng báo chuyển thành khinh báo, cũng là cái may lớn
trong cái xui xẻo, trong sâu xa vẫn có Phật, Bồ Tát ngầm phò hộ.
38. CON MÈO ĐÒI NỢ, YÊU
CẦU SIÊU ĐỘ
Phàm
người khi mạng sắp lâm chung, ngoài con đường Thánh ở Tây phương ra, thì
nếu không vào được cõi trời hay loài người, thì cũng ắt vào các đường:
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Quyến thuộc của người mạng chung, nếu có
thể giúp cho họ niệm Phật, đó là đưa thần thức của họ vãng sanh vào
đường Thánh Tây phương mãi mãi thoát ly được biển khổ sanh tử. Nhưng cái
ngày sắp mạng chung, giống như ngày 30 tháng chạp, những oan nghiệp đời
trước, các chủ nợ đều đến, đâu có chịu cho anh đi dễ dàng! Nợ đã tính
chưa xong, lâm chung làm sao để cho anh tiêu dao tự tại? Trong khoảnh
sát na này thì phần lớn trách nhiệm ở nơi quyến thuộc và những người trợ
niệm, cho nên người niệm Phật tu hành nhất thiết không nên ỷ vào mình tu
hành nhiều năm, công phu rất tốt, các thứ công đức bố thí v.v… nhiều.
Ngoài các bậc hành giả thật sự nắm chắc được việc tự tại muốn đi thì đi;
còn lại, lúc sắp mạng chung vẫn phải lấy trợ niệm làm quan trọng. Bây
giờ đơn cử ra một vị liên hữu vào tháng trước vãng sanh để chứng minh.
Vị liên hữu Hồng Hoàn trưởng
ban của ban 48 nguyện kiêm ban trưởng của ban thí tài ở Liên xã Đài
Trung, năm nay sáu mươi hai tuổi. Trong hai mươi năm gần gũi, đồng tu
với ân sư Bính Công, có thể nói là người có phước báo nhứt, thành khẩn
nhứt, phát tâm lớn nhứt, không có ai là sánh được với bà. Phước báo của
bà ta là gia đình thanh nhàn nhứt, con cái, dâu rể, cháu ngoại đều hiếu
thuận, cả nhà tin Phật, niệm Phật và của cải dư dã, bố thí từ nào đến
giờ không có lận tiếc, cho nên sư phụ cho bà ta làm ban trưởng ban thí
tài. Lòng thành khẩn đối với việc tin Phật của bà là mỗi khi sư phụ
giảng kinh hoặc mở hội v.v… thì bà đều đi đủ không có mưa gió gì có thể
ngăn trở; chẳng những tự tu tự lợi như thế, mà còn tâm tâm niệm niệm
luôn nghĩ đến việc “lợi tha”. Tôi thường khen ngợi Hồng Hoàn với mọi
người, hạng mà khó độ nhứt là bà con trong gia đình và những người hàng
xóm, nhưng mà Hồng Hoàn thì sao? Thật có thể nói bà là bậc “bi trí song
vận” (bi trí đầy đủ), phương tiện khéo léo, không những trong gia đình
bà con đồng chí đồng đạo, ngay đến bà con hàng xóm xa gần, cả đến trong
những ngõ hẻm ngóc ngách, hầu như nhà nào cũng đều phụng thờ tượng Tây
phương Tam Thánh, có thể độ được cả một con hẻm đều tin Phật, thật là
hiếm thấy! Đây đều là cái thành quả phát Bồ đề tâm của bà. Chẳng những
như thế, bà lại còn đảm nhiệm làm cán sự hội phụ nữ khu Bắc thành phố
Đài Trung, đã từng khuyên dứt mười mấy gia đình bất hòa, năm đó có cặp
vợ chồng trẻ, cảm tình sắp bị tan vỡ, lúc chồng vợ con cái sắp chia tay,
thì nhờ biện tài vô ngại của bà khuyên bảo, gia đình trở lại tốt đẹp, và
tốt hơn nữa là đều quy y Tam Bảo. Cho nên ai cũng đều khen ngợi hoàn
cảnh gia đình của sư tỷ Hồng Hoàn là tốt đẹp, cùng với tinh thần từ bi
ưa xả thí của bà, trong đời có thể nói là “thập toàn thập mỹ” (mười phân
vẹn mười).
Tuy nhiên, trong cái đẹp có
cái khiếm khuyết. Cái khiếm khuyết của sư tỷ Hồng Hoàn là vào năm ngoái
bỗng nhiên bị bệnh ruột dư, đã đi bệnh viện khoa ngoại mổ một lần, đến
trung tuần tháng 2 năm nay bệnh biến đổi nặng, đã qua Đông Tây y dược
trị liệu vẫn không có hiệu quả. Lúc bệnh nặng đã từng có thỉnh thầy Bính
Công đến khai thị, thầy thấy bà uống thuốc an thần, mơ mơ hồ hồ, liền
dặn con cái của bà: “Về sau nhất thiết không nên tiếp tục cho bà uống
thuốc an thần nữa, lúc trợ niệm tinh thần sẽ mơ hồ hồ như thế, thần thức
sẽ không thể vãng sanh Tây phương được!”. Đến 3 giờ buổi chiều ngày 17,
tôi nhận được điện thoại của con gái của bà, nói là mẹ của cô đã hôn mê
bất tỉnh nhân sự. Tôi lập tức cùng với sư tỷ Ngọc Trinh và mấy người nữa
đi đến trợ niệm, lúc đó mọi người chúng tôi đều thấy bà ta hổn hển thở
gấp, không còn biết gì, hai tay giở lên buông xuống liên tục, bộ dạng
như đang muốn đẩy cái gì. Chúng tôi liên tục niệm Phật, niệm đến khoảng
hơn 5 giờ, hơi thở gấp của bà đã từ từ ổn định lại, hai tay cũng không
còn giở lên giở xuống nữa, dần dần tỉnh táo trở lại và đã có thể nói
chuyện được rồi, bà nói với chúng tôi: “Sư tỷ, cám ơn các sư tỷ nhiều!
Được rồi, các sư tỷ nghỉ đi!”. Tôi nói bà ta nên tĩnh tâm nhớ Phật,
không nên nói chuyện nhiều. Lúc đó đã 6 giờ, tôi liền dặn dò con cái của
bà rằng “Nếu như lúc nửa đêm khuya khoắt, nguy hiểm, các con cháu, mọi
người đều phải cố gắng niệm Phật, nhưng nhất định phải đồng thanh, không
nên có người thì niệm “A”, có người thì niệm “Đà”, có người thì niệm
“Di”, trước sau lộn xộn, như thế làm nhiễu loạn nhĩ căn của người sắp
mạng chung”. Sau khi tôi dặn dò xong, liền cùng các liên hữu ai về nhà
nấy.
Đến sáng ngày hôm sau, nhớ
nghĩ người bạn tri âm sắp từ biệt cõi đời, không khỏi ngậm ngùi nhớ
tiếc, tức khắc chạy đi xem coi tối qua như thế nào? Lúc tôi mới vào cửa
A Hoàn nghe được tiếng tôi liền lớn tiếng kêu lên: “Sư tỷ Khán Trị lại
đây, lại đây!”, tôi liền ngồi trên mép giường của bà, bà nói với tôi
“Chiều hôm qua may mà có các sư tỷ niệm Phật cho tôi, do vì lúc đó dường
như đang bị cái chụp muỗi đen đè cứng, cái chụp đó nặng có mấy ngàn ký,
đè đến nỗi tôi không thở nổi, chỉ còn có hai tay còn tự do, nên hai tay
giở lên giở xuống muốn đẩy nó ra, nhưng lại đẩy không nổi”. Tôi hỏi bà
ta “Tại sao chị không niệm A Di Đà Phật?”. Bà nói: “Khắp mình bị đè thở
không ra hơi, không những miệng niệm không ra, ngay cả trong tâm cũng
không niệm được! May mà còn có thể nghe được tiếng niệm Phật của các
chị, tiếng vừa to vừa rõ ràng, cái chụp muỗi đen đó dần dần biến mất,
tôi mới cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, từ từ tỉnh lại”.
Hồng Hoàn lại nói: “Sư tỷ
Khán Trị à! Tôi hôm qua lại còn nhìn thấy một cảnh giới nữa, kể ra rất
dài”. Tôi hỏi bà muốn nói cái gì, bà nói: “Tối qua khoảng 2 giờ, tôi
nhìn thấy một đứa bé khoảng chưa đầy tám tuổi mặc đồ trắng hiện ra trong
phòng tôi, tôi hỏi nó: “Mày là ăn trộm đến trộm đồ phải không?”, thằng
nhỏ liền phủ nhận: “Không phải, không phải!”. Tôi hỏi tiếp nó: “Vậy mày
ở đâu đến đây? Đến làm cái gì?”. Nó nói: “Tôi từ lục đạo luân hồi đến,
muốn đến đòi nợ bà, tính sổ với bà”. Tôi nói: “Ta làm người thanh bạch,
chưa từng thiếu nợ của người nào”. Thằng nhỏ đó lại nói: “Không phải đời
này, mà là nợ đời trước. Do vì bà đời trước ở Đài Bắc làm người hiếu sát
(hay giết, ưa giết), đã giết bốn mươi con mèo rồi đều vứt bỏ xuống sông
Cô Long (tên cũ), không tin, bà đi kiểm tra lại thì biết, tôi là một con
trong đó, do vì sau khi bà giết chết tôi bà vẫn cứ ném vào trong sông,
tôi rớt xuống bên bờ, có một người họ Hứa cứu tôi, nhưng tôi đã không
thể sống tiếp, nên đã dùng một sợi dây cột tôi lại, treo lên trên cây,
tôi nhờ tinh hoa của mặt trời mặt trăng cho nên có thể được hình người
này, nhưng còn ba mươi chín anh, chị, em của tôi vẫn còn hình dáng mèo
chịu khổ ở nơi đó. Tôi đến đây là muốn bà siêu độ cho bầy mèo anh chị em
của tôi thoát khổ.” Tôi vội vàng nói: “Được, được! Liên xã chúng tôi
trong tháng sắp cúng tế Tổ, thuận tiện sẽ siêu độ cho các ngươi luôn”.
Đứa bé đó lại nói: “Không được không được! Nhất định phải làm hai cái
giỏ tre đi đựng ba mươi chín con mèo kia. Chính bà tụng kinh siêu độ tại
nhà bà.” Tôi liền nhận lời, sáng hôm nay kêu Canh Thân viết thư cho một
người bà con ở Đài Bắc hỏi thăm rồi”.
Qua ba ngày, người bà con ở
Đài Bắc gởi thư hồi âm nói: trước đây rất lâu ở Đài Bắc thật có con sông
này. Việc này của Hồng Hoàn không những nói với tôi, còn nói với rất
nhiều liên hữu nữa. Bà liền thỉnh cư sĩ Triệu Đàm Thuyên, Vương Thanh
Hán, mười mấy vị liên hữu đến nhà bà tụng Kinh Địa Tạng, tụng kinh sám
ba ngày để siêu độ cho bốn mươi con mèo kia. Buổi tối ngày cuối cùng lại
làm một nhà “phổ thí” (thí khắp) để mở hết những oan kết cho bà.
Đến sáng sớm mồng 5 tháng 3
âm lịch, có người gọi điện thoại đến nói Hồng Hoàn sắp vãng sanh rồi,
hiện chỉ còn thở thoi thóp. Tôi liền lại cùng với sư tỷ Ngọc Trinh và
mấy vị đến nhà bà niệm Phật, niệm được hơn một giờ, thì Tố Cầm con gái
của bà, nói với tôi: “Sư tỷ! Má con bắt đầu từ đêm qua, chỉ còn một hơi
thở mong manh như thế, đến bây giờ vẫn chưa được vãng sanh; má con trước
đây từng có dặn dò con: cần phải trước khi vãng sanh, trước nên thay đồ
dùm cho bà, không biết phải hay không là chưa thay đồ, nên không chịu
vãng sanh? Sư tỷ! Bây giờ thay đồ cho má con được không?”. Tôi nói:
“Không được, không được! Bây giờ động dời bà ta e rằng gây cho bà ta
phiền não thì không được vãng sanh”. Thế là lại niệm hơn nửa tiếng đồng
hồ, vẫn cứ như thế, tôi nghĩ có lẽ bà ta thật sự chấp phải thay đồ
trước, liền kêu mọi người tạm ngừng niệm Phật, tôi đến bên tai của bà
lớn tiếng nói: “Sư tỷ A Hoàn, chị niệm Phật hai mươi năm, tâm tâm niệm
niệm đều là muốn vãng sanh Tây phương, chị đã hiểu thế giới Ta bà này là
giả, là khổ, đời người ở đời trong mấy chục năm, mỗi con người cuối cùng
đều phải chết, chỉ là trước sau mà thôi, thế giới Cực Lạc mới là quê nhà
an ổn của chúng ta; Phật A Di Đà là cha lành của chúng ta, sắp đến tiếp
dẫn chị, chị phải buông bỏ hết vạn duyên, nhứt tâm niệm Phật, mọi người
chúng tôi sẽ tiếp tục giúp chị niệm Phật, đưa chị vãng sanh Tây phương
Cực lạc thế giới, sau này chị còn phải thừa nguyện lực trở lại quảng độ
chúng sanh. A Hoàn! Chị phải buông bỏ tất cả, chúng tôi thỉnh Phật A Di
Đà đến tiếp dẫn chị, chị phải niệm Phật theo đại chúng!”. Thật là không
thể nghĩ bàn, mọi người đều nhìn thấy lúc tôi nói chuyện với bà, mắt của
bà mở ra, đầu thì gật không ngớt, bày tỏ dáng điệu rất hài lòng, chúng
tôi bèn niệm tiếp được năm phút, bà liền mỉm cười ra đi. Lúc đó là 11
giờ trưa ngày mồng 5 tháng 3. Sau khi bà dứt thở chúng tôi lại còn niệm
tám giờ nữa mới để con cháu bà tắm rửa thay đổi y phục và lo đám tang.
Từ chuyện đơn cử có thật trên
đây, chúng ta thấy: trước khi Hồng liên hữu lâm chung nhìn thấy một cái
chụp đen nặng cả ngàn ký đè bà ta đến nỗi đau khổ vô cùng, tự mình không
cách gì đẩy ra được; nếu như không có các vị liên hữu bên mình bà niệm
Phật cho bà, thì làm sao có thể hồi dương được hơn mười ngày, dùng Phật
pháp làm những công đức giải oan thích kết (mở bỏ những oan trái) cho
những con mèo nhỏ kia. Mà những oan hồn kia biết Hồng liên hữu thường
ngày niệm Phật, sẽ sanh Tây phương thì món oan trái này sẽ không còn
cách gì đòi cho được, bèn hiện thân ra đứa nhỏ thẳng thắn nói ra đoạn
oan nghiệp bị giết hại đời trước, yêu cầu tụng kinh siêu độ cho chúng
thoát khổ. Có thể nhìn thấy nhân quả đáng sợ, rất nguy hiểm biết bao!
Tôi viết đến đây tự nhiên lông tóc dựng ngược, cảm thán mãi! Thật là
“Thân này không lo tu ngay trong đời này, còn đợi đến đời nào mới độ
được thân này!”.
39. CHÁU GÁI NÓI CHUYỆN
PHẠM LỖI VỚI MA QUỶ, NHỜ NIỆM PHẬT GIẢI OÁN
Bảy năm trước lúc tôi đang
giảng Kinh Di Đà ở nhà ban trưởng Lý Thủy Cẩm, ban Kim Cương ở đường Nam
Kinh, lúc đó có vị thính chúng rất thành khẩn họï Dương tên Khuyến, hơn
ba mươi tuổi, cô ta rất giỏi làm ăn, đã từng kết hôn, do vì hai vợ chồng
trẻ cá tính không hợp nên chia tay nhau. Nhưng cô Khuyến này là người
rất biết giữ đạo của người phụ nữ, cho nên sau khi hai ông bà già chồng
qua đời, mặc dù đã ly hôn với chồng, cô Khuyến vào tiết Thanh Minh hàng
năm, vẫn về nhà mình ở Lộc Cảng sắm sửa những đồ bánh lễ, rượu, đồ tế
v.v… đi đến mộ của cha mẹ chồng cúng bái.
Bảy năm trước, cô Khuyến còn
là tín đồ Phật giáo sơ cơ, đến tiết Thanh Minh vẫn về cố hương, sắm sửa
rất nhiều đồ, rồi cùng đứa cháu gái và mấy đứa bé hàng xóm đến cái mả
hoang đó cúng vái cha mẹ chồng có duyên mà không nợ, cô ta đang phủ phục
lạy và nhớ lại ngày trước, bỗng nhiên nghe đứa cháu gái mười tuổi đứng
bên mộ bia kêu lên: “Cô ơi! Hôm nay cô đi cúng mộ cúng sai rồi, chúng ta
là họ Dương, còn cái mộ này họ Hứa, không đúng rồi. Cô à! Chúng ta về
nhà đi, về sau không cần phải lại đây cúng bái mộ họ Hứa này nữa”. Do vì
con bé này nhìn thấy họ ở bia đá trên mộ, không biết nội tình. Tôi hỏi
cô Khuyến: “Cô có giải thích cho nó không?”. Cô Khuyến nói: “Đối với con
nít làm sao nói những chuyện quá khứ như thế này! Tôi liền chia bánh
trái cho đám mục đồng, thôn nữ, mang rượu, thức ăn, đồ tế về chia cho
mấy đứa nhỏ đi theo ăn, tôi thì đi vội về Đài Trung”.
Sau khi cô Khuyến về Đài
Trung 12 giờ đêm đó, người em trai ở Lộc Cảng đột nhiên vội vã đến, rất
lo lắng hỏi rằng: “Chị à, chị hôm nay dẫn cháu đi đến mộ, có làm cái gì
không đúng không? Tại sao ăn cơm tối xong, em đang viết bài, bỗng nhiên
cháu nó kêu to đau đớn lên, cứ nói: “Ba ơi! Má ơi! Có rất nhiều quỷ từ
ngoài cửa sổ vào, đều vươn dài tay ra muốn bắt con đi, họ mắng con hay
xía vô chuyện người ta, biểu người ta sau này đừng đi cúng bái nữa, ba
má ơi, con sợ quá!”. Em trai cô lại nói: “Chẳng những như thế mà lại còn
phát sốt cao nữa! Cho nên cả nhà kêu em nhanh chóng đến hỏi chị, hôm nay
ra mả, rốt cuộc là chuyện như thế nào?”. Cô Khuyến liền đem việc ở mả
nói với em trai. Cô ta nói: “Có lẽ là những hồn quỷ bị nói là không phải
nhà họ của mình đó, chị sáng ngày mai nhờ các vị liên hữu đi tụng kinh
siêu độ là được rồi”.
Qua sáng hôm sau, cô Khuyến
liền đến nhà ban trưởng nói với Lý Thủy Cẩm rằng: “Hôm qua cúng mộ, đứa
cháu gái không biết nên nói những lời có lỗi với người chết, tối hôm qua
liền đến gây chuyện, làm cho thằng em tôi ngay đêm hôm đến nói với tôi.
Hôm nay đến đây thỉnh cầu ban trưởng nghĩ cách dùm”. Ban trưởng Lý Thủy
Cẩm thật từ bi liền cùng phó ban trưởng Lâm Ngọc Kính, luôn cả cô
Khuyến, ba người đi đến Lộc Cảng tụng một quyển kinh Di Đà, hai mươi mốt
biến chú vãng sanh và chú đại bi, Tâm kinh v.v… cho con bé, tiêu tai
giải nạn cho nó, và cho nó uống nước chú đại bi, lại bảo cả nhà niệm A
Di Đà Phật nhiều vào. Thật là không thể nghĩ bàn, nhiệt độ của con bé hạ
dần, bình an vô sự như thường. Cô Khuyến từ đó cảm thấy Phật pháp vô
biên, càng phát tín tâm sâu chắc, tinh tấn hơn gấp bội.
Tháng 2 năm ngoái, lúc liên
xã mở cuộc họp nhỏ, cô Khuyến đứng dậy xin hỏi sư phụ Bính Công. Cô nói:
“Con trước kia chưa tin Phật, trong nhà có cúng một tượng Vương Gia
Công, em gái con cũng làm một miếng kim bài nặng 3 tiền đeo trên ngực
của tượng thần. Bây giờ con đã là đệ tử Tam Bảo, con muốn thỉnh tượng
Vương Gia Công đó đưa đến miếu thần và lấy miếng kim bài đó ra đem đi
bán, rồi lấy số tiền bán được khắc một tượng Địa Tạng Bồ Tát, em gái con
đã đồng ý. Xin hỏi sư phụ có được hay không?”. Sư phụ đáp rằng: “Được!
Nhưng tượng Địa Tạng Bồ Tát này phải viết rõ là Vương Gia Công cúng
hiến, bởi vì miếng kim bài của em gái cô đã dâng cho Vương Gia Công rồi,
kim bài là vật sở hữu thuộc về Vương Gia Công. Nếu làm như lời ta nói
thì không có lỗi”. Do đây có thể thấy, cô Khuyến bây giờ đã là một tín
đồ Phật giáo chánh tín vậy.
40. VIỆC SANH TỬ CỦA AI, TỰ
NGƯỜI ĐÓ GIẢI QUYẾT
Lại nói cô Khuyến vào một
buổi sáng chủ nhựt tháng trước đến liên xã nói với tôi rằng: “Sư tỷ Khán
Trị! Nhất định phải học biết khóa tụng, tụng kinh niệm Phật, tụng chú
vãng sanh của hai thời khóa sớm tối, để một khi tai nạn đến, thì tự mình
biết niệm, mới có thể tự cứu” Cô ta lại nói: “Do vì hai tháng trước, tôi
ở Chương Hóa có một người ông bà con, nửa năm trước bị mắc một chứng
bệnh, theo lời bác sĩ ở một bệnh viện lớn ở Đài Bắc nói là bị ung thư
đường ruột, đã từng mổ ở một bệnh viện lớn, theo bác sĩ nói ruột già của
ông ta như vẩy cá không thể cắt bỏ, kêu con trai của ông nhanh chóng đưa
ông về nhà, muốn ăn thứ gì mua cho ổng ăn là tốt rồi!”. Tôi nghe nói ông
mắc chứng bệnh bất trị liền đi đến Chương Hóa thăm ông. Đến gặp bà, bà
nói với tôi: “Ông của con đã có dặn: Lúc ông ta sắp lâm chung, cần phải
trợ niệm tám tiếng đồng hồ cho ông ta, không được khóc, đám tang phải
làm chay, toàn bộ phải làm theo nghi thức Phật giáo”. Tôi nói: “Mọi
người ở đây chưa từng thấy qua người ta trợ niệm, làm sao mà biết trợ
niệm? Nếu như lúc cần hộ niệm, bà gọi điện thoại cho con, con ở Đài
Trung mời thêm mấy vị liên hữu đến trợ niệm giúp cho bà”.
Vào đầu tuần tháng hai, tôi
nhận được điện thoại của bà tôi ở Chương Hóa nói ông sắp vãng sanh rồi,
tôi vội vàng đi mời hai vị liên hữu nữa cùng tôi đến Chương Hóa, thì chỉ
thấy ông ngồi dựa trên ghế dựa nhà khách, đã hôn mê không còn biết gì,
khắp mình mồ hôi nhễ nhại, hơi thở khó khăn, tôi liền cùng hai vị liên
hữu bắt đầu niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật. Một điều khiến cho người ta
yên lòng nhất là cả nhà con gái, con trai, các cháu đều vây quanh lại
đồng thanh niệm Phật, niệm đến trưa ông đã tỉnh táo trở lại, liền nói
với mọi người rằng: “Vừa rồi có rất nhiều hung thần ác quỷ muốn bắt tôi
đi, nhưng pháp lực của Phật A Di Đà chúng ta vô biên, bây giờ đã đi hết
rồi, tôi muốn vào phòng yên nghỉ một chút”. Cô Khuyến thấy ông ta nói
chuyện đã như người bình thường rồi, liền dẫn hai vị liên hữu cùng đến,
đi ra quán chay gần đó ăn cơm trưa, sau đó mua hai vé xe đưa họ về Đài
Trung trước.
Cô Khuyến do vì buổi chiều
lại đến nhà người bà con thăm ông nên không cùng hai vị liên hữu cùng
về, cô Khuyến lại có một bà dì ở cửa Nam, liền trước đến bà dì nói ý
muốn nghỉ một chút, bà dì đương nhiên rất hoan nghênh, liền dọn một
phòng khách sạch sẽ, yên tĩnh cho cô nghỉ. Cô Khuyến một mình ngồi trên
giường, lúc còn chưa nhắm mắt, bỗng nhiên nhìn thấy rất nhiều hung thần
ác quỷ đi đến, túm chặt đầu tóc của cô dộng xuống giường túi bụi, làm
cho cô Khuyến đau đến nỗi ngay cả đến niệm Phật cũng niệm không ra
tiếng, đành dùng tâm niệm A Di Đà Phật, tâm niệm không ngừng, bọn ác quỷ
kia đương cự không lại, mới buông ra chạy đi.
Cô Khuyến tỉnh lại không dám
nói với bà dì vội vã từ biệt, cũng không có đến nhà người ông bà con
nữa, mà đón xe đi thẳng về Đài Trung. Vừa vào đến trong nhà vội vã đến
bàn Phật đốt đèn thắp hương lên tụng kinh A Di Đà, lại còn tụng mấy trăm
biến chú vãng sanh, rồi lại niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật. Tụng niệm
xong, liền quỳ xuống hồi hướng rằng: “Bạch Phật A Di Đà, xin ngài làm
chủ cho con, con hôm nay tụng kinh, chú, niệm Phật, hết thảy xin bố thí
cho những hung thần ác quỷ đánh con hồi trưa ở Chương Hóa, khiến cho họ
lìa khổ được vui, về sau không còn đến quấy rầy con nữa, và cũng không
còn quấy rầy người ông bà con của con nữa”. Thật là không thể nghĩ bàn,
từ đó về sau cô Khuyến được bình an vô sự, người ông bà con cũng lần lần
mạnh khỏe lại như thường, đã có thể đi bộ đến chợ gần đó đi tản bộ hóng
mát, mãi đến ngày 23 tháng Tư, 3 giờ đêm bỗng nhiên dứt thở, nhứt thời
không kịp mời người đến trợ niệm. Đây chứng minh, lúc bình thường không
có cái nhân niệm Phật, lúc lâm chung không có được cái duyên trợ niệm,
mặc dù mong được người trợ niệm, nhưng cũng không thể được!
Cho nên nói: “Ai ăn nấy no,
việc sanh tử của ai người đó giải quyết”. Độc giả nếu muốn tiêu tội
nghiệp cầu vãng sanh, thì nhất định phải tự mình niệm Phật cho nhiều,
bảo đảm nơi ở được bình an, đi ra đường được vô sự. Đồng thời thân này
lúc mạng chung, được gặp duyên lành, vãng sanh Cực lạc.
41. THƯỜNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC
THOÁT KHỎI TAI NẠN
Một câu A Di Đà Phật, vốn là
thuốc A Già Đà, có thể trị bá bệnh tiêu tai khỏi nạn, thật sự rất tốt. Ở
đây lại kể ra một vị niệm Phật thành khẩn được cảm ứng. Nhà vị cư sĩ này
ở đường Tam Dân Đài Trung, nguyên quán Phúc Châu, tên là Tôn Phụng Anh
tuổi khoảng hơn ba mươi. Cô ta lúc trẻ ở Đại lục đã tin Phật, đã trồng
căn lành. Lúc kháng chiến thắng lợi, Đài Loan được khôi phục, sau khi cô
ta chuyển về Đài Trung, bắt đầu niệm Phật, do vì là hàng xóm của bà Vạn,
đã từng tham gia ban Phục Hưng của liên xã, nhưng cô ta cách ban Song tu
rất gần, buổi giảng kinh các ngày chủ nhựt thường đều tham gia. Có một
hôm cô ta nói với tôi: “Sư tỷ! Tôi niệm Phật A Di Đà được cảm ứng như
thế, sao mà khuyên người ta niệm Phật, người ta đều chẳng chịu niệm?”.
Tôi hỏi cô ta từng được cảm ứng như thế nào? Cô ta liền đem một đoạn sự
thật bảy năm trước nói với tôi.
Cô ta nói: “Vào tháng 7, bảy
năm về trước có một lần bão lớn. Nhà vệ sinh lúc trước của nhà tôi là
làm bên một con rạch sau nhà, cách nhà một đoạn. Kế bên nhà vệ sinh có
một cây đa lớn từ thời Nhật chiếm cứ để lại. Tôi 9 giờ tối đêm đó ra đi
vệ sinh. Lúc bước vào nhà vệ sinh, bên tai liền nghe dường như có người
nói với tôi “Nhanh nhanh đi ra! Nguy hiểm, nguy hiểm!”, liên tiếp nghe
được ba, bốn lần như thế. Tôi sợ quá chạy ra ngay, u một hơi chạy vào
trong nhà bếp, bỗng nhiên nghe một tiếng rầm to như sét đánh, chỉ thấy
cây đa to kia bị gió thổi ngã, ngã xuống đúng ngay nhà vệ sinh, nếu như
nó ngã vào nhà thì thật không biết ra sao! Chồng tôi vừa nhìn thấy nhà
vệ sinh bị cây đa ngã đè, liền to tiếng gọi con cái, biểu nhanh nhanh ra
cứu má tụi bây, bả đang ở trong nhà vệ sinh kìa! Nếu như bị đè thì tiêu
rồi! Tôi lúc đó từ nhà bếp ung dung đi ra vừa cười vừa nói với chồng con
rằng: “Tôi ở đây nè, không cần phải lo sợ, do vì Phật A Di Đà kêu bên
tai tôi nhanh chóng đi ra, nguy hiểm, nguy hiểm! Thành ra tôi không đi
vệ sinh gì cả liền chạy ra, vừa chạy đến nhà bếp cây đa to liền ngã
xuống. Nếu như không có Đức A Di Đà Phật đại từ đại bi cứu tôi, e rằng
bây giờ tôi đã tan xương nát thịt rồi!”. Tôi nghe xong truyện cảm ứng
của cư sĩ Tôn Phụng Anh, bèn khen và chúc phúc cô ta. Lại hỏi cô ta:
“Phương pháp tu hằng ngày của cô như thế nào?”. Cô ta nói: “Chồng tôi là
một viên chức nghèo, lại có sáu đứa con vừa trai vừa gái, cho nên nhất
định phải lượng mức thu mà chi. May được tu theo pháp môn này không cần
phải tốn tiền gì cũng có thể tu được. Tôi hằng ngày sớm tối ngoài thắp
hương lễ Phật ba lễ ra, lúc giặt đồ cũng niệm Phật, lúc nấu cơm cũng
niệm Phật, lúc quét nhà cũng niệm Phật. Tôi cứ như thế luôn luôn niệm
trong tâm tôi. Gặp người hàng xóm liền khuyên họ niệm Phật, khuyên họ đi
nghe giảng kinh, đáng tiếc là họ đều không tin, có người còn cho tôi là
ngu mê, cho nên xem họ suốt ngày đều nói chuyện tào lao luống qua ngày
tháng, rất là tội nghiệp cho họ”. Tôi liền an ủi cô ta, nói rằng: “Cô
dụng công như thế, tâm không rời Phật, cuối cùng nhất định được giải
thoát. Đời này không có biện tài độ chúng sanh, phát nguyện vãng sanh
Cực lạc, lúc đầy đủ biện tài, thừa nguyện lực trở lại, cứu độ hết thảy
chúng sanh”.
Cư sĩ Tôn Phụng Anh có một
hôm lại nói với tôi: “Tôi vào mùa hè năm ngoái, cũng từng nhờ Phật gia
bị, thoát khỏi được tai nạn một lần”. Tiếp theo cô ta nói: “Việc xảy ra
vào tháng 5 năm ngoái, có một đêm khoảng hơn 2 giờ, ở trên mạch đập của
cánh tay trái tôi, đang ngủ bỗng nghiên bị con gì cắn một cái, đau thấu
tim phổi, lập tức lớn tiếng kêu đau, chồng tôi và đứa con lớn thức dậy
thì thấy một con trùng lớn đang bò trên cánh tay tôi, hai cha con liền
tóm lấy con trùng to đó dán chặt trên tường. Tôi lúc đó đau muốn chết,
chỗ bị cắn dường như có cái gì đó, nó chạy khắp người, thẳng lên đau đến
trên óc, có cảm giác như cái đầu phình to lên như cái đấu, nhưng trong
lòng rất hiểu cái đau nhức dữ dội đó, nếu như đau đến trong tim thì bỏ
mạng, do vì ngực ngạt đến nỗi thở không được, tôi tự nghĩ nhứt định số
mạng đã định sống đến đây là hết, e không có cách gì cứu được! Lúc tôi
bị cắn, thì cảm thấy sanh mạng khó giữ, do vì đau quá, tôi liền nhứt tâm
to tiếng niệm “A Di Đà Phật”. Mặc dù cái đau đã chạy đến trên óc, cho dù
nó chạy đến trong tim, tôi vẫn cứ một mực nhứt tâm niệm Phật, hy vọng
Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn tôi đi”. Lúc đó tôi bèn hỏi cô ta: “Chạy
đến trong tim là mất mạng, nhưng cô uống thuốc gì hay chích thuốc gì mà
cứu được vậy?”. Cô ta đáp: “Đêm hôm khuya khoắt, đi đâu mời thầy thuốc?
Không có chích cũng không có uống thuốc gì hết, tôi tự mình một lòng một
dạ chỉ muốn vãng sanh Tây phương, cứ niệm Phật mãi không dứt, niệm đến
không còn sợ gì nữa hết, trong tâm không còn vướng mắc chút gì, chỉ có
một câu “A Di Đà Phật”. Ngay lúc đó, bỗng nhiên thân thể cảm thấy nhẹ
nhàng dễ chịu lại, không những đầu không còn đau, ngực cũng không còn
ngạt nữa, chưa đến sáng đã tỉnh táo lại, tinh thần cũng vẫn như cũ,
nhưng cũng còn rất mỏi mệt, hôm sau nằm nghỉ trên giường một ngày thì
bình an vô sự”.
Tôi lại hỏi cô ta: “Con trùng
đó nó ra làm sao? Bao lớn? Tại sao cắn người đau ghê gớm vậy?”. Cô ta
nói: “Hiện giờ vẫn còn dính trên vách dài khoảng một thước (thước Tàu),
có rất nhiều chân”. Tôi hỏi cô ta màu gì? Cô ta nói màu đỏ nhạt. Tôi
nói: “Đó chẳng phải là con rít sao? Cô thật là có căn lành, gặp lúc nguy
cấp còn biết nhứt tâm niệm Phật, nếu không thì bị rít cắn rất là nguy,
còn nguy hơn là rắn độc nữa, thường hay gây ra cho người ta đến chết!”.
Hai
chuyện cảm ứng kỳ dị trên đây là chính miệng liên hữu Tôn Phụng Anh nói
với tôi.
42. CÀNH TRÚC BÁO BÌNH AN,
RỚT XUỐNG NƯỚC ĐƯỢC CỨU
Sư tỷ Trần Thường Nga là một
người rất thú vị, rất từ bi trong làng lão liên hữu chúng tôi. Bà đã có
con cháu đầy nhà, ở đường Đốc Hành trung tâm thành phố, hiện đã bảy mươi
tám tuổi, nhưng tai mắt vẫn tinh tường, trí nhớ rất tốt, cho nên từ hồi
trẻ đã học biết phân các loài cỏ thuốc, mỗi thứ cỏ thuốc nào trị bệnh gì
bà nhớ rất rõ ràng. Có một lần tôi hỏi bà: “Sư tỷ! Bà lạy Phật thành
khẩn như thế không biết đã từng được cảm ứng chưa?”. Bà ta nói rất
nhiều, thế là bắt đầu kể việc cảm ứng niệm Phật của chính bà đã trải
qua.
Sư tỷ Thường Nga nói: “Khoảng
18 năm trước, lúc tôi ở Ô Nhựt đã quy y Tam Bảo, sớm tối rất thành kính
lạy Phật. Có một hôm ngủ trưa, chiêm bao thấy một thiếu nữ mặc đồ trắng,
tay cầm cành trúc dài khoảng bốn thước (thước Tàu), hai đầu dùng vải đỏ
bịt lại, rất là đẹp. Thiếu nữ áo trắng nói: “Tuổi thọ đã đến rồi! Cầm
cành trúc này, cho bà trị bệnh đó!”. Nói xong liền biến mất. Đến khi tôi
thức dậy, cảnh trong chiêm bao vẫn cứ như trước mắt. Liền nói với con
dâu việc trong mộng, con dâu cũng ngơ ngác không biết gì!
Đến hơn 5 giờ chiều, đứa cháu
nội nói với tôi là ông bác nhà kế bên bị cảm nặng, muốn bà nội tìm cỏ
thuốc cho ông ta uống, tôi liền lấy một cái giỏ, đi tìm cỏ thuốc, nửa
đường gặp một thằng nhỏ, nó nói: “Bà ơi! Phía trước có một con chó dữ
hay cắn người ta, bà nên đề phòng”. Tôi liền thuận tay bẻ một cành trúc
bên đường, rồi nói với thằng nhỏ: “Cám ơn cháu, bà đã có cành trúc này,
chó đến không có sợ”. Thật tình con chó nó sợ cành trúc, ngay cả không
dám sủa một tiếng.
Đợi đến lúc tôi tìm cỏ thuốc
đủ rồi, ở bên con rạch, bỗng có một đứa mục đồng, dắt một con bò bụng
rất to, lúc con bò đó đi đến gần tôi, đột nhiên nó hất đầu một cái làm
cho tôi ngã nhào, lộn mình té vào trong con rạch, nước sâu hơn một
trượng. Lúc đó trong tâm tôi tự nghĩ nhất định không còn sống được, vì
nước sâu hơn trượng chảy mạnh, chân đạp không tới đáy, lúc thân nổi lên,
giỏ thuốc đã bị nước cuốn đi, nhưng cành trúc vẫn còn nắm cứng không
buông, tôi lại không biết bơi thành ra cứ uống nước ồng ộc. Trong lúc
nghìn cân treo sợi tóc, chú bé mục đồng rất thông minh, liền lớn tiếng
kêu: “Bà ơi, cành trúc nắm trong tay bà, đưa qua bên này đi tôi kéo bà
lên!”. Tôi nghe xong liền đưa cành trúc qua cho mục đồng, hai tay nắm
chặt lấy, chú mục đồng cũng rất cố sức, cũng hai tay nắm chặt lấy cành
trúc, từ từ kéo tôi lên, cuối cùng cứu được tôi lên bờ.
Người ta nhìn thấy y phục tôi
ướt sũng hết, thật giống như con gà mắc nước, đều khen tôi có phước.
Nghe nói tại chỗ đó người ta rớt xuống đều bị nước cuốn đi, không có
người nào được cứu, đã có mấy chục người chết nơi đó, tôi mới nhớ lại
giấc mộng kỳ diệu, cành trúc và thiếu nữ bạch y cho tôi thấy trong mộng,
cùng với cành trúc bẻ bên đường dài như nhau, chỉ là trúc ở nhơn gian
không có đẹp như thế.
Trên đây là truyện linh cảm
đã từng trải qua do sư tỷ Thường Nga thuật lại. Tôi liền khen ngợi bà
ta có duyên với Phật A Di Đà, Phật A Di Đà lại có tên là “Vô Lượng Thọ”,
đức Quan Âm đại sĩ hóa làm thiếu nữ bạch y nói với bà: “Tuổi thọ đã đến,
tặng bà cành trúc này cho bà trị bệnh”, cành trúc trong mộng vốn là điều
tốt đẹp nhất, nên nói là điềm tốt “trúc báo bình an”, đây là lòng từ bi
của đức Đại y Vương Vô lượng thọ Phật vì cứu trị tai họa cho bà, khiến
cho bà khỏi được oan hồn trong nước; cành trúc này chính là điềm báo
trước cho bà được bình an, có thể thấy được Phật pháp vô biên, không thể
nghĩ bàn.
43. Ở CÕI ĐỜI NÀY TRƯỚC ĐƯỢC
NGHE THIÊN NHẠC Ở HƯ KHÔNG
Lại nói về sư tỷ Thường Nga,
từ sau khi biết đi chùa lạy Phật, hai thời khóa sớm tối tụng Kinh Di Đà,
tụng đến rất thuộc, từng chữ rõ ràng, cho nên có mấy vị lão liên hữu đều
thích nhờ bà dạy học Kinh Di Đà, khi bà tụng đến đoạn “thường tác thiên
nhạc, xuất vi diệu âm” bà thường nghĩ: “Nếu như trước khi chưa vãng
sanh, trong đời này, ở cõi này mà có thể nghe được âm thanh vi diệu của
thiên nhạc, không biết sẽ thích thú như thế nào?”. Trong một mùa hè mười
năm trước, phía sau nhà ở của sư tỷ Thường Nga có trồng một giàn dưa
leo, từng trái từng trái vừa to vừa non lủng lẳng, lão sư tỷ mắt nhìn
dưa vừa chín, muốn ăn thử quả dưa tươi mới, bèn kêu con dâu vào nhà bếp
chuẩn bị trước, tự bà đi ra giàn dưa, leo lên trên thùng phuy xăng muốn
hái dưa, đang lúc hái hết trái này qua trái khác, vừa hơi không cẩn
thận, cái thùng phuy xăng không chịu được nặng, lão sư tỷ và cả thùng
ngã lăn ra, nằm im dưới giàn dưa khoảng mười mấy phút, con dâu của bà
đợi trong bếp thấy lâu quá, nghĩ sao mà má chồng đi hái dưa lâu như thế
mà chưa vào, liền đến giàn dưa xem, vừa trông thấy sợ hãi thất sắc, liền
miệng la lên “Má, má!”. Lại cho là bà bị chấn thương não, hôn mê ngã
trên đất không biết gì nữa! Lúc đó đột nhiên sư tỷ chặn lại sự huyên náo
của con dâu: “Đừng kêu nữa! Ta đang yên tĩnh nghe tiếng nhạc hay ho kỳ
diệu, nghe đến tinh thần sảng khoái, bị ngươi kêu, làm mất tiêu hết
rồi!”. Con dâu của bà nói: “Âm nhạc ở đâu, sao con không nghe thấy?”. Sư
tỷ lại nói với tôi: “Lúc đó tôi ở dưới đất đứng dậy, dựng thùng phuy
xăng dậy xong, lại leo lên hái tiếp hai trái dưa, xong mới cùng con dâu
đi vào nhà bếp”.
Bà lại nói: “Cho dù bây giờ
nhớ lại lúc đó, thì âm thanh vi diệu của thiên nhạc, thật là ở thế gian
chưa từng nghe qua, cho nên nói là một âm nhạc không thể nghĩ bàn!”. Tôi
hỏi bà ta “Cái âm thanh vi diệu đó từ hư không đến, hay là âm nhạc phát
ra từ chỗ nào đó?”. Sư tỷ nói: “Lúc đó cảm giác như là ở trên đầu, nghe
rất gần”. Tôi nửa đùa nửa thật nói: “Vạn pháp do tâm tạo, hồi xưa có một
họa sĩ vẽ ngựa, ông ta suy nghĩ rất lâu về cách cấu tạo và động tác của
ngựa, tự mình lại biến thành ngựa, chính là cái đạo lý này, do vì chị
suốt ngày nhớ tưởng, muốn nghe được thiên nhạc ở hư không của thế giới
Cực lạc ở Tây phương, lâu dần bèn thật sự nghe được, có lẽ là tác dụng
của tâm lý!”.
Sư tỷ lập tức cải chánh nói:
“Đích xác là cảm ứng của Phật A Di Đà, nếu không thì lúc tôi ngã, dưới
đất đều là đá gạch vỡ, lại ngay cả một vết trầy sướt cũng không có, lúc
đó tôi đã là bà già sáu mươi tám tuổi rồi. Nếu như không phải Phật A Di
Đà đại từ đại bi gia hộ, làm gì có được êm thắm như vậy?”.
44. MỘT TIẾNG DI ĐÀ, KHIẾN XE
ĐƯỢC NGỪNG LẠI
Vị lão sư tỷ Thường Nga này
còn có một người con gái lớn tên là Nhung, mọi người đều gọi cô là A
Nhung, năm nay 43 tuổi, chồng cô là kỹ sư xây dựng, nhà ở Đài Đông. Cô A
Nhung này từ lúc trẻ đã bị chứng bao tử thòng, thầy thuốc Đông Tây trị
hàng chục năm; những phương pháp bí mật hay những loại thuốc đặc trị đều
không hiệu quả, bệânh mãi đã đến gầy như que củi. Năm năm trước sư tỷ
Thường Nga đến Đài Đông thăm, nhìn thấy con gái bị bệnh bao tử nặng như
thế, liền nhớ đến thuốc A già đà trị được muôn bệnh, liền khuyên con gái
chí tâm niệm Phật và kể rất nhiều truyện cảm ứng không thể nghĩ bàn nhờ
niệm “A Di Đà Phật”. Dạy con gái phải gắng sức niệm Thánh hiệu A Di Đà
Phật làm cách trị liệu có hiệu quả nhất về mặt tinh thần. Sư tỷ ở Đài
Đông mười mấy ngày thì nghe nói gần đó có một cơ sở liên xã Phật giáo,
liền dẫn con gái đi đến đó lạy Phật, niệm Phật và quy y Tam Bảo. Từ đó
về sau, con gái của bà đã là đệ tử Tam Bảo, làm một vị tín đồ thuần
thành của Phật giáo, hai thời khóa sớm tối, dù bận gì cũng đều tham gia
đầy đủ. Không biết lúc nào, bệnh bao tử đau khổ nhiều năm nay, rốt cuộc
tiêu mất hết, sức khỏe hồi phục. Chỉ có trong một năm, do sự dẫn dắt của
sư phụ và các liên hữu, cô ta chẳng những biết tụng kinh, xướng tán,
tụng niệm hai thời sớm tối ở liên xã, ngay cả đến các pháp khí cũng đều
học biết rành rẽ. Tục ngữ nói: “Phật pháp không phải việc khó, chỉ sợ
tâm không chuyên” thật là rất đúng!
Sau
khi A Nhung mạnh khỏe trở lại, gia đình ngày càng hưng long, mua thức
ăn, làm việc gì thì dùng xe đạp đi, hai năm gần đây, xe đạp bị chê và bị
đào thải, liền mua một chiếc xe gắn máy màu đỏ 50 phân khối, muốn đi đâu
thì đi, vừa tiện vừa khỏe, suốt ngày rất vui vẻ, vừa làm Phật sự, vừa
giúp nghiệp vụ cho chồng, nhất là nhiệm vụ người đàn bà trong gia đình,
trong ngoài đều tươm tất.
Vào
tháng 3 năm ngoái, một hôm hơn 8 giờ sáng A Nhung như thường lệ chạy xe
gắn máy muốn đến chợ mua đồ, đi được nửa đường bỗng nhiên máy xe xảy ra
sự cố, thắng chân thắng tay đều hư, không thắng lại được, liền tức thời
xe như con ngựa hoang, xông xáo bừa bãi, đại khái mỗi con đường ở Đài
Đông đều chạy qua như giông như gió, nguy hiểm suýt đụng chết một cô gái
vùng núi, may mà cô gái né rất nhanh, chưa bị tai nạn. Lúc nguy hiểm
ngàn cân treo sợi tóc này, A Nhung trong lòng sợ đến nỗi mơ mơ màng
màng, cũng không có cách gì, cứ chạy mãi. Lúc sắp xông vào một cửa hàng,
trong khoảnh khắc sắp đụng vào cây cột to trước cửa, thì trong miệng A
Nhung bỗng nhiên kêu to một tiếng “A Di Đà Phật”. Nói ra cũng thật kỳ
lạ, chiếc xe gắn máy đó lập tức thụt lùi lại, lùi đến chính giữa đường
lộ, chiếc xe tự động dừng lại, A Nhung vội vã xuống xe, sợ đến nỗi mặt
không còn chút máu, tim đánh thình thịch, trong miệng thì vẫn cứ niệm “A
Di Đà Phật” không ngớt.
Lúc đó
rất nhiều người vây lại xem, người và xe không việc gì, mọi người đều
chúc phúc cho cô ta, nói là: đại nạn mà không chết, nhất định là có
phước dày. A Nhung sau khi trải qua lần tiêu tai khỏi nạn này, liền nhớ
lại mẹ có tâm từ bi khuyên cô niệm Phật, trước thì hết chứng bệnh quái
ác, tiếp theo lại được giải thoát lần tai hoạ ghê gớm này, cho nên vô
cùng cảm tạ, bèn nhờ người đến Đài Trung mời mẹ của cô đến ở chơi vài
tháng.
Chuyện trên đây là sư tỷ
Thường Nga sau khi từ Đài Đông về, đến cuộc họp liên nghị, chính miệng
nói với tôi một sự thật niệm Phật cảm ứng của con gái bà.
45. ĐỊA TẠNG BỒ TÁT CHỈ ĐIỂM
BÌNH AN
Thân là cội gốc của các khổ,
vốn không đáng tiếc; nhưng thân có thể tải đạo, cũng không thể không
trân trọng. Những lời này là những lời của các bậc Đại đức thuở xưa tả
về cái thân này của chúng ta là cái thân nghiệp báo chứa nhóm những tội
ác, sống trên cõi đời chẳng qua chỉ vài mươi năm ngắn ngủi, đâu đáng quý
trọng. Nhưng nếu muốn được giải thoát thì phải mượn giả tu chân, chẳng
kể là tu học Phật pháp hay lạy Phật, niệm Phật, đều phải nhờ vào thân
này; lúc tự mình gặp phải tai nạn nguy khổ thì tự mình niệm Phật, tự
mình được cứu. Không tin, hãy xem chuyện dưới đây:
Vào 3 giờ chiều ngày chủ nhật
12 tháng 6 âm lịch là ngày hội giảng kinh định kỳ của ban Song tu của
Liên xã. Đến 5 giờ giảng xong, sau khi niệm kệ hồi hướng bỗng có một vị
thính chúng mới, đứng dậy hướng về mọi người nói: Nhà tôi ở Hợp tác Tân
thôn, chồng tôi họ Hoàng, tôi hiện muốn đem chuyện cảm ứng chính tôi đã
trải qua báo cáo cho mọi người nghe, để đáp tạ ân đức của Phật A Di Đà
và Địa Tạng Bồ Tát.
Bà Hoàng kể: Vào tháng 2 năm
Dân quốc thứ 54, tôi có một lần đi du lịch ở Đài Bắc, ở chợ gặp một
người gánh một gánh rùa mời chào, hỏi tôi muốn mua rùa không? Tôi liền
nói với anh ta: “Tôi là người xứ khác, mua rùa làm gì?”. Tôi chơi ở Đài
Bắc hai ngày về đến Đài Trung, qua ngày sau thì ở chợ Đệ Nhất lại gặp
người bán rùa ở Đài Bắc, bị anh ta nhìn thấy, lại kêu tôi và nói: “Bà
ơi! Ở Đài Bắc bà nói bà là người xứ khác, bây giờ bà đã về nhà rồi, bà
nên mua đi!”. Tôi liền bỏ ra 50 đồng mua bốn con rùa đem về nhà, đưa cho
con dâu bảo nó đem bỏ ở miếng đất trống phía sau nhà để nuôi, hằng ngày
cho ăn lá cải và cơm. Có một hôm lúc tôi không có ở nhà, con dâu tôi
liền bắt một con rùa ra giết, đứa con gái nhỏ mười lăm tuổi của tôi, ở
bên nhìn thấy thì sợ quá, co rút hai tay ra phía sau nói với con rùa
rằng: “Rùa ơi! Tay của tao bị người ta cột rồi, nên không thể cứu mày
được”. Lúc tôi về nhà thấy một con rùa bị giết liền quở trách con dâu
rằng: “Mua rùa về là để phóng sanh, không phải để cho cô giết ăn”. Đêm
đó tôi nằm mộng thấy một người nói với tôi: “Tai họa của bà đến rồi”.
Lúc thức dậy trong lòng cảm thấy thắc thỏm không yên.
Đứa con gái nhỏ của tôi ba
năm trước là mười lăm tuổi, học tiểu học, sau khi nhìn thấy cảnh giết
rùa, một buổi sáng ba ngày sau, lúc nó chạy xe đạp đi học ở trên đường
Tự Do, thì bị một chiếc xe ba gác máy chở heo đụng ngã, người lái xe ba
gác máy đó nhìn thấy cô bé lúc cả người lẫn xe ngã bên đường, trong
miệng vẫn còn la to ba lần “A Di Đà Phật” rồi trong miệng chảy ra rất
nhiều nước dãi, trong lỗ tai lại chảy máu ra, liền hôn mê bất tỉnh nhân
sự, may mà anh lái xe ba gác máy đó tức khắc nhảy xuống bồng nó lên, đón
taxi đến bệnh viện khoa ngoại Trọng Tân, bác sĩ nói: xương đầu đã vỡ và
ra máu, không dám nhận trị! Anh lái xe đó lại đưa nó đến bệnh viện khoa
ngoại Lý Hựu Kiết, bác sĩ Lý vừa xem cũng nói thương thế rất nặng, đầu
vỡ, máu chảy, bất tỉnh nhân sự, hãy nhanh chóng đưa đi bệnh viện tỉnh
lập (bệnh viện nhà nước ở Đài Trung). Anh lái xe lại đưa nó đến
khoa ngoại của bệnh viện tỉnh lập, anh lái xe năn nỉ bác sĩ: “Trong nhà
cô bé này, chắc chắn có người tin Phật, đang lúc hai xe đụng nhau trong
miệng cô ta vẫn còn la to “A Di Đà Phật” luôn ba lần, rồi mới chảy nước
dãi, và hôn mê luôn. Xin bác sĩ nhanh nhanh chích thuốc cấp cứu dùm”
Lúc cô bé cấp cứu ở bệnh viện
may mà có một nhân viên trong cửa hàng bán gạo nhận biết nó, liền chạy
đến nhà tôi ở hợp tác xã Tân Thôn cho chúng tôi hay việc tai nạn xe, vợ
chồng tôi tức thời đến bệnh viện xem, chăm sóc, lúc đó con bé còn có hơi
thở thoi thóp yếu ớt, máu trong lỗ tai vẫn còn chảy ra mãi. Lúc đó người
làm cha mẹ mắt nhìn thảm trạng của con gái như thế, thật đau lòng, không
dám nghĩ sẽ hồi phục lại như cũ; bác sĩ cũng không dám bảo đảm chắc về
tính mạng, tất cả bà con bạn bè đến thăm hỏi an ủi cũng đều nói lành ít
dữ nhiều, mãi đến ngày thứ sáu tính từ hôm vào viện, vẫn cứ trầm trọng
như thế, không có một chút biến đổi nào khả quan.
Nhưng kỳ tích không thể nghĩ
bàn, khiến người khó tin nổi, cuối cùng đã xảy ra. Vào cái ngày thứ sáu
đó, trong đêm lúc tôi đang nửa thức nửa ngủ, thì nhìn thấy một vị Bồ Tát
tướng mạo trang nghiêm, đến bên giường bệnh nói với tôi: “Ta là Địa Tạng
Bồ Tát đến báo tin cho ngươi, con gái của ngươi rất có căn lành, hiện
đang ở chỗ của Phật tổ, ngày mai sẽ trở lại, nó sẽ còn mau lành bệnh hơn
những người bệnh khác trong phòng nữa, ngày mai có thể xuất viện, sau
này thân thể mạnh khỏe, bình an vô sự”. Nói xong phất phới bay đi.
Lúc tôi đem cảnh trong mộng
này nói với chồng tôi, hai người đều nửa tin nửa ngờ hầu như cho là
không thể có việc dễ dàng cho mình như thế. Qua ngày thứ bảy, con nhỏ
vẫn cứ hôn mê chưa tỉnh, nếu như thế tôi là kẻ nằm mộng mê mờ, nhưng ông
ta lại nói với tôi là Địa Tạng Bồ Tát đến chỉ điểm cho tôi mà, nói nghe
rõ rõ ràng ràng!… Lúc đó chồng tôi đang ngồi một bên giường của con gái,
thì bỗng nhiên cánh tay phải đã một tuần không có nhúc nhích, giở lên rờ
rờ mặt của ba nó, tay trái cũng đồng thời giở lên, hai tay rờ rờ mặt ba
nó một hồi, lúc rờ đến cái cà vạt, liền cuốn tròn cái cà vạt lại, rồi mở
mắt ra, mặt mày hớn hở kêu lên “Ba!”. Lúc đó người làm cha mẹ nhìn thấy
con gái đã nói chuyện được, con ma bệnh như biến mất, nỗi vui trong lòng
thật khó tả. Con nhỏ lại nói: “Con không có bệnh gì hết, tại sao lại nằm
bệnh viện?”, liền liếng thoắng đòi về nhà. Ngay trong buổi chiều ngày
hôm đó, cuối cùng thật sự xuất viện về nhà. Con bé từ sau khi về nhà,
tinh thần mãi đến nay rất tốt, trí huệ lại tăng trưởng, hiện học trung
học thành tích lại hạng ưu, dung mạo cũng thay đổi xinh đẹp phước tướng.
Phật, Bồ Tát đại từ đại bi khiến cho nó khởi tử hồi sinh, thật là không
thể nghĩ bàn.
46. CHÍ THÀNH NIỆM PHẬT,
ĐƯỢC VÃNG SANH VỚI SẮC DIỆN HÒA VUI
Lại nói về bà Hoàng, bà ta
lại kể với mọi người rằng: gần nhà của bà có một tiệm uốn tóc của ba chị
em mở ra, mọi người đều gọi mẹ của ba chị em là bà chủ, thành ra cũng
không biết tên họ ai hết. Do vì mẹ của ba chị em muốn đi theo ngoại đạo,
nên bà Hoàng đến dẫn dắt bà ta theo Phật, kể cho bà ta nghe rất nhiều sự
tích cảm ứng, và mời bà ta đến nhà tham bái tượng Phật trang nghiêm. Mẹ
của ba chị em đó thấy bà Hoàng có hai xâu chuỗi treo trên tường liền
nói: “Bà có hai xâu chuỗi, cho tôi một xâu được không?”. Bà Hoàng liền
nói: “Không được! Không được! Để hôm khác tôi đi tìm một xâu cho bà”. Bà
Hoàng lúc đó cười cười nói: “Tôi thật sự lúc đó có chút bỏn sẻn!”.
Qua mấy ngày sau lúc hơn 5
giờ sáng đứa con trai kế của bà Hoàng vừa mở cửa liền lớn tiếng kêu lên:
“Má à, xâu chuỗi của má làm sao mà rớt bên cửa nè!”. Bà Hoàng vừa ngồi
dậy bước xuống giường, bèn chân không chạy đến cửa xem, đúng là một xâu
chuỗi, hai tay nhặt lên xem kỹ đúng là một xâu chuỗi hạt Bồ đề thật 108
hạt, lại có đính một miếng nhỏ tượng Tây phương Tam Thánh. Lúc đó trong
tâm bà Hoàng nghĩ: Hôm nay là ngày mùng 2 tháng giêng, không biết người
tu hành ở đâu đánh mất xâu chuỗi, hiện chắc chắn đang rất lo, bà nghĩ
tới nghĩ lui, hay là đem xâu chuỗi đến bến xe công cộng đưa cho nhân
viên làm việc ở đó và cô trưởng trạm xe nói: Xin đem xâu chuỗi này treo
lên trên lồng đèn sắt mời nhận, nếu như người nào đánh rơi lại nhìn, thì
trả lại cho người ta. Nhưng qua ba ngày, lúc bà Hoàng trở lại bến xe
xem, thì xâu chuỗi vẫn còn treo y nguyên chỗ đó. Có một anh tài xế nói
với bà: “Bà ơi! Tôi muốn xâu chuỗi đó, bà cho tôi được không?”. Bà Hoàng
nói: “Không được! Không được! Xâu chuỗi này là của mẹ ba chị em xin. Có
lẽ là Phật A Di Đà đưa đến cho bà ta đấy”. Nói chưa dứt lời, thật rõ
khéo, mẹ của ba chị em đã đến trước mặt, bà Hoàng liền lấy xâu chuỗi cho
bà ta, bà mẹ của ba chị em hai tay tiếp lấy, vui mừng hớn hở, luôn miệng
cảm tạ lòng từ bi của Phật.
Lại nói về ba chị em đó còn
có một bà nội đã tám mươi bốn tuổi, bệnh tật triền miên suốt mấy tháng,
đã đến lúc nguy kịch khó chữa, khoảng năm ngày rồi không ăn được gì,
ngày qua đêm lại tinh thần rối loạn điên đảo, kêu nói lung tung. Mẹ của
ba chị em liền nghĩ đến phải mời bà Hoàng đến nhà hỏi thăm ý kiến xem
phải làm thế nào? Bà Hoàng đến ngay nhà họ, vừa xem người sắp mạng
chung, hiện ra những tướng xấu như thế, tức thời gọi con cháu cả nhà tề
tựu lại, nói với họ rằng: “Tất cả đều phải chí thành chắp tay ở bên bà
cụ niệm A Di Đà Phật, nếu ai không biết niệm, chỉ cần niệm theo tôi,
từng câu từng câu không được lộn lạo, niệm phải cho rõ ràng, có quy
củ!”. Thật là Phật pháp vô biên, không thể nghĩ bàn. Mọi người niệm được
hơn một tiếng đồng hồ, thì gương mặt nhăn nhó khó coi của bà già lúc
nãy, bỗng nhiên đổi ra vui vẻ, hòa nhã, trong miệng cũng niệm theo “A Di
Đà Phật”. Cả nhà trông thấy cảnh này trong lòng ai nấy đều rất vui mừng,
niệm tiếp mãi hơn mười phút sau thì bà được an nhiên vãng sanh. Bà Hoàng
lại dạy họ: người mất, sau khi hết thở tám tiếng đồng hồ, tiếng niệm
Phật không được gián đoạn. Cả nhà ba chị em đối với bà Hoàng thật là
mang ân vô cùng, bởi vì bà đã cứu được bà nội của họ thoát ly được biển
khổ.
47. DIÊM VƯƠNG CŨNG SỢ PHẬT A
DI ĐÀ
Nói tiếp về bà Hoàng này, bà
lại kể với mọi người một chuyện “Sự vĩ đại của Phật A Di Đà, cả
vua Diêm La cũng phải sợ”.
Đây là việc năm năm về trước,
ở kế nhà của bà là nhà hai mẹ con cô gái kia mướn ở. Có một đêm vào lúc
nửa khuya, bà như nửa mộng nửa tỉnh, bỗng nghe có tiếng gõ cửa, lại nghe
có tiếng rất nhiều người đang kêu mở cửa, bà Hoàng to tiếng hỏi “Ai
đó?”, thì nghe tiếng người ngoài cửa trả lời: “Ta là sứ giả vua Diêm La
phái đến tìm một người”. Bà Hoàng lại to tiếng nói: “Nhà này của chúng
tôi là người theo Phật A Di Đà, không có quan hệ gì với vua Diêm La của
các người, đi khỏi đây nhanh đi!”. Nói xong bà liền to tiếng niệm “A Di
Đà Phật”, được một lúc bà ngừng lại lắng nghe, bên ngoài đã không còn
động tĩnh gì nữa hết, bà liền mở cửa ra xem thử, thì thấy có một đám
đông người đang đi hướng ra đường lộ lớn, có người khua chiêng đánh
trống, có người mang cờ, lệnh bài, cuối cùng là một người mặc đại bào
xanh ngồi một cái kiệu to bốn người khiêng, cả đám đang vội vã chạy. Bà
Hoàng lúc đó càng gắng sức niệm Phật hơn. Vừa thức dậy hóa ra chỉ là một
giấc mộng nhưng trong miệng vẫn còn niệm “A Di Đà Phật”.
Nguyên là hai mẹ con cô gái
nhà kế bên bà Hoàng, cô con gái năm nay mười tám tuổi, vì trên cổ nổi
lên một cái nhọt to bằng trứng chim bồ câu, muốn vào bệnh viện mổ cắt bỏ
đi, hai mẹ con liền cùng đến một bệnh viện ở thành phố Đài Trung, không
may sau khi mổ thì chết! Ngày đó đúng là ngày thứ ba sau cái đêm trong
giấc mộng bà Hoàng thấy do nhờ câu A Di Đà Phật mà đuổi được bọn quỷ sai
của vua Diêm La, bà Hoàng nói bà rất tiếc cho cô gái, do vì trước khi
xảy ra việc bà không biết được hai mẹ con đi nằm viện mổ. Nếu như bà
biết thì đã cản, kêu họ không cần đi. Nhưng ba ngày trước bà không dám
nói với họ về giấc mộng “vua Diêm La sai quỷ đến đây tìm người” do vì
không biết hư thật thế nào, sau khi nói ra e rằng người ta nói dùng lời
nói yêu ma mê hoặc người, cho nên không dám nói để nhắc họ chú ý. Đáng
tiếc là họ không có tin Phật, cũng không biết niệm Phật để giải mở oán
kết. Một mai vô thường đến, người không biết niệm danh hiệu Phật, sẽ
chịu sự chi phối của vua Diêm La, không cách gì chỉ đành đi theo ông ta
thôi. Mọi người chúng ta thử nghĩ xem: người trì danh niệm Phật có vô
lượng vô số chư Phật ở sáu phương nhiều như số cát sông Hằng đều hộ niệm
người này. Tất cả quỷ thần và vua Diêm La làm sao dám đến gần người niệm
Phật. Nói như thế thì người niệm Phật sẽ không chết ư? Như thế cũng
không đúng. Người niệm Phật, nếu như đến lúc thọ mạng hết, thì chỉ có
Tây phương Tam Thánh theo âm thanh mà đến tiếp dẫn vãng sanh về nước
Phật, một đời thành tựu, vĩnh viễn không có đọa lạc trong lục đạo thọ
cái khổ luân hồi này nữa, cho nên xin khuyên các vị độc giả đến với môn
trì danh niệm Phật nhiều vào, tự mình niệm Phật, tự mình được cứu.
48. TRONG MỘNG
NIỆM PHẬT, CỨU MẸ THOÁT HIỂM
Cơ sở hoằng pháp Vụ Phong của
liên xã ở Đài Trung có một vị liên hữu niệm Phật rất cung kính, họ Hầu,
tên Anh Mãn, lại có tên là Ngân Tiếu, năm nay 38 tuổi, nguyên quán ở
làng quê Tân Dinh miền Nam, 4 năm trước theo chồng dời về ở thôn Thảo Hồ
ở Vụ Phong. Cô gái này đời trước trồng nhiều căn lành, sau khi nghe được
pháp môn Tịnh độ, tín tâm kiên cố, hai thời khóa sớm tối chưa từng gián
đoạn, có được công phu lớn mạnh hơn người: tâm không rời Phật, Phật
không rời tâm, cho nên mới được cảm ứng ở trong mộng niệm Phật cứu được
mẹ cô ta thoát được nguy hiểm hung dữ.
Ngày mùng 1 tháng 8 là ngày
giảng kinh ở cơ sở hoằng pháp, liên hữu Anh Mãn hướng về mọi người thuật
lại chuyện linh cảm của cô đã trải qua. Cô ta nói: Phật pháp đích thực
không thể nghĩ bàn, chỉ cần thành kính niệm Phật thì ai cũng được lợi
ích, được cảm ứng to lớn. Tôi, một năm trước, có một đêm trong mộng,
thần thức không biết sao vô tình đi về nhà của mẹ ở Tân Dinh, bỗng nhìn
thấy một con quỷ hung ác, tay cầm một sợi dây trói mẹ tôi lại, đang sắp
lôi đi; tôi lập tức níu mẹ tôi lại không buông, lớn tiếng la to “A Di Đà
Phật đến cứu mẹ con!”. Vừa cố sức kêu A Di Đà Phật vừa mở dây ra, con ác
quỷ đó không biết bỏ đi lúc nào, không thấy nữa.
Sáng sớm thức dậy, Anh Mãn
đem cảnh giới không lành trong mộng nói cho chồng cô biết, nếu như không
phải Thánh hiệu “A Di Đà Phật” có sức oai thần như thế, thì mẹ chắc
không cứu trở lại được. Mặc dù đã nói như thế, nhưng trong lòng vẫn
không yên, nói chung cảm thấy không yên tâm lắm. Đến hơn 10 giờ, lúc Anh
Mãn đang vo gạo trong bếp, người áo xanh (áo của bưu điện) đưa
đến một lá thư nhanh, bóc ra xem mới biết là mẹ đêm qua bỗng nhiên bị
chứng xuất huyết não, hiện còn đang hôn mê. Anh Mãn tức thời sửa soạn đồ
đạc để về Tân Dinh, ngồi trên xe tạm nén nỗi âu sầu, nhất tâm khẩn thiết
niệm Thánh hiệu “Nam mô A Di Đà Phật”. Lúc xe đi ngang qua Chương Hóa,
vô tình ngẩng đầu lên trên không thì thấy Tây phương Tam Thánh hiện trên
hư không rất là sáng rỡ. Lúc đó Anh Mãn càng niệm mạnh hơn không buông
lơi lục tự hồng danh một hơi nào hết, niệm mãi đến Tân Dinh xuống xe
nhìn lại trên không thì không còn thấy nữa.
Anh Mãn về đến nhà thì thấy
mẹ mình, miệng mắt đều méo lệch, bất tỉnh nhân sự. Tay trái, chân trái,
nửa bên thân đã bị liệt. Cô liền ngồi bên mẹ niệm Phật mãi không ngớt.
Đến ngày thứ ba bà mẹ tỉnh lại và nói chuyện lại được. Anh Mãn mỗi ngày
đều cầu nước chú đại bi cho mẹ uống và bảo mẹ cũng niệm A Di Đà Phật.
Đến ngày thứ bảy tính từ ngày Anh Mãn về, thì miệng mũi của mẹ đã dần
dần hồi phục. Về sau mỗi tháng đều về thăm mẹ, mỗi lần về đều khích lệ
mẹ niệm Phật, đồng thời dẫn mẹ đến chùa quy y Tam Bảo, gieo trồng căn
lành.
Đến ngày 26 tháng 8 năm nay,
bà cụ đã niệm Thánh hiệu được hai năm, cuối cùng ra đi an tường trong
tiếng niệm Phật trợ niệm của Anh Mãn. Chuyện kể tới đây các vị liên hữu
ai nấy đều khen Anh Mãn là người con hiếu, thần thức ở trong mộng còn
biết niệm Phật đẩy lùi được quỷ, khiến mẹ khỏi rơi vào tam đồ; lại còn
biết hướng dẫn cho bà biết thành kính niệm Phật, khi lâm chung trợ niệm
cho vãng sanh Tây phương, thật là hy hữu ít có được. Tôi nói chỉ đáng
tiếc là lúc cô ta ở trên xe niệm Phật, đi ngang qua Chương Hóa thấy được
Tam Thánh thị hiện, không mang theo máy chụp hình! Nếu như chụp được tấm
ảnh ấy, há không phải là thật chứng cho Phật, Bồ Tát đích xác có thật ư?
Dùng để cảm hóa những chúng sanh cang cường khó hóa độ!
49. LÚC GIẢI PHẪU KHOÉT
THỊT Ở CÁNH TAY, THẦN THỨC DẠO CHƠI THIÊN ĐƯỜNG
Mười lăm năm trước, Tấn Lễ -
đứa con trai thứ ba (Việt Nam gọi là thứ tư) của liên hữu Chung
Chiêm Khoan Phụng mới mười lăm tuổi. Nhà họ ở phía trước rạp hát Quốc Tế
đường Phục Hưng. Lúc bấy giờ sư tỷ Khoan Phụng thường dẫn cậu ta đến
liên xã lạy Phật nghe pháp. Nhưng đời người tai nạn nhiều. Vào mùa thu
năm đó, có một buổi chiều Tấn Lễ đang đứng trước cửa nhà mình, bỗng một
chiếc xe tải lớn muốn tránh ba đứa nhỏ đang giỡn ở giữa đường, đột nhiên
khẩn cấp quẹo sang bên phải lập tức xông vào Tấn Lễ đang đứng trước cửa.
Thật là tai họa từ trời giáng xuống bất ngờ, cái móc trong lòng bánh xe
quấn chặt quần áo của nó, lôi nó đi một khoảng hai cột đèn, xe lại thắng
không dừng. Lúc đó Tấn Lễ tự nghĩ tánh mạng khó giữ được, trong cơn nguy
cấp phát sanh trí huệ, trong miệng nó bỗng nhiên nói vọt ra: “Mẹ con là
người tin Phật, xin đức Quán Thế Âm Bồ Tát mau đến cứu con đi!”. Kêu
liền ba lần như vậy; nói ra cũng thật kỳ lạ, chiếc xe liền thắng đứng
lại, chỉ còn một chút xíu nữa là bị bánh xe cán chết rồi! Nhưng cánh tay
trái đã bị xây xát nặng, từ trên khuỷu tay đến bàn tay, máu thịt và cát
đá lẫn lộn không phân biệt được. Liền đưa vào bệnh viện tỉnh lập Đài
Trung.
Tấn Lễ tội nghiệp, nhập viện
được ba, bốn ngày thì cánh tay đó sưng phù lên đen thui do vì cát đá lẫn
lộn vào trong da thịt hơi nhiều, nhứt thời lấy ra không hết, bác sĩ liền
nói với Khoan Phụng rằng: “Cánh tay này của con cô phải cưa bỏ mới an
toàn, nếu không thì nguy đến tính mạng!”. Khoan Phụng liền thương nghị
với bác sĩ rằng: “Tôi xem cánh tay này, ngón tay động đậy được, gân cốt
còn tốt không bị thương, hiện giờ chỉ là da thịt bị hư rữa thôi, xin bác
sĩ cố gắng giúp cho cháu khỏi bị cưa tay, chỉ khoét da thịt hư rữa đó bỏ
đi là được rồi”. Bác sĩ cũng liền theo lời yêu cầu của cô ta, đánh thuốc
mê cho Tấn Lễ mê đi, rồi bắt đầu phẫu thuật, khoét đi cả mâm thịt lẫn
lộn cát đá. Khoan Phụng thì ở một bên cứ niệm: “Cứu khổ cứu nạn Quán Thế
Âm Bồ Tát”.
Cuộc phẫu thuật của Tấn Lễ
hoàn thành thuận lợi. Sau khi thuốc mê giã, tỉnh táo trở lại, Tấn Lễ
liền nói với mẹ nó rằng: “Má! Con vừa rồi nằm trên bàn mổ, sau khi mất
hết tri giác (mê) thì thấy một ông bác sĩ mặc đồ trắng bồng con đến nơi
rất là đẹp. Con hỏi ông ta đây là đâu? Ông ta đáp là thiên đường, lại
bảo rất nhiều cô gái đẹp nhảy múa cho con xem; con lại hỏi ông ta: những
cô gái đẹp này là người ở đâu? Ông ta nói với con là thiên nữ. Má! Con
rất là sung sướng, có thể đi đến thiên đường, xem được những cảnh giới
nầy”. Sư tỷ Khoan Phụng liền biết đây là sự cảm ứng do cô cố sức niệm
Quán Thế Âm Bồ Tát mà được, nhất định là phương tiện khéo léo của Quán
Thế Âm Bồ Tát khiến cho tinh thần của Tấn Lễ được an ủi, quên đi sự đau
đớn.
Sư tỷ Khoan Phụng mắt nhìn
thấy cánh tay trái của con mình sau khi bị khoét đi một miếng thịt, chỉ
còn lại gân và xương khó tránh khỏi đau lòng, lo lắng, nhất là thời gian
nuôi con ở bệnh viện, sớm tối không có tụng niệm được, tinh thần cảm
thấy không yên. Thế là liền về nhà thỉnh một bức Tây phương Tam Thánh
nhỏ, đem vào bệnh viện dán lên trên tường, ngoài hai thời khóa sớm tối
ra, cô vẫn cứ thành kính cầu nguyện xin Quán Thế Âm Bồ Tát gia bị cho
cánh tay của con trai sớm hồi phục bình thường. Thật là không thể nghĩ
bàn, Bồ Tát từ bi, có cầu liền ứng nghiệm. Vào một buổi sáng sớm Tấn Lễ
nói với má: “Má! Tối qua con được nhìn thấy toàn thân trang nghiêm của
Quán Thế Âm Bồ Tát, tay phải cầm nhành dương, tay trái cầm tịnh bình kêu
tên con “Tấn Lễ lại đây!”. Con liền theo ngài cùng đi đến một rừng núi
thanh tịnh, con ngồi trên hòn đá, Quán Thế Âm Bồ Tát liền dùng nước
thanh tịnh trên nhành dương liễu rải lên cánh tay đau của con, lập tức
con nghe mát mẻ dễ chịu vô cùng!”. Tấn Lễ được Bồ Tát dùng nước cam lộ
trị liệu vết thương ở cánh tay liên tiếp ba lần cho nên mỗi ngày khi bác
sĩ và y tá của bệnh viện đến thay băng đổi thuốc cho nó, nó liền tỏ ra
rất sợ hãi, kêu to lên rằng: “Các người thay băng đổi thuốc gì đau muốn
chết, tôi không cần các người làm nữa. Quán Thế Âm Bồ Tát lúc trị liệu
cho tôi thì lại mát mẻ dễ chịu vô cùng!”. Mỗi ngày lúc thay băng đổi
thuốc đều như thế, vừa nói vừa khóc thảm, khiến các bác sĩ và các y tá
đều ngơ ngác cười dở khóc dở!
Thằng bé Tấn Lễ này, do bởi
đời trước có nhiều căn lành, đời này có duyên với Phật, Bồ Tát, nhiều
lần được pháp lực vô biên hộ trì, cánh tay trái đã dần dần đầy đặn da
thịt hồi phục như cũ. Mấy ngày trước khi sắp xuất viện, lúc ngủ trưa
bỗng nhiên lại to tiếng kêu lớn lên rằng: “Bồ Tát Địa Tạng, ngài sắp đi
đâu vậy? Ngài sắp đi độ yêu nhền nhện hả? Con muốn đi theo ngài xem!”.
Sư tỷ Khoan Phụng ngồi bên mình nó, nghe rất là rõ ràng, liền lay nó
tỉnh dậy, hỏi nó: “Mới vừa rồi con thấy những gì?”. Tấn Lễ nói “Vừa rồi
Bồ Tát Địa Tạng tới thăm con, con hỏi ngài sắp đi đâu? Ngài nói sắp đi
độ yêu nhền nhện. Con xin Bồ Tát dẫn con cùng đi, đang đi đến một cánh
đồng liền bị má lay tỉnh dậy, thiệt uổng ghê!”.
Trên đây là Tấn Lễ sau khi bị
tai nạn được Bồ Tát cảm ứng ba lần. Đây cũng là chính miệng sư tỷ Khoan
Phụng kể với tôi.
50. NGHIỆP LỰC CẢN TRỞ KHIẾN
NHÂN HẾT QUẢ DỨT
Sư tỷ Trần Kiết ban trưởng
ban Bát Nhã có một người em trai tên là Trần Thu Tuyền, nếu còn sống thì
năm nay 48 tuổi, nhưng đây là việc của ba năm trước. Sư tỷ nói: Em trai
và em dâu của bà không có chút căn lành nào, khuyên tụi nó niệm Phật
ngay một câu cũng không chịu niệm. Hai chị em có thể nói là chí không
đồng, đạo không hợp, nhưng sức khỏe của nó không được mạnh khỏe, thường
bị đau dạ dày, nếu không mổ sớm chắc chắn sống không lâu! Cái ngày quyết
định sẽ mổ, sư tỷ Kiết với tâm từ bi cố sức thuyết phục khuyên em mình
niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và nói về những sự lý trong phẩm Phổ
Môn Quán Thế Âm Bồ Tát có nhiều cách tầm thanh cứu khổ, nói cho anh ta
nghe, khuyên anh ta phải thành kính niệm Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ
Tát, cầu Bồ Tát gia bị, chuyển nguy thành an.
Sư tỷ Kiết nói: Buổi tối Thu
Tuyền mổ xong lúc nửa đêm, sư tỷ đang ngồi bên em niệm Quán Thế Âm Bồ
Tát cho anh ta, thì thấy anh ta đang trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê,
lẩm bẩm rất lớn: “Bồ Tát Quán Thế Âm, ngài đã lấy khúc ruột hơn một
trượng thay cho khúc ruột hư của tôi, xin cám ơn! Xin cám ơn!”. Sư tỷ
Kiết và vợ anh ta đều nghe rất rõ ràng. Khi anh ra tỉnh dậy liền nói:
“Chị ơi, em nhìn thấy Quán Thế Âm Bồ Tát mặc đồ trắng, cầm một khúc ruột
rất dài, mổ bụng của em ra, đổi cái khúc ruột hư đi, em còn hướng về
Quán Thế Âm Bồ Tát nói cám ơn liên tục nữa!”. Từ sau khi được mổ, tất cả
đều thuận lợi an toàn, sau một tuần lễ thì có thể đi bộ được, bác sĩ
cũng rất vui nói: “Người bệnh này rất là nhanh chóng hồi phục, ba tuần
thì có thể xuất viện được”. Có rất nhiều bà con bạn bè lăng xăng đến
chúc mừng cho anh ta có thể sớm bình phục, thật không gì vui bằng.
Nhưng thiên hạ vốn vô sự, mà
kẻ dung tục thì lại tự quấy nhiễu, chuốc lấy tai họa. Lúc còn khoảng ba
ngày nữa xuất viện, thì một người bệnh khác cùng nằm viện nói với vợ
anh: “Chồng của chị mới khỏe, cần chất dinh dưỡng, chị cần mua cá tươi
về chưng với gừng xắt nhỏ cho chồng chị ăn để bồi bổ thân thể”. Sư tỷ
Kiết nghe được lời này, vội vàng ngăn lại nói: “Không được! không được!
Em ta là nhờ Quán Thế Âm Bồ Tát thay ruột cho nó, không giống như những
người khác, từ đây về sau không được giết hại sinh vật cho nó ăn. Nếu
muốn bồi bổ dinh dưỡng thì có thiếu gì, như sữa bột nè, đậu bì, đương
quy, sâm Cao Ly,… (các chất bổ trong thuốc Bắc) đều là những dược
phẩm có dinh dưỡng phong phú”. Sư tỷ Kiết nói một lô bao nhiêu đồ bổ
dưỡng, nhưng “lời thật thì mích lòng”, em dâu nghe rồi, hình như có dáng
điệu không lọt tai tí nào, nhưng nể bà chị chồng, mấy ngày sư tỷ Kiết ở
bệnh viện, cô ta không dám đi mua cá tươi (cá sống), đợi lúc sư tỷ về
nhà tắm, liền chạy ra chợ mua cá, thịt tươi về nấu cho chồng cô ăn, khi
sư tỷ Kiết trở lại thì em cô đã ăn hết một tô. Do đây mà sự việc hỏng
bét! Trời làm ra điều nghiệt ngã, còn có thể không tuân, tự mình tạo tội
nghiệt, không thể sống! Em trai cô ăn tô cá đó xong, ghê gớm giống như
uống phải thuốc rầy, bụng bắt đầu đau dữ dội, vết mổ lớn dài một thước (thước
Tàu) đã khâu lại như bình thường, chưa đến mấy giờ bắt đầu biến đổi
quái lạ, đường khâu bên trong bị toác ra! Sư tỷ Kiết nói: Chính mắt thấy
như thế, sợ hãi vô cùng, da bụng banh ra giống như chiếc thuyền độc mộc,
sức khỏe biến đổi xấu vô cùng, tính mạng nguy hiểm trong sớm tối, đến
bác sĩ cũng bó tay không có cách gì! Sư tỷ tự nghĩ: Thật rất có lỗi với
sự gia bị của Quán Thế Âm Bồ Tát, việc thế này, không dám cầu xin lại
nữa, liền đổi Thánh hiệu, xưng niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát! Mong được Địa
Tạng Bồ Tát phò hộ được bình an hồi phục trở lại. Liền vẫn cứ như thế, ở
bên cạnh em xưng niệm Thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát. Thật là không thể nghĩ
bàn! Thu Tuyền đang trong trạng thái hôn mê, lại thấy cảnh giới, trên
mặt bỗng lộ nét vui, lẩm bẩm nói nhỏ, không biết nói những gì? Bỗng
nhiên lại nói to lên “Ngài Địa Tạng Bồ Tát à! Ngài dẫn tôi đi chơi cả
buổi, rất là vất vả, cây thiết trượng ngài đang cầm trong tay rất nặng,
đưa tôi cầm dùm cho ngài được không? Đừng có khách sáo mà, đưa tôi cầm
dùm cho ngài đi!”. Vợ anh ta liền hỏi: “Thu Tuyền! Anh nói những gì
vậy?”. Anh ta đáp: “Ngài Địa Tạng Bồ Tát muốn dẫn tôi đến một chỗ rất
đẹp, tôi đi chơi rất là vui!”.
Tối hôm đó, lúc sư tỷ như
thường lệ niệm Thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát bên cạnh em trai, thì bỗng ở
nhà có việc gấp, người nhà đến kêu sư tỷ về nhà. Sáng sớm hôm sau, Thu
Tuyền lại tự nhiên nói với đứa con gái: “Ba rất cám ơn cô của con, bây
giờ sắp từ giã cô con, ba muốn đến nhà cô con để nói lời cám ơn, nhanh
nhanh kêu xe lại cho ba đi”. Nói xong thì… chết! Tội nghiệp một tráng
niên mới 45 tuổi đã xong một cuộc đời! Lúc lâm chung thiện tri thức là
bà chị cũng không có duyên trợ niệm cho anh ta, giúp cho anh ta có thể
đới nghiệp vãng sanh!
Sư tỷ Trần Kiết nói với tôi
đến đây, cảm khái muôn phần nói: “Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát đã thay ruột
cho nó rồi, sức khỏe cũng đã bình thường trở lại, tại sao bất hạnh lại
gặp cái người biểu ăn cá tươi kia để đến nông nỗi!”. Tôi giải thích
rằng: “Người không có căn lành, không tin Phật, không niệm Phật, thì
phải chịu nghiệp lực nó kềm chế dẫn dắt, không cách gì đổi lại được. Em
trai và em dâu của cô đã không có căn lành, Bồ Tát Quán Âm đã thay ruột
cho anh ta, đó là nhờ vào phước đức của cô. Đây là do cô chí tâm cầu
niệm Phật cho anh ta mà có được, nhưng trong tàng thức của hai người, họ
vẫn còn đầy dẫy những tội chướng nghiệp chủng, vì căn bản thường ngày,
ngay cả một câu Thánh hiệu của Phật, Bồ Tát cũng không có niệm, một khi
mạng chung, lúc chủng tử ác nghiệp khởi hiện hành, tướng luân hồi lục
đạo hiện ra, nói đi liền đi, không được chần chờ! Em của cô lúc cuối
cùng được kết duyên lành với Địa Tạng Bồ Tát, cũng là sự cảm ứng do cô
xưng niệm Thánh hiệu Bồ Tát, van cầu Bồ Tát cứu anh ta, nhưng vì cô tối
đó có việc phải về nhà, đây chính là chướng ngại của anh ta, không có
duyên xưng niệm liên tục, nhân hết thì quả dứt, đâu còn nhờ vào đâu giúp
đỡ vãng sanh Tây phương nữa chứ? Nhưng mà gặp được Địa Tạng Bồ Tát nắm
tay dắt đi, tính ra cũng là đại hạnh trong bất hạnh!”.
51. VỢ CHỒNG THỔ ĐỊA QUY Y
TAM BẢO
Lại nói về chuyện của sư tỷ
Trần Kiết, tám năm trước có một ngôi chùa ở vùng ngoại ô của Đài Trung,
năm đó vẫn chưa có một sư phụ xuất gia nào đến ở, tuy nhiên những tín đồ
tới lui lễ bái cũng khá đông. Sư tỷ Trần Kiết liền phát đại từ bi tâm,
mỗi khi đến ngày mùng 1 và rằm (15) thì đến quét dọn sạch sẽ chánh điện
và dạy người niệm A Di Đà Phật, cố gắng hết sức bổn phận của người đệ tử
Tam Bảo là lợi mình lợi người. Sư tỷ có tinh thần đại bi như thế, do đó
mà rốt cuộc có thể cảm hóa và giới thiệu thần thổ địa quy y Tam Bảo. Xin
mời quý vị xem chuyện sau đây:
Ở gần ngôi chùa đó có một cái
miếu thổ địa, do vì lâu năm không có sửa sang, đã hư cũ rất nhiều, cho
nên những thiện tín ở vùng đó họp lại bàn, kết quả là quyết định dở bỏ
cái cũ, xây dựng cái mới. Nhưng sau khi bốc dở miếu cũ ra thì có hai
tượng thổ địa ông và thổ địa bà phải dời đi đâu? Nhất định phải tìm một
chỗ để thờ phụng tạm thời. Có một người bàn: “Nhờ một chùa nào đó để thờ
tạm, đợi xây cất xong lại thỉnh trở về. Như thế há chẳng phải là lưỡng
toàn kỳ mỹ ư?”. Mọi người đều vui vẻ tán thành biện pháp đó, sau khi lấy
biểu quyết xong, liền theo đó mà làm.
Nhưng tập quán lễ bái thổ địa
từ nào đến giờ của địa phương đó là vào ngày mùng 2 và 16 đều dùng tam
sanh (ba thứ thịt bò, dê, heo) và rượu để lễ bái. Hiện giờ thần
thổ địa đã tạm thời dời vào trên bàn thờ trong giảng đường của chùa,
những người tin và cúng thổ địa lâu nay vẫn khó sửa đổi được tập quán
của họ. Sư tỷ Kiết nhìn thấy người ta mang theo những thức ăn tanh (đồ
mặn) như thế ra vào cửa Tam Bảo, mặc dù là không phải đem đi cúng Phật,
Bồ Tát, nhưng cũng rất là xốn mắt. Có một hôm sư tỷ đến chùa, lúc quét
dọn giảng đường, liền đối với tượng thổ địa nói: “Ông thổ địa! Bà thổ
địa! Các vị có lẽ đời trước không được nghe Phật pháp cho nên không biết
những điều hay tốt của việc quy y Tam Bảo và việc tin Phật, học Phật,
niệm Phật. Các vị hiện nay mặc dù làm thần, được người ta sát sanh hại
vật, dùng những rượu thịt tanh hôi đó đến cúng cho các vị ăn, các vị
cũng không biết là mình đã tạo tội, các vị không biết thời hạn làm thần
một khi hết thì vẫn phải đi theo con đường luân hồi lục đạo, một mai đọa
vào tam đồ thọ khổ, đến lúc đó hối hận thì đã không kịp! Vợ chồng già
các vị nếu có thể đồng tu, quy y Tam Bảo, niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây
phương Cực lạc thế giới, tức là đạt được con đường giải thoát sinh tử,
lìa khổ được vui một cách rốt ráo vậy”.
Trần sư tỷ từ hôm dùng phương
tiện ngữ khí nửa như hơi đùa nói với thần thổ địa xong về nhà thì sức
khỏe có hơi lạ, như bệnh như không! Như thế kéo dài sáu tháng, Đông Tây
y đều tìm không ra gốc bệnh. May mà sư tỷ có người con dâu lớn rất thông
minh, bất giác nói: “Má à! con xem bệnh của má rất lạ, không hiểu má nói
chuyện ở ngoài có mắc lỗi với quỷ thần không?”. Sư tỷ nghĩ tới nghĩ lui,
nhớ được ngày hôm đó, cả lô cả lốc lời nói với thần thổ địa, nói ra cho
con dâu nghe. Con dâu rất thông minh, lập tức nói: “Đúng rồi! Má độ
người phải độ cho tới nơi tới chốn, má đã chỉ điểm cho họ quy y, lại vẫn
chưa có giới thiệu sư phụ cho họ, chỉ nói lời trống rỗng, họ nghe má nói
nhất định cũng lọt tai, nhưng muốn má hướng dẫn giới thiệu, cho nên đến
tìm má quấy rối”.
Trần Kiết nghe con dâu nói có
lý, chẳng kể đúng hay không, cũng đều phải trở lại chùa đó lo việc quy y
cho thần thổ địa. Không đến mấy ngày, sức khỏe của sư tỷ đã bớt rất
nhiều, liền đi đến chùa, thật là pháp duyên thuận lợi, có một vị đại
pháp sư mới đến chùa (nhận trụ trì) sư tỷ liền nói rõ ý mình đến đây hôm
nay, đem cái việc quy y này ra thỉnh giáo pháp sư. Pháp sư rất từ bi
luôn miệng nhận lời. Sư tỷ liền chuẩn bị nghi thức sắm sửa hương hoa quả
phẩm v.v… Lúc bấy giờ liền đem tượng thần của thổ địa ông, thổ địa bà ra
nhờ sư tỷ Trần Kiết, tay trái bưng tượng thổ địa ông, tay phải bưng
tượng thổ địa bà quỳ trước Phật lãnh thọ pháp quy y và thay họ làm các
nghi thức lễ bái cho đến xong. Pháp sư còn thuyết pháp cho họ nghe rất
lâu. Sau khi hoàn tất, sư tỷ liền hướng vào thần thổ địa nói rằng: “Hôm
nay các vị đã quy y Tam Bảo Phật Pháp Tăng rồi, là đệ tử chính thức của
Tam Bảo, nhất định phải ủng hộ Phật giáo, làm nên thành pháp vương và
phải niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật, cầu sanh Tây phương, về sau không còn
can hệ gì với tôi, không được trở lại tìm tôi quấy phá”. Sự thật trên
đây là hồi năm ngoái sư tỷ đến Hội Liên Nghị nói với tôi.
Theo dân gian nước ta (Trung
Quốc) các vùng nông thôn nghèo hoang vắng khắp nước ở đâu cũng đều có
miếu thổ địa, họ như thân phận của vị trưởng thôn trong làng ở nhơn
gian, niên hạn đến, mãn nhiệm kỳ, vẫn cứ phải đi luân hồi đầu thai, khó
có thể gặp được duyên lành quy y Tam Bảo. Mặc dù thần thổ địa chưa có mở
miệng yêu cầu được quy y, nhưng sư tỷ Trần Kiết với một tấm lòng lành
cũng thật khiến người khâm kính!
52. CÔ DÂU NIỆM PHẬT, LẬT XE
ĐƯỢC VÔ SỰ
Tục ngữ nói: “Nhà muốn hưng
thịnh nhìn xem con cháu”. Trong Phật giáo cũng thế, nếu muốn Phật pháp
hưng long, nhất định nhờ vào lớp thanh niên phát tâm học Phật, đây là
cùng một đạo lý. Gần đây “Giác Uyển học xã” của Hoằng Quang Hộ Chuyên
thành lập ở Sa Lộc tiếng tăm thật vang dội. Nên biết học xã này với hơn
một trăm học viên là do hai cô nương trẻ 17 tuổi, không ngại gian khổ,
với tâm từ bi khuyên gọi vận động, dũng cảm tổ chức mà thành tựu được.
Tinh thần vĩ đại của họ, khiến người bội phục sát đất. Hai vị tiểu cô
nương phát tâm đại bi này là tiểu thơ của nhà ai vậy? Thì ra là thiên
kim tiểu thơ Úc Thanh, con của ông Vương Diệu Dân trưởng phòng hành
chánh của nhà máy đường ở Tân Dinh, vị kia là cô Kim Chi bạn học của Úc
Thanh.
Nhớ lại 12 năm trước lúc tôi
cùng với đại tỷ Lữ Chánh Lương đến Đại thừa tịnh xá của ông trưởng phòng
hành chánh dạy người niệm Phật, cô gái này mới có năm tuổi. Mười năm
trước, Vương cư sĩ chuyển đến làm việc ở nhà máy Đài Đông, Vương phu
nhân Nhan Gia Hanh là một người đàn bà rất giỏi giang lanh lợi, vừa đến
Đài Đông liền cùng với một số người như cư sĩ Trần Ngọc Phương v.v… đồng
kiến lập một liên xã, cũng từng có mời tôi đến chơi. Nhưng bảy năm trước
đây lại chuyển đến làm ở nhà máy đường Long Nham, vợ chồng họ Vương lại
tổ chức một hội niệm Phật ở vùng đó, lại một lần nữa hẹn tôi đến đó tùy
hỷ công đức, đồng thời kết pháp duyên (giảng pháp). Bậc làm cha mẹ mà
phát tâm lớn như thế, nên trong tâm linh nhỏ bé của Úc Thanh nhờ nghe
được chánh pháp mà trồng được căn lành.
Thời gian như nước chảy,
trong nháy mắt vào một ngày ba tháng trước, một cô học sinh đứng đắn
lịch sự dáng thanh mảnh đi đến hội liên nghị của liên xã, lúc cô kêu lên
“sư cô Khán Trị”, tôi nhứt thời nhớ không ra là ai, cô ta lúc đó mới
nói: “Con là con gái của bà Vương ở nhà máy đường ở Tân Dinh nè!”. Cô ta
do vì mong muốn thành lập một xã đoàn nghiên cứu Phật học ở trong
trường, muốn tôi giúp đỡ, thì ra hiện cô đang học ở Hoằng Quang Hộ
Chuyên.
Tôi sau khi nghe được tin tức
này, thật là vui mừng hớn hở, lập tức giới thiệu cho cô ta mấy người bạn
học ở Trí Hải học xã của trường đại học Trung Hưng, sẽ chỉ dẫn cho họ
những gì nên làm khi thành lập Học Xã và phải làm như thế nào … Nhưng
tôi vì tâm hiếu kỳ nên hỏi cô ta: “Tuổi tác như thế này của cô (ý nói
quá trẻ) mà đã phát tâm như thế, cô biết được những điều hay tốt của
việc học Phật, niệm Phật không? Úc Thanh đáp: “Con đã từng tận mắt thấy
hai lần niệm Phật được cảm ứng, lại thường xem tờ nguyệt san Cây Bồ Đề (giống
báo Giác Ngộ ở VN). Con nghĩ: Nếu muốn được tốt đẹp trong đời người
ở hiện tại và có thể lìa khổ được vui trong đời sau, nhất định phải học
Phật và niệm Phật”.
Tôi liền hỏi cô ta: “Hai lần
cảm ứng cô đã được thấy, có thể nói cho tôi nghe được không?”. Úc Thanh
liền nói: “Lúc ba má con ở nhà máy đường Long Nham có lập một niệm Phật
đường nhỏ, các vị liên hữu vào hai thời khóa sớm tối đều không hề có
gián đoạn. Lúc bấy giờ có một vị liên hữu tên Ấu hai mươi tuổi. Hôm đó
đúng vào ngày cô xuất giá, nhưng buổi sáng cô vẫn cứ đến niệm Phật đường
niệm Phật thời khóa sáng, khóa lễ xong cô mới đi sắm vai cô dâu, sau đó
theo chàng rể, bà mối đến rước dâu về nhà chồng. Ba người đó tính cả tài
xế là bốn người ngồi một chiếc xe con (xe bốn chỗ), nguyên là cô Ấu được
gả cho một vị giáo sư ở Đàm Tử quốc hiệu (trường cấp quốc gia). Mấy chục
vị liên hữu chúng tôi đi đưa cô dâu cũng ngồi một chiếc xe giao thông
(như xe đò) đi đến Đàm Tử, mọi người đều rất vui, suốt đường ca bài “Lô
Hương Tán”, bất giác đã đến Viên Lâm. Hôm đó đúng là ngày tốt hoàng đạo
nhưng ông trời lại không làm tốt mà lại đổ mưa! Xe đến Viên Lâm gần một
ngôi trường làng, do vì mưa đường trơn, xe cô dâu đột nhiên bị lật nhào,
bốn bánh quay lên trời, xe lật chỏng gọng bên đường lộ. Các vị liên hữu
chúng tôi trên xe giao thông phía sau vừa thấy ai nấy đều kinh sợ thất
sắc! Nhưng trong nháy mắt, chú rể, cô dâu, tài xế, bà mối từ cửa xe chun
ra từng người một, mọi người nhìn nhau, xem xét kỹ, bốn người đều không
có bị thương gì cả, thật là không thể nghĩ bàn, ngay cả kiếng trên cửa
xe cũng không có bể miếng nào.
Nhưng mà xe của cô dâu, bốn
bánh quay lên trời làm sao bây giờ? Bỗng có mấy người dân làng đi ngang
qua đó, những người dân làng đó mỗi người đều cầm một cái cây để gánh
đồ, liền tự động đến giúp, lật chiếc xe cô dâu lại. Tài xế xem xét kỹ
lưỡng lại máy móc xe cũng không có hư chút gì hết, chú rể, cô dâu, bà
mối, lại cứ y như cũ ngồi lại chỗ của mình, xe bình an đưa đến nhà chú
rể ở Đàm Tử, mọi người đều chúc phúc cho cô dâu sẽ có phước về sau. Cô
dâu nói: “Tôi ngồi trên xe trong lòng cứ niệm Phật miết!”. Úc Thanh lại
nói “Đây là việc chính mắt con nhìn thấy, vì con và má cũng có tham dự
trong đoàn đưa dâu này”
Úc Thanh nói tới đây, tôi
liền hỏi tiếp cô ta còn một chuyện cảm ứng nữa thế nào? Úc Thanh lại
nói: “Hiện nay ở gần nhà con có một ngôi chùa, má con thường đi lạy
Phật, còn giảng chút chút về những điều hay tốt của việc tin Phật, niệm
Phật cho người ta nghe nữa, và lấy nguyệt san Cây Bồ Đề cho người ta
xem, khuyên người ta niệm A Di Đà Phật. Trong những người nghe đó có một
ông bác già, nghe xong cảm thấy rất có đạo lý, chẳng những tự thân ông
niệm Phật rất cung kính mà còn khuyên cả bà con trong thân thuộc đều
niệm Phật. Ông có một cô cháu gái mới mười sáu tuổi, được sự hun đúùc
của ông nội, cũng rất cung kính niệm Phật; người con gái này hồi năm
ngoái học năm thứ hai Trung học, có một hôm sáng sớm lúc cô cỡi xe đạp
đi học, muốn chạy qua một cây cầu hẹp, cô gái đó nhìn trước nhìn sau chỉ
có một chiếc xe taxi chạy qua, cô liền an tâm cũng chạy qua, bất ngờ
phía trước có một chiếc xe tải nặng chạy lại nhanh như giông như gió, ở
trong cây cầu hẹp muôn phần nguy hiểm. Lúc đó, tiến thối lưỡng nan, cô
bị kẹt cứng giữa hai chiếc xe, thật là cái chết trước mắt, may mắn là
lúc bình thường niệm Phật, nên lập tức nghĩ tới danh hiệu Phật, liền to
tiếng niệm A Di Đà Phật. Lúc đó chiếc xe đạp của cô đã bị chiếc xe tải
nặng cán gãy nát, cô cũng bị xe tải lôi đi đến mấy chục thước (thước
Tàu) mới ngừng lại. Lúc đó những người thấy cái thảm trạng đó, cho
là cô kia đã bị thịt nát xương tan, nhứt định chết rồi. Không ngờ lúc
chiếc xe ngừng lại, cô gái kia đã trở mình đứng dậy, tự xem kỹ lại mình,
chẳng những không có gãy xương, ngay cả máu cũng không có chảy giọt nào,
chỉ có hơi bị xây xát trên cánh tay mà thôi”.
Câu chuyện sự thật trên đây
có thể nói là một kỳ tích! Niệm Phật có thể được tiêu tai khỏi nguy như
thế, việc lớn thành nhỏ, việc nhỏ thành không, thật là không thể nghĩ
bàn.
Có rất nhiều người nói tin
Phật, lạy Phật là được rồi, cần gì phải niệm Phật? Lời nói này có lỗi
rất lớn, nên biết Phật pháp là tâm pháp, vạn pháp duy tâm. Trong tâm
niệm Phật, tâm được thanh tịnh; tâm không niệm Phật thì là niệm ngũ dục,
lục trần, tâm sẽ vẩn đục. Tâm nếu bất tịnh, thì làm sao có thể cảm ứng
được? Như nước đục trong ao, làm sao có thể chiếu hiện được cảnh vật và
trăng sáng trên trời trong mặt nước? Nếu nước trong ao lắng trong thì tự
nhiên cảnh vật và trăng sáng trên trời đều hiện rõ ràng trong nước, đây
là cái đạo lý cảm ứng, sự và lý không khác, cho nên muốn có cảm ứng,
nhất định phải niệm Phật nhiều!
53. SÁT SANH PHẢI BỊ QUẢ BÁO
ĐOẢN MẠNG
Bậc cổ đức nói: “Tâm có thể
tạo nghiệp, tâm có thể chuyển nghiệp. Nghiệp do tâm tạo, nghiệp do tâm
chuyển”. Mấy câu này đọc ra nghe giản đơn, giảng lại không phải là
chuyện dễ. “Tâm tạo nghiệp như thế nào?”, “Tâm lại chuyển nghiệp như thế
nào?”. Xin cử ra mấy câu chuyện thật dưới đây để làm thuyết minh.
Vào trung tuần tháng 2 năm
ngoái có một vị đồng tu trong ban niệm Phật rất thành khẩn tên là Khoan
Kim ở đường Hồ Bắc trong thành phố này, đã sáu mươi tám tuổi. Có một hôm
bà ta đến hội Liên nghị, nói với tôi: “Đời người ở cõi thế, lúc chưa học
Phật, mê hoặc điên đảo, thường tạo tội tạo nghiệp nhưng lại không biết
là khởi tâm động niệm suốt ngày tạo tội tạo nghiệp. Từ sau khi niệm Phật
nghe pháp mới biết đạo lý: “Nghiệp do tâm tạo, nghiệp theo tâm chuyển”.
Tôi liền hỏi bà ta: “Bà làm thế nào mà giác ngộ được đạo lý vi diệu của
hai câu này?”. Sư tỷ Khoan Kim liền nói lại chuyện cũ hai mươi năm
trước, lúc bà còn ở dưới quê: Ngô Thê.
Bà có ba đứa con trai, năm đó
đứa con thứ hai đã hai mươi tuổi. Một buổi sáng sớm, người con thứ hai
đi ra ngoài tản bộ, lúc trở về vui mừng hớn hở, hai tay cầm một con cá
hồng giãy đành đạch, dài khoảng một thước (thước Tàu) rất phấn khởi nói
với tôi: “Má! Con cá này con bắt được trong con rạch cạn, má mau mau
chưng gừng cho con ăn đi”.
Tập khí của phàm phu thường
cho là được ăn những con vật còn tươi sống là có phước của cái miệng,
không biết rằng một bước sa chân để hận ngàn đời! Người con thứ hai từ
sau khi ăn con cá tươi sống đó, tối đêm ấy nằm mộng thấy một cô gái mặc
áo hồng khoảng mười bảy, mười tám tuổi, cầu hôn với anh ta rằng: “Anh đã
chịu nhận lời kết thân với tôi, tôi phải kết hôn với anh”. Từ đó về sau,
đêm nào hồn cô gái đó cũng đến quấy rầy, người con thứ hai liền bị bệnh
không dậy nổi, các thầy thuốc Đông, Tây y đều bó tay không có cách gì,
thuốc men không hiệu quả, chưa đầy mười ngày, tội nghiệp cho tuổi hoa
niên mới hai mươi, rốt cuộc bị đoản mạng!
Sư tỷ Khoan Kim nhớ lại thảm
cảnh về cái chết của đứa con thứ hai lúc bấy giờ, rất đau lòng nói: “Tội
nghiệp sống ở quê hương còn nghèo nàn hoang vắng, không có thiện tri
thức tuyên dương chánh pháp cho nên ngu si quá đỗi, không biết sát sanh
phải bị quả báo đoản mạng, cho nên không biết dạy con phóng sanh cho con
cá kia, đừng ăn thịt nó, thì đâu có kết oán với con quỷ nữ kia, bị nó
dắt đi trong ba đường ác, chịu đau khổ lớn. Hành vi hồ đồ này chính là
nghiệp do tâm mình tạo ra, do bởi trước kia chưa nghe Phật pháp, sát
sanh hại mạng, tạo ra ác nghiệp này, nên chính tôi phải chịu báo ứng mất
con!”.
54. DÁT VÀNG TRANG NGHIÊM TƯỢNG PHẬT, LỬA NHẢY QUA KHỎI NHÀ
Sư tỷ Khoan Kim là một người
có đầy đủ căn lành từ kiếp trước, từ lúc mất con, quá đau buồn, liền
tính kế dời chỗ ở, thay đổi hoàn cảnh, cho nên mười tám năm trước, lưu
con trai trưởng ở lại quê, quản lý tài sản, mình thì dẫn đứa con thứ ba
là Tấn Truyền dời đến ở xứ Hạn Khê ở Đài Trung, mướn nhà ở. Hai mẹ con
nương nhau mà sống, tự lực cánh sinh, đến một nhà máy giày dép cao su
làm thuê để sống, không bao lâu liền cùng với những vị liên hữu của vùng
Hạn Khê, mỗi thứ hai cùng đến liên xã niệm Phật, thứ bảy cũng đến liên
xã nghe kinh, làm một vị đệ tử Tam Bảo rất cung kính.
Có một hôm vào buổi chiều, sư
tỷ từ nhà máy đi về nhà. Trên đường đi ngang qua cửa nhà của một cô gái
ở vùng đó tên là Kê Thỉ, nhìn thấy đứa con nhỏ của cô ta trong tay cầm
một tượng Quán Thế Âm Bồ Tát chơi dưới đất. Sư tỷ nhìn thấy, rất không
nhẫn tâm, lập tức tìm mẹ nó nói: “Kê Thỉ, cô không nên tạo tội, tại sao
lại để con nít giỡn chơi Thánh tượng Bồ Tát như thế? Như vậy sẽ tạo ra
tội nghiệp rất lớn!”. Kê Thỉ liền đó trả lời sư tỷ rằng: “Đây là tượng
mà mẹ chồng tôi hồi còn sống thờ cúng, tôi là người không có tin và lạy
khúc gỗ đó đâu, tôi không cần, bà cần thì bà lấy đi là được rồi”. Sư tỷ
Khoan Kim hớn hở ra mặt, thỉnh qua xem thì là một tượng Bồ Tát cao sáu,
bảy tấc (Tàu) khắc bằng cây, mặt mũi đã hư hết, liền thỉnh tượng đó đến
cửa hàng làm tượng Phật, dùng hơn 100 đồng dát vàng cho tượng Bồ Tát,
rồi an vị trong nhà thờ cúng, sớm tối lễ bái cung kính, xưng niệm Thánh
hiệu Bồ Tát, thật là pháp hỷ sung mãn, tâm không rời Phật, Phật không
rời tâm. Tôi liền hỏi thêm sư tỷ: “Còn người nữ không có căn lành kia
hiện thế nào rồi?”. Sư tỷ nói: “Tội nghiệp người nữ tên hợp với đời thực
này (Kê Thỉ tức là cứt gà) không bao lâu của cải tán thất, người
không biết hiện giờ dời đi ở xứ nào rồi?”. Tôi nghĩ: Đây là một sự thật
do vì ngu si không biết mà tạo nghiệp, nên chịu lấy ác báo.
Qua hơn một năm, một hôm lúc
sư tỷ làm việc ở công xưởng, bỗng có một người hớt hải đến nói rằng: “Bà
ơi, Bà! nhà gần bên nhà của bà bị cháy, hiện lửa lớn đang cháy lan sắp
sửa cháy nhà của bà rồi”. Sư tỷ vừa nghe thật là hồn phi phách tán, vội
vã chạy về nhà, trên đường bị té một cái, vừa bò dậy lại bị té nữa nhưng
trong miệng của bà vẫn cứ niệm riết “Quán Thế Âm Bồ Tát”, thầm khấn Bồ
Tát cứu khổ cứu nạn, may sao gặp một người đàn ông chạy xe đạp, xem thấy
bà đáng thương như thế, hỏi rõ tình hình, liền dùng xe đạp chở đưa sư tỷ
về nhà. Vừa đến nhà vừa xem thật là không thể ngờ, tại sao lửa biết nhảy
qua khỏi nhà mình? Những nhà bên trái, bên phải đều bị lửa cháy thành
tro, mà nhà của mình chính giữa lại còn nguyên? Nhiều người xúm lại chúc
phúc cho sư tỷ, nói nhờ sư tỷ cung kính lạy Phật, Bồ Tát mà được cảm
ứng. Điều kỳ lạ nhứt là mọi người đều nói: “Cửa của nhà bà khóa lại, tại
sao lại có khói trắng thơm phức từng lọn từng lọn bay ra từ trong khe
cửa, mọi người chúng tôi từ sanh ra đến giờ đều chưa từng ngửi qua mùi
thơm nào như thế”. Sư tỷ nói: “Đây nhứt định là kỳ tích của Quán Thế Âm
Bồ Tát hiển thị”. Câu chuyện trên đây là một trong những chuyện cảm ứng
mà sư tỷ Khoan Kim do niệm Phật được chuyển nghiệp.
55. CHUYỆN CẢM ỨNG CHUYỂN
NGHIỆP KỲ DIỆU NHẤT
Sư tỷ
Khoan Kim từ sau khi thoát khỏi nạn hỏa tai, càng cung kính tin Phật
niệm Phật hơn, và gặp ai cũng tuyên dương sự linh cảm của Phật, Bồ Tát.
Nhưng người con thứ ba đã đến tuổi đi lính phải phục vụ trong quân đội
ba năm, cuộc sống của bà liền trở thành vấn đề khó xử. Không biết như
thế nào mới tốt đây? Sư tỷ liền khẩn thiết van cầu Quán Thế Âm Bồ Tát
một cách rất là cung kính rằng: “Tín nữ Khoan Kim xưa kia ngu si không
biết về nhân quả báo ứng, đã tạo ra rất nhiều ác nghiệp, cho nên tai
nạn, khổ nguy trùng trùng, hiện nay được nghe chánh pháp, rất cảm tạ
Phật, Bồ Tát đã phò hộ con được sống bình an qua ngày. Nhưng giờ đây cầu
xin Phật, Bồ Tát giúp cho con một việc: Xin giúp con tìm được một việc
làm có tiền lương cao một chút do vì hiện nay tiền lương ở nhà máy giày
dép cao su một ngày chỉ có 5 đồng, con trai của con sắp vào lính ba năm,
cuộc sống ngày ba bữa trong ba năm này của con sẽ phải khó khăn. Đệ tử
tự biết đây là một yêu cầu gần như vô lý với Phật, Bồ Tát nhưng vì tín
nữ đã hơn năm mươi tuổi, lại không biết chữ, tự mình đi tìm việc rất
khó, dám xin Quán Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn tìm cách
giúp con giải quyết vấn đề sinh sống trong ba năm này”. Sư tỷ sớm tối
đều cầu xin như thế. Quán Thế Âm Bồ Tát thật là linh nghiệm vô cùng,
không phụ sự cầu xin của người chí thành. Có một đêm, sư tỷ bỗng nhiên
nằm mộng thấy một cô gái khoảng mười lăm, mười sáu tuổi nói với bà:
“Khoan Kim! Bà muốn có một công việc tốt, sáng mai lúc cầm hộp cơm đi
làm, phải đi đường nhỏ không được đi đường lớn, sẽ có quý nhơn giúp đỡ
cho bà”. Nói xong thì biến mất. Sáng hôm sau, lúc sư tỷ mang hộp cơm ra
cửa, nhớ lại cảnh trong mộng đêm trước, nửa tin nửa ngờ. Nguyên là mỗi
ngày đi ra khỏi nhà đều đi theo đường lớn, nhưng hôm nay đổi hướng đi
đường nhỏ thử xem. Đi được nửa đường thì ở bên bờ tường của một ngôi nhà
cao cấp có một cô gái cười cười đến hỏi bà: “Bà tên là Khoan Kim muốn đi
đến hãng giày dép cao su làm phải không? Bà vội vàng đáp phải, nhưng
trong lòng lại rất lấy làm lạ: cô gái làm sao lại biết rõ thế? Cô gái
lại nói: “Chủ tịch Hội đồng Quản trị của chúng tôi sáng sớm kêu tôi đợi
bà ở đây, ông ta mời bà vào trong có chuyện muốn nói với bà”.
Sư tỷ Khoan Kim lúc đó trong
lòng vô cùng ngạc nhiên đi theo cô gái vào trong. Ông Chủ tịch Hội đồng
Quản trị hỏi bà một cách rất thân tình: “Bà tên là Khoan Kim, con trai
bà sắp vào lính ba năm, cho nên bà muốn tìm một chỗ làm có lương tương
đối khá phải không?”. Bà liền đáp phải. Ông Chủ tịch lại nói: “Nhà máy
của chúng tôi có một cô nhân viên làm tạp vụ, chuyên lo về công việc nấu
nước pha trà, nhưng cô này lại để móng tay quá dài, lại sơn đỏ chót, cho
nên bình trà, chung trà, mâm đều rất dơ, tại cô ta sợ gãy móng tay, cho
nên rửa cái gì cũng không sạch. Bây giờ cần đổi người khác, chỉ cần hàng
ngày rửa sạch những dụng cụ uống trà là được rồi, mời bà đến đảm nhiệm
công việc. Thế nào? Lương mỗi tháng là 450 đồng, cuối năm lại thưởng một
tháng lương nữa”. Sư tỷ nghe ông Chủ tịch nói thao thao một hồi, vui
mừng vô cùng nói: “Cám ơn ông Chủ tịch rất nhiều có lòng tốt giúp đỡ”
Sư tỷ Khoan Kim từ lúc bỏ nơi
làm việc mỗi ngày 5 đồng chuyển vào nơi tiền lương mỗi tháng 450 đồng,
bà làm việc rất chăm chỉ. Nhưng trào lưu của thời thế những hãng xưởng
lớn mà mướn mấy bà già làm nhân viên tạp vụ như thế rất là ít có, cho
nên trong xưởng có một số viên chức mắt nhìn thấy một bà già bưng trà đi
ra đi vô ở văn phòng có hơi ngứa mắt, liền nửa đùa nửa thật kiến nghị
với ông Chủ tịch rằng: “Thưa ông Chủ tịch! Ông mướn bà già này bưng trà,
thật không hay chút nào!”. Có người còn nói xen vào: “Thưa ông Chủ tịch!
Nếu như không tìm được người trẻ tuổi, tôi ngày mai lập tức dẫn đến một
cô vừa thông minh vừa lanh lợi đến thay thế cho”.
Ông Chủ tịch vội vàng nói:
“Không được! Không được! Việc này xin các anh tha cho, do vì tôi đã hứa
với Quán Thế Âm Bồ Tát rồi, Bồ Tát kêu tôi giúp bà ta ba năm”. Lúc đó
mọi người trong văn phòng đều cười rộ lên, cho là ông Chủ tịch nói
chuyện thần thoại, liền hỏi ông ta: “Bồ Tát làm thế nào ước hẹn với ông
bảo ông giúp cho bà già này ba năm chớ?”.
Ông Chủ tịch liền nói với mọi
người rằng: “Bà Khoan Kim này không phải là bà con của tôi, tôi lại cũng
không có quen biết bà, không tin thì các người hỏi bà ta xem lập tức có
thể chứng minh. Do vì cái đêm trước mời bà ta lại làm, tôi chiêm bao mơ
mơ màng màng, nhìn thấy một cô gái khoảng mười sáu tuổi, cô ta nói với
tôi cô là Quán Thế Âm Bồ Tát hóa thân đến nhờ tôi, do vì có một tín nữ
lớn tuổi rất thành khẩn với Phật pháp, con trai của bà ta sắp đi lính ba
năm, cho nên cuộc sống gặp khó khăn, yêu cầu tôi thuê dùng ba năm, trong
thời gian đó, nếu như có người phản đối, ông cũng không được nản lòng,
giúp ba năm đến nơi đến chốn. Lúc bấy giờ tôi liền hỏi cô gái đó rằng:
“Vị lão tín nữ đó tôi lại không quen biết bà ta, làm sao đây?”. Cô gái
đó lại nói: “Lão tín nữ tên là Khoan Kim, hơn 7 giờ sáng mai, trong tay
cầm hộp cơm đi đến làm ở nhà máy giày dép cao su, sẽ đi ngang qua cửa
nhà của ông, ông chỉ cần phái người theo giờ đó đứng đón ngoài cửa là
được rồi”. Nói đến đây thì cô gái biến mất.
Lúc đó
sư tỷ Khoan Kim nói với mọi người: “Thì ra là lòng từ bi của Quán Thế Âm
Bồ Tát, chẳng những báo mộng cho ông Chủ tịch, đồng thời cũng chỉ điểm
cho tôi, kêu tôi lúc đi làm buổi sáng, không được đi đường lớn mà đi
theo đường nhỏ sẽ có quý nhơn giúp đỡ, không ngờ thật sự gặp được nhân
duyên đặc biệt này. Hồi lúc trước ông Chủ tịch kêu vào làm một cách thân
tình như thế, trong bụng tôi hết sức hoang mang: ông Chủ tịch làm sao
biết tôi rõ như thế?… Qua lần giải thích đó mới biết là lòng đại từ đại
bi cứu khổ cứu nạn của Quán Thế Âm Bồ Tát đã giải quyết dùm cho tôi.
Thật là Phật pháp vô biên không thể nghĩ bàn!”. Sư tỷ cảm động nói: “Từ
hôm đó, sau khi ông Chủ tịch giải thích chuyện kỳ diệu không thể nghĩ
bàn, trong ba năm trời, không còn người nào nói ra nói vào gì nữa”.
Chuyện kể tới đây, tôi liền hỏi sư tỷ: “Ông Chủ tịch đó là ai, tên họ là
gì?”, sư tỷ nói: “Ông ta họ Trương tên Kiết, ông là Chủ tịch Hội đồng
Quản trị của nhà máy bột mì Quảng Nguyên. Trên đây hoàn toàn là sự thật.
Đây là chuyện cảm ứng chuyển nghiệp thứ hai của sư tỷ Khoan Kim do niệm
Phật mà được.
56. NIỆM PHẬT CHUYỂN NGHIỆP
ĐƯỢC HƯỞNG THỌ PHƯỚC BÁO
Phật là bậc đạo sư của ba
cõi, cha lành trong bốn loài. Những người quy hướng tin theo diệt được
tội như cát sông Hằng; những người xưng niệm được phước vô lượng. Lại
nói về Tấn Truyền, người con trai thứ ba của sư tỷ Khoan Kim, từ khi
nhận được sự hun đúc của mẹ thì tin sâu Phật pháp, hiểu rõ những điều
hay tốt của việc niệm Phật, niệm Bồ Tát, cho nên sau khi nhập ngũ huấn
luyện, nghiêm thủ quy luật của quân đội, thời gian rảnh liền niệm Thánh
hiệu A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát, thường được nhờ Phật, Bồ Tát từ
bi gia hộ, như có lúc đang bơi, trong hư không trên đỉnh đầu từng thấy
Bạch y Đại sĩ (Quán Thế Âm Bồ Tát ) hóa hiện, nói ra thật khiến người
khó tin.
Thời gian thật là nhanh, thời
hạn Tấn Truyền phục dịch ba năm trong quân đội đã mãn, được về quê.
Người thanh niên chịu sự giáo dục huấn luyện tốt trong quân đội trong
lòng không lo nghĩ gì, hơn nữa đã niệm được hơn ba năm Thánh hiệu, cho
nên trở thành một thanh niên thông minh sáng suốt, phước tướng phẩm hạnh
đoan chánh. Sau khi về nhà liền đến nhà máy bột mì cám ơn ông Chủ tịch
và hết thảy mọi người việc mẹ anh được mọi người giúp đỡ trong thời gian
ba năm anh phục dịch trong quân đội. Lúc đó trong nhà máy có một nữ viên
chức nhìn thấy Tấn Truyền đẹp trai hiền lành chất phác, nên tình nguyện
kết nghĩa Tần Tấn với anh, sư tỷ Khoan Kim tiết kiệm tằn tiện trong ba
năm trời, thêm vào đó được tiền thưởng khi nghỉ việc, hết thảy dành được
một vạn đồng, làm tiền chi phí cưới vợ cho con, thật là không ngờ lại
cưới được một con dâu hiền thục con nhà giàu nhưng không hề kiêu ngạo.
Không lâu sau đó hai vợ chồng liền mua mấy căn nhà cũ ở khu Bắc, bắt đầu
tự làm ăn. Với sự chăm chỉ chí thú làm ăn của Tấn Truyền, cơ sở ngày một
phát triển. Năm năm trước đây đã giở bỏ căn nhà cũ, làm lại một căn nhà
lầu mới bê tông cốt thép, trên lầu thờ Phật, Bồ Tát. Sư tỷ sớm tối càng
tu hành lễ bái tinh tấn hưởng thọ cái vui đoàn viên trong đời. Cứ như
thế, mọi người đều nói là nhờ sự che chở của Phật, Bồ Tát. Đây cũng
chính là phước báo có được sau khi chuyển nghiệp.
57. PHẬT, BỒ TÁT KHÔNG PHỤ
NGƯỜI CHÍ TÂM
Sư tỷ Khoan Kim trong ba năm,
có một hôm nhận được một lá thơ hẹn giờ, là thơ của con trai lớn ở dưới
quê Ngô Thê gởi lên. Trong thơ nói với bà đứa cháu nội mười tuổi bị bệnh
viêm màng não đã mười ngày, thuốc thang trị liệu không hiệu quả, hiện
đang trong trạng thái hôn mê, tánh mạng nguy hiểm trong sớm tối, mời mẹ
về nhanh. Sư tỷ nghe tin tức, liền đi thỉnh một bức tượng Tây phương Tam
Thánh và một quyển Kinh Di Đà, mang theo mõ chuông vội vàng về quê. Đến
nhà trời đã tối, thấy một thầy thuốc đang khám bệnh cho cháu, lại thấy
cháu đang trong cơn nguy cấp muôn phần, tay chân bị co giật không ngớt,
chỉ thấy bác sĩ (thầy thuốc) lắc đầu nói: “Đáng tiếc! Đáng tiếc! Lớn như
thế này mà gặp không may sốt cao 40 độ, lại bị co giật, sinh mạng đứa
nhỏ này khó mà giữ lại được, tối đa chỉ kéo dài đến sáng mai!… So với
thằng bé họ Trần ở gần bên, mặc dù cũng đồng một chứng viêm màng não,
nhưng thằng nhỏ kia sốt chỉ có 38 độ và không có bị co giật, hy vọng trị
khỏi được nhiều hơn”. Bác sĩ nói xong liền đi.
Sư tỷ Khoan Kim mặc dù nghe
những lời nói đó của bác sĩ, nhưng vẫn không nản lòng, lập tức treo
tượng Tây phương Tam Thánh lên, thắp hương đốt đèn, trước tụng một quyển
Kinh Di Đà và xưng niệm Thánh hiệu Di Đà không dứt, còn kêu con trai,
con dâu, ba người luân phiên nhau niệm. Người già thì có nhiều kinh
nghiệm, nhìn thấy miệng mũi của thằng nhỏ khô khốc, lại niệm một ly lớn
nước chú đại bi, chế vào miệng nó, miệng mồm liền được thấm nhuần tươi
tắn. Thật đúng niệm Phật chỉ sợ tâm không chuyên, nếu có thể chuyên,
người nào cũng đều có thể được cảm ứng. Đang lúc ba người niệm đến nửa
đêm, thì con dâu bỗng nhiên kêu mẹ chồng một tiếng, nói: “Lúc con đang
nhắm mắt niệm Phật, thì nhìn thấy ba tượng Phật, Bồ Tát rất là cao lớn,
đều ở trong phòng, nhưng lúc mở mắt ra thì không thấy nữa, nhắm mắt lại
thì lại nhìn thấy. Thật là không thể nghĩ bàn! Má! Má có nhìn thấy
không?”. Sư tỷ nói: “Rất tốt, rất tốt. Có lẽ thằng nhỏ này được cứu rồi,
do vì tâm con cung kính niệm, khẩn thiết cầu xin, cho nên sự cảm ứng
được giao thông. Con xem nó bây giờ đã hết co giật rồi đó ư? Chúng ta
tiếp tục thành tâm niệm nữa đi!”.
Sư tỷ Khoan Kim, con trai và
con dâu, ba người gắng sức van cầu Phật, Bồ Tát, suốt đêm tiếng niệm
Phật không hề gián đoạn. Phật, Bồ Tát thật là không có phụ người chí
tâm, khi trời vừa sáng, con bệnh đã xuất hạn mồ hôi và hạ sốt, con mắt
đã có thể chuyển động, tứ chi cũng đã cử động được rồi, bỗng nhiên mở
miệng kêu lên một tiếng: “Bà nội!”. Lúc đó bà nội và ba mẹ của thằng nhỏ
đều mừng rỡ, cảm động đến muốn khóc…
Ngay lúc đó, ông bác sĩ kia
bỗng nhiên đi đến, khám kỹ thằng nhỏ này, cũng rất vui mừng nói: “Chúc
mừng, chúc mừng! Thằng nhỏ này đã không còn lo gì đến tính mạng nữa rồi,
đã khỏi hơn phân nửa. Nói ra thật có kỳ tích! Người bệnh nặng thì chuyển
nguy thành an, còn thằng nhỏ bệnh nhẹ họ Trần ở gần bên thì ngược lại đã
chết! Tôi vừa được họ mời đến, làm giấy khai tử cho nó. Theo lời cha mẹ
nó nói nửa đêm biến chứng, không bao lâu thì tắt thở, do đây sẵn tiện
đến thăm thằng bé nhà các vị”.
Sư tỷ nói với tôi: “Thằng
cháu trưởng của tôi hoàn toàn nhờ Phật, Bồ Tát giáng hiện điềm lành mới
được may mắn sống lại. Đến giờ thằng nhỏ này tinh thần bình thường, ngũ
quan tứ chi đoan chánh. Nhưng có điều khiến người ta khó hiểu là tại sao
trong ba người của chúng tôi, chỉ có mình con dâu thấy được Phật, Bồ Tát
hiện ra, còn hai mẹ con tôi lại không nhìn thấy? Tôi nghe xong giải
thích cho bà ta nghe như thế này: “Do vì sư tỷ lúc đó đang bận trì niệm
nước chú đại bi và rót từng giọt từng giọt vào miệng thằng nhỏ, cho nên
tâm niệm Phật không được chuyên; đến như con trai lớn của bà, do vì chưa
từng nghe qua pháp môn Tịnh độ, không biết được điều hay tốt của niệm
Phật, nên chỉ niệm bằng miệng, còn trong tâm thì tán loạn nên không thể
thấy được. Còn con dâu của sư tỷ nó biết nghe lời của sư tỷ, hơn nữa cái
tâm muốn cứu con tha thiết, niệm được tâm và Phật hợp nhau, nhứt tâm bất
loạn, giống như nước trong trăng hiện, cảm ứng do bởi cái tâm cô ta
thành khẩn, cho nên không bị cái đau mất con. Đây là một chuyện thật của
sư tỷ Khoan Kim dạy con dâu niệm Phật mà được chuyển nghiệp.
58. TAI NẠN BỊ TREO Ở SƯỜN
NÚI, NGUY HIỂM KINH SỢ, RỐT CUỘC KHÔNG SAO
Tấn
Truyền, người con thứ ba của sư tỷ Khoan Kim, có thời gian anh ta vừa
làm ông chủ vừa làm công việc đối ngoại, hồi năm rồi có một hôm anh cỡi
một chiếc xe mô tô đến vùng quê ở trong núi sâu thuộc đất Khai Phong để
thâu nợ. Lúc sắp về nhà đi ngang qua một ngọn núi bên trái là vách núi,
bên phải là vực sâu mấy trượng, xe chạy ngang qua chỗ này, bỗng nhiên
“bùm” một tiếng lớn (bể bánh?); trong chớp mắt chiếc xe rơi xuống vực
sâu, nhưng Tấn Truyền tay mắt nhanh nhẹn, hai tay túm chặt được một bụi
cỏ trúc treo trên sườn núi không bị rớt theo xe xuống vực sâu. Đất ruộng
ở dưới vực có bốn, năm người nông phu đang cày ruộng ở đó, mắt thấy xe
rơi xuống, liền la to: “Xong rồi, xong rồi!”. Đợi đến lúc lại dựng xe
lên xem: thật là kỳ lạ, chiếc xe này vẫn còn tốt y nguyên, không có hư
chút nào hết, những người nông phu đó liền cứu Tấn Truyền đang hôn mê
nằm treo trên sườn núi, sau khi tỉnh lại Tấn Truyền nhìn sườn núi chỗ
mới treo trên đó, ngạc nhiên nói: “Ô! Tôi mới vừa rồi rõ ràng nắm cứng
bụi cỏ trúc treo ở sườn núi đó mà, mới không bị ngã rơi xuống đáy vực”.
Mấy người nông phu đó nói: “Sườn núi này từ nào tới giờ láng lẩy, cỏ
trúc ở đâu mà có? Chắc là mắt anh hoa nhìn lộn đấy thôi. Nhưng anh thật
là may mắn, từ trước tới giờ bất kể là đi xe mô tô hay xe đạp, mà bị sự
cố ở đây, đều không có ai sống sót hết! Trước đây mấy hôm lại có một cô
gái cỡi xe đến đây bị sự cố, chết ngay đây nè!”.
Tấn
Truyền liền kiểm tra xe lại kỹ lưỡng, không có hư chút gì hết, mình mẩy
cũng không bị chút thương tích nào, liền cỡi xe bình an trở về nhà. Về
đến nhà lập tức chạy lên trên lầu lễ bái Quán Thế Âm Bồ Tát rất là cung
kính, lại kể cho mẹ nghe chuyện kỳ lạ của tai nạn xe vừa rồi và lời kể
của những người nông phu ở đó, nếu không phải Quán Thế Âm Bồ Tát hóa
hiện ra một bụi cỏ trúc lớn cho con nắm lấy, thì con và xe đã cùng rơi
xuống vực sâu, sớm đã tan xương nát thịt rồi”. Cả nhà nghe đến nỗi đổ mồ
hôi lạnh ra cả nắm tay, nếu không phải Bồ Tát phò hộ cùng với những
người nông phu tốt bụng, thì chiếc xe rơi xuống đáy vực như thế làm sao
có thể kéo lên được?…
Sau khi Tấn Truyền thuật lại
chuyện nguy hiểm, kinh sợ vừa trải qua xong, thì có hơi mệt, lúc ngã nằm
xuống trên giường nghỉ, thì thần thức liền phấp phới bay đến nơi vừa rơi
xe, chỉ thấy một con quỷ nữ mặt mày hung ác, trên đầu kết một xâu tiền
mã lớn, chạy tới chạy lui nơi đó, Tấn Truyền sợ quá bất giác chắp tay
lại và xưng niệm “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát ” (ở
trong mộng mà thần thức có thể niệm Phật được, thì có thể tiêu tai giải
nguy) Tấn Truyền ở trong mộng niệm chưa đến mười tiếng, thì Quán Thế
Âm Bồ Tát hiển linh trên hư không, đến gần phía trước dán tờ giấy viết
“Án ma ni bát di hồng” trên trán của Tấn Truyền, rồi dùng cây phất trần
cầm trên tay phẩy con quỷ nữ biến mất tiêu. Tấn Truyền vừa tỉnh lại, hóa
ra là một giấc mộng, nhưng cảnh giới trong mộng anh nhớ rất rõ ràng.
Chuyện này chứng minh: “Ai ăn nấy no, tội nghiệp của ai thì người đó
phải tự tiêu trừ!”. Nếu như Tấn Truyền tự mình không có niệm được Thánh
hiệu Phật, Bồ Tát, thì không thể tưởng được truyện ra sao rồi! Đây cũng
là chuyện cảm ứng của sư tỷ Khoan Kim dạy con niệm Phật mà được nghiệp
theo tâm chuyển.
59. ĐỨNG CHẮP TAY MỈM CƯỜI
VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG
Việc
đau xót thống khổ nhất trong đời không gì hơn CHẾT, không ai là không
biết cũng không ai có thể tránh khỏi. Do đây Đức Thế Tôn với tâm từ bi
vô hạn, không hỏi mà tự nói, giới thiệu ra pháp môn Tịnh độ, dạy người
tin sâu, nguyện thiết, chuyên cần niệm Phật cầu sanh Tây phương. Nên
biết việc vãng sanh Tây phương cần phải ở nơi một niệm cuối cùng của tự
bản thân là chủ yếu, đồng thời cũng phải cần các liên hữu trợ niệm đúng
pháp, nhưng mà lục thân quyến thuộc, thường không có biết trợ giúp niệm
Phật để đưa thần thức của người mất vãng sanh Tây phương Cực lạc thế
giới, hưởng thọ sự an lạc mãi mãi, mà ngược lại đau xót khóc lóc kêu la,
đẩy thần thức của người mất rơi xuống ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh, chịu sự khổ sở lâu dài, đau thương vô cùng! Nay lại đưa ra đây
một truyện niệm Phật được vãng sanh, một truyện thật, đứng mà hóa sanh
Tây phương như sau:
Mười
năm trước đây, cư sĩ Lại Luyện Lương từng nói với tôi một kỳ tích vãng
sanh. Ông ta nói gần nhà của ông có một vị sư tỷ tên Ấu đã 68 tuổi. Bà
bình thường không biết chữ, chỉ chuyên tâm niệm Phật, bà chỉ có một cô
con gái nên gả con bắt rể. Phật thất hai mùa Xuân, Thu của chùa Linh Sơn
bà đều tham gia, thấy các bạn đồng tu nam nữ đều mặc áo tràng trang
nghiêm tề chỉnh. Một hôm liền nói với con rể rằng: “Chiếc nhẫn vàng này
của má, con đem đi bán dùm cho má”. Con rể hỏi: “Má già rồi đâu có dùng
tiền làm gì, phải bán chiếc nhẫn làm cái gì?”. Bà liền đáp rằng: “Má rất
mong có một cái áo tràng, kỳ đả Phật thất sắp đến rồi, má cần mặc để
tham gia Phật thất”. Con rể hỏi bà: “Áo tràng cần bao nhiêu tiền, con
may cho má, hoặc mua là được rồi, không cần bán chiếc nhẫn vàng đâu!”.
Sư tỷ Ấu nói cần 200 đồng.
Sáng
sớm ngày thứ nhất của kỳ Phật thất, sư tỷ Ấu liền tắm rửa, mặc chiếc áo
tràng mới may, chuẩn bị, trước thắp hương, đốt đèn lạy Phật ở nhà, rồi
đi chùa Linh Sơn đả Phật thất. Lúc đó, gần nhà có một vị liên hữu là A
Tam Muội, dậy sớm, liền đến hẹn với sư tỷ cùng đi đả thất. Sư tỷ Ấu nói:
“A Tam Muội, cô đi trước đi, tôi phải lạy Phật ở nhà trước”. Sau khi A
Tam Muội đi, sư tỷ Ấu mặc áo tràng vô cùng vui vẻ, quỳ xuống lạy Phật ba
lạy, xong ngẩng đầu lên chiêm ngưỡng Thánh tượng, thì thấy tượng Tam
Thánh chuyển động vòng tròn, đồng thời khói hương trong lò hương cũng
chuyển động, trong lòng không khỏi càng nghĩ càng cảm thấy kỳ lạ, mà
càng nhìn thì càng chuyển.
Sư tỷ
Ấu nghĩ không ra tại sao, mặc nguyên áo tràng đến mấy nhà liên hữu ở gần
mời họ đến xem tại sao Tây phương Tam Thánh và lư hương đều quay vòng?
Bốn, năm vị liên hữu theo bà đến xem, mọi người đều nói không thấy gì.
Lúc các vị liên hữu cùng nhau đồng lời nói, nhưng không thấy sư tỷ Ấu
trả lời, quay lại nhìn, thì thấy sư tỷ Ấu đứng yên không nhúc nhích, hai
tay chắp lại mỉm cười quy Tây rồi, các vị liên hữu tức thời đúng như
pháp, trợ niệm cho sư tỷ và bảo người nhà không được khóc, mà cùng trợ
niệm, lại kêu con rể của sư tỷ đến chùa Linh Sơn mời A Tam Muội đồng về
trợ niệm. Lúc con rể sư tỷ đến chùa gặp được A Tam Muội nói với cô: “Má
tôi đã vãng sanh Tây phương, mời cô về trợ niệm”, thì A Tam Muội làm sao
chịu tin, do vì cô ta sáng nay còn gặp sư tỷ Ấu, lại còn hẹn với sư tỷ
đồng lên chùa Linh Sơn tham gia Phật thất mà! Truyện kỳ tích vãng sanh
Tây phương này, tôi cũng có hỏi qua sư tỷ A Tam Muội, chứng minh đích
xác, không có nửa câu giả dối.
60. HIỆN BỐN THỨ TƯỚNG
LÀNH, NHẤT ĐỊNH VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG
“Người không tin Phật, không
sanh vào nhà ta. Ông Lữ dạy con, đời đời được vinh hoa”.
Hai
câu trước là nói về ông Lữ Mông Chánh đời Tống, ông là một vị Phật tử
thuần thành. Mỗi ngày vào sáng sớm, khi lạy Phật lạy Tổ đều lấy hai câu
này làm câu cầu nguyện sau cùng của thời khóa hàng ngày. Hai câu sau là
đời người sau khen ngợi ông Lữ dạy con có phương pháp, tứ đại đồng đường
(4 thế hệ: ông bà
cố, ông bà nội, bố mẹ, con cái ở chung trong một gia đình)
hưởng lộc đều là đệ tử Tam bảo, vinh hoa phú quý làm quan đến chức Tể
Tướng.
Lời tục ngữ nói rất hay: “Gia
đình muốn hưng thạnh, hãy nhìn xem con cháu”. Mỗi gia đình đều có con
cái, đều mong ước chúng trở thành hữu dụng. Nhưng hiện đang đời mạt
pháp, có thể có được mấy người giống như ông Lữ dạy dỗ cháu con học Phật
để được nhờ lợi ích của Phật pháp? Thật có thể nói là ít thấy như lông
chim Phụng, sừng Kỳ lân. Mặc dầu là ít có, khó được, nhưng bút giả (bà
Khán Trị) rốt cuộc đã thấy được một vị, ông ta chính là cư sĩ Lâm Thanh
Giang mới vãng sanh gần đây, tuy không có tài hoa như ông Lữ, nhưng sự
dạy dỗ con cháu học Phật, giúp đỡ cho ông vãng sanh lúc mạng chung, hiện
được tướng lành không thể nghĩ bàn, thật đáng quý, khó thể có được, sự
thật như sau:
Lão cư sĩ Lâm Thanh Giang,
quê của ông ở một làng bên bờ biển ở Ngô Thê, hiện ở số 15 đường Đại
Trí, thành phố Đài Trung. Ông tự kể lại khi mới vừa sinh ra đời, liền đã
chịu một tai nạn lớn. Do vì nhà ông ở bên bờ biển, ông mới sanh hai mươi
ngày bị trời mưa lâu, nước biển dâng lên, có mấy làng đã bị nước biển
dâng lên cuốn đi, biến thành biển cả mênh mông, nhìn không thấy bờ mé!
Cả nhà ông ta vội vã dùng chiếc bè tre đánh cá, chất hết người cả nhà và
lương thực lên trên chiếc bè tre đó, mặc cho nước cuốn trôi, trong đó có
một người sản phụ bồng một đứa trẻ chưa đầy tháng, đó là Lâm Thanh
Giang. Ở trên chiếc bè tre đó trôi nổi 20 ngày, thật là chín phần chết,
một phần sống. Vượt qua lần tai nạn này có người nói: “Nạn lớn mà không
chết, ắt có phúc về sau”. Cái hạnh phúc đó của Lâm lão cư sĩ là cái gì?
Có lẽ chính là việc về già được sự lợi ích do học Phật nghe pháp.
Lâm
lão cư sĩ tư chất thông minh tự nhiên, tuổi thiếu niên đi học rất có trí
nhớ, phần lớn những sách đọc qua rồi thì không quên, cho nên những thứ
ông đã học như: địa lý, y học, số mạng, bốc thuật (coi bói), tướng thuật
và thơ văn, thảy thảy đều giỏi, có thể cùng với người nói chuyện trên
trời dưới đất gì cũng được. Mặc dù nghề nghiệp của ông là buôn bán,
nhưng nếu có thời gian rảnh, ông liền khám bệnh bốc thuốc cho người bất
kể là trị những chứng bệnh khó khăn gì, phần nhiều là thuốc đến là hết
bệnh, cho nên những bệnh nhơn được trị khỏi khắp nơi rất nhiều, hết thảy
đều là kết duyên, không bao giờ nhận tiền của ai, cho nên ở trong làng
những bà con bạn bè đều khen ông là: “đệ nhất thiện nhơn”. Do bởi nhân
duyên làm lành mà vốn dĩ y theo ngày tháng năm sanh của ông tự coi số
thì thọ mạng tối đa của ông là năm mươi bốn tuổi, so với lúc ông vãng
sanh hồi năm ngoái là bảy mươi chín tuổi, tính ra thọ thêm được hai kỷ,
nếu như không thọ thêm hai mươi bốn năm thì cũng đã sớm giống như những
người thường, đi vào luân hồi lục đạo rồi!
Cơ duyên học Phật của Lâm lão
cư sĩ là vào lúc nhà ông ở đường Dân Tộc, thành phố Đài Trung làm hàng
xóm với cư sĩ Giang Ấn Thủy. Giang cư sĩ mới rủ ông đi nghe kinh, niệm
Phật với lão ân sư Lý (Lý Bính Nam), rồi thọ đại giới Bồ Tát. Từ đó hai
thời khóa sáng tối không gián đoạn, đều là cùng ông bạn già đồng ra vào
cùng nhau tu trì. Ông chẳng những tự tinh tấn tu hành, đối với việc dạy
dỗ con cái, ông cũng rất chăm chỉ, tạo thành một gia đình Phật tử thuần
thành, nhất là đối với đứa cháu nội Diệu Đường càng chú trọng, đặc biệt
mỗi sáng chủ nhựt vào tuần lễ Đức dục Nhi đồng của liên xã, ông đều bảo
cháu nội Diệu Đường đến tham gia niệm Phật, nghe chuyện. Về sau lại
khích lệ cháu nội gia nhập lớp bổ túc Quốc văn, sau khi học xong lớp bổ
túc Quốc văn lại tham gia đại hội diễn giảng của thanh niên tân xuân ở
Liên xã. Diệu Đường trước sau đã có bốn lần kinh nghiệm, đây đều là do
sự hun đúc của ông nội, Diệu Đường chẳng những ăn nói lanh lợi mà còn do
cội gốc gia đình có ăn học (có gien) được truyền thừa y bát của ông nội
(những sở đắc của ông nội), chí nguyện sau này cũng muốn hành nghề chữa
bệnh làm nghĩa giúp đời, cứu giúp những người bệnh.
Lão cư sĩ Lâm Thanh Giang năm
rồi bảy mươi chín tuổi, sức khỏe bỗng suy yếu, tứ đại không điều hòa,
nằm bệnh triền miên sáu tháng, nhưng lúc ông đau đớn vì bệnh, chỉ cần
người trong nhà ở trước mặt ông, vì ông mà niệm Phật thì ông không có
kêu đau gì cả, về sau các người trong nhà bèn chia ban ra niệm Phật suốt
ngày đêm không ngớt và thỉnh ân sư Bính Công về khai thị cho ông, dạy
cho ông buông bỏ vạn duyên, nhứt tâm niệm Phật. Đến ngày 22 tháng 12 ÂL
lúc nửa khuya, Diệu Đường nhắm mắt niệm Phật bên ông nội, bỗng nhiên
nhìn thấy một đám người muốn xông vào cửa lớn, nhưng hai bên cửa lớn:
phía bên trái có Bồ Tát Già Lam Thánh chúng đứng, tay cầm đại quan đao,
phía bên phải có Hộ pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát đứng, tay cầm hàng ma
chữ. Hai vị Bồ Tát này dùng đại quan đao và hàng ma chữ chận đứng đám
người đó lại rồi đuổi đi; nhưng không bao lâu lại có một đám người khác
đến nữa, liên tiếp ba lần đều như thế, Diệu Đường nhìn thấy cảnh này rất
rõ ràng, liền biết là oan nghiệp đời trước đến đòi nợ bị thần hộ pháp
của Phật giáo chặn đứng đuổi đi… Sáng sớm lão cư sĩ nói với con dâu (mẹ
của Diệu Đường) rằng: “Tối nay Ba sẽ vãng sanh Tây phương”.
Diệu Đường liền chạy đến Liên
xã thỉnh các vị trợ niệm, có ban trưởng ban Vũ Đức là Hoàng Thái Vân và
một số người đến trợ niệm cho ông, từ sáng sớm ngày đó bắt đầu niệm,
niệm đến hơn 10 giờ tối. Sau khi các vị trong ban hộ niệm đi về, thì cả
nhà do Diệu Đường hướng dẫn niệm Phật, không bao lâu, bỗng nhìn thấy một
đạo hào quang từ cửa xẹt vào đối thẳng với tượng Phật A Di Đà, liên tiếp
ba lần phóng ánh sáng như thế, lúc đó lão cư sĩ Thanh Giang trên mặt lộ
vẻ khoan thai vui vẻ, miệng mỉm cười vãng sanh Tây phương, lúc đó đúng
11 giờ đêm. Vì phải sắp đặt bàn linh đang lúc Diệu Đường muốn đi ra
ngoài cửa để đi mua đèn cầy, thì thấy hào quang rực rỡ trên hư không từ
hướng Tây chiếu thẳng vào nhà, vì nhà của ông tọa vị hướng Đông, quay về
hướng Tây. Lúc Diệu Đường về nhà thì người anh đang niệm Phật bên ông
nội nói với Diệu Đường rằng: “Lúc em đi ra ngoài mua đèn cầy, anh đang
niệm Phật ở đây thì bỗng có một làn hương thơm bay lại, không phải mùi
của đàn hương, cũng không phải là mùi thơm của hoa, mà là mùi thơm rất
lạ ở thế gian này ít có!”. Cả nhà đều chuyên tâm nhứt ý niệm Phật mãi
đến trời sáng không dứt đoạn. Đã trợ niệm được tám giờ, lúc đó bà nội
của Diệu Đường muốn đến bên người bạn đời đã từ giã cõi trần, khó tránh
khỏi buồn thương liền nhè nhẹ vén cái mền đang đắp ra thì bỗng nhiên một
mùi thơm lạ sực nức mũi! Con cháu, mọi người cả nhà, ai cũng đều khen
ngợi Phật pháp vô biên không thể nghĩ bàn!
Do bốn tướng lành ở trên, suy
ra thì biết lão cư sĩ Lâm Thanh Giang, chắc chắn vãng sanh Tây phương
không còn nghi ngờ gì nữa. Con dâu của ông càng khen ngợi may nhờ Phật,
Bồ Tát gia bị nên vãng sanh vào ban đêm, trợ niệm tròn đủ tám giờ, không
có động đến thân thể ông, cũng không có ai khóc, được sự thuận lợi cho
việc trợ niệm vãng sanh, nếu không thì lục thân quyến thuộc mấy chục
người thân thiết nhưng họ chưa từng biết niệm Phật nghe pháp, vừa nghe
người thân qua đời, chắc chắn chen chúc mà đến, làm sao có thể ngăn được
họ không gào khóc om sòm. Đây cũng là phước báo thù thắng của Lâm lão cư
sĩ lúc lâm chung vãng sanh Tây phương không có chướng ngại.
61. BỆNH CŨ MƯỜI
NĂM, KHÔNG THUỐC MÀ KHỎI
Lâm A
Thuyên ban viên của ban thí tài (bố thí tài vật), có một lần nói với
tôi, cô có một người em gái ở gần cầu cửa Nam khu Đông, 20 năm trước
sanh đứa con trai thứ hai, đặt tên là Kim Tinh. Đứa bé này từ lúc lọt
lòng mẹ đến 3 tuổi thân thể gầy còm yếu đuối không như những trẻ bình
thường khác, hầu như không có ngày nào không khám bác sĩ và uống thuốc,
suốt ngày đêm mẹ đều bế trong lòng. Một hôm vào buổi chiều bệnh của
thằng nhỏ này đến mức rất nghiêm trọng, lúc chỉ còn chút hơi thở thoi
thóp, mẹ của nó bỗng nhiên nhìn thấy ba, bốn quỷ thần hung ác muốn giựt
lấy đứa con cô đang bế trong lòng, nhưng cô bất kể thế nào cũng ôm chặt
không chịu buông ra. Trong khoảnh khắc sống chết muôn phần nguy hiểm đó,
thì thấy từ trên hư không hiện xuống một người nữ, dung mạo trang nghiêm
tay cầm phất trần, hướng về những quỷ thần hung ác nói: “Thằng nhỏ này
phải sống trên dương thế, các ngươi không được bắt nó đi”. Nói xong vung
phất trần lên phẩy một cái, những quỷ thần đó liền biến mất. Người nữ
trang nghiêm đó liền hướng về mẹ con của Kim Tinh nói: “Ngươi phải nên
niệm Phật A Di Đà thì con của ngươi sẽ dễ nuôi”. Từ đó về sau sức khỏe
thằng bé Kim Tinh được chuyển đổi từ ốm yếu thành mạnh mẽ, vui vẻ dễ
nuôi. Sư tỷ A Thuyên kể đến đây, lại nói với tôi: “Sư tỷ Khán Trị à! Sư
tỷ xem, nếu không phải là Quán Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi cứu khổ cứu
nạn hiện thân đến giải cứu, thì làm sao có được Kim Tinh ngày nay? Chắc
đã chết non năm 3 tuổi rồi”. Tôi liền hỏi bà ta: “Quán Thế Âm Bồ Tát dạy
cô ta phải niệm A Di Đà Phật, cô ta có niệm hay không?”, A Thuyên đáp:
“Em gái tôi vốn không hiểu được A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát là
gì? Do vì nó hỏi tôi việc này. Tôi liền nói cho nó nghe những điều hay
tốt và ý nghĩa của việc niệm A Di Đà Phật, từ đó mới bắt đầu niệm Phật”.
Ngày tháng thoi đưa, thời gian như tên, mới nháy mắt mà Kim Tinh đã 17
tuổi rồi, và là một thanh niên hiền lành, siêng năng làm việc. Từ sự
giới thiệu của Diệu Đường, anh gia nhập lớp bổ túc Quốc văn của liên xã
ở Đài Trung, thành tích học thuộc hạng giỏi, và anh cũng tham gia bốn
lần đại hội giảng diễn của thanh niên Phật giáo Tân Xuân và tham gia
hoằng pháp ở thành phố, đều do từ một tấm lòng thành mà ra, tài ăn nói
lanh lợi, chẳng những tự thân được pháp hỷ sung mãn, anh lại còn tâm tâm
niệm niệm muốn độ cho mẹ anh nữa. Vào năm Dân quốc thứ 55 lúc tôi đến
giảng phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn ở viện nuôi trẻ Từ Quang, thì cậu
học sinh Kim Tinh mỗi lần như thế đều đạp xe chở mẹ đi nghe giảng và
niệm Phật.
Theo lời Kim Tinh thì gia
đình của cậu trước đây làm ruộng, mẹ cậu là một người đàn bà giỏi giang,
cần cù và tiết kiệm, nên sanh con chưa đầy tháng đã ra ruộng làm việc;
vì cực khổ quá mức như thế nên sau lần sanh cậu ta thì mắc chứng bệnh
chân bị co giật đau, đi đứng không được tự nhiên; nhưng từ sau khi nghe
giảng phẩm Phổ Môn, biết được sự linh cảm của việc niệm Thánh hiệu Quán
Thế Âm Bồ Tát và việc Bồ Tát tầm thanh cứu khổ, bà liền thờ tượng Tây
phương Tam Thánh trong nhà, sớm tối thành kính lễ bái. Có một đêm 2 giờ
khuya thức dậy, hai chân bị gân rút đau quá, đau đến toàn thân đều đau.
Đang lúc đau không chịu nổi bà chỉ một mực to tiếng niệm Quán Thế Âm Bồ
Tát đến lúc trời sáng, thì cái bệnh cũ hơn 10 năm, rốt cuộc không thuốc
mà khỏi, gân cốt đau nhức hết thảy đều tiêu sạch. Sự thật trên đây là do
Kim Tinh nói với tôi.
62. CON CHÁU HỌC PHẬT CẢM HÓA
ĐƯỢC NGƯỜI LỚN
Một lần nữa kể về một thanh
niên Phật giáo, họ Dương tên là Nghĩa Hoàng, năm nay mười tám tuổi. Ba
năm trước lúc tôi giảng “Lương Hoàng Bảo Sám” ở liên xã, do cậu học sinh
Kim Tinh giới thiệu đến liên xã nghe giảng. Mỗi lần nghe những câu
chuyện cảm ứng về niệm Phật thì cậu thanh niên Nghĩa Hoàng này về nhà
đều kể lại một cách say sưa hứng thú cho ba mẹ và những bà con bạn bè
hàng xóm nghe, và xin được sự đồng ý của ba mẹ thỉnh bức tượng Tây
phương Tam Thánh lớn về lập bàn thờ phụng, mỗi sáng nhất định phải thành
khẩn lễ bái niệm Phật xong mới đi làm.
Đây là sự việc của mùa hè năm
ngoái, gần nhà của Nghĩa Hoàng có một nhà nọ dọn về quê ở làng Sa Lộc ở,
bà chủ của nhà này đã được sự huân tập của Nghĩa Hoàng, hiểu được niệm
một câu A Di Đà Phật có thể tiêu tai giải nguy, cho nên trong tàng thức
đã gieo trồng hạt giống kim cang; nhưng trong nhà của bà từ chồng bà trở
xuống mọi người đều không chịu niệm Phật. Chồng của bà làm thợ rèn trong
một công xưởng ở Đài Trung. Có một hôm vì trong công xưởng có nhiều
việc, ông chủ kêu ông ta về quê tìm mướn công nhân dẫn lên.
Ông này cũng là người hiền
hậu siêng năng, tranh thủ lúc làm việc ca đêm xong liền ngồi chuyến xe
11 giờ đi về Sa Lộc, nhưng muốn về đến nhà, nhất định phải đi bộ một
tiếng đồng hồ, lại phải đi qua một con đường sắt xuyên dọc theo bờ biển.
Ông này đến Sa Lộc đã hơn 12 giờ muốn thuê taxi, xe đòi giá 20 đồng.
Nhưng ông từ trước đến giờ rất hà tiện, không cam lòng tiêu xài 20 đồng,
nên tự đi bộ về nhà. Lúc đi đến chỗ xa xa phía trước là con đường sắt
thì nghe tiếng nỉ non khóc lóc của một người con gái, lúc đi đến gần
đường sắt thì thấy cô gái đó khoảng mười sáu, mười bảy tuổi ngồi giữa
đường sắt, cô gái này mặc đồ trắng, trên lưng mang một bao vải, ông này
vội vàng đi qua thì cô gái ngồi giữa đường sắt đó lại từ phía sau kêu
theo không ngớt: “Chú ơi! Tôi muốn theo chú về nhà!”. Lúc đó ông này
nghe tiếng kêu của cô gái đuổi theo càng lúc càng gần, không khỏi lông
tóc dựng đứng, không biết yêu ma quỷ quái gì, quay mình lại xem thử một
cái, thì thấy cô gái đó chỉ mặc có một chiếc áo lót, thấy ông quay lại
nhìn cô ta mạnh bạo kéo áo cho lộ ngực ra. Ông sợ quá quay đầu lại phóng
chạy riết về nhà, lúc kêu cửa đã hơn 1 giờ khuya.
Ông này chạy đến nhà hốt
hoảng gõ cửa, vợ ông ta vừa mở cửa thấy chồng xông vào ngã trên ghế dựa
hôn mê, bất tỉnh nhân sự lại còn thở gấp hổn hển. Bà vợ khôn ngoan cảm
thấy việc này nhất định phải có duyên cớ gì đây, tức thời ngồi bên mình
ông lớn tiếng niệm “A Di Đà Phật”, niệm chưa đến nửa tiếng đồng hồ, thần
trí của chồng bà dần dần tỉnh lại, khi bình tâm tĩnh trí liền đem việc ở
bên đường sắt nhìn thấy âm hồn nữ quỷ truy đuổi kêu réo kể lại cho vợ
ông nghe.
Vợ ông nói: “Con người ông
như vậy vừa hồ đồ vừa mê tín, bình thường trước ngực ông có đeo cái bùa
bát quái gì đó có thể đuổi tà được mà! Nghĩa Hoàng dạy chúng ta niệm A
Di Đà Phật, ông lại không tin, nếu như không phải sau khi về nhà, tôi cố
sức niệm Phật, có lẽ đến giờ ông vẫn còn hôn mê chưa tỉnh nữa là!”.
Chuyện trên đây do cậu học
sinh Nghĩa Hoàng kể với tôi. Tôi hỏi cậu ta: “Cái ông đó về sau thế
nào?”. Cậu ta đáp “Bình an vô sự, sáng sớm ngày sau lại đến Đài Trung đi
làm”.
Ba vị thanh niên trên đây có
thể làm ra được công đức không thể nghĩ bàn như thế: Diệu Đường trợ niệm
cho ông nội vãng sanh và khuyến độ được Kim Tinh học Phật. Kim Tinh do
lòng hiếu, cảm được đức Quán Thế Âm Bồ Tát trị khỏi được bệnh cũ nhiều
năm cho mẹ, lại khuyến độ thêm được Nghĩa Hoàng niệm Phật, tinh thần từ
bi của Nghĩa Hoàng, khéo dẫn dắt cho bà hàng xóm niệm Phật, cứu được
chồng bà ta được khỏi bị nữ quỷ chọc phá. Chả trách ông Lữ Mông Chánh
phát nguyện “Người không tin Phật, không sanh nhà ta”. Có thể thấy được
con em biết học Phật cũng có thể cảm hóa được người lớn. To lớn thay
Phật pháp, thật không thể nghĩ bàn!
63. TÀI XẾ NIỆM PHẬT, TAI
ƯƠNG TIÊU TRỪ
Vào mỗi chủ nhựt có tuần lễ
Nhi đồng Đức dục ở Liên xã, người đứng đầu phụ trách (chủ nhiệm) là Lại
Tuyết Hà, mọi người đều gọi bà là Bà giáo Lại. Mỗi sáng chủ nhựt, các em
bé ở chung quanh gần đó đều tập họp đến Liên xã, bà tập cho hát tiếng
Phạn, niệm Phật và kể những câu chuyện ngắn có quan hệ về Đạo đức, Nhân
nghĩa, khiến tâm linh của trẻ được gieo trồng những hạt giống lành. Bà
giáo Lại rất là từ bi, chẳng những tận tâm với nghĩa vụ, nhiệt tâm dạy
dỗ các em… nếu gặp vào những ngày lễ vía của Phật, Bồ Tát bà lại còn tự
móc hầu bao mua ít kẹo để kết duyên với các em nhỏ, hơn mười năm vẫn cứ
phát tâm như thế, các bậc phụ huynh của các em được thọ ân huệ của bà,
ai cũng đều cảm kích.
Bà giáo Lại hiện nay đang làm
việc ở một nhà máy ga lớn ở thành phố Đài Trung, làm chức chủ nhiệm
phòng hành chánh tổng hợp, bà làm việc rất chăm chỉ, người trên kẻ dưới
thảy đều rất tôn kính.
Hồi
năm rồi ngày 17 tháng 11, vía Đức Phật A Di Đà, bà giáo Lại đến hội Liên
Nghị, sau khi bái tổ tiên xong, bà nói với tôi: “Trong nguyệt san Cây Bồ
Đề, tôi xem được những sự tích cảm ứng của sư tỷ viết, cảm tạ từ ân của
Phật, Bồ Tát, trong lòng thật hoan hỷ vô lượng!”. Bà giáo Lại lại nói:
“Nhà máy của chúng tôi có một nhóm tài xế trẻ, mỗi buổi sáng, lúc ngồi
sau tay lái sắp chở hàng đi, tôi liền dạy họ niệm mười câu “A Di Đà
Phật” trước, rồi mới để họ lái xe đi, và dặn đi dặn lại nhiều lần nếu
như gặp phải nguy hiểm, thì nên nhanh chóng niệm “A Di Đà Phật” to lên.
Ngày ngày đều dặn dò, chỉ bảo như thế, lâu dần thành quen, tự nhiên đều
như thế không cần phải dặn dò chỉ bảo nữa, tự họ đều biết niệm cả.
Có một lần, một vị tài xế,
mặt mày tươi rói đến nói với tôi: “A Di Đà Phật, sao mà đắc dụng như
thế?”. Tôi liền hỏi anh ta đã xảy ra chuyện gì? Anh tài xế nói: “Hôm qua
tôi đi chở hàng xa, mãi đến tối mới trở lại, nửa đường xe xảy ra sự cố,
cứ chạy lệch hướng, gắng sức thế nào cũng đều không bẻ lái lại được, tôi
liền lập tức niệm “A Di Đà Phật”, xe bỗng nhiên tự động dừng lại bất
động, tôi lập tức xuống xe xem xét không ngờ bị một đống cát cản đứng
bánh xe trước lại, đi tiếp ra phía trước xem, thì giựt mình hết hồn: có
một cái hố sâu! Lúc đó nếu như không phải Phật A Di Đà hóa ra đống cát
cản đứng bánh xe lại, xe chạy tiếp về phía trước, không chết thì cũng bị
thương, như thế thật nguy hiểm quá sức!”. Anh tài xế do đó mà cảm ơn vô
cùng việc dạy niệm Phật hàng ngày nhờ đó mà được gặp dữ hóa lành, nhặt
lại được mạng sống.
Bà giáo Lại lại nói: “Còn có
một lần nữa, một anh tài xế khác có một hôm mặt mày hớn hở đến nói với
tôi: “Phật A Di Đà thật là hay!”. Tôi liền hỏi anh ta: “Anh được cảm ứng
gì mà vui vẻ thế?”. Anh tài xế này liền nói: “Tôi ngày hôm nay nếu như
không biết niệm A Di Đà Phật chắc là đã sớm gây ra án mạng! Do vì hôm
nay lúc lái xe trên một đại lộ, bỗng có một đứa nhỏ băng ngang đường,
chạy ngay đến trước xe tôi, tôi đạp thắng gấp cũng không kịp, tức thời
vọt miệng niệm lớn tiếng A Di Đà Phật! Trong bụng nghĩ đứa nhỏ chắc chắn
đã chết thảm dưới bánh xe, cho nên sợ đến nỗi toàn thân tháo mồ hôi hột,
nhưng khi xe dừng lại rồi, nhìn xuống thì thấy thằng nhỏ đó không có sao
hết, đang vội vội chạy chuồn đi”. Anh tài xế này cũng cảm ơn tôi rối
rít.
Bà giáo Lại nói tiếp: “Lại có
một lần trong nhà máy có một viên chức già đến hỏi tôi, ông ta nói phòng
ốc ở nhà ông rất khó ở, mỗi lần đến đêm khuya mọi người yên tĩnh hết,
thường có những âm thanh quái đản lại có vẻ gấp rút, có nhiều lúc bị
quấy rầy đến suốt đêm không yên được! Không biết phải làm thế nào mới
được đây? Tôi liền chỉ ông ta phương pháp niệm A Di Đà Phật và nói thêm
với ông ta: “Chẳng những sớm tối phải niệm mà còn trước khi ngủ cũng
phải niệm, nếu lúc phát giác có gì lạ, thì càng phải niệm to hơn”. Thật
là một thang thuốc A Già Đà trị hết được muôn bệnh, vài tháng sau ông
già đó đến cám ơn nói với tôi rằng: “Hiện nay nhờ phước ấm của bà mà mỗi
đêm ngủ thẳng giấc tới sáng, đã yên ổn hết rồi”.
Tinh thần to lớn của bà giáo
Lại, ở trong Phật môn tâm tâm niệm niệm đều là muốn cứu độ chúng sanh, ở
trong xã hội đối đãi với mọi người từ tốn lịch sự, làm việc thì chân
thực, ở trong gia đình thì hòa thuận tốt đẹp, đích thật là một người vợ
hiền mẹ tốt. Có thể nói từ gia đình ra đến xã hội cho đến công sở làm
việc cả ba đều tốt đẹp, đáng được xưng là bậc trượng phu trong nữ giới,
khiến mọi người đều kính phục.
64. NIỆM PHẬT CẢM ỨNG ĐƯỢC
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT ỨNG HÓA CỨU ĐỨA EM
Nhớ lại từ mười lăm năm
trước, hội viên hoằng pháp của liên xã Trì Huệ Lâm đến Quân Công Liêu ở
khu Bắc Đồn hoằng dương chánh pháp, tổ chức một ban niệm Phật gia đình,
Bính Công ân sư đặt tên cho là “Ban Di Đà”. Lúc đó Huệ Lâm nói với tôi:
Có một cô gái trẻ trong ban Di Đà tên là Ngọc Chi, chẳng những thành
khẩn hai thời sớm tối, lại còn rất nhiệt tâm giúp đỡ trong ban làm việc,
do đây được cảm ứng đạo giao với Quán Thế Âm Bồ Tát mà cứu được mạng đứa
em trai bốn tuổi của cô ta.
Quân Công Liêu là một làng
trong núi dựa gần một cái vực to. Lúc bấy giờ gần nhà ở của Ngọc Chi có
một ao cá, nước trong ao sâu hơn một trượng. Có một hôm, đứa em trai bốn
tuổi của Ngọc Chi lúc đi chơi ở ngoài về nhà, mẹ nó vừa nhìn thì thấy
mặt mày, tay chân, đầu tóc, quần áo giống như là con gà mắc nước, toàn
thân ướt hết, lại bê bết bùn đất, bà mẹ liền biết nhất định là té xuống
trong ao sâu, bà mẹ liền hỏi nó: “Con làm sao cho ướt nhẹp cả người đến
thế này?”. Thằng nhỏ liền nói: “Con đang chơi bên ao, sơ sẩy bị té xuống
trong nước!”.
Bà mẹ vừa vội vã tắm thay đồ
cho nó, trong lòng vừa cảm thấy kỳ lạ hỏi nó: “Con đã té vào trong ao,
lại như thế nào mà bò lên được vậy?”. Thằng bé lại nói: “Lúc con té
trong ao sâu thì thấy có một vị nữ nhân nhảy vào trong nước bế con lên,
đặt xuống bên ao, rồi lại dẫn con về nhà, lúc về đến cửa thì lại không
thấy đâu”. Mẹ của nó liền dẫn nó đến bên ao xem, trên đất một vũng nước
ướt còn chưa khô, bà ta liền hỏi những người phụ nữ bên ao: “Trong các
vị, ai là người nhảy vào nước cứu được thằng bé nhà tôi?”. Mọi người đều
nói không có, hỏi ai cũng không biết, bà lại kêu thằng bé đi nhận diện
người, hỏi nó là vị nào cứu nó, nhưng thằng bé này đều lắc đầu nói không
phải. Vì muốn tri ân báo ân nên đã hỏi khắp hết các phụ nữ trong làng,
vẫn hỏi không ra người nào.
Trải qua khoảng mấy tháng, có
người từ Nhật Bản mang về hạt đầu của xâu chuỗi (quả bầu), có một lần
mang đến ban Di Đà bán, mỗi hạt là 10 đồng tiền mới của Đài Loan. Một
mắt nhắm, một mắt mở xem thì thấy ở trong hạt pha lê nhỏ đó có một tượng
Quán Thế Âm Bồ Tát trang nghiêm vô cùng, Ngọc Chi cũng thỉnh một hạt về
nhà, cả nhà nam nữ già trẻ, như được vật chí bảo, mọi người đều tranh
nhau muốn xem, thằng bé cũng giựt lấy đem đi xem, vừa lúc nhìn thấy liền
nhảy nhót vui mừng, reo to lên: “Má ơi! Con khi trước té vào trong ao,
người bế con lên chính là người trong hạt chuỗi này”. Lúc bấy giờ cả nhà
Ngọc Chi mới bừng tỉnh, ngộ ra, thật vô cùng cảm tạ từ ân của đức đại từ
đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát.
Câu chuyện thật Quán Thế Âm
Bồ Tát ứng hóa giải cứu đứa em trai của Ngọc Chi thoát khỏi nạn nước
trong ao sâu trên đây là Huệ Lâm kể lại với tôi.
65. NHÂN DUYÊN TIN
PHẬT CỦA HAI BÀ CHÁU
Mười
hai năm trước, có một thời kỳ lúc liên xã niệm Phật vào mỗi thứ Hai, mỗi
lần như thế đều có một em bé khoảng mười tuổi tham gia.
Sư tỷ Khoan Phụng nói với
tôi: “Thằng bé này gần đây bị hai người chú đã mất của nó, dẫn đi âm
phủ, được Phật A Di Đà giành lại cứu đem về”. Những lời này khiến tôi
ngạc nhiên không hiểu gì hết, liền hỏi thăm nguyên nhân, sư tỷ Khoan
Phụng liền nói ra sự thật sau đây:
Có một vị liên hữu ở trên một
tòa lầu đối diện với quán trọ hợp tác ở khu Tây, gia đình người ở tầng
dưới có một đứa cháu khoảng 8 tuổi bị bệnh viêm màng não, bác sĩ Đông,
Tây y điều trị đều không hiệu quả. Đã hơn mười ngày phát sốt cao không
hạ, toàn thân đều tê dại không còn biết gì nữa, sư tỷ ở trên lầu mắt
nhìn thấy thằng bé lanh lợi dễ thương bị bệnh tội nghiệp đến thế, liền
nói với bà nội của nó: “Thằng nhỏ này đã bệnh nặng quá rồi, thuốc men gì
đều không có công hiệu, tôi dẫn bà đi đến liên xã, cầu nguyện Phật, Bồ
Tát phò hộ và thỉnh một ly nước chú đại bi cho nó uống”. Bà nội của nó
vốn là người không tin Phật, nhưng hiện đang bị khổ não bức bách quá
không còn cách gì, không biết làm thế nào nữa, nên liền theo lời của sư
tỷ, hai người đến liên xã khấn vái trước Phật, Bồ Tát cầu nguyện được
bình an và thỉnh một ly nước chú đại bi đem về, lấy muỗng, từng muỗng,
từng muỗng rót vào trong miệng thằng bé. Xong, sư tỷ trở lên lầu niệm
Phật.
Sư tỷ ở trên lầu niệm Phật
chưa đến mười phút, bỗng nhiên nghe thấy những âm thanh hỗn loạn dưới
lầu: tiếng kêu réo, khóc la… sư tỷ vội vã xuống lầu xem, toàn thân toát
mồ hôi lạnh, sư tỷ sợ đến nỗi gần như hồân phi phách tán, do vì mới vừa
thỉnh nước chú đại bi cho nó uống xong, bây giờ lại biến chứng co giật,
hai mắt trợn đứng, tim đập loạn xạ; sư tỷ tức thời lấy xâu chuỗi trong
tay đặt vào chỗ co giật, miệng cứ to tiếng niệm A Di Đà Phật, niệm được
chưa đến hai mươi phút, co giật đã dần dần giảm nhẹ, tim cũng hồi phục
lại bình thường, Thánh hiệu vạn đức hồng danh, chỉ sợ không chuyên, nếu
như chuyên tâm nhứt ý niệm, có niệm tất linh. Lúc đó thằng nhỏ bệnh thở
ra một hơi, liền mở miệng nói chuyện: “Hai chú, một người lôi tay của
con, bắt con đi theo mấy chú, con không chịu đi, lại rất sợ, mấy chú
liền ép lôi kéo con đi, mãi đến lúc nghe tiếng niệm A Di Đà Phật của bà
cô ở trên lầu, mới buông tay ra, chạy ra ngoài cửa, hiện mấy chú vẫn còn
ở ngoài cửa, mắt cứ nhìn con chằm chằm thật sợ quá đi! Mau thỉnh bà cô
niệm A Di Đà Phật tiếp đi!”.
Lúc đó bà nội của nó liền nhớ
lại con mình chết hồi ba năm trước, liền kêu tên của hai người và nói:
“Các con không được cưỡng ép bắt cháu đi, các con phải phò hộ cho sức
khỏe của nó được bình an, thì mẹ sẽ nhận nó làm con thừa tự cho các con,
sẽ viết trên bài vị của các con thờ phụng, và đến ngày Tết, ngày giỗ sẽ
cúng tế cho các con”. Nói ra cũng lạ, từ đó về sau sức khỏe của thằng bé
này dần dần được khôi phục như cũ, tứ chi, ngũ quan, tinh thần đều trở
lại bình thường, hoàn toàn không có trạng thái gì khác lạ, bà nội của
thằng bé lại nói với sư tỷ: “Chả trách mấy tháng lại đây thường ở trong
chiêm bao nhìn thấy hai đứa con ba năm trước nối nhau qua đời, tụi nó
đòi tôi cho con thừa tự (con nối dõi để cúng bái). Tôi vốn không tin
việc này, việc trong mộng làm sao mà có thật? Đây chính là lỗi của tôi.
May mà có sư tỷ cứu được mạng của cháu tôi, thật là cảm ân vô cùng”.
66. OAN HỒN THEO ĐUỔI BỊ SỐT
CAO, NIỆM PHẬT HẾT SỐT
Lại nói về một lão sư tỷ ở
nơi hoằng pháp Vụ Phong 10 năm trước. Bà ở đường Trung Chánh làng Vụ
Phong, đã hơn 70 tuổi, người ta đều gọi bà là thím Chi, là một đệ tử Tam
Bảo rất cung kính hết lòng niệm Phật. Có một hôm vị lão sư tỷ này nói
với tôi: “Đứa cháu nội 9 tuổi của tôi, mấy ngày trước đến một chỗ xa nào
đó, buổi sáng mới đi rất là vui vẻ, buổi chiều về sức khỏe không được
thoải mái, cũng không ăn cơm tối, liền ngã ra giường ngủ, thằng bé này
hồi nào tới giờ vốn ngủ với bà nội”.
Người già thường có nhiều
kinh nghiệm, nhìn thấy cháu nội đi chơi bên ngoài về liền ngã ra ngủ
không tỉnh, trong lòng cảm thấy không an, nên cũng không ngủ được, liền
ở bên cạnh cháu, thường dùng tay sờ trán của cháu thăm dò tình hình lạnh
nóng; đến hơn 2 giờ khuya, cảm thấy cháu bắt đầu phát sốt cao, liền cung
kính niệm một ly nước chú đại bi, kêu nó dậy cho nó uống. Nó uống xong
một ly lớn nước chú đại bi, liền nói: “Bà nội! Con hôm nay đi chơi bên
ngoài, sau khi ăn cơm dưới một gốc cây, chơi một chút sức khỏe liền rất
không thoải mái, do vì có một thằng nhỏ đi theo con về nhà, nó nói với
con, nó cũng 9 tuổi, nó là thằng nhỏ hồi năm ngoái cũng chơi ở đó bị té
chết, nó bây giờ cũng còn mặc đồ học sinh, nó nói bây giờ nó rất buồn
tẻ, nó muốn con cùng nó làm bạn. Bà nội! Nó hiện vẫn còn đứng trước
giường muốn con đi chơi!”.
Lúc đó
lão sư tỷ nghe đứa cháu nói những lời đó rồi, bất giác run lên, lông tóc
dựng đứng, nhưng không thể không tự phấn chấn tinh thần, tự nâng cao
dũng khí nói: “Nhà của ta không oán không thù gì với ngươi, nếu như có
oán thù đi nữa, thì oán nên mở mà không nên buộc, giờ ta niệm chú vãng
sanh bố thí cho ngươi, để ngươi có thể siêu sanh thoát khổ, ngươi nên
chú ý nghe!”. Lão sư tỷ liền niệm ba xâu chuỗi liền không gián đoạn đã
hơn ba trăm biến, lại niệm tiếp Thánh hiệu A Di Đà Phật, không biết niệm
được mấy ngàn câu, đứa cháu nội lại kêu lên: “Bà nội! Lúc bà nội niệm
chú vãng sanh, nó liền đi ra ngoài cửa, vẫn còn dùng tay ngoắc con, kêu
con đi ra. Mãi đến lúc bà nội niệm A Di Đà Phật thì không thấy nữa”.
Lão sư
tỷ nói:“Tôi liền rót một ly nước nóng nữa cho thằng bé này uống cho nó
trấn tỉnh tinh thần, nó liền ngồi dậy nói muốn đi tiểu, nó lúc đó trong
bụng vẫn còn run, hai mắt vẫn cứ chằm chằm nhìn ra cửa, sợ đến nỗi hai
tay ôm chặt lấy chân của bà nội. Đến nhà vệ sinh, không dám đóng cửa,
lại còn kêu bà nội đứng ngay cửa”. Lão sư tỷ nói: “Nếu không phải thiệt
nhìn thấy ma quỷ, vì sao mà sợ đến như vậy? Sau khi đi tiểu về đến
phòng, lại tháo mồ hôi đầy mình, sốt cũng đã lui rồi, ngủ một giấc ngon
lành trời sáng thức dậy, lanh lợi lại như thường, bình an vô sự”. Lão sư
tỷ lại nói tiếp: “Tôi rất cảm ơn sư tỷ, vì sư tỷ đến dạy chúng tôi niệm
A Di Đà Phật, cho nên tôi mới nói cho sư tỷ nghe”.
Tôi liền hỏi: “Đang lúc thằng
bé sốt cao, quỷ phá rất nghiêm trọng, sao bà không kêu con trai và con
dâu bà dậy?”. Lão sư tỷ đáp: “Vì tụi nó ngủ trên lầu, oan nghiệp đeo
đuổi từ bên ngoài đến, người không tin theo Phật, không cách gì giải
quyết được, nên kêu cũng vô dụng, cho nên không có kêu tụi nó”. Lão sư
tỷ đã hơn 70 rồi, từ lúc nghe được pháp môn Tịnh độ, tinh thần rất tốt,
căn lành sâu dày phát trí huệ lớn, luôn giữ tâm không rời Phật, Phật
không rời tâm. Gần đây nghe cư sĩ A Thẩm nói: Lão sư tỷ đã vãng sanh hồi
4 năm trước rồi.
67. Ở TRONG TÙ ĐƯỢC NGHE
PHÁP, KÍNH TU TỊNH NGHIỆP ĐƯỢC KẾT QUẢ
Pháp môn niệm Phật là pháp
môn không luận nam nữ, già trẻ, thông minh, ngu độn, cho đến phát tâm
sớm hay muộn, tội nghiệp nhẹ hay nặng v.v… chỉ cần có lòng tin chân
thật, chí nguyện tha thiết, thật tâm niệm Phật, cầu sanh Tây phương,
chắc chắn đều được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây phương. Bây giờ cử ra kỳ
tích về một người phạm tội vào tù, phát tâm niệm Phật, lúc lâm chung
được vãng sanh Tây phương để làm chứng thật.
Lâm Phúc là người ở khu Đông
của Đài Trung, từ nhỏ nhà nghèo, thất học, lớn lên sống bằng nghề làm
thuê, tính nết lỗ mãng, không am hiểu sự lý. Vào mùa xuân Dân Quốc năm
thứ 37 sau một trận mưa bão lớn, anh bị bạn xấu đến dẫn đi ăn cắp dây
điện bị đứt rơi bừa bãi loạn xạ (do mưa bão). Bị bắt đưa ra tòa, ở tòa
án bị phán xử mười năm tù, vào nhà tù Đài Trung.
Vào tháng 6, Dân Quốc năm thứ
40, Liên xã ở Đài Trung phái cư sĩ Giang Ấn Thủy và Lại Luyện Lương đến
nhà tù giảng pháp, do đây mà Lâm Phúc được nghe sự mầu nhiệm của pháp
môn Tịnh độ, liền tin sâu, không nghi, ngày đêm chí thành niệm Phật,
nguyện cầu tiêu trừ nghiệp chướng, phát nguyện sanh Tây phương. Đến
tháng 12 Dân Quốc năm thứ 42, thời hạn tù đã hơn phân nửa, Lâm Phúc được
tạm tha về nhà. Về sau, mỗi chủ nhật đều đến chùa Linh Sơn nghe pháp với
ân sư Bính Công, mỗi thứ Hai đều đến Liên xã niệm Phật, mỗi thứ Bảy cũng
đến Liên xã nghe kinh. Giang cư sĩ giới thiệu cho anh ta vào làm ban
viên của ban Hàn Hương, trở thành một đệ tử Tam Bảo rất thành kính.
Thân người là thể máu thịt do
tứ đại giả hợp thành, không ai tránh khỏi mắc bệnh thọ khổ. Cư sĩ Lâm
Phúc thành kính tu trì niệm Phật này cũng thế, không bao lâu mắc bệnh
nặng. Bác sĩ chẩn đoán là chứng nghẽn tim, sưng thận, cả người đều đau,
nhưng tâm của Lâm Phúc chẳng những không thối chuyển, mà càng tinh tấn
niệm Phật hơn. Đến năm Dân Quốc thứ 43, bắt đầu từ tháng 10, mỗi khi
nghe mùi đồ mặn thì nôn mửa mãi, liền đó tịnh khẩu ăn chay và càng tinh
tấn niệm Phật hơn.
Lâm
Phúc mặc dầu nhất thời hồ đồ làm việc sai trái, nhưng bản tánh vốn là
người con hiếu, đến tháng 12 thì bệnh anh quá nặng hết chữa, nhưng trong
lòng cứ mãi nghĩ đến mẹ già 80 tuổi ở với người em trai thứ hai ở Cao
Hùng. Nói ra cũng lạ, cũng vào ngày hôm đó, bà mẹ ở Cao Hùng ngồi đứng
không yên, cũng tâm tâm niệm niệm mong muốn thăm con trưởng Lâm Phúc. Do
tâm nghĩ nhớ tha thiết không nén được, bà lão 80 tuổi này vào ngày 20,
một thân một mình đến Đài Trung, mẹ con gặp nhau buồn vui lẫn lộn, Lâm
Phúc liền nói rất nhiều về niệm Phật là việc quan trọng nhất của đời
người, và khuyên mẹ nên niệm Phật.
Qua sáng ngày 21, Lâm Phúc
đột nhiên cao giọng hướng về mẹ và người nhà nói: “Hiện đang có một hình
ánh sáng hoàng kim như mặt trời, giống như một vòng cầu lửa đang lăn vào
nhà. Mọi người xem! Cả nhà ánh sáng rực rỡ, chắc chắn là Phật đến tiếp
dẫn, hãy nhanh chóng báo cho ban trưởng ban Hàn Hương và đoàn trợ
niệm!”. Vừa nói vừa chắp tay lại niệm Phật. Không bao lâu sau, trong
tiếng trợ niệm của các liên hữu, hơi thở yếu dần, mỉm cười ra đi. Sau 8
giờ trợ niệm, sắc mặt vẫn tươi sáng, toàn thân mềm mại, đỉnh đầu còn ấm,
hưởng dương 50 tuổi, mà sự tu trì của anh thì chưa đến 3 năm, có thể
được tướng lành như thế, chắc chắn được vãng sanh Tây phương không còn
nghi ngờ gì. Lúc bấy giờ mọi người đều khen là ít có, khó được.
68. KHÔNG GIEO NHÂN PHẬT, ĐÂU
ĐƯỢC QUẢ PHẬT
Phàm
tất cả sự việc có nhân ắt có quả, định luật nhân quả không sai tơ hào
nào cả. Cũng giống như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, tuyệt
không có cái đạo lý trồng dưa được đậu, trồng đậu được dưa. Người mong
muốn vãng sanh Cực lạc thế giới cũng như thế, trồng cái nhân niệm Phật
thì được cái quả vãng sanh Tây phương, tự mình không gieo trồng nhân
Phật, dù có thiện tri thức trợ niệm cũng không nương nhờ được, lúc vãng
sanh đến, phát sanh chướng ngại, tạm đưa ra một sự thật để chứng minh:
Vào 18 năm trước, vị liên hữu
Vạn Trương Bội Hoàn, chúng tôi đều gọi bà là Vạn sư huynh, nói với tôi:
Có một vị đồng hương ở Đông bắc, đã hơn tám mươi tuổi, thọ mạng sắp hết,
thỉnh người giúp đỡ trợ niệm. Tôi liền hỏi bà ta: “Người này lúc bình
thường có tin Phật, niệm Phật không?”. Vạn sư huynh nói: “Không có,
nhưng ông ta khi trước từng làm lãnh tụ hội đạo đức Vạn quốc, tôi khuyên
ông ta niệm Phật là tìm được nơi trở về an ổn, là vãng sanh Tây phương,
ông ta mới biết được điều tốt đẹp của Tây phương, nên mới muốn thỉnh
người trợ niệm, xin sư tỷ giúp cho tìm mấy vị liên hữu ngày mai đến trợ
niệm”. Sáng sớm hôm sau, tôi hẹn ba vị liên hữu cùng với Vạn sư huynh
đồng đi. Ông ta ở một căn nhà nhỏ phía sau công viên. Vừa nhìn ông lão
đó, thấy ông râu tóc bạc phơ và mặc một bộ đồ trắng nằm trên giường, hơi
thở thoi thóp, bên mình chỉ còn một bà vợ già, chúng tôi liền bắt đầu
lục tự hồng danh cứ thế niệm mãi, niệm đến trưa Vạn sư huynh liền dẫn
chúng tôi về nhà, thành ý chiêu đãi ngọ trai, sau giờ ngọ lại đi niệm,
niệm đến tối mới nghỉ.
Ngày
hôm sau Vạn sư huynh lại đến nói: “Lâm sư huynh (Lâm Khán Trị), ông lão
hôm qua chúng ta niệm cho nghe danh hiệu Phật một ngày, bây giờ đã tỉnh
táo, tự trong tâm ông ta cũng đã biết niệm rồi, lại còn nói trưa ngày
mai Phật A Di Đà sẽ đến tiếp dẫn, quyết định là 12 giờ sẽ đi, xin sư
huynh sáng mai hẹn nhiều nhiều vị liên hữu đến nhà ông ta niệm Phật, đưa
ông ta vãng sanh Tây phương, được không ạ?”. Tôi lập tức nhận lời, do vì
lòng hiếu kỳ thúc đẩy, tôi liền đến tuyên truyền với các vị liên hữu nói
ông ta biết trước giờ đi, mời hẹn ngày mai đi trợ niệm, để xem tướng
lành vãng sanh Tây phương của ông ta.
Qua ngày kế, trước giờ ngọ
(10 giờ), hơn mười vị liên hữu, nhứt tâm nhứt ý trợ niệm cho ông ta, và
cầu nguyện Phật A Di Đà từ bi tiếp dẫn ông lão này vãng sanh Tây phương
Cực lạc thế giới. Vạn sư huynh cũng thắp hương không ngớt cầu nguyện
khấn vái, mọi người đều dụng tâm thành khẩn như thế trợ niệm. Lúc đó ông
lão này mặc một bộ đồ trắng, đắp một miếng vải trắng, trạng thái ngủ mê,
thở hổn hển mãi, đến 11 giờ bao nhiêu con mắt chăm chú nhìn, tiếng niệm
Phật càng lớn; đến 11 giờ 50 phút, ông già đó bỗng nhiên tỉnh dậy mở
miệng hỏi người hầu nam ở bên mình rằng: “Bây giờ là mấy giờ?”. Người
hầu nam đó đáp rằng: “11 giờ 50 phút” Ông lão mặt mày hớn hở, nói một
cách sung sướng nhẹ nhàng: “Còn 10 phút nữa Phật A Di Đà đến đón tôi đi
rồi!”. Vừa nói ông ta vừa đảo mắt nhìn một vòng bày tỏ rất cám ơn mọi
người đã vì ông ta niệm Phật.
Ai có ngờ được trong giây
phút ngàn cân treo sợi tóc và phân biệt Thánh phàm này lại xẩy ra chướng
ngại. Đang lúc chúng tôi nhứt tâm niệm Phật, thì người hầu nam kia đi
lấy một vật trong đống giấy tờ đã được chuẩn bị xong, rất nhanh nhẹn đốt
trước mặt ông già, trong nháy mắt đã đốt xong. Bà vợ già của ông như
giựt mình, không kềm được lòng, bước xông lên vội vàng đưa tay ra sờ sờ
mặt của chồng bà, vừa khóc vừa nói: “Ông đi Tây phương bỏ tôi ở lại một
mình, phải sống thế nào đây?”. Vạn sư huynh lập tức ngăn bà ta lại nói:
“Tôi đã dặn với bà rồi, lúc ông sắp vãng sanh, bà không được khóc lóc
lưu luyến, hoặc là động đến mình ông ta, bà quên rồi sao?”. Đúng ngay
lúc 12 giờ, ông lão mở to mắt ra nói: “Thưa Phật A Di Đà, tôi không đi
Tây phương nữa đâu, do vì nếu tôi đi Tây phương, để bà bạn tôi ở lại có
một mình thì làm sao? Cho nên tôi không đi nữa!”. Lúc đó các vị liên hữu
vẫn cứ gắng sức niệm nhưng cũng không sao chuyển được ông ta! Mặc dù rất
là thất vọng, cũng tiếp tục niệm hơn nửa giờ nữa, lúc đó nhìn xem ông
lão nói năng lộn xộn, trạng thái tinh thần đã trở nên rối loạn không còn
rõ ràng nữa! Ai cũng tội nghiệp cho ông ta, tiếc than cho ông ta, rồi ai
về nhà nấy.
Đêm đó khoảng hơn 10 giờ, Vạn
sư huynh lại đến nhà tôi kêu tôi đi niệm Phật cho ông ta, tôi hỏi: “Ông
ta sao rồi?”. Bà nói: “Tâm thần tán loạn, sức khỏe biến đổi xấu, đại
khái có dáng rất đau khổ, nhưng ông ta vẫn còn rất hy vọng nghe người
niệm Phật”. Tôi liền lại cùng Vạn sư huynh đi đến nhà ông lão, vào cửa
liền nhìn thấy ông lão đang khạc ra máu và dùng tay móc trong miệng ra
máu từng cục từng cục, làm dơ đầy giường vết máu tanh. Tôi và Vạn sư
huynh hai người lập tức lại niệm Phật to tiếng lên, niệm đến hơn 11 giờ,
thấy ông ta cứ mê mờ, không còn cách nào liền trở về nhà. Khi trời chưa
sáng thì ông ta vẫn cứ mờ mờ mịt mịt như thế về âm phủ!
Trong kinh nói: Thân người
khó được, thiện hữu tri thức khó gặp. Ông lão này thân người khó được,
đã được lại trường thọ, càng khó được hơn là sự nhiệt tâm chỉ dạy của
thiện tri thức Vạn sư huynh. Nhưng cái điều không may nhất là cái khoảnh
khắc giáp giới giữa Thánh nhơn và phàm phu, lại bị vợ không nghe lời
dặn, khởi ra chướng ngại, tội nghiệp cho ông ta lại bị trở vào chìm nổi
trong luân hồi, đây cũng giống như: “Lúc bình thường không thắp hương,
đến khi gặp chuyện ôm chân Phật cầu cứu”. Mặc dù lúc bình thường là
người chánh nhân quân tử, đạo đức, tâm tốt thì tốt, nhưng chưa gieo nhân
Phật thì đâu được quả Phật! Lấy như chuyện này có thể chứng minh.
69. NHỜ THIỆN TRI THỨC
KHAI ĐẠO, NGƯỜI MÙ ĐƯỢC SANH TÂY PHƯƠNG
Cuối cùng lại nói về chuyện
một người mù, lúc bình thường làm đủ việc ác, lúc lâm chung lại do được
thiện tri thức khai thị cũng được sanh Tây phương làm bằng chứng.
Đây là việc 19 năm về trước,
có một lần ban trưởng của ban trì giới Bảo Tông Cô đến Tân Trúc thăm bà
con, không ngờ bị bệnh nơi đất khách, tôi và phó ban trưởng là Thạch Tô
liền cùng đi thăm bà ta. Buổi chiều ngày đó hai người chúng tôi liền đến
chùa Linh Ẩn ở hồ Thanh Thảo nghỉ qua đêm. Do vì thầy Vô Thượng là sư
phụ quy y của tôi hồi nhỏ, ăn cơm tối xong bắt đầu nói chuyện. Tôi hỏi:
“Sư phụ, thầy xuất gia nhiều năm rồi, thầy có từng thấy qua chính xác
người được vãng sanh Tây phương chưa?”. Sư phụ nói liên tiếp: “Có! Có!
Thầy đã từng thấy qua người vãng sanh thật, lúc lâm chung hiện ra kỳ
tích có hai người”.
Sư phụ nói: “Trước đây không
lâu, lúc thầy đang nhập thất ở động Kim Cang, có một bà già hơn 70 tuổi,
là người xuất gia ở trong chùa, bà là một người mù, đến lúc bị bệnh toàn
thân sưng phù, bà đến động kêu khóc ầm ĩ nói là sắp chết, kêu thầy cứu
bà ta thoát khổ. Thầy không biết thế nào đành phải ra thất về chùa, mắt
nhìn thấy liêu phòng của bà cứt đái bẩn thỉu hôi khai không chịu nổi,
lại thấy bà lớn tiếng kêu gào rằng: “Chẳng kể ngày đêm gì đều có mười
mấy người đánh bà, lại kêu ra tên của những hồn oan gia. Có một lần có
người bà con ngoài đời của bà đến, sư phụ liền hỏi: “Mấy cái tên mà thím
kêu gào ra đó, cô có biết không?”. Cô ta nói: “Biết! Những người đó đều
là những người bị bà hại chết lúc bà còn trẻ”. Chả trách bị oan hồn đánh
đến toàn thân sưng phù tét da đổ máu.
Sư phụ đại từ đại bi liền
nghĩ ra phương pháp cứu bà ta, quét dọn căn phòng trống, khoét một lỗ
trên tấm ván của giường, phía dưới đặt một cái thùng, có thể đi vệ sinh
được tiện lợi. Mặc dù đã đổi phòng như thế cho bà rồi, bà vẫn kêu la có
mười mấy người đánh bà, thầy Vô Thượng nói: “Điều kỳ lạ nhất là cái
người trước khi sắp chết không thể hoạt động này, lại tự mình tại sao
lộn đầu trồng chuối xuống được, đầu mặt chun qua cái lỗ trên giường đụng
thùng phân ở dưới”. Sư phụ mặc dù học Thiền tông, đến lúc đó cũng không
có cách gì, bèn phương tiện khéo léo kêu tên bà: “Phổ Kiết Cô à! Bà phải
niệm A Di Đà Phật mới vãng sanh Tây phương lìa khổ được vui”. Lúc đó Phổ
Kiết Cô nói: “Một màn tối đen à, tôi niệm không được”, Sư phụ nói: “Tôi
niệm một câu A Di Đà Phật, bà niệm theo tôi một câu A Di Đà Phật”.
Đúng y như vậy, sư phụ niệm
một câu, bà ta liền niệm một câu, niệm khoảng hơn nửa giờ, Phổ Kiết Cô
bỗng nhiên lộ nét cười, kêu một tiếng: “Sư phụ! Bây giờ thì đã là một
màn ánh sáng, mười mấy oan hồn “vô hảo tử” kia vẫn còn đứng đàng kia
cười!”. Trong khoảnh sát na mười mấy oan hồn kia liền mượn miệng của Phổ
Kiết Cô nói: “Cám ơn lòng từ bi của sư phụ rất nhiều! Một bà già mù tội
ác to lớn, hôm nay cuối cùng mười mấy người, chúng tôi thoát khổ rồi”.
Sư phụ tức thời đáp rằng: “Đúng, oan gia nên mở không nên buộc, các
ngươi cũng phải niệm A Di Đà Phật theo để được đới nghiệp vãng sanh mới
thoát ly được cái khổ lớn của sanh tử”. Sư phụ lại kêu Phổ Kiết Cô nói:
“Bà phải bình tâm tĩnh trí niệm A Di Đà Phật, tiếp tục niệm theo tôi
đi!”. Lại niệm mãi khoảng hơn một giờ, Phổ Kiết Cô lại nói: “Sư phụ! Bây
giờ đã ánh sáng đầy trời, ở trong mây có những người mặc đồ trắng cầm cờ
trắng muốn tiếp dẫn tôi đi Tây phương Cực lạc thế giới”. Lúc đó bà chắp
hai tay lại hướng lên hư không mỉm cười, an tường mà đi, từ đây, một kẻ
phàm phu tội nghiệp đầy mình, thoát ly được biển khổ Ta Bà, đới nghiệp
vãng sanh Liên bang tiêu diêu tự tại.
Sư phụ Vô Thượng lại nói:
“Lúc bình thường bà già này rất ác khẩu, kết duyên ác khắp cả đại chúng,
suốt ngày mắng người không ngớt miệng, cô thử nghĩ xem bà ta lúc sắp lâm
chung còn mở miệng mắng những oan hồn kia là những oan hồn “vô hảo tử”,
bây giờ lại cười rồi. Có một điều kỳ diệu nhất là lúc bà ta vãng sanh
Tây phương, toàn thân sưng phù, chảy máu chảy mủ như vậy mà tức thời
sạch sẽ tiêu mất hết, không có chút mùi hôi nào, thật là một tướng lành
không thể nghĩ bàn”.
Tôi nghe xong câu chuyện thật
vãng sanh Tây phương của sư phụ kể khiến chánh nhơn tu trì của tôi về
tịnh nghiệp được tăng trưởng, tín tâm rất nhiều, do đó mà vui mừng hớn
hở, sau khi trở về Đài Trung liền đến nhà cư sĩ Hoàng Hỏa Triều kể lại
cho hai vợ chồng họ nghe. Ai ngờ vợ chồng họ vì tâm hiếu kỳ thúc đẩy,
kêu tôi dẫn họ lại hồ Thanh Thảo lần nữa, đích thân nghe việc đó với sư
phụ. Sư phụ lại còn kể một chuyện vãng sanh khác, tôi vì nhớ không rõ
nên không dám ghi ra.
Chúng sanh từ vô lượng kiếp
đến nay tạo các ác nghiệp, nổi chìm không ngớt trong lục đạo, người
không thoát ly được, chính là oan nghiệp làm chướng ngại, nhân duyên hội
ngộ, báo ân báo oán, đòi nợ trả nợ vướng mắc muôn kiếp không hết. Nếu
muốn cởi mở oan kết, ngoài niệm Phật ra, tuyệt không có đường khác. Học
nhơn (khiêm xưng) từ khi được ở trong hàng học trò của Bính Công ân sư,
được thầy dạy dỗ hơn 20 năm pháp môn Tịnh độ thật vô cùng may mắn, mỗi
khi nghĩ nhớ ơn thầy sâu như biển, nặng như núi, không lấy gì báo đáp
được, không biết thế nào mà thời gian tàn phá con người, bỗng chốc mà
tóc bạc da mồi, dáng già lọm khọm tuổi đã 63, số ngày còn lại không
nhiều, một hơi thở không trở lại thì đã qua đời khác, tiếp tục đầu thai
lại không biết sẽ vào thai lừa hay vào bụng ngựa, luôn luôn thấp thỏm lo
âu sợ hãi và cảnh giác nhiều, cho nên đem những điều mắt thấy tai nghe
nhiều năm, không nệ văn chương vụng về, căn cứ theo sự thật mà viết ra,
nguyện cùng với người niệm Phật đồng sanh Cực lạc quốc, đồng thời nguyện
đem công đức này hồi hướng cho ân sư Bính Công, ở đời vạn năm dạy dỗ
quần sanh, thì pháp môn được may mắn lắm, chúng sanh được may mắn lắm!
70. TRONG MỘNG ĐƯỢC BÁC SĨ
CẮT LÁ GAN CỨU CHỮA, VÀ CHUYỆN CỨU ĐỘ NHỮNG CON RỆP
Liên tiếp mấy tháng có một vị
buôn cải họ Trương tên là Xuyên Dã, nhà ở đường Đại Trí khu Đông thành
phố Đài Trung, thường đưa rất nhiều trái cây và rau xanh đến liên xã của
Phật giáo ở Đài Trung để cúng dường, số lần đem đến như thế rất nhiều,
các vị liên hữu không cầm được mới đối mặt anh ta cám ơn những ân đức
cúng thí đó. Anh ta đáp lại rằng: “Tôi đến là để đáp tạ ân Phật, đây là
điều nguyện tôi đã phát trong khi bệnh, do vì Phật A Di Đà trị lành bệnh
của tôi, ân đức đó thật quá lớn”.
Thế là Trương cư sĩ chậm rãi
kể lại chuyện niệm Phật được cảm ứng của anh ta và chuyện bác sĩ cắt lá
gan trị bệnh cho anh ta trong giấc mộng. Anh ta nói: “Mười năm trước tôi
làm thợ ở hãng giày, có một cô kế toán của hãng cho tôi một quyển “Phật
học thiển thuyết” (thiển thuyết như giản thuyết, là nói lược), tôi xem
xong cảm thấy Phật pháp vô biên, cứu người giúp đời, liền chạy đến thư
cục Thụy Thành mua hai bộ sách Phật, một bộ là “Ấn Quang pháp sư văn
sao”, một bộ nữa là “An Sĩ toàn thư”. Như được vật chí bảo, đêm nào cũng
đều xem tới khuya, có thể nói là được pháp hỷ vô lượng”.
Lúc đó tôi mướn một căn nhà
ở, giường ở trong nhà, đầy giường và cột rệp quá chừng, mới đầu tôi bắt
từng con đạp chết, nhưng càng đạp nó lại càng nhiều. Lúc đó đang xem đến
một đoạn trong Ấn Quang đại sư văn sao, trong phòng của đại sư cũng rất
nhiều rệp, có một đệ tử thỉnh ý xin dọn sạch, đại sư không chịu, người
đệ tử sau mấy tháng lại xin một lần nữa và hỏi đại sư về tình hình của
rệp. Ấn Quang đại sư nói: “Hết thảy ra khỏi khổ hết rồi, bây giờ không
có nữa”. Tôi xem đến đoạn nhỏ này thì không còn bắt rệp đạp chết nữa mà
bắt từng con ra hố phân thả. Nhưng sau khi đem rệp đi thả thì có nhiều
phiền toái, không dám giết hại, không dám rải thuốc diệt trùng tiêu diệt
thì nó lại lộng đến mức đụng chỗ nào cũng rệp, thật không biết làm thế
nào? Đang trong tình hình không biết làm thế nào đó thì bỗng nhiên nghĩ
đến bắt chước ngài Ấn Quang pháp sư, thế là hướng vào các con rệp nói
rằng: “Này rệp! Nếu ta thành Phật sẽ độ các ngươi thoát khổ trước, nhưng
ta bây giờ là phàm phu, là người niệm A Di Đà Phật, ta nay dạy các ngươi
cũng niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tây phương. Rệp! Ta niệm các ngươi cũng
niệm theo: “A Di Đà Phật”… cứ thế niệm mãi. Dạy cho rệp niệm A Di Đà
Phật như thế chưa quá hai tuần, kỳ tích khiến người khó mà tin được xuất
hiện. Có một hôm dọn dẹp làm sạch sẽ phòng, giở chiếc chiếu lên, nói ra
cũng thật lạ, những con rệp đếm không hết kia, không biết nhảy đi đâu
hết rồi, không thấy một con nào. Việc không thể nghĩ bàn như thế, khiến
tôi cũng không hiểu ra sao”.
Cư sĩ Trương Xuyên Dã lại
nói: “Tôi trước kia mê rượu như mạng sống, mỗi ngày phải uống hai, ba
bình rượu. Năm năm trước bị bệnh gan, Đông Tây y gì cũng đều đã trị qua
nhưng không thấy chút hiệu quả nào, nằm bệnh viện triền miên mấy tháng.
Lúc bệnh hết cách cứu chữa, trong lòng chỉ có cầu Phật tiếp dẫn vãng
sanh Tây phương, có mấy lần đã cận kề với cái chết, ngồi trên giường
niệm Phật, lúc niệm không ra tiếng, liền dùng tâm niệm thầm, kỳ tích
thật không thể nghĩ bàn lại xuất hiện. Tối hôm đó lúc nửa tỉnh nửa mơ
nhìn thấy một vị bác sĩ mặc đồ trắng tay mặt cầm một con dao bén, tay
trái cầm một lá gan, dùng dao mổ banh dưới ngực bên phải của tôi ra, rồi
lấy kéo cắt lá gan, bác sĩ mỉm cười cầm lá gan vừa hôi vừa nát rữa đưa
cho tôi xem, rồi lại lấy lá gan mới của bác sĩ mang lại đặt vào trong
bụng của tôi, rồi đi. Vừa thức dậy tôi cảm thấy nhẹ nhàng dễ chịu rất
nhiều, tôi liền phát nguyện: Nếu tôi được mạnh khỏe, nhất định sẽ báo
đáp ân Phật, làm nhiều việc cúng dường Bồ Tát, nếu như có khả năng sẽ
xuất tiền ra đắp áo vàng cho Phật. Từ năm ngoái đến nay dần dần bình
phục lúc nào không hay, mạnh khỏe lại như thường”.
Trương Xuyên Dã lại nói:
“Phật A Di Đà bảo hộ cho tôi có thể nói là rất tỉ mỉ, lại có một lần tôi
chạy xe đạp đến đường Thành Công, bỗng nhiên có một chiếc xe mô tô lớn
chạy lại như bay, xông xáo ẩu tả đụng ngã xe của tôi rồi cán qua, trong
lúc ngàn cân treo sợi tóc đó, trong tích tắc tôi la to lên một tiếng A
Di Đà Phật, rồi không biết tôi nhảy đi thế nào xa hơn một trượng, an
nhiên vô sự. Còn chiếc xe mô tô kia cả người lẫn xe đều té ngã trên đất
bị thương rất nặng, gãy xương, tét thịt, máu chảy đầy đất rất là tội
nghiệp.
Người chơn tâm niệm Phật, tự
mình sẽ được lợi ích không thể nghĩ bàn, xin khuyên các vị mau niệm Nam
mô A Di Đà Phật, Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
71. SỰ LINH ỨNG MẦU NHIỆM
LÚC TRỢ NIỆM CHO MẸ VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG
Cơ sở hoằng pháp Vụ Phong của
Liên xã Phật giáo ở Đài Trung có một vị liên hữu tên Tằng Lâm Hiệp, mọi
người đều gọi cô là sư tỷ Hiệp. Nhà ngoại của cô ở số 57 thôn Đồ Thành,
làng Đại Lý huyện Đài Trung, mẹ tên là Lại Vật, do được con gái khuyên
dắt không ngừng nên thâm tín Phật giáo, là một vị lão tu hàng ngày niệm
Phật cầu sanh Tây phương.
Sư tỷ
Hiệp có một người em trai tên là Lâm Vạn Thành, ưa thích săn bắn, bà mẹ
từ sau khi tin Phật thường khuyên dạy con trai rằng: “Vạn Thành à! không
luận là những con vật lớn hay nhỏ, đều biết tham sống sợ chết, chúng nó
với con không oán không thù, con làm hại nó, bắn giết nó, sao nhẫn tâm
làm vậy? Điều làm mẹ bận tâm, chính là con sát hại sanh mạng tạo nghiệp
như thế!”. Nhưng mà tập khí của Vạn Thành khó sửa, nói như gió thổi qua
tai ngựa, căn bản là không nghe những lời nói này của bà mẹ.
Đời người có sanh ắt có tử.
Thời kỳ vãng sanh của lão tín nữ Lại Vật đã đến, sư tỷ Hiệp thỉnh sáu vị
liên hữu ở cơ sở hoằng pháp Vụ Phong phân ban ra phụ trách trợ niệm. Lão
tín nữ Lại Vật hưởng thọ bảy mươi chín tuổi, mỉm cười quy Tây vào lúc 3
giờ chiều ngày 17 tháng 5 ÂL, các nhân viên trợ niệm sau khi lão tín nữ
vãng sanh, niệm tiếp tám giờ nữa, niệm xong mọi người lưng đẫm mồ hôi.
Sư tỷ Hiệp lúc đó đang đứng hóng mát ở dưới cây trước cửa lớn, liền thắp
nhang khấn thầm rằng: “Má! Má có thể an tâm đi Tây phương được rồi,
nhưng lúc này cần phải hiển bày một chút kỳ tích khiến cho Vạn Thành và
con Ngọc (con dâu) biết sửa lỗi lại tu hành”. Đang lúc đó bỗng nhiên
“Pằng! Pằng! Pằng!”, ba tiếng nổ to như sấm chói lỗ tai, mọi người đều
hoảng sợ giật mình! Thì ra là cây súng săn để trong tủ áo trong phòng
của em trai Vạn Thành bị cướp cò (tự nhiên nổ) và bốc cháy, ngọn lửa
trong tủ áo cháy lan ra ngoài, đến cái mùng trên giường, mọi người đều
vội vã đi lấy nước lại cứu hỏa. Tháng 5 năm đó là trời hạn, mấy lu nước
đều dùng sạch, đang lúc ngàn cân treo sợi tóc đó thì có một người chở
một xe bò nước đến trước cửa, nhờ đó hóa giải được nguy hiểm. Tra xét
lại xem thì là cây súng săn phát hỏa, quần áo đồ đạc bị đốt thành tro,
bươi tìm trong đống tro được một cái bao giấy, mở ra xem thì là giấy tờ
quyền sở hữu nhà đất và tiền mặt 20.000 đồng, đây là tiền chuẩn bị sẵn
lo đám cho mẹ của sư tỷ Hiệp, vẫn còn nguyên phong chưa bóc ra, không có
bị cháy hư một chút nào hết.
Vợ của Lâm Vạn Thành tên là
Ngọc lúc đó đang ngồi trên ghế mây dựa dưới hành lang, bỗng nhiên hai
mắt nhìn thẳng trong hư không, bất tỉnh nhân sự. Mọi người cho là vì bị
giựt mình quá mà hôn mê, các vị liên hữu liền to tiếng niệm cầu đức đại
từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, và cũng phái người đi mời
bác sĩ Khôn Hải đến tiêm thuốc. Lúc bác sĩ đến thì A Ngọc đã tỉnh táo
rồi, cô ta nói với mọi người rằng: “Những lời các vị vừa nói, tôi nghe
rõ từng câu, muốn nằm xuống thì dường như có người kéo không cho nằm
xuống, mắt nhìn thấy trong hư không một vầng kim sắc quang minh giáng
lâm, chính là Phật A Di Đà tiếp dẫn má chồng tôi; má chồng tôi mặc áo
bào đen lớn, tay cầm chuỗi, mặt mày tươi vui, nương kim sắc quang minh
theo Phật A Di Đà bay về Tây phương”. Sư tỷ Hiệp liền hỏi cô ta: “Phật A
Di Đà hình dạng như thế nào?”. A Ngọc đáp: “Giống như bức tượng vẽ lớn
Đức Phật A Di Đà mà chúng ta cúng dường, nhưng Đức Phật A Di Đà trong hư
không, trang nghiêm, đẹp hơn nhiều”.
Các vị bằng hữu, Phật pháp vô
biên thật là không thể nghĩ bàn! Tại sao cây súng tự nhiên phát hỏa?
Tiền và giấy tờ sở hữu nhà đất tại sao lửa không cháy được? Lại cảnh
Phật A Di Đà tiếp dẫn người mất khiến cho người con dâu không có căn
lành được chính mắt nhìn thấy lâu đến mười phút? Nếu như chỉ có đốt cây
súng, không thấy được kim thân Phật A Di Đà thì không thể độ được A Ngọc
phát tâm tin Phật như hiện nay, riêng một mình A Ngọc chính mắt thấy mẹ
chồng vãng sanh, nếu như không đốt tiêu cây súng săn thì cũng không trừ
hết được tập khí ác săn bắn của Lâm Vạn Thành đổi ác làm lành, thật là
sự linh cảm kỳ diệu tột bậc.
Chúng sanh nổi chìm trong
biển khổ sanh tử rất là đáng thương. Mong rằng mọi người thật tâm niệm
Phật, khuyên người niệm Phật, phát tâm Bồ đề cứu nhân độ thế, lấy tự
thân mình làm chiếc thuyền độ sanh trong đời này, chở khắp hết chúng
sanh đồng đến Hải hội Liên trì.
Hãy niệm: Nam mô A Di Đà
Phật!
72. VONG HỒN QUẤN QUÝT
THEO QUẤY PHÁ, NIỆM PHẬT ĐƯỢC GIẢI OÁN KẾT
Một câu Nam mô A Di Đà Phật
là thuốc A Già Đà trị hết muôn bệnh. A Di Đà Phật lại là đại chú vương,
xưng niệm hoan hỷ thì giải được oán kết, gặp dữ hóa lành. Đoạn văn dưới
đây chính là câu chuyện niệm A Di Đà Phật giải thoát được vong hồn quấn
quýt theo quấy phá.
Năm năm trước ở một khu đất
phồn hoa náo nhiệt ở thành phố Đài Bắc có một thanh niên phóng xe như
bay chở một cô gái đẹp, chạy như giông như gió lạng lách ẩu tả, đến nỗi
cô gái chở phía sau bị té xuống chết cũng không hay, lúc đó có rất nhiều
nam nữ hiếu kỳ vây lại xem, mọi người đang lúc tội nghiệp cho cô gái
này, bỗng có một người đi đến kêu to: “A Tam! A Tam!”, trong những người
đứng xem có người tên A Tam liền ứng thinh đáp to: “Tôi đến đây, tôi đến
đây!”. Nguyên vị A Tam này là thợ hớt tóc trong tiệm hớt tóc gần đó, do
vì có khách muốn hớt tóc cho nên ông chủ cho người học việc đi kêu A Tam
về hớt tóc cho khách.
Tục ngữ có câu “Trời có bão
táp không lường, con người có họa phúc trong sớm tối”. A Tam, anh chàng
thanh niên tốt, sống có khuôn phép này bắt đầu từ tối hôm đó, sau nửa
đêm ở trong cảnh giới nửa tỉnh nửa mê nhìn thấy một cô gái đẹp đến rủ
anh ra ngoài chơi, liền mở cửa sau đi theo cô ta. Đến khi trời sáng, một
mình A Tam ngồi ngủ gật dưới cột điện, bị người ta phát hiện mới kêu anh
ta thức dậy đi về. Liên tục một tuần lễ như thế, ban ngày làm việc, ban
đêm cô gái kia đến dẫn đi chơi, sáng sớm đều nằm ngủ gật trên đất bên
ngoài. A Tam tự thấy không ổn, liền bỏ việc về quê.
Quê của A Tam ở trên núi,
thôn Đồng Lâm, Bắc Cấu Khanh, Vụ Phong, Đài Trung. Nhà có một mẹ già mù
lòa và mấy anh em. A Tam về nhà qua ngày sau phụ giúp với ông anh cả,
dùng xe tải hàng ra ngoài chở hàng cho người ta, đến tối về nhà. Bà mẹ
liền kêu A Tam đến trước mặt nói: “Con mỗi lần lúc sắp ra ngoài. Mẹ đều
dặn dò bảo con ở bên ngoài không nên kết giao tùm lum với con gái, con
lại cứ không nghe. Con mới về ngày hôm qua, hôm nay đã có con gái đến
kiếm, cái tiếng đi mang giày cao gót, lại còn miệng kêu A Tam, A Tam
không ngớt! Mẹ hỏi là ai muốn tìm A Tam cũng không trả lời”. A Tam liền
đáp với mẹ mình rằng: “Mẹ à! Con từ nào đến giờ ở bên ngoài sống có
khuôn phép đàng hoàng, chưa từng kết giao với cô gái nào”. Tức thời liền
cùng với mấy anh em của anh ta đi tìm kiếm bên trong bên ngoài nhà đều
tìm không ra bóng dáng cô gái nào. Nhưng tối hôm đó vào nửa đêm thì cô
gái lại đến cùng A Tam mở cửa sau ra ngoài chơi, sáng sớm A Tam lại ngồi
ngủ gật dưới cây, thế là lại bị người kêu tỉnh dậy. A Tam ở Đài Bắc
trong một tuần lễ, mỗi đêm đều bị chuyện như thế xảy ra, nhưng tự mình
không biết là thế nào, bây giờ về ở nhà quê cũng là như thế, không biết
có cách gì mới có thể giải quyết?
Lúc bấy giờ ở trên núi thôn
Bắc Đồng Lâm, mọi người đều tin thờ một tượng Vương Gia Công. Mẹ của A
Tam liền đi mời đồng cốt và thỉnh Vương Gia Công về hỏi bệnh của A Tam
là bệnh gì? Thì ra thần cũng có chút thần thông, thần dựa vào đồng cốt
nói: “Bệnh của A Tam là do mười ngày trước đây ở chỗ nào đó của Đài Bắc
nhìn thấy một cô gái té chết bên đường, người bạn trai dùng xe chở cô
gái này tên là A Tam. Lúc đó có người gọi to A Tam thì vị A Tam này của
chúng ta cũng to tiếng trả lời “Đến
đây! Đến đây!”. Lúc đó hồn cô gái bị té chết đang trong lúc mênh mang mù
mịt không có chỗ nương, nghe được cái tên A Tam, tức thời quấn theo
không buông”. Đồng cốt nói tiếp: “Cách tốt nhất là đưa u hồn của cô ta
về Đài Bắc”. Mẹ của A Tam lại nói “Phải dùng cách gì để đưa?”. Đồng cốt
lại nói: “Phải dùng hình nộm (rơm)”. Tức thời dùng rơm làm thành một
hình người, cao khoảng bốn thước (thước Tàu) mặc áo đỏ quần đen, chân
cũng mang giầy, trên đầu buộc một chiếc khăn bông, vẽ mày, mắt, miệng,
mũi, vào lúc sau nửa đêm, Vương Gia Công với đồng cốt đưa hình nộm này
đến bên trạm xe, buộc vào dưới cột điện, đồng cốt liền đốt rất nhiều
giấy vàng bạc ở đó kêu u hồn ngồi chuyến xe thứ nhứt đến Đài Bắc tìm
người yêu của mình là A Tam.
Hình nộm người con gái buộc ở
dưới cột điện, những người qua lại ở xa xa đã có thể nhìn thấy rồi. Ở
dưới cột điện có một người con gái đẹp đứng ở đó bất động, đi lại gần
nhìn mới rõ là hình nộm làm bằng rơm, làm sáng sớm hôm cô bị giật mình
sợ đến hồn bất phụ thể, có thể nói sợ lớn bệnh lớn, sợ nhỏ bệnh nhỏ. Cô
gái bị giật mình hoảng sợ té ngã hôn mê đó là một cô nữ sinh cao đẳng
năm thứ ba họ Chu tên là A Lập. Sáng sớm mỗi ngày khi trời còn chưa sáng
đã phải chạy xe đạp xuống núi, từ con đường thôn Đồng Lâm đi ngang qua
Bắc Cấu Khanh, rồi lại từ Vụ Phong chuyển đến thành phố Đài Trung đi
học, chuẩn bị thi đại học. Đó là một cô gái trẻ 19 tuổi tài năng và học
vấn đều giỏi. Chu A Lập sáng sớm hôm đó sương mù trắng xóa mù mịt, xa xa
thấy một cô gái trẻ, trong bụng nghĩ lạ quá, còn sớm như vậy đứng ở đó
làm gì? Đang lúc không biết là cái gì đó thì xe đã đến qua đó, vừa xem
biết là hình nộm mặc áo, tức thì lông tóc dựng đứng, đầu cảm thấy to lên
như cái đấu, sức khỏe không chịu đựng được nữa, không thể đi học được,
lại quay về nhà. Bắt đầu bị bệnh luôn không dậy được, đầu đau như muốn
vỡ kêu khóc ầm ĩ, muôn phần đau đớn, trong một ngày mời về mấy vị Đông,
Tây y bác sĩ, đều chẩn đoán không ra bệnh.
Người dân trên núi nơi A Lập
ở này đều tin thờ Thái Tử Gia. Cha của A Lập liền đi thỉnh Thái Tử Gia
đến cầu xin đạp đồng lên chỉ bảo. Thái Tử Gia này có thể nói là khá
thông minh, ông ta dựa vào đồng cốt nói: “Cái đầu đau của A Lập thuốc
men trị không hết được đâu, ta cũng không có cách nào trị lành được, do
vì có một con quỷ nữ quấn theo quấy phá, thần không có cách đuổi đi, cần
phải thỉnh bậc chân tu đến tụng kinh niệm Phật, siêu độ cho nó thoát
khổ, đó mới là biện pháp rốt ráo (tốt nhất)”. Cha của A Lập lại hỏi Thái
Tử Gia rằng: “Phải đi đến nơi nào thỉnh bậc chân tu?”. Thái Tử Gia dựa
vào đồng cốt nói: “Gần thì trước mắt, xa thì ngàn dặm”. Cha của Chu A
Lập tức thời nghĩ đến sư phụ Phổ Độ ở trên núi đối diện (em gái của cô
Chơn tức cô Phụng đã thế phát thọ giới, truyện 27, 28, 29) và cô Chơn,
hai người là chân tu hành. A Lập vẫn cứ đau đầu chịu không nổi, cha và
anh của cô hai người liền đỡ cô đi gặp sư phụ Phổ Độ và cô Chơn, rồi nói
rõ lại những lời của Thái Tử Gia lên đồng đã nói, xin nhờ giúp cho việc
tiêu tai bạt độ.
Sư Phổ Độ và cô Chơn tức thời
tụng một quyển Kinh Di Đà, 49 biến chú vãng sanh, tụng chú đại bi, Bát
nhã Tâm kinh mỗi thứ 7 biến, hồi hướng bố thí cho nữ quỷ được siêu sanh
thoát khổ, và cho A Lập một xâu chuỗi, dạy cô cách niệm “Nam mô A Di Đà
Phật”, niệm một câu lần một hột. Lại thuyết minh tiếp: “Một câu A Di Đà
Phật chính là đại chú vương, muốn tránh tà tự mình niệm mới kết quả, tự
mình liền có thể tiêu tai khỏi nạn do vì tà ma quỷ quái không dám lại
gần”. A Lập nghe xong thấy rất có đạo lý, vô cùng cám ơn, về nhà liền
gắng sức niệm Thánh hiệu “A Di Đà Phật” mãi, niệm luôn mấy giờ, đầu nhẹ
nhàng như thường lúc nào không hay. Ngược lại, mẹ của A Lập kêu to đau
đầu, liền kêu A Lập đem xâu chuỗi đến cho mẹ mượn niệm. Cũng lần từng
hột niệm một câu A Di Đà Phật… niệm được mấy giờ khỏe rồi, nhưng cái đầu
của A Lập lại đau trở lại, lại đòi xâu chuỗi trong tay của mẹ lại niệm.
Cha của A Lập liền chạy qua cô Chơn lần nữa nói rõ sự việc và xin thỉnh
xâu chuỗi nữa, cô Chơn một lần nữa dặn dò ông: “Niệm Phật, không phải
tay cầm chuỗi mới có thể niệm được. Không có chuỗi và ở bất cứ chỗ nào,
bất cứ lúc nào đều có thể niệm, chỉ ở trong giấc ngủ hoặc đang trong nhà
xí thì không thể niệm ra tiếng, nhưng phải nhớ niệm thầm, cũng không
phải đợi lúc đau mới niệm, lúc bình thường không kể là nam hay nữ, già
hay trẻ đều phải niệm, càng niệm càng tiêu tai, tăng thêm phước thọ”. Về
sau cả nhà A Lập bình an, đối với sư Phổ Độ và cô Chơn rất là cảm đội ơn
đức và tin sâu Phật pháp vô biên, không thể nghĩ bàn.
Chúng ta nói trở lại câu
truyện hình nộm mặc đồ kia, hai ngày nay đứng bất động dưới cột điện,
một truyền ra mười, mười truyền ra một trăm, một trăm truyền ra một
ngàn, người trên núi không có người nào dám đi qua đó, ông trưởng thôn
bèn đi đến nhờ cô Chơn, nói: “Các sư cô, cứu người thì phải cứu đến nơi
đến chốn, cái hình nộm mặc đồ buộc luôn ở đó là điều lành ít dữ nhiều,
trong làng không có người nào dám đụng đến nó, xin các sư cô phát tâm từ
bi mở nó ra đốt bỏ đi để tránh gây ra nhiều tai ương. Xin nhờ! Xin
nhờ!”. Sư Phổ Độ và cô Chơn liền nhận lời nói: “Được rồi, sáng sớm ngày
mai bắt đầu làm là được rồi”. Qua sáng sớm hôm sau, sư Phổ Độ và cô Chơn
đốt ba cây nhang, hướng vào hình nộm mặc đồ nói: “Nữ cô hồn! Ngươi ở đây
tạo tội nghiệt, hại người, tội rất sâu, chúng ta thương xót cho ngươi,
cho nên bây giờ tụng kinh, chú, niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật bố thí cho
ngươi, siêu độ cho ngươi thoát ra ba cõi, vãng sanh Tây phương Cực Lạc
thế giới, vĩnh viễn thoát khỏi cái đau khổ lớn của luân hồi sanh tử, đây
mới là cứu cánh cho ngươi”. Nói xong, liền tụng một quyển Kinh A Di Đà,
chú vãng sanh, chú đại bi, Bát nhã Tâm kinh, v.v… lúc niệm lại Thánh
hiệu A Di Đà Phật, thuận tiện liền mở hình nộm xuống, tháo bung hết toàn
thân, lấy lửa đốt, trong khoảnh khắc biến thành một đống tro. Cuối cùng
lại hồi hướng rằng: “Nguyện công đức thù thắng của kinh chú này hồi
hướng cho cô hồn được siêu thăng”. Tiếp theo quét đống tro đó xuống khe
nước lớn, nước cuốn trôi đi. Từ đó những người dân nam nữ già trẻ trong
thôn Đồng Lâm này đã biết được điều hay tốt của việc niệm Nam mô A Di Đà
Phật, có rất nhiều người phát tâm quy y theo Phật.
73. TÁC GIẢ CỦA SÁCH NÀY NIỆM PHẬT VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG TRUYỆN KÝ CỦA
LÃO CƯ SĨ LÂM KHÁN TRỊ VÃNG SANH
(
Kẻ hậu học Tây Liên hết lòng
thành kính ghi lại. Thơ của Tuyết Lô lão nhân (Lý Bính Nam) tặng cư sĩ
Lâm Khán Trị.
Dịch âm:
Kim trì hạn đàm tứ biên khai
Hỷ thị Lâm quân thứ đệ tài
Thỉ tín Tây phương chư thượng
thiện
Chơn năng thừa nguyện hóa
thân lai.
Dịch giả tạm dịch:
Ao báu sen vàng rộ nở hoa
Đón mừng Khán Trị trở về nhà
Đồng hàng Bồ Tát ngôi thượng
phẩm
Thừa nguyện hóa thân lại Ta
bà.
Đại sư Ngẫu Ích nói: “Chư
Phật vốn vì thương xót quần mê, tùy cơ ứng hóa, dầu là quy nguyên vô
nhị, mà phương tiện thì có nhiều môn. Nhưng trong tất cả muôn phương
tiện, muốn cầu môn phương tiện thẳng tắt nhất, viên đốn nhất, thì không
gì bằng môn niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Lại ở trong tất cả pháp môn niệm
Phật, muốn cầu môn giản dị, ổn đáng nhất, thì không gì bằng môn TÍN,
NGUYỆN, CHUYÊN TRÌ DANH HIỆU. Pháp môn Tịnh độ, lợi ích sâu rộng, từ khi
đại pháp (pháp Phật) ở phương Tây (Tây vực: Ấn Độ) truyền đến phương
Đông này, đem những hàng phàm phu trơn (chỉ hạng người rất tầm thường)
nương vào tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây phương, nhờ đó ra khỏi được
cuộc đời ngũ trược mà lên được cửu phẩm liên hoa, nhiều không thể tính
đếm. Trong đó có lão cư sĩ Lâm Khán Trị, vị liên hữu ở liên xã Đài
Trung, tín nguyện kiên cố thật tâm niệm Phật, vào ngày 15 tháng 4 năm
Dân quốc thứ 81 (13 tháng 3 năm Nhâm Thân ÂL) biết cả giờ đi, chánh niệm
rõ ràng, vãng sanh nhẹ nhàng tốt đẹp, hưởng thọ được tám mươi sáu tuổi.
Nay xin kính thuật lại sự tích vãng sanh của bà để lợi ích cho người có
duyên, thấy người giỏi, suy nghĩ cố gắng sao cho bằng, đồng niệm A Di
Đà, đồng sanh An Dưỡng, và cầu nguyện Lâm lão cư sĩ, sớm thừa nguyện trở
lại, quảng độ chúng sanh mãn Bồ Đề nguyện.
Lão cư sĩ Lâm Khán Trị sinh
tại trấn Lộc Cảng, huyện Chương Hóa, tỉnh Đài Loan vào ngày mùng 7 tháng
3, năm năm trước Dân quốc, tức năm 1906 (1911 - 5 = 1906) nhằm ngày 18
tháng 2 năm Đinh Mùi ÂL, cha là Lâm Luyện Công, mẹ họ Thái, thuộc gia
đình có danh vọng, đáng tiếc cho Lâm lão cư sĩ tuổi nhỏ đã mất cha, kế
tiếp lại mất mẹ, nếm đủ cái khổ vô thường của thế gian. Lâm lão cư sĩ từ
lúc vỡ lòng ở tư thục đã có tâm ham học không biết mệt, học thuộc Tứ Thư
Ngũ Kinh, nhờ đó mà đạt được nền móng tốt đẹp của Hán học, đối với việc
học Phật sau này rất có ích.
Lâm lão cư sĩ căn lành đời
trước sâu dày, năm 35 tuổi nghe được một cao tăng ở Đài Loan là pháp sư
Bân Tông tuyên giảng Phật pháp, thể hội được cái khổ của luân hồi lục
đạo, liền phát tâm học Phật, ăn chay, và bà đã từng quy y với pháp sư Vô
Thượng, được pháp danh là Pháp Viên. Năm Dân Quốc thứ 38, nhờ lão cư sĩ
Lại Luyện Lương giới thiệu được học với ân sư Tuyết Lô Lý Bính Nam, được
ân sư ban cho tên tự là Huệ Trị, mùa đông năm Dân quốc thứ 41 vâng mệnh
ân sư tham gia lần truyền giới đầu tiên kể từ sau khi Đài Loan được khôi
phục ở chùa Đại Tiên ở Đài Nam, cầu thọ tại gia Bồ Tát giới với lão hòa
thượng Khai Tham làm vị Ưu Bà Di Bồ Tát giới trọn đời. Từ đó thường đi
theo thầy rộng kết pháp duyên, đến khắp nơi trong toàn tỉnh tuyên dương
pháp môn Tịnh độ, phụ tá trợ giúp ân sư tạo dựng những đạo tràng hoằng
pháp lợi sanh như liên xã của Phật giáo ở Đài Trung v.v… và do được
nhiều người trọng vọng nên bà được suy cử làm hội trưởng Liên nghị của
mấy chục ban niệm Phật (Hội liên nghị: liên kết hữu nghị giữa các
ban), bà được hầu hết các liên hữu đều quen biết.
Điều may mắn tốt đẹp nhứt
trong đời của Lâm lão cư sĩ là gặp được ân sư Tuyết Công, người bà luôn
rất cung kính nhắc đến, người đã chỉ dạy cho bà pháp môn Tịnh độ. Bà
thường tự than là phàm phu nghiệp chướng không thể nương nhờ được nguyện
lực rộng lớn của Phật A Di Đà, quyết là khó trong đời này ra khỏi được
luân hồi, cho nên đối với ân sâu nuôi lớn huệ mạng của ân sư, luôn ghi
khắc trong lòng, xem ân sư như cha lành, thường nhắc đến lời dạy của ân
sư: “Người tu theo Tịnh độ, quan trọng nơi thực tiễn, nếu như tu mà
không có niệm Phật thì cũng đồng với nói ăn (không no được), đếm tiền
(tiền của người ta), không có sự lợi ích thiết thật, nói một trượng vẫn
không bằng làm một tấc”. Hằng lấy đây tự sách tấn và khuyên người. Và
lấy lời dạy của ân sư: “Đạo tràng là nơi thành tựu đạo nghiệp cho chúng
sanh” để thường tự nhắc nhở, bà chỉ biết lo dứ tác làm lành, không tham
danh lợi, thật tâm niệm Phật, ngay đời này thành tựu được đạo nghiệp mới
đủ để trên đền bốn ân nặng, dưới cứu ba đường khổ, cũng là không uổng
công một đời học Phật của mình.
Lâm lão cư sĩ do vì đầy đủ cả
nền tảng Phật và Nho, cho nên ngài Tuyết Công gởi gắm hy vọng rất nhiều
vào bà, trông mong có thể cùng nắm tay hoằng dương pháp môn Tịnh độ thù
thắng, do đó mà cố gắng dạy và giao cho nhiều trách nhiệm quan trọng
hơn. Ngài Tuyết Công dạy: “Một kinh thông rồi các kinh đều thông”. Trước
khi học giảng phải có sự chuẩn bị dồi dào đầy đủ (hiểu rõ giáo lý cơ
bản) trước khi giảng, tự viết bài nháp, những điều nói ra phải có căn
cứ, nên theo các bản các Tổ đã chú giải, không được nói bừa bãi ý riêng
của mình, nên theo khuôn phép của việc học giảng, phải rất cẩn thận và
có tinh thần trách nhiệm, mới không trái với nhân quả. Lâm lão cư sĩ
phát tâm học giảng “Kinh Phật thuyết A Di Đà”. Tuyết Công đề cập kinh
này là kinh sâu nhất, khó giảng nhất, có được danh xưng tốt là “Kinh Hoa
Nghiêm tiểu bản”. Lâm lão cư sĩ từng có lần đang lúc học giảng có chỗ
lệch lạc, lúc đó Tuyết Công ân sư quát cho một tiếng và thuận tay lấy
cây quạt xếp ở trong tay gõ lên đỉnh đầu một cái, lúc đó Lâm lão cư sĩ
xấu hổ đến nước mắt chảy dài, do đó mà cố công học tập. Qua mấy ngày sau
cuối cùng bỗng nhiên hiểu rõ cái đoạn kinh văn khó hiểu kia, các vị liên
hữu cười nói: “Đây là ân sư giúp cho chị tiêu nghiệp chướng, khai phát
trí huệ đó!”. Lâm lão cư sĩ thì càng cảm nhận sự quan trọng của việc học
Phật ắt phải có sự truyền thừa của thầy.
Lâm lão cư sĩ nhờ được sự
chăm sóc dạy bảo nghiêm khắc của ân sư, hơn nữa tự bản thân có tâm từ bi
tha thiết, thể hình cao lớn (thể lực tốt), âm thanh to rõ, biện tài vô
ngại, cho nên từ năm Dân quốc thứ 40 lúc liên xã thành lập hai đoàn
hoằng pháp của hai chúng nam và nữ, bà trở thành một nữ kiện tướng hoằng
pháp khéo giỏi thuyết pháp độ chúng. Lúc bà thuyết pháp, nắm chắc và chú
trọng về nhân quả và hai nguyên tắc lớn về lợi ích của niệm Phật, không
nói những lời huyền hoặc, lạ kỳ, chú trọng vào việc làm thực tế và sự
hành trì chân thật. Mặc dù vì chúng sanh căn tánh không đồng, cho nên
rộng thuyết các kinh pháp, nhưng nhứt định tuân theo lời dạy của thầy,
các chỗ giảng dạy đều quy nạp về Tịnh độ để hiển bày cái chỗ thù thắng
của pháp môn niệm Phật, nhưng chúng sanh chủng loại muôn ngàn sai khác,
trên đường thuyết pháp cũng có khi gặp phải những nhà chuyên môn (các
tông phái khác) đến vấn nạn. Như có một lần nọ lúc thuyết pháp ở Ngọc
Lý, có một người không tin Tịnh độ đến vặn hỏi rằng: “Bà nói người niệm
Phật sau khi mạng chung, thì thần thức vãng sanh Tây phương, thần thức
hình dạng ra sao đem đây cho tôi xem!”. Bà đáp: “Những lời ông vừa nói
đó, hình dạng ra sao đem đây cho tôi xem!”. Người kia ngậm miệng không
nói được, bà lại đáp thêm: “Nói cho rõ một chút, như ban đêm ông nằm
mộng thấy cái này cái kia, đó là thần thức vậy”. Người kia do đó mà trở
lại phát tâm dẫn người đến nghe pháp, những việc độ người học Phật giống
như thế, được nghe nói luôn”.
Lâm lão cư sĩ thường đề xướng
kiến lập “Phật hóa gia đình” (cả gia đình đều theo Phật, học Phật –
lời dịch giả) nghĩa là cư sĩ tại gia đã có gia quyến nên phải cảm
hóa cả nhà cùng học Phật để giảm bớt chướng ngại của học Phật và vãng
sanh. Điều bà vui thích nhất là khi có liên hữu nào khuyên được song
thân niệm Phật thành tựu cho song thân vãng sanh Tây phương, bà khen
điều đại hiếu rất mực của con người là ở chỗ này (có thể làm được như
thế). Lâm lão cư sĩ khéo nói những lời tốt đẹp thường vào những dịp hôn
lễ theo đạo Phật của các liên hữu, bà chúc cho gia đình sẽ thành Phật
hóa gia đình. Bà nói “Phật hóa gia đình là nguồn động lực để xã hội được
an định”. Lâm lão cư sĩ trong việc hoằng pháp cũng đặc biệt quan tâm đến
đạo nghiệp của các liên hữu và gia quyến, từ mùa Xuân năm Dân quốc thứ
44, bà cúng ngôi nhà của mình để thiết lập cơ sở hoằng pháp và nhờ ân sư
đặt tên là cơ sở hoằng pháp Luân Tự. Đó là cơ sở hoằng pháp sáng lập đầu
tiên của Liên xã, Lâm lão cư sĩ tự đảm nhiệm làm chủ giảng, lãnh chúng
niệm Phật và nghiên cứu Phật pháp. Mãi đến trước khi vãng sanh, hơn ba
mươi năm thuyết pháp không ngớt, các liên hữu, những bà con hàng xóm,
con cháu quyến thuộc… được nhờ lợi ích không ít. Lâm lão cư sĩ từ năm
Dân quốc thứ 25, kết hôn với lão sư sĩ Lý Cư, vợ chồng rất tôn trọng
kính nhường nhau, năm năm mươi lăm tuổi có được ba con vừa trai vừa gái,
cháu chắt có hơn ba mươi người, cả nhà tài giỏi, thành đạt, an vui, xứng
đáng làm điển hình cho “Phật hóa gia đình”. Những công đức về ngôn giáo
và thân giáo của Lâm lão cư sĩ không thể kể hết. Vào tháng 2 năm Dân
quốc thứ 80, ông Lý chồng của bà mệnh chung an lành và tốt đẹp tại nhà
cao, thọ chín mươi lăm tuổi, toàn thể con cháu hết sức vâng lời của Lâm
lão cư sĩ y theo Phật dạy như pháp trợ niệm và tiết kiệm, xử lý tốt
những việc còn lại, bà con hàng xóm và các liên hữu đều kính phục vô
cùng.
Lâm lão cư sĩ ngoài việc tự
tu và hóa độ người, lại còn có quyển “Những Truyện Niệm Phật Cảm Ứng
Mắt Thấy Tai Nghe” mà bà đã thâu thập ghi chép rất cần mẫn không mệt
mỏi, được nhờ ân sư Tuyết Công viết chữ kỷ niệm và ban cho lời tựa (lời
đầu sách), từ tháng 8 Dân quốc thứ 58, xuất bản lần đầu là 5.100 quyển,
đến trước khi vãng sanh, tổng cộng xuất bản 56 lần, số sách hơn trăm
ngàn quyển, còn các nơi khác ấn hành kết duyên cũng không tính đếm được,
nội dung trong sách này cũng có được mấy truyện được sát nhập vào quyển
“Tịnh độ Thánh hiền lục”, đồng thời có người nương theo nội dung sách
này mà chế tác ra băng cát-sét và phát thanh trên đài truyền thanh, có
thể nói là rộng kết nhân duyên với Tây phương được hàng vạn người và
những người đọc sách này mà phát tâm niệm Phật cũng nghe thấy rất nhiều,
thậm chí có người ở ngoài nước xa xôi cũng nhân xem đọc sách này mà
riêng đến Đài Loan cầu kiến sách này cảm hóa người rất sâu, từ đây mà ta
có thể thấy một phần, những sách còn lại của bà để lại còn có: “Phật
thuyết A Di Đà Kinh Khẩn thuyết”, “Khuyến tu niệm Phật pháp môn
thiển giảng”, v.v…
Lâm lão cư sĩ nhiều năm kinh
nghiệm tu hành, bà cho là người có thể biết niệm Phật cầu sanh Tây
phương, đó là căn lành phước báo lớn nhất trong đời người, bà thường
nói: “Tu hành không có tu gì khác, chỉ cần biết được mối đường, nếu biết
được mối đường thì việc sanh tử đồng thời dứt”. Và thường tán thán:
“Pháp môn niệm Phật là vô thượng chí bảo”. Lão cư sĩ sớm đã tùy duyên
thuyết pháp độ chúng, tuổi già càng thêm gắng sức công phu niệm Phật, tự
nói tu hành nên nhân lúc trẻ, tự biết mình lúc tuổi trẻ may mắn nhờ ân
sư chỉ đạo, đặt được nền móng niệm Phật, nếu không thì tuổi tác ngày
càng cao, thể lực suy yếu dần, sẽ hay có cảm giác lực bất tòng tâm. Bà
lại khuyên những người già càng nên gấp rút niệm Phật, cầu sanh Tây
phương, nếu không thì số ngày còn lại không nhiều, nếu vô thường chợt
đến thì là bỏ lỡ việc lớn vãng sanh, quả báo sau này không thể lường
được!…
Lâm lão cư sĩ thường ở hộ trì
tại Liên xã hơn bốn mươi năm, trong thời gian dài huân tập ở các hội
giảng kinh thuyết pháp Phật và Nho, bà càng thể hội được sự quan trọng
của hành giải tương ưng (hiểu biết và thực hành đi đôi – dịch giả chú),
đến hai năm trước khi vãng sanh, thời khóa hàng ngày của bà đã sáu vạn
câu Phật hiệu mỗi ngày, lúc tự tu, hai mắt khép lại, tay cầm chuỗi, tác
kim cang niệm, lúc cùng tu thì niệm Phật ra tiếng theo chúng, gần như
ngoài lúc ăn, ngủ ra, trọn ngày đều tắm gội trong danh hiệu Phật. Lâm
lão cư sĩ thọ trì giới “không nói lỗi của tứ chúng”, bà cho rằng “Hòa là
quý”, gặp việc nghịch ý phật lòng, đều là nghiệp chướng hiện tiền, càng
phải niệm Phật mạnh hơn, cầu Phật gia bị. Bà thích nhất câu nói này của
Ấn Quang tổ sư: “Phải nên phát nguyện nguyện vãng sanh, du sơn ngoạn
thủy mặc người tham, Tịnh độ Cực lạc tự do mình không chịu về, nếu muốn
về liền được, trăng gió của quê mình có ai tranh!”. (nguyên âm chữ Hán
bài kệ này: “Ưng đương phát nguyện nguyện vãng sanh. khách lộ khê sơn
nhậm bỉ luyến. Tự trị bất quy, quy tiện đắc. Cố hương phong nguyệt hữu
thùy tranh”). Bà đặc biệt đặt bài kệ này ở đầu án thư để nhắc nhở
mình, là làm khách ở Ta Bà, Cực lạc mới là quê hương. Và ở liêu phòng
của bà, bốn vách chung quanh không có gì, chỉ có đặt bản viết của ẤÂn
Quang đại sư đã viết: “Nhất tâm niệm Phật” để sách lệ tự thân tinh tấn
niệm Phật, và bà đã hiểu sâu sắc câu nói của ân sư Tuyết Công trước khi
vãng sanh đã nhiều lần nhắc nhở: “Ít nói một câu chuyện. Nhiều niệm một
câu Phật. Đánh chết được vọng niệm. Pháp thân ngươi hiển lộ”. Thật là
một minh chứng tu hành ở hoàn cảnh ác liệt trong thời mạt pháp này!
Lâm lão cư sĩ vào năm 60 tuổi
đã chuẩn bị xong những công việc sau khi mất. Hai năm trước khi vãng
sanh lại dặn dò các việc phải chú ý lúc lâm chung, một tuần lễ trước lúc
vãng sanh liền hướng vào các liên hữu nói: “Tôi sắp về nhà rồi”. Lại
liên tục khen rằng: “Thật sự là có thế giới Cực Lạc”. Hai ngày trước lúc
vãng sanh, tự biết sức khỏe đã suy yếu, do con cháu thỉnh về nhà, các
liên hữu và quyến thuộc niệm Phật đưa bà cùng về nhà. Sau giờ ngọ một
ngày trước khi vãng sanh, bà nói với các liên hữu: “Đã thấy Phật A Di
Đà, chắc chắn được nhờ Phật tiếp dẫn vãng sanh”. Cuối cùng, 7 giờ 20
phút sáng ngày hôm sau, ở tại nhà một mình, trong tiếng trợ niệm “A Di
Đà Phật” của các liên hữu và quyến thuộc, bà chánh niệm rõ ràng, trong
khoảnh khắc bà quy Tây một cách nhẹ nhàng và tốt đẹp, đến sau khi vãng
sanh hai mươi bốn giờ, trong thời gian đó tiếng niệm Phật không ngớt,
lúc thay y phục ai nấy đều rất vui nhìn thấy mặt mày bà tươi vui cũng
như dung mạo hiền lành lúc còn sống, những người thấy nghe khen ngợi
mãi, chúc mừng bà đã được như nguyện vãng sanh Cực Lạc. Lâm lão cư sĩ
vào ngày 26 tháng 4 năm Dân quốc thứ 81 được cử hành lễ cáo biệt và trà
tỳ, các liên hữu hẹn nhau đến niệm Phật đông đến đường sá bị tắt nghẽn,
đủ thấy sự tu trì lúc bình thời của bà công phu không có uổng, sức cảm
hóa người rất sâu. Sau khi hỏa táng lại được mấy trăm viên xá lợi. Đây
cũng hiển lộ cho thấy công phu niệm Phật của bà rất sâu dầy, nhân quả
không sai!
Đại sư Thiện Đạo nói: “Nếu
luận về học hiểu, thì tất cả pháp môn đều phải học, nếu luận về tu trì,
nên chọn lựa pháp khế lý, khế cơ, mới có lợi ích chân thật”. Một pháp
niệm Phật nhân gồm quả hải, quả suốt nguồn nhân là khế lý khế cơ nhất,
thật là bản hoài của Đức Thế Tôn xuất thế độ sanh khiến tất cả đều có
thể ngay đời này dứt được sanh tử. Chúng ta từ sự tích thành kính niệm
Phật của Lâm lão cư sĩ cuối cùng được vãng sanh Cực Lạc mà nghiệm ra,
tin mà có chứng cứ. Khắp nguyện những ai thấy nghe rõ chân thật niệm
Phật, đồng sanh Cực Lạc, đồng thành chánh giác, thì may mắn lắm vậy! Và
Lâm lão cư sĩ với thân nữ tại gia lại được sự tự độ và độ người mấy mươi
năm, cuối cùng vãng sanh Liên Bang một cách nhẹ nhàng và tốt đẹp. Đây
cũng đồng với hai câu:
“Thỉ
tín Tây phương chư thượng thiện. Chơn năng thừa nguyện hóa thân lai”
của Tuyết Lô lão nhân vậy! (xem bài thơ ở đầu bài này).