KINH NIỆM PHẬT BA LA MẬT
HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM
Dịch từ Hán văn sang Việt văn
(PHÁP TU
ĐỐN NGỘ VÃNG SANH)
PHẨM THỨ NHẤT
DUYÊN KHỞI
-
Đời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập
dịch từ Phạn ra Hán.
-
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm dịch từ Hán văn ra Việt
văn.
Chính tôi được
nghe như thế này. Một thuở nọ, Đức Phật kiết hạ tại núi Kỳ Xà Quật, gần
thành Vương Xá với chúng đại Tỳ Khưu một muôn hai nghìn người. Đó là các
vị TRƯỞNG LÃO XÁ LỢI
PHẤT, MA HA MỤC KIỀN LIÊN, MA HA CA DIẾP, MA HA CA CHIÊN DIÊN, TU BỒ ĐỀ,
LA HẦU LA, PHÚ LÂU NA, A NAN, A NAN ĐÀ, MA HA BA XÀ BA ĐỀ, GIA DU ĐÀ LA,
v.v…
Lại có tám muôn vị
đại Bồ Tát khắp mười phương cùng đến tham dự. Đó là: Ngài
VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT, PHỔ
HIỀN BỒ TÁT, QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT, DI LẶC BỒ TÁT, ĐỊA
TẠNG BỒ TÁT, DIỆU ÂM BỒ TÁT, ĐẠI CƯỜNG TINH TẤN DÕNG MÃNH BỒ TÁT, ĐÀ LA
NI TỰ TẠI CÔNG ĐỨC LÂM BỒ TÁT, TRANG NGHIÊM VƯƠNG BỒ TÁT…
tất cả đều có năng
lực thâm nhập vô lượng tam muội môn, tổng trì môn, giải thoát môn, đã
chứng Pháp Thân, đắc ngũ nhãn, biện tài vô ngại, thần thông du hí, biến
hiện đủ loại thân tướng khắp các quốc độ để cứu vớt chúng sinh.
Lại có vô lượng
Đại Phạm Thiên Vương, Tự Tại Thiên Vương, Đế Thích Thiên Vương, Đâu Suất
Thiên Vương, Đao Lợi Thiên Vương đều cùng vô số quyến thuộc dự hội.
Lại có Long
Vương, Khẩn Na La Vương, Càn Thát Bà, A Tu La Vương, Ca Lầu La Vương…
đều cùng vô số quyến thuộc câu hội.
Lại có quốc mẫu
VI ĐỀ HY Hoàng Thái Hậu và
A XÀ THẾ VƯƠNG
cùng hoàng tộc,
quân thần câu hội.
Lại có hơn năm
trăm vị Trưởng Giả cư sĩ của thành Vương Xá đều cùng vô số quyến thuộc
câu hội.
Tất cả đại
chúng đều cung kính cúi lạy dưới chân Phật, rồi lui ngồi một bên.
Lúc bấy giờ,
trong hàng ƯU BÀ TẮC có một vị Trưởng giả tên là
DIỆU NGUYỆT, TRÚ NGỤ
TẠI THÀNH VƯƠNG
XÁ, từng quy y Tam Bảo và thọ trì
năm
giới cấm, cũng đến dự pháp
hội. Vị Trưởng Giả này từ vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp quá khứ, từng
gần gũi thừa sự cúng dường vô lượng vô biên muôn ức hằng hà sa Đức Phật,
y theo chính pháp tu hành. Hiện tại làm thân cư sĩ, vợ con đông nhiều,
nhà cửa nguy nga, kho đụn đầy dẫy. Tuy ở giữa cảnh ràng buộc mà vẫn
trưởng dưỡng tâm chí giải thoát. Tuy hưởng dụng ngũ dục thế gian, nhưng
vẫn hoài bão đại nguyện độ sinh của chư Đại Bồ Tát. Tuy ở trong chốn bùn
lầy dơ bẩn mà vẫn sẵn sàng xả ly thân mạng tài sản, quyến thuộc để gieo
trồng hạt giống Bồ Đề. Tuy ở trong căn nhà lửa chập chùng hiểm nạn, mà
vẫn thực hành Tuệ Giác Vô Lậu, hết lòng thương tưởng chúng sinh như con
một, thể hiện pháp thí oán thân bình đẳng.
Trưởng giả
DIỆU NGUYỆT
từ trong đại chúng bước ra, đi nhiễu quanh Đức Phật ba vòng. Rồi đến
trước Như Lai, chắp tay quì xuống, gối bên hữu chấm sát đất, cung kính
bạch với Đức Phật rằng.
- Hi hữu Thế
Tôn! Hi hữu Thế Tôn! Được làm thân người là khó, như con rùa gặp bộng
cây nổi, nhưng được gặp Phật ra đời còn khó gấp muôn phần. Gặp Phật ra
đời đã khó, nhưng được nghe chính pháp lại còn khó gấp muôn phần. Được
nghe chính pháp đã khó, nhưng làm thế nào để nương theo giáo nghĩa tu
tập, lại còn khó gấp vô lượng phần.
Bởi
vì sao? Theo chỗ con xét nghĩ, thì trong Tám vạn bốn ngàn pháp mầu mà
Như Lai đã chỉ dạy, nhằm đưa hết thảy chúng sanh ngộ nhập Phật Tri Kiến,
phải có một pháp mầu cứu vớt những hạng chúng sanh tội khổ, mê đắm, xấu
ác. Hôm nay con phụng vì hết thảy chúng sinh tội khổ nơi thời mạt pháp,
cũng như phụng vì các bậc trưởng giả, cư sĩ, bà la môn, sát đế lợi, thủ
đà la tại thành Vương Xá này, mà khẩn cầu Đức Thế Tôn rủ lòng thương
xót, ban cho chúng con một cách thức tu hành thật dễ dàng để giải thoát,
một con đường thật vắn tắt để hoàn thành Phật Trí.
Như Đức
THẾ TÔN
từng chỉ dạy, đời mạt pháp các chúng sinh trong cõi Diêm Phù Đề cang
cường, ngỗ nghịch, tâm tạp nghiệp nặng, mê đắm ngũ dục, không biết hiếu
thuận cha mẹ, không biết cung kính Sư Trưởng, không thực lòng quy y Tam
Bảo, thiếu năng lực thọ trì năm giới cấm, làm đủ mọi chuyện tệ ác, phỉ
báng Thánh nhân v.v… Cho nên con suy gẫm như thế này phải có một môn tu
thật giản đơn, thật tiện lợi nhất dễ dàng nhất để tất cả những chúng
sinh kia khỏi đọa vào các đường ác, chấm dứt luân chuyển sinh tử khắp ba
cõi, được thọ dụng pháp lạc, sớm bước lên địa vị Vô Thượng Chính Đẳng
Chính Giác.
Vì sao như vậy?
Sau khi Như Lai diệt độ khoảng một ngàn năm trở đi, đó là thời kỳ chính
pháp cuối cùng, các kinh điển dần dần ẩn mất, chúng sinh căn cơ hạ liệt
ám độn ngã chấp sâu dày, tâm tưởng thô trệ, tà kiến lan tràn, say sưa
làm các nghiệp ác để tự vui. Do đó, tự nhiên chiêu cảm động đất, đói
kém, tật dịch, binh đao, lũ lụt, mất mùa, gió bão, thời tiết viêm nhiệt
bức não. Thánh Nhân lại không xuất hiện. Tuổi thọ giảm dần. Nếu ai phát
khởi tâm chí tu hành, cũng không thể tu tập các môn
GIỚI LUẬT, THIỀN ĐỊNH, TRÍ
TUỆ, Giải
Thoát Vô Lậu. Không thể tu tập
TỨ NIỆM XỨ BÁT CHÍNH ĐẠO,
Tứ Chính Cần. Không thể tu tập
TỨ VÔ LƯỢNG TÂM,
không thể tu tập sáu
BA LA MẬT,
hoặc là Bố Thí Ba La Mật, nhẫn đến Trí Tuệ Ba La Mật, không thể tu tập
bằng các phương tiện của Quán Trí để ngộ nhập Phật Tri Kiến. Không thể
chứng đắc Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán. Không thể chứng
nhập SƠ
thiền
NHẪN ĐẾN tứ thiền.
KHÔNG THỂ CHỨNG NHẬP NIẾT BÀN
DIỆU TÂM.
Không thể sâu vào vô lượng Tam Muội. Thần Thông Du Hí của chư Bồ Tát,
nhẫn đến không thể thâm nhập cảnh giới thù thắng trang nghiêm của chư
Phật, hoặc rải cỏ nơi đạo tràng, đánh rền trống pháp hàng phục ma quân.
Vì lý do như
vậy, mà đệ tử chúng con xét nghĩ nên phát khởi vô thượng Bồ Đề tâm. Khẩn
cầu Đức Thế Tôn chỉ dạy giáo pháp nhiệm mầu, mong lợi lạc hết thảy tội
khổ chúng sinh ở thời kỳ cuối cùng của Chính Pháp.
Trưởng Giả
DIỆU NGUYỆT
vừa dứt lời thưa thỉnh, thì bỗng đại địa chấn động mãnh liệt. Khắp hư
không, hoa mạn đà la, ma ha mạn đà la, mạn thù sa, ma ha mạn thù sa tuôn
rắc như mưa. Từ phương Tây, xuất hiện vô lượng vô số hằng hà sa đám mây
ngũ sắc, mây chiên đàn hương, mây y phục cõi trời mây âm nhạc cõi trời,
mây hoa sen báu trắng bạch v.v… Trong những đám mây ấy phát ra tiếng sấm
lớn, đồng một lúc chầm chậm bay về, nhóm lại phía trên đỉnh núi Kỳ Xà
Quật.
Tất cả đại
chúng đều vui mừng, hớn hở, tự biết ấy là điềm lành chưa từng có.
Bấy giờ, quốc
mẫu VI ĐỀ HY hoàng thái hậu từ trong đại chúng, bước ra trước
Phật đảnh lễ xong, bèn chấp tay thưa:
- Bạch Đức Thế
Tôn, vì duyên cớ gì mà hiện điềm lành này?
Liền khi ấy,
Đức NHƯ LAI từ nơi tướng lông trắng chặng giữa chân mày, phóng
ra hào quang chiếu khắp vô lượng vô biên vi trần số thế giới mười phương
mà nói lời này:
- Lành thay!
Các thiện nam tử, thiện nữ nhân! Nay ta vì lời thưa thỉnh của ưu bà tắc
Diệu Nguyệt, và của ưu bà di Vi Đề Hy, lại nương theo Bản Nguyện của vô
lượng vô số bất khả thuyết Chư Phật, mà tuyên dương giáo nghĩa bí mật vi
diệu tối thắng đệ nhất, nhằm cứu độ hết thảy chúng sinh ở trong thời kỳ
Phật Pháp cuối cùng.
Giáo nghĩa này,
chư Phật quá khứ đã nói, chư Phật hiện tại đang nói, và chư Phật vị lai
sẽ nói. Tất cả chúng sinh đời mạt pháp sẽ nương nơi giáo nghĩa này mà
được giải thoát rốt ráo, mãi mãi xa lìa các đường ác, hiện đời an ổn sau
khi mạng chung được sinh về cõi Phật, chứng ngôi vị Bất Thối, dần dần tu
tập cho đến khi đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Này, cư sĩ
DIỆU NGUYỆT,
hãy chăm chú lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói.
DIỆU NGUYỆT.
Tất cả các loại chúng sinh chết ở nơi đây, rồi sinh trở lại ở nơi kia,
sống chết nối nhau không dứt. Mỗi khi sắp mạng chung thì các loại nghiệp
lành dữ trong một đời hiển hiện rõ ràng. Chúng sinh nào sống thuần bằng
tư tưởng, thì bay lên hóa sinh nơi các Cõi Trời. Nếu trong sự thuần
tưởng, lại gồm cả phước huệ và tín nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở
mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sinh
về tịnh độ.
Chúng sinh nào
tình ít, tưởng nhiều thì vào hàng phi tiên, bay đi nhẹ nhàng nhưng không
được xa bằng hạng thuần tưởng. Chúng sinh nào tình và tưởng bằng nhau
thì sẽ phát sinh vào cõi người. Bởi vì sao như vậy? Bởi
TƯỞNG
là thông sáng. TÌNH
là mê tối. Nếu tình và tưởng ngang bằng nhau thì không bay lên và cũng
không đi xuống.
Chúng sinh nào
tình nhiều, tưởng ít thì sẽ lạc vào Bàng Sinh, nhẹ thì làm chim bay,
nặng thì làm thú chạy. Chúng sinh nào có bảy phần tình và ba phần tưởng
sẽ bị đọa làm thân Ngạ Quỉ, thường chịu nóng bức đói khát trải qua trăm
ngàn kiếp dài lâu. Chúng sinh nào có chín phần tình và một phần tưởng,
thì sẽ bị đọa vào Địa Ngục. Nhẹ thì vào nơi địa ngục hữu gián, nặng thì
sẽ đọa vào ngục Đại A Tỳ. Nếu ngoài cái tâm thuần tình ấy, còn kiêm thêm
các trọng tội như hủy cấm giới của Phật, khinh báng Đại Thừa, thuyết
pháp sai lầm, đắm tham của tín thí, lạm thọ sự cung kính, và phạm vào
thập ác ngũ nghịch, thì sẽ chiêu cảm quả báo luân chuyển sinh về các
ngục Vô Gián ở khắp mười phương.
Này
DIỆU NGUYỆT
cư sĩ! Trong thời kỳ chính pháp diệt tận, chúng sinh nơi cõi Diêm Phù Đề
tình nhiều tưởng ít, tâm địa bỏn sẻn, tham lam ghét ganh, các căn lành,
phước báu kém cỏi. Lúc sinh tiền thọ nhận đủ loại nghiệp dữ, sau khi
mạng chung sẽ gặt các quả báo đau khổ trong ba nẻo ác dữ với hạn kỳ lâu
dài. Vì thế mà chư Phật khắp mười phương xót thương vô cùng, luôn luôn
tìm cách bạt trừ khổ não cho các hạng chúng sinh kia.
Các Đức Như Lai
hiện ra nơi đời, mục tiêu chân chính là không chỉ tuyên dương diệu Pháp
bí áo sâu xa cho những bậc Thánh giả, hiền nhân – mà mục tiêu khẩn
yếu nhất vẫn là nhằm cứu vớt các loại chúng sinh tội khổ, nặng về tình
nhẹ về tưởng.
Chư Phật đã
dùng Phật nhãn quán sát khắp mười phương, thấy rõ nghiệp lực chúng sinh
lành dữ không đồng đều, thấy thân tướng và, cảnh giới của chúng sinh xấu
tốt có sai biệt. Nhưng điểm sinh khởi chẳng rời sát na tâm sinh diệt,
chỗ hội qui cũng không rời sát na tâm sinh diệt. Muốn hàng phục và
chuyển biến cái sát na tâm sinh diệt ấy, thì không có pháp nào hơn, pháp
NIỆM PHẬT.
DIỆU NGUYỆT
cư sĩ, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào đủ lòng tin, thì chỉ cần
chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ
PHẬT, suốt
cả sáu thời trong ngày và giữ trọn đời không thay đổi, thì hiện tiền
chiêu cảm được y báo, và chính báo của Phật
A DI ĐÀ
ở cõi Cực Lạc. Lúc
lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm nối liền nhau, lập tức vào Phổ
Đẳng Tam Muội của Đức
A DI ĐÀ, được Phật tiếp dẫn về tịnh độ Tây phương. Vĩnh
viễn xa lìa các đường ác, không còn luân hồi sinh tử. Đó gọi là quả vị
Bất Thối Chuyển. Từ lúc ấy nhẫn nại về sau, vượt qua thập địa, chứng Vô
Thượng Giác.
DIỆU NGUYỆT
nên biết, đây thật
là pháp vi diệu thù thắng đệ nhất, mà chư Phật dùng để cứu độ
khắp hết thảy chúng sinh. Đây thật là môn tu thích đáng khế hợp mọi căn
cơ mà chư Phật dùng để đưa hết thảy muôn loài xa rời nẻo khổ, chứng đắc
Niết Bàn tại thế, thành Phật trong một đời. Đây là môn tu đại oai lực,
đại phước đức mà chư Phật giúp chúng sinh vượt thắng thân phàm phu, mà
thâm nhập cảnh giới chơn thường.
Đây là môn tu
đại bát nhã đại thiền định, mà chư Phật dùng làm thuyền bè đưa
hết thảy chúng sinh qua thấu bờ bên kia, không còn sinh, già, bịnh,
chết, hoàn toàn hưởng dụng pháp lạc. Đây là môn tu đại trang nghiêm
đại thanh tịnh, mà chư Phật dùng để đưa hết thảy chúng sinh vào giới
luật, nhiếp chúng sinh vào oai nghi, an ổn khoái lạc. Đây là một môn tu
đại nhu hòa đại nhẫn nhục, mà chư Phật giúp hết thảy chúng sinh tự tại
giữa khổ vô thường mà thành tựu Tri Kiến Phật.
Đây là môn tu
đại Bồ Đề đại siêu việt, mà chư Phật dùng làm cứu cánh để giúp
hết thảy chúng sinh thành Phật như Phật ngay trong một kiếp. Đây là môn
tu đại từ bi đại dũng mãnh, mà chư Phật dùng để giúp chúng sinh
có được cái TÂM
bằng TÂM
chư Phật, có được
cái NGUYỆN
bằng NGUYỆN
chư Phật, mau chóng vượt qua địa vị phàm phu và tự chứng Pháp Thân từng
phần.
Lại nữa trong
quá khứ vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nhẫn lại đến nay, chư Phật cũng
chỉ dùng một pháp NIỆM
PHẬT này để độ khắp chúng sinh. Trong hiện tại cũng có
Vô lượng vô biên hằng hà sa chư Phật ở mười phương cũng đang thuyết
giảng giáo nghĩa NIỆM
PHẬT này để
rộng cứu vớt chúng sinh.
Trong đời vị
lai, tất cả chư Phật nếu muốn cứu vớt hết mọi chúng sinh, thì cũng phải
do nơi pháp NIỆM PHẬT này. Do đó mà Như Lai bảo rằng: Niệm Phật là
VUA
của tất cả các pháp.
Này Diệu Nguyệt
cư sĩ, hãy một lòng tin nhận lời dạy của Như Lai, hãy ghi nhớ kỹ lời dạy
của Như Lai. Hãy thực hành theo lời dạy của Như Lai, và hãy chứng đắc
pháp nhẫn tối tôn tối diệu đệ nhất này mà Như Lai đã ban cho. Vì sao
vậy? Vì pháp của Như Lai là chân thật, là giải thoát, là an vui là thuận
theo sở cầu nguyện của mọi chúng sinh. Vì pháp của Như Lai là vắng lặng,
không dính mắc, vô cấu nhiễm, thuận theo tình và tưởng của chúng sinh mà
vẫn giúp chúng sinh thành tựu địa vị Phật Đà, không bị hư hoại, cho nên
chẳng cần phải chán ghét lìa bỏ thế gian, ở trong chỗ ràng buộc mà tâm
vẫn tự tại, thọ dụng pháp lạc. Và sau khi lâm chung được sinh về cõi
PHẬT A DI ĐÀ.
PHẨM THỨ HAI
MƯỜI TÂM
THÙ THẮNG
Bấy giờ, Đức
NHƯ LAI hiện ở trong đôi môi đẹp như trái tần bà phóng ra
luồng hào quang rực rỡ, chói chang gọi là
THÀNH TỰU THỌ QUANG THẾ TƯỚNG
QUANG MINH.
Với trăm ngàn ức a
tăng kỳ quang minh làm quyến thuộc. Chiếu soi mười phương tất cả thế
giới tận hư không vô biên tế, vô chướng ngại. Hiển hiện Như Lai các thứ
tự tại, khai ngộ vô lượng những chúng Bồ Tát, chấn động hằng hà sa quốc
độ, diệt trừ mọi thống khổ của chúng sinh, phá tan các đường dữ, bủa che
tất cả cung điện của ma vương, phơi bày tất cả chư Như Lai giáng sinh,
xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, thuyết pháp Đại Thừa giáo hóa
chúng sinh nhẫn đến thị hiện Niết Bàn.
Trưởng Giả
DIỆU NGUYỆT
thấy Đức Thế Tôn hiển hiện thần biến quảng đại, khiến tất cả chúng hội,
chư đại Bồ Tát chư Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, chư Cận Sự Nam, Cận Sự Nữ cùng
hết thảy Trời, Rồng, Quỷ, Thần v.v… đều sinh lòng hoan hỷ chẳng thể nghĩ
bàn. DIỆU NGUYỆT
bèn cởi xâu
chuỗi ngọc báu nơi cổ mình mà cúng dường nơi chân Phật, đảnh lễ Đức
Phật, và nói kệ khen ngợi như vầy:
Lành thay
Đức Thế Tôn
Con được làm
thân người
Lại được nghe
mật pháp
Của chư Phật ba
đời
Thế Tôn là tối
thắng
Sư Tử trong
dòng Thích
Thật là Đại Y
Vương
Đủ phương thuốc
nhiệm mầu
Dứt hẳn khổ
sinh tử
Giúp hết thảy
chúng sinh
Xa rời ba đường
ác
Chứng cái vui
Niết Bàn
Nơi cõi Phật
thanh tịnh
Nay con chuyên
một lòng
Luôn xưng niệm
danh hiệu
Đức Phật A Di
Đà
Nguyện cùng các
chúng sinh
Vãng sinh nước
CỰC LẠC!
Trưởng Giả
DIỆU NGUYỆT
lại quán sát tâm niệm của đại chúng, chư vị Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Cận Sự
Nam, Cận Sự Nữ và Trời, Rồng, Quỉ, Thần. Biết tâm niệm của đại chúng vẫn
còn nghi ngờ, chưa hiểu thấu lời dạy của Như Lai, nên đi đến trước Phật,
chắp tay cung kính thưa.
- Bạch Đức Thế
Tôn, nay con do nơi năng lực vĩ đại của Bản Nguyện
PHẬT A DI ĐÀ
mà được tham dự pháp hội này, được đích thân nhận lãnh lời giáo huấn của
Như Lai. Cho nên, con sẵn sàng đặt trọn tín tâm nơi
NHƯ LAI,
nơi giáo pháp vi diệu, hi hữu này. Nhưng, các chúng sinh vào thời kỳ
chính pháp diệt tận, thì căn lành cạn mỏng, phúc đức thiếu kém, tri kiến
bị si mê che lấp, kinh điển tuy còn sót ít nhiều nhưng chẳng có ai hiểu
đúng như lời Phật dạy. Do đó làm sao tin nhận giáo nghĩa uyên áo, bí mật
này để thẳng bước tiến tu, mau thành Phật Trí.
Hôm nay, con
phụng vì hiện tiền đại chúng cũng như tất cả thiện nam, tín nữ trong
thời vị lai, mà khẩn cầu Đức Thế Tôn giải thích cho chúng con được rõ.
Bạch Đức Thế
Tôn, con thường tin và nghĩ rằng: niệm Phật tức là thành Phật ngay trong
đời này. Thế thì tại sao hôm nay Đức Thế Tôn lại ân cần khuyên bảo chúng
con phải Phát nguyện vãng sinh Cực Lạc quốc độ ở Tây Phương?
Khi ấy, Đức
THÍCH CA mỉm cười, giơ cao cánh tay hữu, lấy bàn tay xoa
trên đỉnh đầu của Trưởng Giả
DIỆU NGUYỆT, mà nói lời này:
- Hay thay! Hay
thay! Diệu Nguyệt cư sĩ, đây là pháp khó tin khó hiểu bậc nhất, mà Như
Lai chưa từng nói. Đây là pháp tối thượng Nhất Thừa, chứa đựng vô lượng
vô biên ý nghĩa vi diệu, mà Như Lai đợi đến đúng lúc đúng thời mới ban
cho, tựa như Hoa Ưu Đàm Bát La mấy muôn ngàn năm mới nở một lần. Đây là
Tạng Pháp Bí Mật của chư Phật ba đời, ví như viên bảo châu trên búi tóc
Luân Vương không thể khinh suất trao cho người khác. Mà Như Lai chỉ
truyền giao cho bất cứ chúng sinh nào quyết chí hoàn thành địa vị Thiên
Nhân Sư, tiếp nối hạt giống Bồ Đề.
Này Diệu Nguyệt
cư sĩ, nay ta dùng cặp mắt toàn giác để quán sát Tâm hiện tiền của chúng
sinh, thì thấy rõ bản chất của cái Tâm ấy gọi là
TÂM THỂ,
Tâm Thể ấy vốn không có hình dáng, tướng mạo, không có sắc chất, không
dài, không ngắn, không quá khứ, không hiện tại, không vị lai. Không dữ
không lành, không sinh không diệt, cũng chẳng phi sinh diệt. Tâm thể ấy
luôn luôn xa rời tất cả luận giải của thế gian. Do vì Tâm Thể nhơ bẩn mà
chúng sinh mãi luân chuyển trong ba cõi, sáu đường, đời đời chịu khổ. Do
vì Tâm Thể ấy trở nên thanh tịnh, mà chúng sinh được thành tựu
GIỚI, ĐỊNH, TUỆ, Giải Thoát,
GIẢI THOÁT TRI KIẾN,
đắc quả A LA HÁN…
nhẫn đến địa vị Phật Đà.
Bởi duyên với
các pháp ác, mà Tâm Thể ấy tạo ra cảnh giới địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh,
trời, người, a tu la nhẫn đến chìm nỗâi triền miên bất tận nơi những cõi
khổ khắp mười phương. Bởi duyên với các pháp lành, mà Tâm Thể ấy tạo ra
cảnh giới Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền v.v…
Lại nữa, do
vọng niệm tương tục nối nhau không dứt, mà biến hiện đủ loại hình tướng,
sắc thân, thọ mạng, ẩm thực, quyến thuộc, phiền não, để hưởng dụng trong
các cảnh giới kia. Hoặc cam chịu những quả báo khổ lạc do những nhân tố
sai biệt. Đời đời như thế mãi, chưa lúc nào tạm ngưng nghỉ.
Này
DIỆU NGUYỆT
cư sĩ, nên biết rằng Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
chính là Pháp Thân Viên Mãn Chu Biến Nhất Thiết Xứ, là Phật
tánh
thậm thâm có đầy đủ mọi năng lực vô úy bất khả tư nghị, có đầy đủ diệu
dụng vô ngại bất tư nghị. Là cứu cánh siêu việt tối thượng, có đầy đủ
năng lực bất khả thuyết, bất khả xưng tán, để chuyển hóa Vô Minh thành
ra Giác Ngộ, Sinh Tử thành Niết Bàn. Là phương tiện vi diệu bậc nhất,
thường cải biến hết thảy sở y và sở hành của mọi chúng sinh, đưa tất cả
tướng trạng hữu lậu, trói buộc, trở về với bản tánh Vô Lậu, Giải Thoát.
Cho nên, nếu
chúng sinh nào đem Tâm Thể của mình mà duyên với Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
thì Tâm Thể của người ấy dần dần trở nên Vô Cấu Nhiễm, dần dần phát sinh
vô lượng vô biên đức tướng
NHƯ LAI. Do vậy tự nhiên thấy mình ở trong thế giới Cực
Lạc trang nghiêm, thù thắng. Cùng một lúc, cái niệm tưởng
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
sẽ phát khởi thân lượng, oai nghi, tướng hảo và quang minh của Đức
A DI ĐÀ
cùng chư vị Thánh
chúng.
Này Diệu Nguyệt
cư sĩ, người ở nơi ý nghĩa ấy phải nên hiểu rõ như thế!
Pháp môn
NIỆM PHẬT
chính là chuyển biến cái Tâm Thể của chúng sinh, bằng cách không để cho
Tâm Thể ấy duyên với vọng niệm, với lục trần là sắc, thanh, hương, vị,
xúc và pháp, với huyễn cảnh, với trí lực, với kiến chấp, với mong cầu,
với thức phân biệt… v.v... Mà chỉ đem Tâm Thể ấy duyên mãi với Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
Không bao lâu, người niệm Phật tự nhiên đi vào chỗ vắng lặng, sáng suốt,
an lạc cảm ứng với nguyện lực củaĐức
A DI ĐÀ, thấy mình sinh vào cõi nước Cực Lạc, thân mình
ngồi trên tòa sen báu, nghe Phật và Bồ Tát nói pháp, hoặc thấy Phật lấy
tay xoa đỉnh…
Lại nữa, Diệu
Nguyệt, nếu có chúng sinh nào chí thành xưng niệm Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
thì uy lực bất khả tư nghị của Danh Hiệu khiến cho Tâm Thể thanh tịnh mà
chúng sinh ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng nhập
SƠ PHẦN PHÁP THÂN,
âm thầm ứng hợp với BI
TRÍ TRANG NGHIÊM
của Phật – nhưng
chưa thể đắc Tam minh, Lục thông, vô lượng Đà Ra Ni, vô lượng Tam Muội,
nhẫn đến chưa thể đắc Nhất Thiết Chủng Trí, chẳng thể đồng đẳng với chư
Phật được mà chỉ thành tựu bước đầu tiên trên lộ trình Như Thật Đạo.
Thí dụ như làm
gạch để xây nhà vậy. Tuy đã nhào trộn đất sét, bỏ vô khuôn và đã đúc ra
hình dạng của viên gạch. Nhưng muốn viên gạch được bền lâu, chắc chắn,
không hư rã, chịu được nóng chói mưa sa, thì cần phải đưa vào lò lửa
nung đốt một hạn kỳ. Người
NIỆM PHẬT
cũng lại như thế. Tuy công phu niệm Phật trong hiện
kiếp đã đặt nền tảng vững vàng cho sự nghiệp giải thoát, nhưng sau đó
phải vãng sinh Tịnh Độ, lãnh thọ sự giáo hóa của Phật và Thánh Chúng cho
tới khi thành tựu Vô Sinh Pháp Nhẫn. Sau đó, mới đủ năng lực hiện thân
khắp mười phương, hành Bồ Tát Đạo, ra vào sinh tử mà không trói buộc,
trở lại chốn ác Trược mà chẳng nhiễm ô, cứu độ chúng sinh không có hạn
lượng.
Thí dụ như việc
khắc họa hình tượng. Tuy đã dùng gỗ tốt đẽo gọt lâu ngày và tạo nên hình
dáng con người. Nhưng phải bỏ ra một thời gian lâu xa để chạm trổ thêm
mắt, tai, miệng, nét mặt, nếp nhăn, dáng vẻ, bộ tịch, thần sắc… Người
niệm Phật cũng lại như thế. Tuy đã phát khởi tín tâm dũng mãnh, và công
phu không gián đoạn, bê trễ, nhưng nếu tái sinh cõi Ta Bà thì vẫn bị
luân chuyển vì Định Tuệ còn non kém, quả đức chưa hoàn mãn. Cần phải
vãng sinh Cực Lạc thế giới, cận kề Phật và Thánh chúng, thành tựu vô
lượng Ba la mật thâm nhập Tam Muội tổng trì môn, phát hoằng thệ nguyện
đi khắp mười phương giáo hóa vô số chúng sinh. Không lâu lấy cỏ rải nơi
Bồ Đề đạo tràng, hàng phục ma quân, thành Đẳng Chính Giác, chuyển pháp
luân vô thượng.
Diệu Nguyệt cư
sĩ, nên biết rằng: Được vãng sinh Cực Lạc thì không bao giờ trở lại địa
vị phàm phu với thân xác ngũ uẩn nữa. Do đó, mới gọi là Bất Thối Chuyển.
Từ đó về sau, dần dần thành tựu mười thứ Trí Lực, mười tám pháp Bất
Cộng, năm nhãn, sáu thông, vô lượng Đà Ra Ni, vô số Tam Muội, thần thông
du hí, biện tài vô ngại… đầy đủ bao nhiêu công đức vô lậu của đại Bồ
Tát, cho đến khi đắc quả Phật. Bởi vậy mà Ta, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn
hôm nay trân trọng xác quyết rằng: Vãng Sinh đồng ý nghĩa với Thành
Phật, vì VÃNG SINH TỨC
LÀ THÀNH PHẬT.
Muốn vãng sinh
Cực Lạc chỉ cần xưng niệm Danh Hiệu Phật là đủ. Vì Danh Hiệu chính là
biểu tướng của PHÁP
THÂN cho nên niệm Danh Hiệu tức là niệm Pháp Thân Phật
vậy. Và người niệm Phật khỏi phải kiêm thêm bất cứ môn tu nào nữa. Vì
ngay nơi Danh Hiệu NAM
MÔ A DI ĐÀ PHẬT
luôn luôn chứa đựng vô lượng vô biên công đức, vô
lượng vô biên diệu dụng, vô lượng vô biên quang minh, tướng hảo, uy lực…
không thể nghĩ bàn.
DIỆU NGUYỆT
Trưởng Giả lại thưa rằng:
- Bạch Đức Thế
Tôn, tuy con đã thấu triệt nghĩa lý thâm diệu của phép Niệm Phật, nhưng
vẫn khẩn cầu Đức Thế Tôn thương xót mà rộng chỉ bày thêm, để hết thảy
chúng sinh nơi đời vị lai được mọi điều lợi ích.
Bạch Đức Thế
Tôn, phải niệm Phật như thế nào mới gọi là đắc pháp? Phải dấy khởi những
tâm thái nào mà tu tập mới được vãng sinh Cực Lạc?
Đức Phật dạy
rằng:
- Này
DIỆU NGUYỆT
cư sĩ, thế nào là NIỆM
PHẬT CHÂN CHÍNH?
Muốn niệm Phật đúng pháp và tự biết mình chắc chắn vãng sinh, thì người
niệm Phật phải phát khởi
MƯỜI THỨ TÂM THÙ THẮNG
sau đây: Thứ nhất là
TÍN TÂM, thứ hai là
THÂM TRỌNG TÂM,
thứ ba là HỒI HƯỚNG
PHÁT NGUYỆN TÂM,
thứ tư là XẢ LY TÂM, thứ năm là
AN ỔN TÂM, thứ sáu là
ĐÀ RI NI TÂM,
thứ bảy là HỘ GIỚI TÂM,
thứ tám là BA LA MẬT
TÂM, thứ
chín là BÌNH ĐẲNG TÂM,
thứ mười là PHỔ HIỀN
TÂM.
1- Thế nào gọi
TÍN TÂM?
Này Diệu
Nguyệt, TÍN TÂM
nghĩa là Lòng Tin Chân Thật, tha thiết, bền vững.
Là nhân tố quyết định thành Phật, là nhân tố quyết định thâm nhập cảnh
giới đại thừa. Bởi vì sao? Vì lòng tin là mẹ đẻ của tất cả công đức vô
lậu, lòng tin là cửa ngõ nhiệm mầu đưa chúng sinh về nơi kho báu Phật
Pháp, cho nên, việc trưởng dưỡng Tín Căn vẫn là điều thiết yếu nhất
trong hết thảy mọi môn tu.
Trước hết là phải đặt trọn
lòng tin chân thật vào LÝ NHÂN QUẢ một cách sâu chắc, kiên cố, và không
hề nảy sinh một ý tưởng hoặc một hành vi trái ngược với Lý Nhân Quả.
Phải thấy hoạt dụng của Lý Nhân Quả dung thông Ba Đời, đó là Quá Khứ,
Hiện Tại, Vị Lai rõ ràng như những đường kẻ dọc ngang trên lòng bàn tay.
Tin rằng kiếp sống thế
gian là Vô Thường, mạng người ngắn ngủi như hơi thở ra vào, tất cả các
pháp hữu vi đều là huyễn hóa, không có chủ tể, niệm niệm sinh diệt không
ngừng, từng sát na biến hoại chẳng nghỉ, tất cả đều đưa tới khổ não, vô
minh và trói buộc.
Tin rằng sáu nẻo luân hồi
thật là nguy hiểm chướng nạn, sơ sẩy chỉ trong ý niệm cũng đủ đưa, chúng
sinh trầm luân cả nghìn muôn ức kiếp. Một lần sa lạc vào ba đường dữ thì
không biết đến lúc nào mới thoát khỏi.
Tin
rằng Phật Pháp chính là đạo giải thoát an vui, đạo của Trí Tuệ, đạo của
Từ Bi, đạo diệt khổ, đạo cứu vớt chúng sinh chẳng chừa một hạng loại nào
cả, đạo của PHẬT TRI
KIẾN, có đủ
phương thuốc nhiệm mầu trừ diệt tất cả các thứ bịnh tật của chúng sinh.
Tin rằng Tam Bảo là chỗ về nương của muôn loài, là ngọn đèn phá tan mọi
hắc ám, là con thuyền đưa chúng sinh qua thấu bờ bên kia.
Tin rằng tất cả
các pháp đều do Tâm Thể của mình tạo ra. Từ ba đời mười phương chư Phật
nhẫn đến tứ Thánh, lục phàm, đều do cái Tâm Thể lưu xuất và biến hiện.
Tin rằng cõi Cực Lạc cũng chỉ do Tâm Thể thanh tịnh của chúng sinh tạo
ra, cùng tương ứng với Bản Nguyện Vĩ Đại của Phật, Bồ Tát, Thánh Chúng.
Và tin rằng, Đức A DI
ĐÀ chỉ là
do sự niệm tưởng Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
phát khởi nên.
Tin rằng mỗi
mỗi chúng sinh đều có đủ năng lực lãnh thọ giáo pháp Như Lai, bất cứ hữu
tình nào cũng có năng lực hoàn thành địa vị Nhất Thiết Chủng Trí như chư
Phật.
Tin rằng Bản
Nguyện của Phật A Di Đà là chân thật, rốt ráo là tối thắng. Và Ngài
không hề bỏ sót một chúng sinh nào cả, dù kẻ ấy phạm vào ngũ nghịch,
thập ác v.v…
Tin rằng pháp
NIỆM PHẬT VÃNG SINH
là môn tu duy nhất cho hết thảy mọi người, vì rời môn tu này thì mọi
người mọi loài không thể giải thoát, nếu phế bỏ môn tu này thì chư Phật
cũng không thể dùng một pháp nào khác để tế độ hết thảy Hữu tình đúng
như bản thệ đúng như Bản Nguyện.
Diệu Nguyệt
phải phát khởi Tín Tâm như vậy mà niệm Phật.
2- Thế nào gọi là
THÂM
TRỌNG TÂM?
Này Diệu
Nguyệt, THÂM TRỌNG TÂM
nghĩa là
đem tấm lòng sâu xa và cẩn trọng mà cảm mộ ân đức của Tam Bảo tưởng nhớ
công lao của Cha Mẹ, Thiện Tri Thức và của hết thảy chúng sinh.
Trong quá khứ vô lượng vô
biên na do tha vi trần kiếp chư Phật vì thương xót chúng sinh mà xả bỏ
đầu, mắt, tay, chân, thân mạng, tài sản, quyến thuộc… để tìm cầu chánh
pháp, tu Bồ Tát Đạo, giáo hóa muôn loài, làm cho ai nấy đều được lợi
ích. Đời đời kiếp kiếp, chư Phật hằng theo dõi và thương tưởng đến mỗi
một chúng sinh, luôn luôn tìm cách nhổ bạt gốc rễ tham ái, đập tan gông
cùm sinh tử, làm khô cạn biển khổ vô minh, mãi phát tâm quảng đại, tâm
kim cang, tâm vô phân biệt mà rọi sáng lối về cho mọi hữu tình. Vì thế
mà người niệm Phật phải phát khởi cái tâm chí sâu xa và cẩn trọng để
tưởng niệm, cảm mộ ân đức ấy.
Nhưng chư Phật muốn tế độ
tất cả chúng sinh, thì cũng phải lấy Chánh Pháp làm phương thuốc hữu
hiệu trị dứt chứng bịnh tham ái, dùng Chánh Pháp làm thuyền bè đưa chúng
sinh qua thấy bến bờ giác ngộ, dùng Chánh pháp làm tuệ kiếm chặt đứt mọi
trăn trối phiền não, làm ngọn đuốc dẫn dắt ra khỏi đêm dài vô minh, làm
chất đề hồ chữa lành mọi thứ Sinh, Già, Bịnh, Chết, Ưu, Bi, Khổ, Não,
dùng Chánh Pháp làm Đôi Mắt cho chúng sinh nhìn rõ Thật Tướng.
Người niệm Phật
phải biết cảm mộ ân đức cao dày của Chánh Pháp, phải luôn luôn báo đáp
ân đức ấy bằng cách đọc tụng kinh điển Đại Thừa và giảng nói cho kẻ
khác, khuyên bảo mọi người quy y, bố thí, trì giới, thiền định. Khiến
sao cho chánh pháp được lưu hành rộng khắp nhân gian, ai nấy hưởng dụng
cam lồ vị.
Dù đã phát
nguyện quy y Tam Bảo, nhưng người trực tiếp khai sinh tánh mạng tuệ giác
ở nơi ta, chính là
THIỆN TRI THỨC,
gồm có Thánh Tăng, Phàm Tăng, Sư Trưởng và các bạn đồng tu đồng học.
Thiện Trí Thức
là cửa ngõ xu hướng nhất thiết trí, và làm cho chúng sinh đi vào Như
Thật Đạo. Thiện Tri Thức là cỗ xe xu hướng nhất thiết trí, vì đưa tất cả
chúng sanh tới Như Lai Địa, Thiện Tri Thức là thuyền bè xu hướng nhất
thiết trí vì vận chuyển tất cả chúng sinh đến bờ giác. Thiện Tri Thức là
ngọn đèn xu hướng nhất thiết trí, vì khiến chúng sinh có được ánh sáng
Phật Tri Kiến. Thiện Tri Thức là con đường xu hướng nhất thiết trí, vì
dẫn dắt chúng sinh vào cửa thành Niết Bàn. Thiện Tri Thức là cây đuốc xu
hướng nhất thiết trí vì làm cho chúng sinh thấy rõ con đường yên lành
hay hiểm trở. Thiện Tri Thức là chiếc cầu xu hướng nhất thiết trí vì
tiễn đưa chúng sinh qua khỏi chỗ hiểm ác. Thiện Trí Thức là lọng che xu
hướng nhất thiết trí, vì làm cho chúng sinh che núp dưới bóng râm đại từ
mát mẻ. Thiện Trí Thức là Cặp Mắt xu hướng nhất thiết trí, vì khiến
chúng sinh nhận rõ Pháp Tánh. Thiện Trí Thức là thủy triều xu hướng nhất
thiết trí vì làm cho chúng sinh đầy đủ nước Đại Bi.
Kế đó, là ân
đức của Cha Mẹ chín tháng cưu mang, nhường khô nằm ướt, nuốt đắng nhổ
ngọt, quần áo chăn màn nuôi con khôn lớn, suốt đời tận tụy, đến chết
chưa nguôi. Và cuối cùng là ân đức của chúng sinh, cung ứng ẩm thực, y
dược tọa cụ, văn tự, tri kiến, bảo hộ… Do vậy, người niệm Phật, phải lấy
tâm chí sâu xa, cẩn trọng mà cảm mộ ân đức Thiện Tri Thức, Cha Mẹ, Chúng
Sinh v.v… Nhờ vậy mà từ bi dần dần nẩy nở ngọn lửa trí tuệ từ từ bừng
cháy, môn tu NIỆM PHẬT
mới dễ dàng thành tựu.
3- Thế nào gọi
là HỒI HƯỚNG PHÁT
NGUYỆN TÂM?
Này
Diệu Nguyệt, Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm nghĩa là dấy động cái Tâm Chí như
thế này; không riêng vì bản thân, mà cầu xuất ly Ta bà loạn trược, khổ
não. Trái lại, phải nguyện vì hết thảy chúng sinh khắp ba cõi sáu đường
mà cầu vãng sinh Cực Lạc, chóng thành tựu Phật Đạo để tế độ quần mê. Tại
sao vậy? Vì muốn có cái quả đức siêu việt tối thượng thì phải phát khởi
cái tâm chí quảng đại, dũng mãnh. Người niệm Phật nếu đem cái tâm thái
hời hợt, hẹp hòi kém cõi mà chỉ riêng vì bản thân giải thoát, thì chẳng
bao lâu sẽ chiêu cảm cái quả báo nhỏ bé, nông cạn, tầm thường. Không
xứng hợp với Bản Hoài chư Phật, chẳng tương ứng cùng Bản Nguyện vĩ đại
Bi Trí Viên Mãn của Phật A Di Đà. Cho nên khó được tiếp dẫn về nơi cõi
nước Tây phương.
Lại nữa, người
niệm Phật còn phải đem tất cả công đức thực hành sáu ba la mật, bốn
nhiếp pháp, bốn vô lượng tâm hoặc ba mươi bảy phẩm trợ đạo… mà hồi hướng
khắp anh em, cha mẹ, bằng hữu, chư Thiên, chư Tiên, bốn loại chúng sinh
kẻ oán người thân đều được an trụ trong hồng danh
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
4- Thế nào gọi
XẢ LY TÂM?
Này Diệu
Nguyệt, người niệm Phật trong khi xưng niệm danh hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
phải phát khởi cái Tâm thái lìa bỏ tất cả. Sao gọi là Lìa bỏ?
LÌA BỎ
nghĩa là không trụ
tướng mà niệm Phật, không dính mắc mà niệm Phật, không nắm giữ mà niệm
Phật, không tương ưng mà niệm Phật, không đối đãi mà niệm Phật, không
chống trái mà niệm Phật, không cầu mong mà niệm Phật, không nhiễm duyên
mà niệm Phật như thế gọi là
LÌA BỎ.
Người niệm Phật
chỉ buộc tâm và ý vào danh hiệu Phật, chăm chú lắng nghe, mỗi câu rõ
ràng, mỗi niệm phân minh. Quên cả thân, quên cả cảnh, quên cả cái ý thức
tự biết TA
đang niệm Phật.
Như thế mới gọi là LÌA
BỎ.
Lìa bỏ Khổ,
Tập, Diệt, Đạo mà niệm Phật.
Lìa bỏ Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà niệm Phật.
Lìa bỏ, Bố Thí,
Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tiến, Thiền Định, Trí Tuệ mà niệm Phật.
Lìa bỏ Tín
Giải, Hành Chứng mà niệm Phật.
Lìa bỏ Từ Bi,
Hỷ Xả mà niệm Phật.
Lìa bỏ Không,
Vô Thường, Vô Ngã mà niệm Phật.
Lìa bỏ Bồ Đề,
Niết Bàn, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến mà niệm Phật.
Lìa bỏ tất cả
các pháp hữu vi, tất cả các pháp vô vi mà niệm Phật.
Lìa bỏ Ngã và
Ngã sở.
Lìa bỏ luôn cả
ý tưởng cầu mong vãng sinh, chí nguyện độ sinh, ý hướng thành Phật mà
niệm Phật.
Niệm Phật với
tâm Xả. Ly như thế, mới được gọi là chân chính niệm Phật.
5- Thế nào gọi
là AN ỔN TÂM
?
Này Diệu
Nguyệt, người niệm Phật trong khi xưng niệm danh hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
phải phát khởi tâm chí bất động, kiên cố, không thối chuyển. Do đó gọi
là An Ổn Tâm.
Mình an trụ nơi
Bồ Đề tâm, cũng phải giúp người khác an trụ Bồ Đề tâm, nên tâm được an
ổn.. Mình rốt ráo, xa rời giận hờn tranh cãi, cũng phải khiến người khác
nhẫn nhục nhu hòa nên tâm được an ổn. Mình buông bỏ pháp phàm ngu điên
đảo, cũng phải đưa người khác tới địa vị Thánh giả siêu việt nên tâm
được an ổn. Mình siêng tu thiện căn vô lậu thú hướng Niết Bàn, cũng phải
khiến người khác hủy diệt hết mạng lưới hữu lậu trói buộc, nên tâm được
an ổn.
Mình đang sinh
ra tại nhà Phật, cũng phải dẫn dắt người khác vượt thoát hố hầm dục lạc
trở về bảo sở, nên tâm được an ổn. Mình thâm nhập pháp chân thật không
tự tính, cũng nên giúp người khác chê chán huyễn tướng lầm mê, nên tâm
được an ổn. Mình cảm ứng Trí Tạng vô tận của chư Như Lai, cũng khiến
người khác thâm nhập Pháp Giới Bình Đẳng, nên tâm được an ổn.
Niệm Phật với
tâm thái an ổn như vậy, mới gọi là chân chính niệm Phật.
6- Thế nào gọi
là ĐÀ RA NI TÂM?
Này Diệu
Nguyệt! Người niệm Phật phải phát khởi tâm chí nắm giữ tất cả các thiện
pháp, đồng thời che lấp tất cả các ác pháp. Đó gọi là Đà Ra Ni Tâm. Như
là:
Tín Tâm Đà Ra
Ni, vì đặt trọn lòng tin thuần phác, trong suốt, nơi Bản Nguyện của Đức
Phật A DI ĐÀ
cùng sự hộ niệm của chư Phật ở mười phương.
Chánh Kiến Đà
Ra Ni, vì đúng như thật quán sát khéo léo tất cả các pháp đang diễn biến
trong tâm và ngoài thân.
Tư
duy Đà Ra Ni, vì thường xuyên thấu triệt thể tánh của tất cả các pháp
sinh khởi trong từng sát na hoại diệt.
Cảm ứng Đà Ra
Ni, vì luôn luôn thâm nhập tất cả Bản Nguyện chư Phật.
Hỷ
Lạc Đà Ra Ni, vì an trụ nơi lực tiếp dẫn chư Phật và Thánh chúng.
Tam Thế Đà Ra
Ni, vì tự tại an nhiên giữa cảnh tượng của nhân qủa tương tục trong ba
đời, cũng như thông suốt nghĩa lý Phật pháp của Tam thế chư Phật.
TAM MUỘI
Đà Ra Ni, vì an trụ trong Danh Hiệu Bất tư nghị nên nghe thấy điều phi
pháp mà tâm chẳng loạn, sống nơi cảnh loạn trược mà không trôi lăn.
Niệm Phật với ĐÀ RA NI như vậy, mới được gọi là chân chính niệm Phật.
7- Thế nào gọi
là HỘ GIỚI TÂM?
Này Diệu Nguyệt! Người niệm Phật phải luôn luôn an
trụ nơi Giới Luật, và hằng phát tâm hộ trì Giới Luật. Ấy là:
GIỚI
chẳng bỏ Bồ Đề tâm, chẳng quên Bồ Đề nguyện.
GIỚI
tự nhiên xa lìa các phép học của Thanh Văn, Duyên Giác. Không tham đắm
Niết Bàn vắng lặng mà bỏ rơi chúng sinh.
GIỚI
hân ngưỡng đại thừa, vui thích tu hành theo tất cả pháp học Bồ Tát Đạo.
GIỚI
đem hết thảy thiện căn hồi hướng quả vị Chính Đẳng Giác, mong cầu Phật
Trí, Vô Sư Trí.
GIỚI
nới tất cả Phật pháp vô sở đắc.
GIỚI
chẳng dính mắc tất cả thiện sự hữu vi.
GIỚI
khiến cho diệu pháp được tồn tại lâu dài, làm cho hết thảy chúng sinh an
trụ nơi Chính Kiến.
GIỚI
khéo léo tư duy tất cả hành nghiệp chúng sinh và khiến chúng sinh trưởng
dưỡng ý hướng giải thoát.
GIỚI
trang nghiêm tự tâm đồng thời trang nghiêm mười phương quốc độ của chư
Phật.
GIỚI
chư căn luật nghi, như Tỳ Khưu Giới, Bồ Tát Giới, Ngũ Giới tại gia v.v…
Niệm Phật với
tâm hộ trì các giới luật kể trên, mới được gọi là chân chính niệm Phật.
8- Thế nào gọi là
BA LA
MẬT TÂM?
Này Diệu
Nguyệt! Người niệm Phật phải phát động tâm chí tu trì những thứ Ba la
mật sau đây:
THÍ
Ba la mật, vì xả
bỏ tất cả sở hữu trong thân cũng như ngoài thân, không lẫn tiếc.
GIỚI
Ba la mật, vì thanh tịnh các cõi Phật.
NHẪN
Ba la mật, vì an trụ nơi lực dụng của Bản Nguyện.
TINH TẤN
Ba la mật, vì tất
cả chướng duyên chẳng có thể làm thối chuyển tín tâm.
THIỀN ĐỊNH
Ba la mật, vì chuyên nhất nhớ tưởng một Cõi Phật, một Danh Hiệu Phật.
BÁT NHÃ
Ba la mật, vì đúng như thật mà quán sát tất cả tướng trạng và thể tánh
của các pháp không rời nhau.
TÍN
Ba la mật, vì thường xuyên an trụ nơi Phật Lực bất tư nghị.
NGUYỆN
Ba la mật, vì đầy đủ những hạnh nguyện của
PHỔ HIỀN.
LỰC
Ba la mật, vì hân hoan thể hiện tất cả năng lực tự tại của Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
PHÁP Ba la mật, vì sẵn sàng xả thân cho Chánh Pháp, cho Bồ Tát Đạo.
Niệm Phật với
những thứ BA LA MẬT
ấy, mới
được gọi là chân chính niệm Phật.
9- Thế nào gọi là
BÌNH
ĐẲNG TÂM?
Này Diệu
Nguyệt, người niệm Phật phải luôn luôn thực hiện tâm thái bình đẳng,
không phân biệt, không ngăn ngại: Nghĩa là:
TỰ THA BÌNH ĐẲNG,
vì luôn mở rộng tuệ nhãn để nhận hiểu mình và người đều bình đẳng trước
lực nhiếp thọ của Chư Phật, chư Bồ Tát.
CHỦNG LOẠI BÌNH ĐẲNG,
vì thường quán sát mười phương thế giới các loại chúng sinh từ sắc thân,
hình trạng, tướng mạo, tộc tánh, thọ lượng, tri kiến, ý hành, sở y… mà
không khởi tâm phân biệt, đối đãi, ái thủ hoặc yếm hoạn.
CHÚNG SINH GIỚI BÌNH ĐẲNG,
vì liên tục mở bày pháp giới trí trụ vô động tế, mà tự tại giữa những
huyễn hóa biến dị của các loại hữu tình nơi ba cõi thế gian.
PHÁP GIỚI BÌNH ĐẲNG,
vì thường xuyên an trụ nơi vô tướng khép vào pháp tướng, không móng khởi
tâm sợ sệt trước thời gian vô cùng, không gian vô tận. Tự tại giữa một
sát na như vô lượng vô biên đại kiếp. An nhiên giữa các cực vi đầu sợi
lông, cũng như du hí mười phương trần sát hằng hà sa các quốc độ.
KHÔNG TÁNH BÌNH ĐẲNG,
vì luôn luôn ức niệm mình được sản sinh từ nhà Như Lai, được Tự Tánh
Thanh Tịnh Tạng, thấy rõ Nhất Thiết Pháp Không, đắc hư không hạnh vô
ngại, giải ngộ và cảm ứng Tánh Không Bình Đẳng nơi hết thảy tứ sinh cửu
hữu.
PHẬT ĐỘ BÌNH ĐẲNG,
vì hằng quán tưởng các cõi Thường Tịch Quang, Thật Báo Trang Nghiêm,
hoặc Phương Tiện Hữu Dư v.v… đều không ngăn ngại nhau, không riêng khác,
tuy an lập Hoa Tạng Thế Giới Hải mà chẳng rời Tự Tâm, thật tế trụ địa vô
phương sở, vô trụ xứ… tùy theo tâm lượng và sở nguyện của chúng sinh mà
hiển hiện. Như hoa đốm, như tiếng vang, như bọt sóng, như bóng nước, như
cầu vồng, như huyễn nhân kể chuyện mộng.
TÍN TÂM BÌNH ĐẲNG,
vì Tín Tâm vốn khởi nguyên từ Bát Nhã Đức, từ Trí Tạng Quảng Đại, từ Phổ
Nhãn Thanh Tịnh thông suốt cả ba đời, nên được thu nhiếp trong Bản
Nguyện vô lượng công đức, vô biên lực dụng của Chư Phật.
Niệm Phật với
những tâm bình đẳng nêu trên, mới được gọi là chân chính niệm Phật.
10- Thế nào gọi là
PHỔ
HIỀN TÂM?
PHỔ
nghĩa là không bỏ rơi chúng sinh
HIỀN
nghĩa là chẳng xa cách quả vị Chính Đẳng Giác.
PHỔ HIỀN TÂM
là tâm rộng lớn như hư không, luôn mong cầu độ thoát hết thảy chúng
sinh.
TÂM
vô biên như pháp tánh luôn hân ngưỡng thừa sự và cúng dường chư Phật.
TÂM
vô lượng, thọ trì tất cả Phật Pháp chẳng quên mất.
TÂM
vô hạn vì được Phật lực hộ trì nên chẳng bỏ
BỒ ĐỀ HẠNH.
TÂM
thí xả hết thảy, vì sẵn sàng buông lìa tất cả sở hữu dẫu là pháp vô sở
đắc.
TÂM
nghĩ nhớ đạo Nhất Thiết Trí, trước hết, vì ham thích mong cầu tất cả
Phật Pháp.
TÂM
vô tận công đức trang nghiêm vì học hỏi tất cả hạnh nguyện Bồ Tát.
TÂM
kiên cố như Kim Cang vì tất cả bạch tịnh pháp đều chảy vào.
TÂM
như Tu Di Sơn vì tất cả ác ngôn đều nhẫn thọ.
TÂM bát nhã ba la mật cứu cánh, vì khéo quán sát tất cả pháp
vô sở hữu.
TÂM
đại hùng đại lực để niệm Phật bất thối chuyển.
TÂM
đại uy nghi vô tận công đức trang nghiêm, vì tùy thuận Bản Nguyện Lực.
TÂM
vô cấu nhiễm thường thanh tịnh Phật quốc độ để thành tựu Vô Thượng Bồ
Đề.
TÂM
tinh tấn như tượng vương khéo điều phục dã thú, để sớm viên mãn hạnh
nguyện Phổ Hiền.
Người niệm Phật
siêng năng trưởng dưỡng
PHỔ HIỀN TÂM
như vậy, mới được gọi là
NIỆM PHẬT CHÂN CHÍNH,
thường được chư Phật hộ niệm, hiện đời luôn thấy Phật cùng y báo trang
nghiêm của cõi Cực Lạc.
PHẨM THỨ BA
NIỆM PHẬT CÔNG ĐỨC
Lúc bấy giờ,
ngài PHỔ HIỀN Bồ Tát liền nhập Nhất Thiết Phật Độ Thể Tánh Tam
Muội, tất cả Bồ Tát và đại chúng đều thấy thân mình ở trong thân của Phổ
Hiền Bồ Tát. Lại thấy rõ cõi nước Cực Lạc vô lượng vô biên sự trang
nghiêm, và tự nhiên thấy mình đang trụ trong cảnh giới vi diệu thù thắng
ấy. Thấy ĐỨC PHẬT
A DI ĐÀ
đang ngự trước mặt mình. Thân tướng của
ĐỨC PHẬT
A DI ĐÀ cao lớn khôn cùng, hình dáng ngời sáng chói sắc
vàng diêm phù đàn. Lông trắng chặng giữa chân mày thì uyển chuyển xoáy
tròn về bên hữu, như năm ngọn núi Tu Di. Đôi mắt trắng và xanh biếc như
bốn đại hải. Các lỗ chân lông nơi thân đều phóng hào quang sáng sạch,
chiếu soi muôn nghìn cõi nước ở khắp mười phương. Mỗi mỗi hào quang
thường che chở, và nhiếp thọ những chúng sinh niệm Phật.
Lại thấy toàn
cõi Cực Lạc hiện ra trong thân mình, mặt đất bằng lưu ly trong suốt,
rạng rỡ. Bảo Thọ, Bảo Đài, Liên Trì, Bảo Lâu, Bảo Tòa… mỗi mỗi nghiêm
sức bằng vàng, bạc lưu ly, pha lê, xa xừ, trân châu, mã não. Chư Thượng
Thiện Nhân đều do hoa sen hóa sinh, ai nấy đầy đủ ba mươi hai hảo tướng,
thọ dụng y thực tự nhiên thuần pháp hỷ thực và thiền duyệt thực. Tất cả
đều ngồi trên tòa báu lắng nghe Đức Phật cùng Bồ Tát thuyết pháp. Những
sự việc trang nghiêm bất khả tư nghị như vậy, dẫu đến ức kiếp kể cũng
không cùng tận.
Hiện thần lực
như thế rồi, ngài PHỔ
HIỀN bèn ra khỏi Nhất Thiết Phật Độ Thể Tánh Tam Muội,
làm cho đại chúng trở lại như cũ.
Bấy giờ đại
chúng được thấy sự chưa từng có, cho là rất đặc biệt lạ lùng, ngồi yên
lặng nhất tâm chiêm ngưỡng. Lúc ấy, Quốc Mẫu
VI ĐỀ HY
hoàng thái hậu chắp tay bạch rằng:
- “Thưa Đại Sĩ,
nay Tam muội này thật vô cùng hi hữu, có uy lực lớn, có công năng bất tư
nghị, vậy tên gọi của Tam muội ấy là gì?”
Phổ Hiền Bồ Tát
nói:
- Tam muội này
gọi là Nhất Thiết Phật Độ Thể Tánh, còn gọi là
NIỆM PHẬT TAM MUỘI.
Do công đức xưng niệm danh hiệu Phật tạo thành, hoặc kết quả tự nhiên
của mười tâm thù thắng.
Này, Phật tử! Nay tôi nương thần lực và lòng đại bi vô hạn lượng của Đức
THÍCH CA MÂU NI PHẬT, mà tuyên thuyết Công Đức Bất Khả Xưng Tán của sự chấp
trì Danh Hiệu Phật.
Mười thứ tâm
thù thắng ấy, thật ra, vừa là
NHÂN
vừa là
QUẢ.
Nhân cùng Quả thì không bao giờ rời nhau. Người tu môn niệm Phật thì
phải đề khởi mười thứ tâm thù thắng, mới nhanh chóng thâm nhập
NIỆM PHẬT TAM MUỘI,
hiện bày cảnh giới Cực Lạc. Nhưng, trái lại, người đặt trọn tín tâm nơi
Bản Nguyện và cả đời chuyên nhất xưng niệm Danh Hiệu Phật, thì dần dần
đi vào NIỆM PHẬT TAM
MUỘI, tự
nhiên thành tựu mười thứ tâm thù thắng nói trên.
Tại sao vậy?
Này Phật tử hãy
chăm chú lắng nghe, tôi sẽ giải thích tường tận.
Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
vốn đầy đủ vô
lượng vô biên hằng hà sa công đức, vô lượng vô biên hằng hà sa ý nghĩa,
vô lượng vô biên hằng hà sa lực dụng, cứu cánh, cảnh giới, giác tánh…
dẫu trăm ngàn muôn ức na do tha vi trần đại kiếp, cũng không thể diễn
nói hết được. Nay vì chúng sinh nơi thời kỳ chính pháp cuối cùng, mà tôi
sẽ lược nói, để chúng sinh thu hoạch nhiều lợi ích.
Này Phật tử,
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
nghĩa là gì?
NAM MÔ
là thủy giác, A DI ĐÀ
là tương tục giác,
PHẬT là bản
giác.
NAM MOÂ
là năng niệm, A DI ĐÀ
là tương tục niệm,
PHẬT là sở
niệm.
NAM MÔ
là giới luật, A DI ĐÀ
là thiền định, PHẬT
là trí tuệ.
NAM MOÂ
là thế gian giới, A DI
ĐÀ là Pháp
giới, PHẬT
là Vô Sai Biệt Giới, Vô Sở Hữu Cảnh Giới, Vô Trụ Xứ Cảnh Giới.
NAM MÔ
là Thường, A DI ĐÀ
là Tịch, PHẬT
là Quang.
NAM MÔ
là Diệu Quán Sát Trí,
A DI ĐÀ là
Bình Đẳng Tánh Trí.
PHẬT là Đại
Viên Cảnh Trí, Vô Tận Sở Hữu Trí.
NAM MÔ
là Phi Hữu, A DI ĐÀ
là Phi Vô, PHẬT
là KHÔNG TÁNH,
phi hữu phi vô định tánh.
NAM MÔ
là Như Thực Hữu,
A DI ĐÀ
là Như Thực Không,
PHẬT
là NHƯ THỰC BẤT KHÔNG.
NAM MÔ
là sai Biệt Trí. A DI
ĐÀ là Vô
Sai Biệt Trí, và PHẬT
là Pháp Hải tuệ Công Đức Vô Tận Tạng Viên Mãn Trí.
NAM MÔ
là phương tiện lực, A
DI ĐÀ là
cứu cánh lực, và PHẬT
là Dung Thông Phương Tiện Siêu Việt Cứu Cánh Lực.
NAM MÔ
là Ly Trần, A DI ĐÀ
là Ly Căn, PHẬT
là Ly Thức.
NAM MÔ
là Chuyển Y Tạng, A DI
ĐÀ là Vô
Tận Thiện Căn Tạng,
PHẬT là
Quyết Định Chính Giác Tạng.
NAM MÔ
là LY CẤU TẠNG, A DI
ĐÀ là Niết
Bàn Tạng, PHẬT
là NHƯ
huyễn giải thoát tạng.
NAM MÔ
là Trang Nghiêm Phật Quốc Độ,
A DI ĐAØ
là Thành Tựu Vô Biên Phật Quốc Độ,
PHẬT
là Như Huyễn Thập Phương
HOA TẠNG
Thế Giới Hải.
NAM MÔ
là Gia Trì Lực, A DI
ĐAØ là Tiếp
Dẫn Lực, PHẬT
là Tự Tánh Tương Ưng Nhiếp Thọ Lực.
NAM MÔ
là Khai Thị Vô
Lượng Trí, A DI ĐÀ
là Thâm Nhập Chính Giác Trí,
PHẬT
là QUANG MINH PHỔ
CHIẾU TRÍ.
NAM MÔ
là Thế Gian Giải, A DI
ĐÀ là Giác
Ngộ Giải, PHẬT
là Nhất Thiết Trí Biến Chiếu Thập Phương Viên Mãn Giải.
Này Phật tử,
danh hiệu NAM MÔ A DI
ĐÀ PHẬT có
vô lượng vô biên bất khả thuyết ý nghĩa thâm mật vi diệu như thế, dẫu ba
đời mười phương chư Phật diễn nói cũng không cùng tận.
Lại nữa, không
thể chấp trước nơi ngữ ngôn, văn tự, âm thanh, tri kiến, biện luận… mà
bảo rằng Danh Hiệu NAM
MÔ A DI ĐÀ PHẬT
là hữu niệm hoặc vô niệm. Vì sao vậy? Bởi vì danh hiệu ấy chính là
KHÔNG TÁNH, là
VÔ SỞ ĐẮC, là VÔ SỞ Y, VÔ CẤU
NHIỄM,
là VÔ SỞ TƯƠNG ƯNG,
là VÔ SỞ BỘI NGHỊCH,
VÔ CÔNG DỤNG HẠNH,
là VÔ SỞ CẦU HẠNH.
Lại nữa, không
thể chấp trước nơi hình thái tu tập, chỗ dụng công, hoặc phương tiện
biểu hiện, qui tắc hành trì, mà cho rằng Danh Hiệu ấy là Hữu Định Tính
hay Vô Định Tính. Vì sao vậy? Bởi vì danh hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
chính là VÔ TẬN TẠNG,
HƯ KHÔNG TẠNG, ĐÀ RA NI TẠNG, GIẢI THÂM MẬT CỤ TÚC TẠNG…
Lại nữa, không
thể chấp trước vào ý nguyện vãng sinh, tâm thái mong cầu Phật Lực, hoặc
an trú Bản Nguyện Lực, hay sự phát tâm bồ đề quảng đại… mà cho rằng Danh
Hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ
PHẬT là Hữu
Thú Hướng hoặc Vô-Thú-Hướng. Vì sao vậy? Bởi vì danh hiệu ấy, chính là
TỊCH TỊNH TẠNG, THANH
TỊNH VI DIỆU TẠNG, MINH TRIẾT TẠNG,
là LY TRẦN TẠNG,
là LY THỨC TẠNG,
là LY CẤU TẠNG…
Lại nữa, không
thể chấp trước vào cách thức trì niệm, vào nghi tắc lễ bái cúng dường,
vào sự khẩn thiết xưng tán, sám hối hoặc tâm chí tùy hỷ công đức của
hành giả niệm Phật mà cho rằng, danh hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
là Hữu Sở Y hay Vô Sở Y. Vì sao vậy? Bởi vì Danh Hiệu ấy chính là
KHẢ ÁI NHẠO TẠNG,
là LY CHỦNG CHỦNG TRẦN
CẤU TẠNG,
là LY UẨN TẠNG,
là VÔ CHƯỚNG NGẠI
TẠNG, là
VÔ TẬN CÔNG ĐỨC TẠNG…
VÔ TẬN THIỆN CĂN TẠNG,
là NIẾT BÀN TẠNG,
là NHƯ HUYỄN TAM, MUỘI
VÔ VI TẠNG,
là THÀNH TỰU PHẬT ĐỘ
TẠNG, là
QUYẾT ĐỊNH VÔ THƯỢNG
BỒ ĐỀ TẠNG, PHỔ HIỀN BẤT-TƯ-NGHỊ GIẢI-THOÁT TẠNG…
Khi ngài
Phổ-Hiền Bồ-Tát ở trước Đức Như Lai mà tuyên thuyết ý nghĩa và công đức
bất-khả-tư nghị của Danh Hiệu Phật rồi, Đức Như Lai khen rằng: Lành
thay! Lành thay!
Vô lượng vô
biên Bồ-Tát khắp mười phương chứng đắc
NIỆM PHẬT TAM MUỘI,
bà
VI ĐỀ HY
cùng những vị
Trưởng-Lão trong đại chúng đều thân chứng
TÍN GIẢI ĐÀ-RA-NI.
Chư Thiên, Long, Quỷ, Thần đều thâm nhập
THIỆN CĂN ĐÀ-RA-NI,
hớn hở vui mừng đồng chắp tay nhất tâm xưng niệm
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
PHẨM THỨ TƯ
XƯNG TÁN
DANH HIỆU
Bấy giờ, quốc
mẫu VI ĐỀ HY hoàng thái hậu từ trong pháp hội bước ra, cung
kính đảnh lễ Thế Tôn, rồi chắp tay hướng về Ngài Phổ-Hiền đại Bồ Tát, mà
thưa rằng:
Kính bạch Đại
Sĩ, con thường nghe chư vị Trưởng Lão từng tham dự những buổi diễn
thuyết pháp đầu tiên của Đức Thế Tôn tại Vườn Lộc Uyển, dạy rằng: Niệm
Phật, hoặc Niệm Pháp hoặc Niệm Tăng để được
HIỆN TẠI LẠC TRÚ.
Ý nghĩa ấy như thế nào? Cứu cánh của môn Niệm Phật có phải chăng là để
được như vậy hay không? Ngưỡng mong Đại- sĩ từ bi chỉ dạy, hầu các chúng
sinh thời mạt pháp khỏi rơi vào mê lầm, thác ngộ.
PHỔ HIỀN BỒ-TÁT
bèn quán sát tâm niệm của hết thảy đại chúng hiện tiền, mà dạy rằng:
Này Phật tử,
khi Đức Thế Tôn THÍCH
CA MÂU NI
thị hiện thành đạo, và bắt đầu hóa độ chúng sinh cang cường, Ngài đã vì
hạng tiểu-căn mà khai diễn Tiểu-Pháp kẻo họ kinh nghi… Nay đã tới thời
kỳ giảng nói Đại-Pháp. Cũng chỉ là một pháp
NIỆM PHẬT
nhưng kẻ hạ liệt, chí nhỏ, mong cầu xuất ly tam giới, thì Niệm Phật chỉ
là Pháp Thanh Văn, Duyên Giác, Như Lai vì họ mà dạy
HIỆN TẠI LẠC TRÚ.
Riêng chư vị Bồ
Tát SƠ PHÁT TÂM
thì dùng Niệm Phật để thâm nhập
NHƯ LAI TẠNG TÂM
thì không dính mắc vào Hiện-Tại?
Vì sao chư
BỒ TÁT SƠ PHÁT TÂM
lại không được dính mắc vào Hiện Tại?
Nếu
BỒ TÁT
SƠ PHÁT TÂM
dính mắc vào Hiện Tại khắc chế, Hiện Tại Tương Ưng, hoặc Hiện Tại Biện
Giải, thì bị rơi vào ảo tượng của
THỌ UẨN.
Nếu Bồ Tát
SƠ PHÁT TÂM
dính mắc vào Hiện Tại Tỉnh Chỉ, hoặc Hiện Tại Luân Chuyển, hoặc Hiện Tại
Nương Gá, tức thì đang bị chi phối bởi ảo tưởng của TƯỞNG
UẨN.
Nếu Bồ Tát
SƠ PHÁT TÂM
dính mắc vào Hiện Tại Sinh Khởi, Hiện Tại Tương Tục, hoặc Hiện Tại Đoạn
Diệt, hoặc Hiện Tại Bất Động, tức thì đang bị trôi lăn theo ảo tưởng của
HÀNH UẨN.
Nếu Bồ Tát
SƠ PHÁT TÂM
dính mắc vào Hiện Tại Phi Lạc, hoặc Hiện Tại Vong Ưu, hoặc Hiện Tại Mông
Muội, tức thì đang bị triền chuyển bởi ảo tưởng của
THỨC UẨN.
Lại nữa, Bồ Tát
SƠ PHÁT TÂM
muốn xoay cái vọng tưởng hư dối sinh diệt trở lại với chân tâm thanh
tịnh thường trụ thì phải dùng pháp gì, nếu không là Danh Hiệu Như Lai?
Làm thế nào để chặt đứt gốc rễ phiền não, nếu không sử dụng lực vô úy
của Danh Hiệu Như Lai? Làm thế nào để diệt trừ sạch hết sáu tên giặc
Khách Trần, nếu không hiển thị công năng nhiệm mầu đệ nhất của Danh Hiệu
Như Lai?
Này Phật tử,
cõi Diêm Phù Đề này vốn lấy âm thanh làm thể. Do đó, nhiều chúng sinh có
thể nương nơi âm thanh viên mãn mà chứng Viên Thông. Như vậy, Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
chính là âm thanh tối thắng, đưa chúng sinh thâm nhập Như Lai Tạng Diệu
Chân Như Tánh. Vì Thật Tướng của Danh Hiệu là
VÔ TƯỚNG,
Không đọa vào nhân duyên, không lạc vào tự nhiên, chẳng hòa hợp, chẳng
phi hòa hợp. Luôn vắng lặng, chu biến khắp mười phương. Tùy theo tín
tâm, công năng tu tập mà phát huy diệu dụng.
Này Phật tử, Danh Hiệu Phật chính là
BỒ ĐỀ TÂM,
vì là chủ tể các thiện pháp, và luôn luôn sinh ra tất cả Phật Pháp.
Danh Hiệu Phật
chính là BỒ ĐỀ NGUYỆN,
vì là cửa ngõ xu hướng Vô Thượng Giác, và luôn luôn dẫn dắt chúng sinh
tới Nhất Thiết Chủng Trí.
Danh Hiệu Phật
như Mặt Trời, vì có uy lực phá trừ si ám, ban phát ánh sáng thiện căn
cho nhân gian.
Danh Hiệu Phật như kình ngư, vì có thể bơi lội tự
tại trong đại dương khổ não, mà chẳng bị sóng dữ phiền não vùi chôn cuốn
lấp.
Danh Hiệu Phật như giống chắc thật, vì có thể lưu
xuất tất cả phước đức vô lậu.
Danh Hiệu Phật như trận mưa lớn, vì khiến hạt giống
Bồ Đề nẩy nở, sinh sôi.
Danh Hiệu Phật như ruộng tốt, vì có thể trưởng
dưỡng hết thảy bạch tịnh pháp.
Danh Hiệu Phật như nước Cam Lộ quý báu, vì có thể
tẩy rửa mọi thứ phiền não dơ bẩn, khiến vọng tâm trở thành đài gương làu
làu sáng sạch.
Danh Hiệu Phật như ngọn lửa mạnh mẽ, vì có thể đốt
tan rừng rậm kiến chấp.
Danh Hiệu Phật
như trận cuồng phong vô ngại khắp thế gian, vì nó cuốn phăng tất cả bụi
mù tà kiến, hí luận, thiên kiến.
Danh Hiệu Phật
như tuệ nhãn xuyên thấu mọi pháp và thấy rõ khắp tất cả chướng ngại,
hiểm trở.
Danh Hiệu Phật
như chiếc xe khổng lồ, vì có thể chuyển vận hết thảy Bồ Tát Sơ Phát Tâm
nhanh chóng tới Phật Địa.
Danh Hiệu Phật
như căn nhà to rộng của Như Lai, vì khiến chúng sinh không còn sợ hãi,
bất an.
Danh Hiệu Phật
như cung điện nguy nga tráng lệ, vì giúp chúng sinh tu tập và khai phát
vô lượng Tam muội.
Danh Hiệu Phật
là chỗ nương tựa chắc chắn cho tất cả Bồ Tát Sơ Phát Tâm, vì luôn chứa
nhóm và lưu bố hết thảy Bồ Tát Hạnh.
Danh Hiệu Phật như từ mẫu, vì ấp ủ, che chở và sinh
ra tất cả Bồ Tát, nuôi lớn căn lành cho hết thảy chúng sinh.
Danh Hiệu Phật như Kim Cương bất hoại, lại có thể
đập vỡ tất cả các pháp hữu lậu.
Danh Hiệu Phật là vị thuốc A già đà, vì có thể chữa
được tất cả bịnh tật cho chúng sinh.
Danh Hiệu Phật như Liên hoa, vì không bao giờ bị
nhiễm ô bởi những pháp thế gian.
Danh Hiệu Phật
như tượng vương hùng dũng, vì có thể chà đạp tất cả điên đảo tưởng ngang
trái, hung hiểm.
Danh Hiệu Phật
như hạt châu MA NI, có thể dùng phát chẩn cho tất cả chúng sinh nghèo
khó phước đức và trí tuệ.
Danh Hiệu Phật
như thủy thanh châu, vì có thể lóng sạch tất cả dây trói sinh tử.
Danh Hiệu Phật
như Ba Mươi Hai Tướng Tốt và Tám Mươi Vẻ đẹp của Thế Tôn. Như Lai, Ứng
Cúng, Chính Đẳng Giác, do đó tất cả thế gian nên cúng dường, hân ngưỡng,
tán thán…
Danh Hiệu Phật như Pháp Thân Bất Tư Nghị, vì luôn
lưu xuất tất cả Thân của chúng sinh.
Danh Hiệu Phật như Báo Thân Bất Tư Nghị, vì luôn
sinh ra vô lượng vi trần thân Phật trong tâm tưởng mọi chúng sinh.
Danh Hiệu Phật
như Hóa Thân Phật Bất Tư Nghị, vì luôn hiện thân Phật ngay nơi thân và
tâm của người xưng niệm danh hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
Danh Hiệu Phật
chính là Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ, vì hiển thị Báo Thân Viên Mãn
Lưỡng Túc của giác quả.
Danh Hiệu Phật chính là Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ,
vì dung nhiếp Hóa Thân Tùy Nguyện Vãng Sinh của chư vị Thượng Thiện Nhân
khắp mười phương thế giới.
Danh Hiệu Phật
chính là Cõi Cực Lạc vì tự thân trang nghiêm và tự tâm trang nghiêm.
Danh Hiệu Phật
chính là Ba Đời Mười Phương Chư Phật, vì
A DI ĐÀ
tức là
PHÁP GIỚI TẠNG THÂN,
có lực dụng thu nhiếp và hiện Pháp Thân của Ba Đời Mười phương Chư Phật.
Này phật tử
Danh hiệu NAM MÔ A DI
ĐÀ PHẬT
thành tựu vô lượng vô biên công đức như thế. Cho nên, phải nói rằng:
Danh Hiệu Phật tức chứa đựng vô lượng vô biên công đức của hết thảy Phật
Pháp, khai vô lượng vô biên diệu dụng hiển thị vô lượng vô biên uy lực,
giải ngộ vô lượng tri kiến giải thoát, siêu việt tư duy và mô tả.
Tại làm sao
thế?
Bởi vì nhân nơi
Danh Hiệu Phật mà sản sinh và lưu bố tất cả Bồ Đề Tâm, tất cả Bồ Đề
Nguyện, tất cả Bồ Đề Hạnh. Ba đời mười phương Như Lai thảy đều từ Danh
Hiệu Phật mà phát sinh ra. Ba đời mười phương Như Lai thảy đều do Danh
Hiệu Phật mà thành đạo, chuyển pháp luân, giáo hóa Nhị Thừa, điều phục
chúng sinh cang cường, tội khổ, tham đắm. Ba đời mười phương Như Lai
thảy đều y cứ Danh Hiệu Phật mà kiến lập
HOA TẠNG THẾ GIỚI HẢI,
trang nghiêm vi trần số cõi Phật.
Cho nên, nếu
chúng sinh nào nhất tâm xưng niệm Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
tức là xuất sinh vô biên công đức vô lậu bất khả tư nghị, đủ năng lực
viên mãn Bồ Tát Đạo, Phát huy diệu dụng của Tam Thân, Tứ Trí, Thập Lực,
Tứ Vô Úy, Tứ Vô Lượng Tâm, Lục Ba la mật, Thập Bát Bất Cộng v.v…
Này Phật tử!
Thí dụ như có người được món thuốc
A GIÀ ĐAØ
công hiệu bậc nhất thế gian, thì chạy chữa được năm thứ bệnh bức não, sợ
hãi. Như là: lửa lớn không thể đốt cháy, Độc dược chẳng làm thương tổn
tính mạng. Gươm đao sắc bén chẳng thể chặt đứt nổi. Nước lũ bộc lưu
không thể nhận chìm được. Khói cay không thể làm cho ngộp thở được.
Cũng như thế,
Bồ Tát SƠ PHÁT TÂM
nếu thường
xuyên xưng niệm Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
tức là luôn luôn uống món thuốc Nhất Thiết Trí Bồ Đề Tâm, thì ngọn lửa
tham lam không thể đốt cháy được. Độc dược sân hận chẳng thể làm thương
tổn chân tâm. Gươm đao kiến chấp chẳng thể chặt đứt tuệ mạng. Dòng nước
lũ Hữu Lậu không thể nhận chìm chiếc thuyền Bát Nhã được. Và đám khói tà
kiến không thể làm cho ngộp tắt hơi thở giác ngộ được.
Thí dụ như có
người cầm thanh bảo kiếm Vô Năng Thắng ở trong tay, thì tất cả oán địch
đều tránh dang ra xa, chẳng dám đương cự. Cũng như thế, Bồ Tát
SƠ PHÁT TÂM
bền chí mà xưng niệm. Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
chính là cầm lưỡi kiếm Vô Năng Thắng
ĐẠI BỒ ĐỀ TÂM,
tức thì đẩy lùi oán địch Vô Minh, Tà Kiến và hàng phục Vọng Tưởng…
Thí
dụ như có người cầm viên thuốc Ma Ha Ưng Già, thì tất cả rắn độc, rết
độc, trùng độc, nghe mùi liền tránh xa. Cũng như thế, Bồ Tát SƠ PHÁT TÂM
giữ trong mình một viên thuốc tối diệu tối thắng ĐẠI bồ đề tâm, đó là
Danh Hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT, thì tất cả rắn độc Thập Triền, rết độc
Thập Sử, trùng độc phiền não nghe hơi thảy đều tiêu hoại.
Thí dụ như có
loài dược thọ tên là
SAN ĐA NA, người nào dùng vỏ cây để thoa vào chỗ ghẻ lỡ, thì
hết đau nhức và ghẻ lỡ liền lành lặn như xưa. Vỏ cây ấy vừa bị tróc da,
thì nối liền lại ngay, lấy mãi không hề hết được. Cũng như thế, Bồ Tát
SƠ PHÁT TÂM
liên tục xưng niệm
Danh Hiệu NAM MÔ A DI
ĐÀ PHẬT,
chẳng khác nào trồng cây dược thọ
NHẤT THIẾT TRÍ.
Nếu có người nào gặp gỡ mà phát khởi lòng tin, thì ghẻ lở phiền não,
nghiệp chướng đều bị trừ diệt, thân tâm không còn đau khổ. Nhưng cây
dược thọ Nhất Thiết Trí không hề tổn hại mảy may. Danh Hiệu Phật vẫn y
nguyên bất động.
Thí dụ như có
người ném vào khoảng đồng trống một nhúm rễ cây Hương Phụ, chẳng bao
lâu, nảy nở vô số giống cây ấy lan tràn che khuất cả cánh đồng rộng lớn.
Cũng như thế, Bồ Tát
SƠ PHÁT TÂM
quyết tâm gieo trồng trên mảnh ruộng Tâm một nhúm Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
tựa như ươm bón thứ rễ cây
KHÔNG TÁNH.
Chẳng bao lâu, sẽ sinh sôi nẩy nở vô số thảo mộc Phật Tri Kiến, tràn lan
che chắn cả cánh đồng Vô Minh.
Thí dụ như có
người uống hoàn thuốc kiện cường trí nhớ, nhờ vậy những gì nghe thấy đều
ghi nhớ chẳng quên. Cũng như thế, Bồ Tát
SƠ PHÁT TÂM
trang bị thân tâm bằng Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
thì thọ trì tất cả Phật Pháp đều không quên sót.
Thí dụ như viên
ngọc châu LƯU LY,
muôn ngàn năm lăn lóc nơi chỗ nhơ bẩn, uế tạp, mà
chẳng nhiễm ô, vì bản tánh của
LƯU LY vốn luôn luôn trong sạch. Cũng như thế, Bồ Tát
SƠ PHÁT TÂM
ngày đêm thủ hộ thân tâm bằng Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
mà chen lộn nơi cõi dục ác trược, vẫn chẳng bị ngu si, tà kiến làm cho
loạn nhiễm. Bởi vì bản chất của
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
vốn thanh tịnh như pháp giới tánh, vô cấu như
HƯ KHÔNG TÁNH.
Thí dụ như cây Ba
Lợi Chất Đa La dẫu chưa đơm hoa, khai nụ, nhưng mọi người đều biết rằng
chính loại cây này sẽ sản xuất vô số bông hoa mỹ diệu, thù thắng. Cũng
như thế, năng lực niệm Phật của vị Bồ Tát
SƠ PHÁT TÂM
dẫu chưa phát sinh Nhất Thiết Chủng Trí, nhưng ai nấy đều biết chắc chắn
rằng: Danh Hiệu Phật chính là xuất sinh vô số Bồ Đề diệu hoa cho hết
thảy chúng nhân Thiên.
Thí dụ như viên
ngọc MA NI quý hơn cả tam thiên đại thiên thế giới, dẫu bị
nứt bể một gốc cạnh, nhưng những thứ vật báu khác vẫn chẳng thể so sánh
nổi. Cũng như thế Bồ Tát
SƠ PHÁT TÂM
chấp trì Danh hiệu Phật, tuy nết hạnh và trí đức còn kém khuyết vẫn vượt
lên trên. Nhị Thừa và hàng hữu học khác.
Thí dụ như cây
Kim Cương, những người đầy đủ sức mạnh vẫn không thể sử dụng nổi, chỉ
trừ đại lực sĩ NA LA
DIÊN. Cũng
như thế, hàng Nhị Thừa và kẻ phàm ngu chẳng thể tín thọ Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
Chỉ trừ hạng Bồ Tát SƠ
PHÁT TÂM
từng gieo trồng hạt giống Bát Nhã từ vô lượng kiếp sâu xa, mới sẵn đủ
thiện căn, phước đức và đại nhân duyên để chấp trì và hưởng dụng giác
quả vô lậu ấy.
Thí dụ như trên
bảo tòa Kim Cương giữa Đại Thiên thế giới, có thể giữ vững Chư Phật ngồi
đạo tràng, hàng phục quần ma, thành đạo Vô Thượng Chính Giác, mà tất cả
những thứ bảo tòa khác đều không kham nổi. Cũng lại như thế. Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
có thể giúp Bồ Tát SƠ
PHÁT TÂM
trụ vững tất cả hạnh nguyện, các món Ba La Mật, bốn món Vô Sở Úy, Thọ
Ký, cúng dường… mà tất cả pháp môn khác thì chẳng có công năng nầy, tất
cả hạnh tu khác thì chẳng có lực dụng này.
Này Phật tử Danh
Hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ
PHẬT hiển
thị vô lượng vô biên cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết công đức thù
thắng như vậy. Ta dẫu biến hiện hằng hà sa thân tướng trong vi trần sát
quốc độ trải qua muôn ức na do tha đại kiếp, để xưng tán thì cũng không
cùng tận.
Ngài Đại Bồ Tát
PHỔ HIỀN
ở trước Đức Như Lai tuyên thuyết ý nghĩa và xưng tán công đức của Danh
Hiệu PHẬT
vừa xong, cả thảy đại chúng đều đắc
VÔ LẬU CÔNG ĐỨC
ĐÀ RA NI,
trưởng giả DIỆU NGUYỆT
cùng chư vị Bồ Tát SƠ
PHÁT TÂM
đều chứng được NIỆM
PHẬT TAM MUỘI,
tất cả chư Bồ Tát mười phương đều đắc
HỒNG DANH CÔNG ĐỨC TẠNG.
Khi ấy, trời mưa
hoa Mạn đà la, hoa Ma ha Mạn đà la, hoa Mạn thù sa, hoa Ma ha Mạn thù
sa, để rải cúng dường Đức Như Lai cùng hết thảy chúng hội đạo tràng.
PHẨM THỨ NĂM
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG
Lúc bấy giờ,
quốc mẫu VI ĐỀ HY
Hoàng thái hậu hớn hở vui mừng được nghe pháp yếu
của Như Lai qua lời dạy của ngài
PHỔ HIỀN ĐẠI BỒ TÁT,
bèn tiếp tục thưa thỉnh:
- Kính bạch
đấng THIÊN NHÂN SƯ
tối tôn tối
thắng, kính bạch Đại sĩ
đại từ đại
bi! Con cũng thường nghe chư vị Trưởng Lão trong Tăng Già luôn luôn nhắc
nhở rằng: chỉ có Tứ Niệm Xứ là con đường độc nhất giúp chúng sinh diệt
trừ ưu bi khổ não, chứng ngộ niết bàn. Nay được Thế Tôn mở bày pháp
NIỆM PHẬT,
khiến hàng ưu bà tắc và ưu bà di đều phân vân, do dự. Ý nghĩa ấy như thế
nào? Đâu mới là pháp chân thật, rốt ráo? Đâu là pháp phương tiện, quyền
biến? Đâu là pháp tối hậu mà Như Lai thường ban cho các chúng sinh ở vào
thời kỳ chính pháp cuối cùng?
Đức Phật mỉm
cười, lặng yên. Ngài Phổ Hiền an nhiên nhập vào Niệm Phật Tam Muội. Thân
và Tâm bất động.
Khi ấy, ngài
QUÁN THẾ ÂM ĐẠI BỒ TÁT
liền từ bảo
tòa đứng dậy, trệch áo phơi bày vai bên hữu, cung kính nhiễu quanh Đức
Phật ba vòng. Rồi ngài hướng về bà
VI ĐỀ HY
mà bảo rằng:
- Nay tôi nương
uy thần vô hạn của Đức
THÍCH CA MÂU NI
THẾ TÔN
và tùy thuận Bản Nguyện Lực vô biên vô lượng của
ĐỨC
A DI ĐÀ PHẬT,
mà tuyên dương năng lực vô cùng tận của
DANH HIỆU PHẬT,
tức là pháp môn Niệm Phật Tam muội.
Nay
VI ĐỀ HY,
hãy nhận rõ như thế này, để đừng rơi vào nghi lầm nữa.
Đúng như ngươi
vừa trình bày, Tứ Niệm Xứ là pháp Diệt Khổ, là pháp đối trị tham dục, ưu
bi khổ não, là pháp đắc Niết bàn vắng lặng. Còn pháp Niệm Phật Tam muội
lại là pháp THÀNH PHẬT, là pháp chứng
VÔ THƯỢNG GIÁC,
là pháp thâm nhập, cảnh giới bất tư nghị của chư Phật, là pháp mở bày và
tỏ ngộ Tri Kiến Như Lai, là pháp Cứu Độ Tất Cả Mọi Chúng Sinh, là pháp
siêu việt trên hết thảy hí luận cùng thiên kiến của nhị thừa.
Tại sao vậy?
Trước đây, Đức
Thế Tôn vì những người ghê sợ hiểm nạn sinh tử, mà nói pháp Tứ Niệm Xứ,
chánh niệm tinh tấn nhiếp phục tham sân si, để thoát khổ và đắc A La
Hán.
Nay vì những
người hân ngưỡng, khát khao quả vị Bồ Đề chí hướng mong cầu Phật Đạo,
phát khởi đại bi tâm mà thực hành hạnh Nguyện Bồ Tát, thì Đức Thế Tôn
chỉ dạy pháp môn NIỆM
PHẬT TAM MUỘI.
Này
VI ĐỀ HY,
tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay, vì một niệm Bất Giác nổi lên, che
mờ Bản Thể Thường Trụ nhận vật bên ngoài làm
TÂM,
nhận sắc thân, cảnh giới làm
TÂM.
Luôn luôn bỏ mất TÂM
CHÂN thật,
NÊN BỊ CẢNH VẬT XOAY
CHUYỂN. DO ĐÓ, KHỞI TÂM PHÂN BIỆT, THẤY CÓ
lớn, nhỏ, rộng, hẹp, xấu, đẹp, cao, hạ… Nếu xoay được cảnh vật bên ngoài
thì thân tâm sẽ sáng suốt, trạm nhiên, tròn đầy, tức đồng với chư Như
Lai không khác.
Muốn xoay
chuyển ngoại vật, thì không chỉ bằng cách sử dụng diệu lực vô úy của
Danh Hiệu Phật. Thật vậy, nhờ xưng niệm
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
mà hành giả nhìn thấy cảnh vật bên ngoài đúng như bản chất thật sự của
chúng. Do đó không còn bị ngoại cảnh chi phối, điều phục thân tâm. Và
chẳng còn móng khởi tâm phân biệt. Lúc ấy, tuy không rời pháp hội mà
biến hiện khắp mười phương quốc độ, trong một lỗ chân lông vẫn chứa đựng
cả HOA TẠNG THẾ GIỚI
HẢI.
Khi xưng niệm
Danh Hiệu Phật, hành giả không để
TÂM
ruỗi rong theo
thanh trần, mà xoay Cái Nghe trở vào Chân Tánh, đó là Danh Hiệu Phật
đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng
TÂM,
mà mỗi mỗi sát na đều hiển hiện Chân Như Tánh. Chính nó thật là Tánh
Nghe của mình, chẳng còn hai tướng động và tịnh, toàn là thể vắng lặng,
soi chiếu khắp mười phương.
Tiếp tục hành
trì Niệm Phật như thế, chẳng bao lâu thì Tánh Nghe cũng không còn. Khi
ấy, Phật Trí tự nhiên tỏa rạng. Danh Hiệu Phật vẫn tương tục, không gián
đoạn.
Này
VI ĐỀ HY,
trong pháp hội: THỦ
LĂNG NGHIÊM,
tôi đã trình bày nhân địa tu hành
NHĨ CĂN VIÊN THÔNG
cho đại chúng. Nhưng, thời mạt pháp các kinh điển dần dần ẩn mất, mà nên
biết Kinh THỦ LĂNG
NGHIÊM, sẽ
bị diệt trước nhất, tiếp sau là Kinh
LĂNG GIÀ,
Kinh KIM CƯƠNG,
Kinh MA HA BÁT NHÃ,
Kinh DIỆU PHÁP LIÊN
HOA v.v…
Nếu không nương nhờ pháp
NIỆM PHẬT thì rất khó chứng đắc Nhĩ Căn Viên Thông. Bởi vì
sao? Bởi vì NIỆM PHẬT
TAM MUỘI chính là môn
VIÊN THÔNG ĐỆ NHẤT.
Này
VI ĐỀ HY,
tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay, vì lẫn lộn trong đêm tối vô minh,
nhận giặc làm cha, lấy vọng kiến làm chỗ nương về, lấy tà kiến làm bạn
lữ, lấy biên kiến làm phương dược. Nhận Ngã Chấp, Ngã Kiến làm
TÂM.
Rời xa Tri Kiến Giải Thoát Vô Thượng. Do đó, khởi tâm phân biệt, thấy
Đúng Sai, Tà Chính, Thiện Ác, Chân Ngụy… Nếu lọc sạch Ngã Kiến, Ngã Chấp
thì thân tâm sẽ quang minh, thường tại, chiếu suốt mười phương pháp
giới. Tức đồng đẳng với Tri Kiến Giác Ngộ của chư Như Lai.
Nếu bạn gạn lọc
Ngã Kiến, Ngã Chấp, thì không chi hơn là phát huy năng lực vô biên của
Danh Hiệu Phật. Thật vậy, nhờ chuyên tâm xưng niệm
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
mà hành giả tuần tự chuyển Thức thành Trí. Ngã chấp tự nhiên rơi rụng.
Ngã Kiến tự nhiên tan mất, như bong bóng nước dưới ánh mặt trời. Lúc bấy
giờ, tuy không lìa cung Đâu Suất mà vẫn phân thân khắp vi trần quốc độ
để chuyển pháp luân vô thượng, và khai thị tuệ giác cho vô lượng chúng
sinh, giúp hết thảy tứ sinh cửu hữu cùng ngộ nhập Phật Tri Kiến.
Khi xưng niệm
Danh Hiệu Phật, hành giả không để
THỨC
nương theo nhân duyên mà dấy động, nên chẳng thành tựu pháp
Y THA KHỞI.
Vì không có sự tham dự của Ngã và Ngã Sở nên Biến Kế Sở Chấp cũng chẳng
tồn tại. Chỉ danh hiệu Phật vẫn tuôn chảy liên miên bất tận thành một
dòng tâm, mà mỗi mỗi sát na đều hiển hiện Vô Thượng Diệu Viên Thức Tâm
Tam muội, tức là CHÂN
DUY THỨC TÁNH.
Tiếp tục hành trì
NIỆM
PHẬT như
thế, chẳng bao lâu, thì chẳng còn nhìn thấy huyễn tướng của vạn pháp ở
bên ngoài và cũng chẳng còn bắt gặp Tám Thức ở bên trong. Trong hay
ngoài đều giả dối, không thật. Ngay cả tướng
DUY THỨC cũng chẳng có nữa. Vì ba đời mười phương Như Lai,
vi trần sát quốc độ, hư không, sắc pháp, Tâm Vương, Tâm Sở… đều không
một thứ nào ra ngoài
CHÂN DUY THỨC TÁNH
mà tự hữu, tự sinh, tự diệt. Danh Hiệu Phật vẫn tương tục, không gián
đoạn, như có như không, cho đến khi Chân Duy Thức Tánh biến mất. Đại
Viên Cảnh Trí tự nhiên phơi bày. Danh Hiệu Phật sẽ dẫn dắt hành giả đi
vào Tánh VIÊN THÀNH
PHẬT, chứng
VÔ SINH PHÁP NHẪN.
Do
đó, phải nói rằng: NIỆM PHẬT là pháp môn đệ nhất dùng để chuyển thức
thành trí, mà chúng sinh thời mạt pháp phải siêng năng thọ trì.
Này
VI ĐỀ HY,
tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay, bị vô số tư tưởng điên đảo làm
khuất lấp Tánh VIÊN
GIÁC. Như
kẻ ngủ mơ chợt thức giấc giữa ngã tư đường cái, chẳng rõ phương hướng,
lẫn lộn chính tà, thấy cong nhìn ngược, bất phân thiện ác. Tư tưởng điên
đảo ấy nẩy sinh Thân và Tâm, rồi nhận thân tứ đại giả hợp làm Thân, chấp
cái tư tưởng vô minh điên đảo kia làm Tâm. Cứ thế, mà sinh tử, tử sinh
nối nhau không dứt, tạo vòng lẩn quẩn luân hồi.
Nhưng cái Vô
Minh Điên Đảo ấy cũng chẳng thật. Như hoa đốm, như bóng nước, như ảo
tưởng nơi sa mạc, như người ngủ chiêm bao, thấy những sự việc, cảnh vật
rõ ràng, nhưng khi thức dậy, thời không còn gì hết. Nếu chuyển hóa Vô
Minh Điên Đảo thời thân và tâm sẽ thành ra Giác Ngộ. Hoặc không phát tâm
tu trì thời vẫn ở mãi trong sinh tử huyễn mộng ấy mà tự vui. Chỉ có Danh
Hiệu Phật là đầy đủ năng lực nhiệm mầu để chuyển hóa Vô Minh trở nên
GIÁC NGỘ,
chuyển hóa Sinh Tử trở nên
NIẾT BÀN,
chuyển hóa Giả Huyễn trở nên Chân Thật.
Vì sao vậy?
Khi xưng niệm
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
hành giả dần dần thành tựu chánh định Như Lai, tự nhiên phát sinh Tuệ
Giác KHÔNG TÁNH,
vì Danh Hiệu Phật là
HƯ KHÔNG TẠNG,
là VIÊN GIÁC TÁNH,
là VÔ CẤU TẠNG,
là TỊCH TỊNH TẠNG…
Nhờ vậy, hành giả biết các pháp đều như huyễn, thời tự nhiên lìa xa các
huyễn hóa, sinh diệt. Ngay lúc ấy, bèn thâm nhập Viên Giác Tánh. Đó gọi
là TRI HUYỄN TỨC LY,
LY HUYỄN TỨC GIÁC.
Dùng pháp nào
để TRI?
Nếu không phải diệu dụng của Danh Hiệu Phật?
Không cần phải
hủy diệt các thứ HUYỄN
mới cho chúng nó là
HUYỄN.
Không cần thay đổi bản chất
HUYỄN
của nó mới gọi là
KHÔNG. Mà
chính cái BIẾT
“Nhất Thiết Pháp Là
KHÔNG”
khiến đương thể của Huyễn Pháp
TỨC LÀ KHÔNG.
Tiếp tục xưng
niệm NAM MÔ A DI ĐÀ
PHẬT như
thế, hành giả không phóng tâm theo huyễn cảnh, huyễn sự, mà hướng
CÁI BIẾT trở vào
VIÊN GIÁC TÁNH.
Đó là Danh Hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một khối lưu
ly sáng rực, vằng vặc. Mà mỗi mỗi sát na đều hiển lộ
NHƯ LAI TẠNG.
Và CÁI BIẾT
cũng không còn nữa. Danh Hiệu Phật vẫn tương tục không gián đoạn, hòa
tan Căn, Trần, Thức đều nhập vào
VIÊN GIÁC TÁNH,
bình đẳng bất động, thường trụ như hư không và tròn đầy chiếu suốt mười
phương.
Bởi vậy, phải
nói rằng, NIỆM PHẬT là pháp môn đệ nhất, sử dụng Danh Hiệu
NHƯ LAI
mà
THÂM NHẬP NHƯ LAI TẠNG,
mà chuyển biến Huyễn Hóa, Hư Dối trở nên
VIÊN GIÁC TÁNH.
Các hạng chúng sinh thời mạt pháp phải siêng năng thọ trì.
Này
VI ĐỀ HY,
tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay, bị phiền não chi phối ngày đêm
không tạm dừng, nên nhận vọng tưởng làm Tâm, bỏ quên Thắng Giải Trí. Vô
thượng Trí. Rồi lại bị Tham Sân Si Mạn Nghi lôi cuốn, và Thân Kiến, Biên
Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Cấm Thủ Kiến chồng chất lấp vùi. Do
đó, khởi tâm phân biệt, thấy có mừng giận, yêu ghét, vui buồn, vinh hoa,
hủy nhục… nếu tận trừ phiền não thì thân tâm vắng lặng, an nhiên, tự
tại, tức đồng với chư Phật không hai không khác.
Muốn tận trừ
phiền não, thì không chi hơn là phát huy năng lực Trí Giải Siêu Việt của
danh hiệu NAM MÔ A DI
ĐÀ PHẬT.
Thật vậy, nhờ cần mẫn xưng niệm Phật Hiệu mà hành giả hiện bày Tự Tâm
QUANG MINH HIỆN
lượng, CHUYỂN PHIỀN
NÃO DỮ DỘI ẤY TRỞ THÀNH
bồ đề thật tướng, đưa hành giả thẳng vào Cảnh Giới
THÁNH TRÍ TỰ CHỨNG.
Lúc bấy giờ, có khả năng bấm ngón chân xuống mặt đất, sử dụng ấn Địa Xúc
để cải biến TA BÀ
thành TỊNH ĐỘ TRANG
NGHIÊM,
niệm niệm tương ứng với
ĐẠI ĐỊA BỒ TÁT,
niệm niệm du hành, giáo hóa xã hội chúng sinh khắp mười phương vi trần
hằng hà sa thế giới.
PHẨM THỨ SÁU
NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ CỦA DANH HIỆU PHẬT
Ngài
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
bảo bà VI ĐỀ HY rằng:
Này
VI ĐỀ HY,
Đức THÍCH CA MÂU NI
THẾ TÔN
trọn đời giáo hóa điều phục chúng sinh, đã ban bố tám vạn bốn ngàn pháp
môn tu tập. Nhưng trong đó,
NIỆM PHẬT
là thù thắng đệ nhất.
VI ĐỀ HY,
trong quá khứ vô lượng vô biên na do tha kiếp, các Đức Phật
NHƯ LAI
đã dùng hằng hà sa
phương tiện, thí dụ, ngôn thuyết, để diễn bày vô số pháp môn tu tập, đưa
hết thảy chúng sinh vào Nhất Thừa Đạo. Nhưng, duy chỉ có
NIỆM PHẬT
là viên đốn đệ nhất.
VI ĐỀ HY,
nơi đời vị lai các Đức Phật sẽ xuất hiện thế gian, cũng dùng hằng hà sa
phương tiện, ngôn thuyết, thí dụ, để diễn bày vô số pháp môn tu tập, đưa
hết thảy chúng sinh vào Cảnh Giới Giải Thoát Tối Thượng Nhất Thừa.
Nhưng, duy chỉ có NIỆM
PHẬT là cứu
cánh đệ nhất.
VI ĐỀ HY,
hiện tại nay nơi trăm nghìn muôn ức na do tha quốc độ khắp mười phương,
các Đức Phật CHÁNH
ĐẲNG GIÁC
cũng đang dùng hằng hà sa phương tiện, ngôn thuyết, thí dụ, để diễn bày
vô số pháp môn tu tập, đưa hết thảy chúng sinh dung hóa vào
KHÔNG TÁNH, NIẾT BÀN DIỆU TÂM
NHƯ LAI TẠNG, nhưng duy chỉ có
NIỆM PHẬT
là hữu hiệu, siêu việt đệ nhất.
Tại sao vậy?
Này
VI ĐỀ HY,
hãy kiên nhẫn lắng nghe. Ta sẽ vì các hạng nữ nhân nơi thời mạt pháp,
cũng như người hiện nay, mà tuyên dương Tất Cả
NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ
của danh hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
Này
VI ĐỀ HY!
Bất cứ chúng
sinh nào, hễ nhất tâm xưng niệm danh hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
dù chỉ một câu duy nhất, thì sẽ xuất sinh những món năng lực bất tư
nghị, như là:
NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ nhận biết rốt ráo Tự Tánh của tất cả các pháp.
NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ
thấy rõ tánh chất huyễn hóa của tất cả pháp hữu vi.
NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ
thấu triệt tất cả các pháp đều là Phật pháp, ở nơi ý nghĩa liễu giải
không vướng mắc.
NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ
tôn trọng
và thừa sự hết thảy chư vị Thiện Trí Thức.
NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ
phân biệt tất cả các pháp mà
tự tại vô ngại.
NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ
tùy thuận tất cả căn lành dẫn dắt tới Vô Thượng Giác.
NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ
luôn thâm tín điều nhu tất cả Phật Pháp.
NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ
đại từ bi khoan dung, không chê bai khinh rẻ những môn phi pháp.
NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ
không bao giờ thối thất Bồ Đề Tâm, Bồ Đề Nguyện.
NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ
không hề quên sót Danh Hiệu Phật.
NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ
mãi mãi tùy thuận BẢN
NGUYỆN của chư Phật, chư Bồ Tát.
NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ
đưa hết thảy chúng sinh an trụ vào biển cả Đại Nguyện
VÔ LƯỢNG CÔNG ĐỨC
của ĐỨC A DI ĐÀ PHẬT.
NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ
cải biến Ta
Bà thành Tịnh độ vi diệu trang nghiêm, đồng cõi Cực lạc không khác.
Này
VI ĐỀ HY.
Bất cứ chúng
sinh nào chấp trì danh hiệu
NAM MÔ
A DI ĐÀ PHẬT, trọn đời nhất tâm xưng niệm không chán mỏi, thì sẽ đắc
thắng những pháp VÔ
CẤU
NHIỄM, nghĩa là KHÔNG DÍNH MẮC.
- Không dính
mắc tất cả cảnh giới bên trong và bên ngoài.
- Không dính
mắc hơi thở và sự điều hòa hơi thở.
- Không dính
mắc tất cả pháp CHỈ
và tất cả pháp QUÁN.
- Không dính
mắc các tâm sở TẦM,
TỨ.
- Không dính
mắc vào những trạng thái
HỶ, LẠC, KHINH AN…
- Không dính
mắc vào trạng thái XẢ,
NHẤT TÂM.
- Không dính mắc vào
KHÔNG
VÔ BIÊN XỨ THỨC VÔ BIÊN XỨ, VÔ SỞ HỮU XỨ, và PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG XỨ…
- Không dính
mắc vào tất cả pháp hữu lậu cũng như vô lậu.
- Không dính
mắc vào tất cả những pháp đã học.
- Không dính
mắc vào tất cả những căn lành.
- Không dính
mắc vào tất cả chỗ thọ sinh, giai tầng xuất thân, gia thế, dòng dõi.
- Không dính mắc vào tất
cả GIỚI LUẬT, THIỀN ĐỊNH, CÔNG HẠNH TU TẬP.
- Không dính
mắc vào ý nguyện mong cầu xuất ly, giải thoát.
- Không dính
mắc vào tất cả sự biện giải và tranh cãi.
- Không dính
mắc vào sự nỗ lực để tinh tấn.
- Không dính
mắc vào tư tưởng chán ghét thế gian.
- Không dính
mắc vào tất cả pháp
TƯƠNG ƯNG HÀNH
và những pháp
BẤT TƯƠNG ƯNG HÀNH.
- Không dính
mắc vào ngay cả DANH
HIỆU PHẬT.
Này
VI ĐỀ HY!
Bất cứ chúng
sinh nào siêng năng xưng niệm
NAM MÔ
A DI ĐÀ PHẬT chẳng lười mỏi, chẳng lui sụt, thì chắc chắn phát huy
những
PHÁP
CHÂN THẬT,
nghĩa là không dối gạt.
- Không dối gạt
tự thân.
- Không dối gạt
tha nhân.
- Không dối gạt
Quốc Pháp.
- Không dối gạt
vì bị áp chế bởi quyền lực kẻ mạnh.
- Không dối gạt
vì bị thao túng bởi nữ sắc.
- Không dối gạt
chư vị Thiện Tri Thức như
SƯ TRƯỞNG,
bạn đồng học, đồng tu.
- Không dối gạt
tất cả những pháp đã học.
- Không dối gạt
tất cả những pháp chưa học.
- Không dối gạt đoàn thể
TĂNG
GIÀ.
- Không dối gạt
chỗ tri giải của tự tâm.
- Không dối gạt
chỗ nhận biết của người khác.
- Không dối gạt
tất cả chư Thánh Nhân, Bồ Tát,
NHƯ LAI…
Này
VI ĐỀ HY!
Bất cứ chúng sinh nào thường xuyên xưng niệm
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
thiết tha, hân ngưỡng, dẫu gặp cảnh ngộ nào cũng chẳng thối chí, thì
chiêu cảm những hạnh lành bất tư nghị. Như là:
-
TỰ TẠI HẠNH,
vì an nhiên giữa tất cả chướng duyên nơi cõi Ta bà để thành tựu thệ
nguyện.
-
TAM MUỘI HẠNH,
vì nhất tâm, bất loạn.
-
AN TRỤ HẠNH,
vì luôn luôn an trụ trong lực dụng của Danh Hiệu.
-
TRÍ TUỆ HẠNH,
vì hiểu biết tất cả tướng trạng và thú hướng của
NHÂN QUẢ.
-
THIỆN HỮU HẠNH,
vì cung kính tôn trọng cúng dường tất cả Thiện Tri Thức để học hỏi Phật
Pháp.
-
CẦU PHÁP HẠNH,
vì khát khao mong cầu pháp Bí Mật, Tạng, Liễu, Nghĩa Tạng của Nhất Thừa
Đạo.
-
SÁM
HỐI HẠNH,
vì thường đem cả ba nghiệp trong sạch mà đối trước chư Phật, chư Bồ Tát
phát thệ sám hối, nguyện từ nay về sau không tái phạm.
-
TRANG NGHIÊM HẠNH,
vì luôn luôn đem hết thảy công đức hồi hướng trang nghiêm cõi Phật.
-
TRÌ GIỚI HẠNH,
vì khéo giữ gìn Giới Luật không sai sót.
-
NHƯ LAI HẠNH,
vì phát nguyện thành tựu mọi ước muốn của hết thảy chúng sinh.
Này
VI ĐỀ HY!
Bất cứ chúng sinh nào kiên trì, dũng mãnh, xưng niệm
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
như mũi tên bắn thẳng tới đích nhắm, thì thành tựu những pháp
TINH TẤN,
nghĩa là không mỏi nhọc, nhàm chán, Như là:
- Thân cận tất
cả Thiện Tri Thức để cầu học, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
- Thọ trì tất
cả Phật Pháp, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
-
Quán sát tư duy tất cả Phật Pháp, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
-
Thấy rõ chúng sinh ngỗ nghịch cang cường, mà tâm không mỏi nhọc nhàm
chán.
- Giáo hóa và
điều phục tất cả chúng sinh vào Pháp Môn
NIỆM PHẬT,
mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
-
Đối trước những chướng duyên, hiểm nạn, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
- Nhìn Phật Đạo dài xa, trắc trở, mà tâm không mỏi
nhọc nhàm chán.
- Cúng dường tất cả Thiện Tri Thức như cúng dường
chư Phật, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
- Thực hành Bồ Tát Hạnh, mà tâm không mỏi nhọc nhàm
chán.
Này
VI ĐỀ HY!
Bất cứ chúng sinh nào khẩn thiết, chí thành xưng niệm
NAM MÔ A DI
ĐÀ PHẬT,
không xao lãng, thì chứng đắc những pháp
GIÁC TRI
siêu việt, tối thắng. Như là:
- Giác tri tất cả các pháp đều cùng một thể tánh,
như Lưu Ly sáng sạch và thanh tịnh như hư không.
- Giác tri tất cả các pháp luôn hiện bày vô lượng
tướng.
- Giác tri tất cả các pháp đều xuất phát từ một
niệm.
- Giác tri tất cả cảnh trạng nhiễm của thế gian đều
do thiện nghiệp và bất thiện nghiệp của chúng sinh hiện ra.
- Giác tri tất
cả phiền não, tập khí của chúng sinh đều do vô minh sinh khởi.
- Giác tri tất
cả sở hành của chúng sinh đều như huyễn.
- Giác tri tất
cả vọng nghiệp sai biệt của chúng sinh đều lưu xuất từ Chân Như Thường
Trụ.
- Giác tri Bản
Nguyện Lực của chư Phật là thậm thâm vi diệu khó nghĩ bàn.
- Giác tri năng
lực hộ trì của chư Phật không bao giờ bỏ sót một chúng sinh nào cả.
- Giác tri tất
cả Phật độ đều bình đẳng, vô ngại.
Này
VI ĐỀ HY!
Bất cứ chúng sinh nào chuyên tâm trì niệm danh hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
dẫu chỉ một ngày cho tới bảy ngày hoặc nhiều lần của bảy ngày, thì cảm
ứng những năng lực
TỔNG TRÌ không thể nghĩ bàn. Như thế là:
-
Tổng trì tất cả phước đức, thiện căn đã tích tập trong nhiều kiếp quá
khứ, phát sinh trí tuệ giải thoát.
- Tổng trì tất
cả pháp quyết định chân thật, đoạn trừ hết những nghi ngờ, lầm lẫn.
- Tổng trì tất
cả nghĩa lý bí mật của
NHƯ LAI THỪA.
- Tổng trì tất
cả nghĩa lý sâu mầu của khế kinh do Đức
THÍCH CA
giảng nói.
-
Tổng trì tất cả Bản Nguyện chư Phật ba đời, mà phát tâm hoan hỷ.
- Tổng trì tất
cả vi tế hạnh của chư Bồ Tát.
- Tổng trì tất cả
TAM MUỘI,
thu nhiếp vào trong
NIỆM PHẬT
TAM MUỘI,
như sữa hòa tan trong nước.
- Tổng trì tất
cả xu hướng Đại Thừa mà không chống trái.
- Tổng trì
KHÔNG TÁNH của tất cả pháp hữu vi hoặc vô vi, siêu việt
HỮU, VÔ, ĐOẠN, THƯỜNG…
Này
VI ĐỀ HY!
Bất cứ chúng sinh nào hoan hỷ xưng tán hoặc cung kính chấp trì Danh Hiệu
NAM
MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
dẫu chỉ một niệm cho tới mười niệm, hoặc nhiều lần của mười niệm, thì sẽ
âm thầm khế hợp với những thứ
TÂM BÌNH
ĐẲNG như
là:
-
TÂM BÌNH
ĐẲNG, tích
tập, lưu xuất, và thành tựu tất cả thiện căn, công đức của chư Phật, chư
đại Bồ Tát.
-
TÂM BÌNH
ĐẲNG phát
khởi và kiên định tất cả Thệ Nguyện.
-
TÂM BÌNH ĐẲNG
nơi các sắc thân, tướng mạo sai biệt của hết thảy chúng sinh.
-
TÂM BÌNH ĐẲNG
nơi nghiệp báo, thú hướng của hết thảy các loại chúng sinh.
-
TÂM BÌNH ĐẲNG
nơi tất cả tri kiến đúng sai, lành dữ tốt xấu… của hết thảy các loại
chúng sinh.
-
TÂM BÌNH ĐẲNG
nơi tất cả Phật Pháp và Phi Chính Pháp.
-
TÂM BÌNH ĐẲNG
nơi tất cả giới tịnh uế mà không sinh tâm phân biệt.
-
TÂM BÌNH ĐẲNG
nơi tất cả hạnh tu không phân biệt.
-
TÂM BÌNH ĐẲNG
nơi năng lực tiếp độ của tất cả Phật.
-
TÂM BÌNH ĐẲNG
nơi trí tuệ giải thoát của chư Phật.
Này
VI ĐỀ HY!
Bất cứ chúng sinh nào tùy thuận khế kinh mà xưng niệm danh hiệu
NAM MÔ A DI
ĐÀ PHẬT,
với tâm vô cầu thì sẽ phát xuất những công đức
VÔ ÚY BẤT
TƯ NGHỊ.
Như là:
- An nhẫn giữa những chướng ngại, mà mở rộng tâm
VÔ
ÚY.
- Hộ trì chánh pháp không mỏi nhọc, mà trưởng dưỡng
tâm
VÔ ÚY.
- Hàng phục tất cả ác tri thức, đưa hết thảy vào
chính kiến, nêu cao tâm
VÔ ÚY.
- Vì sự trường tồn của chính pháp, mà phát khởi tâm
VÔ
ÚY.
Vì chí nguyện cứu độ tất cả chúng sinh, chẳng tiếc
tính mạng thành tựu tâm
VÔ ÚY.
- Xô dẹp tất cả tà kiến của ngoại đạo, đánh đổ
thành kiến của nhị thừa, mà phát tâm
VÔ ÚY.
- Làm cho tất cả chúng sinh hoan hỷ tu tập pháp Đại
Thừa, mà phát khởi tâm
VÔ ÚY.
- Kiên cố giữ vững Bồ Đề Tâm, Bồ Đề Nguyện, mà phát khởi tâm VÔ ÚY.
- Không khinh hủy những người phạm giới, không dua
nịnh những bậc giới thể hoàn bị, mà phát khởi tâm
VÔ ÚY.
- Nghe nói pháp chưa học mà không sợ sệt, phát khởi
tâm
VÔ ÚY.
Này
VI ĐỀ HY!
Bất cứ chúng sinh nào phục sức thân tâm bằng danh hiệu
NAM MÔ A DI
ĐÀ PHẬT,
thì sẽ đắc những năng lực giải thoát không thể nghĩ bàn. Như là:
- Giải thoát phiền não, không còn bị thập triền,
thập sử xâm hủy, bức hại, nhiễu loạn.
- Giải thoát tà
kiến, thế gian và tà kiến ngoại đạo.
- Giải thoát
những biện giải về sự giải thoát.
- Giải thoát
những mục tiêu an trụ niết bàn của nhị thừa.
- Giải thoát
những trói buộc, áp chế của
UẨN, XỨ, GIỚI.
- Giải thoát
những chấp trước về Phật Pháp.
- Giải thoát
những chấp trước về phi chánh pháp.
- Giải thoát
tất cả hí luận về Thật Nghĩa của Nhất Thừa.
- Giải thoát
tất cả trí giải sai lầm của
SÁU CĂN.
- Giải thoát
tất cả hí luận về Cảnh Giới Diêu Việt của Chư Phật, chư Bồ Tát.
- Giải thoát hí
luận, biện tài về
KHÔNG TÁNH, về những pháp
VÔ SỞ ĐẮC.
Này
VI ĐỀ HY!
Bất cứ chúng sinh nào thoáng nghe danh hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
liền tín thọ chấp trì, niệm niệm nối nhau không gián đoạn, thì sẽ hiển
lộ những thứ TÂM BẤT
ĐỘNG. Như
là:
- Sẵn sàng xả
bỏ tất cả sở hữu, mà không hề nuối tiếc, do đó, tâm được bất động.
- Đối với tất
cả chúng sinh, thề không có lòng não hại, do đó tâm được bất động.
- Trong việc
nhiếp hóa chúng sinh, chẳng hề phân biệt kẻ oán người thân. Do đó, tâm
được bất động.
- Dầu ham làm
các thiện sự nhưng chỉ gặp thất bại, hủy nhục nhưng không hề lui sụt Bồ
Đề Tâm Nguyện. Do đó, tâm được bất động.
- Tư duy, quán
sát diệu nghĩa của Tánh
KHÔNG
mà chẳng hề sợ sệt, ngăn lại. Do đó tâm được bất động.
-
Nhìn ngũ trược ác thế, thấy chúng sinh say sưa nô đùa với tám món điên
đảo, mà không chán ghét, bỏ lìa, khinh chê. Do đó, tâm được bất động.
- Nghe những
pháp khó tin, khó hiểu của Đại Thừa mà ghi nhớ không quên, do đó, được
tâm bất động.
- Dẫu sống trong thế pháp nhiễm ô, mà vẫn tu tập Phạm
Hạnh, hộ trì Tịnh Giới. Do đó, tâm được bất động.
-
Nơi chỗ sở đắc, và nơi chỗ vô sở đắc, luôn luôn giữ lòng an nhiên, chẳng
náo loạn. Do đó, được tâm bất động.
- Đối với kẻ
trí nhỏ, khinh chê pháp Đại Thừa, mà mình cũng không sinh lòng giận hờn,
ghét bỏ. Do đó, tâm được bất động.
Này
VI ĐỀ HY,
Bất cứ chúng
sinh nào nhất tâm xưng niệm danh hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
dẫu với tâm thái nào đi nữa, thuận ý hoặc nghịch ý, ham thích hoặc chống
trái, đều thâu hoạch vô số
TRÍ LỰC
bất tự nghị. Như là:
-
TRÍ LỰC QUÁN CHIẾU,
thấy rõ tất cả các pháp đều do
NHÂN DUYÊN sinh khởi.
-
TRÍ LỰC NHƯ THẬT,
nhận biết tất cả các pháp đều chẳng thật đều như huyễn hóa, như mộng mị.
-
TRÍ LỰC NHƯ NHƯ,
thấy rõ tất cả các pháp không đối nghịch, mâu thuẫn.
-
TRÍ LỰC VÔ ÚY,
thấy rõ tất cả các pháp biến dịch không ngừng, sinh trụ diệt từng sát
na, mà chẳng tham luyến hay sợ hãi.
-
TRÍ LỰC KIM CƯƠNG,
vì thực hành Hạnh Nguyện Bồ Tát, lợi lạc quần mê, mà chẳng dính mắc vào
Ngã Tướng, Nhân Tướng. Chúng Sinh Tướng, Thọ Giả Tướng.
-
TRÍ
LỰC TỊCH TỊNH,
vì trực nhận sâu xa cái bản thể vắng lặng, thường trụ, thanh tịnh của
các pháp.
-
TRÍ LỰC VIÊN MÃN,
vì tuy khẩn thiết cầu sinh Cực Lạc mà vẫn nguyện trở lại Ta Bà cứu độ
chúng sinh.
-
TRÍ LỰC THIỆN XẢO,
vì khéo léo phân biệt ý nghĩa chân thật của các pháp và khéo léo sử dụng
phương tiện để dìu dắt chúng sinh.
-
TRÍ LỰC THẬM THÂM,
vì tương ứng với đạo Nhất Thiết Trí.
-
TRÍ LỰC VÔ NGẠI,
vì hiểu biết tâm ý và sở hành của chúng sinh, nhẫn nại làm cho họ phát
Bồ Đề Tâm, hoan hỷ siêng tu kiên cố, bất thối.
-
TRÍ LỰC TỐI THẮNG,
vì tự nhiên tin nhận vô biên diệu dụng của hồng danh
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
mà chẳng phân vân thủ xả.
Này
VI ĐỀ HY!
Bất cứ chúng sinh nào thậm thâm tin hiểu, hoan hỷ thọ trì
danh hiệu
NAM MÔ
A DI ĐÀ PHẬT,
hoặc một ngày, hoặc bảy ngày, cho tới nhiều lần của bảy ngày, thì sẽ đắc
mười pháp QUYẾT ĐỊNH
BẤT KHẢ TƯ NGHỊ.
Như là:
QUYẾT ĐỊNH
đời đời thọ sinh trong dòng giống
NHƯ LAI.
QUYẾT ĐỊNH
vĩnh viễn an trú trong cảnh giới vô lượng quang minh nghiêm sức của
CHƯ PHẬT.
QUYẾT ĐỊNH
thấu triệt công hạnh, tâm nguyện của chư Bồ Tát.
QUYẾT ĐỊNH
an trụ trong vô số các môn
BA LA MẬT.
QUYẾT ĐỊNH
tham dự trong những chúng hội đạo tràng của chư
NHƯ LAI.
QUYẾT ĐỊNH
đủ năng lực hiện bày thể tánh và chủng tướng của chư
NHƯ LAI.
QUYẾT ĐỊNH
an trụ trong trí tuệ siêu việt, giải thoát của
NHƯ LAI, thâm nhập Bồ Đề Giác Tánh của chư Phật.
QUYẾT ĐỊNH
an trụ trong BẢN
NGUYỆN vĩ
đại của ĐỨC PHẬT A DI
ĐAØ, chắc
chắn được Ngài tiếp dẫn.
QUYẾT ĐỊNH hòa hợp Thân và Tâm vào trong Kim Thân của chư Phật.
QUYẾT ĐỊNH
hóa sinh tự nơi hoa sen báu, cũng một chỗ ở với chư Phật, chư Thánh
Chúng.
Này
VI ĐỀ HY!
Bất
cứ chúng sinh nào quyết liệt đối với Bồ Tát Đạo, luôn tinh tấn xưng niệm
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT,
hoặc một ngày hoặc bảy ngày, hoặc nhiều lần của bảy ngày. Liên tục như
vậy, trọn đời không mỏi nhọc. Thì chắc chắn thành tựu
MƯỜI
GIỚI PHÁP THANH TỊNH, xứng đáng là bậc tôn quý trong hàng nhân thiên.
Như là:
THANH TỊNH GIỚI
nơi thân, vì xa lìa nghiệp
SÁT SINH, DÂM DỤC, TRỘM CẮP.
THANH TỊNH GIỚI
nơi miệng, vì xa lìa bốn nghiệp dữ
VỌNG NGÔN, Ỷ NGỮ, LƯỠNG
THIỆT, ÁC KHẨU.
THANH TỊNH GIỚI
nơi ý, vì xa lìa ba nghiệp xấu nơi ý, đó là
THAM LAM, SÂN HẬN, TÀ KIẾN.
BỒ ĐỀ TÂM GIỚI
nơi sự nghiệp Tuệ Giác, vì chẳng ưa thích pháp Tiểu, Thừa, mà đặt trọn
chí hướng nơi PHẬT TRI
KIẾN.
BA LA MẬT GIỚI
nơi sự nghiệp hóa độ tất cả chúng sinh, vì thực hành vô lượng ba la mật,
khéo dẫn dắt chúng sinh vào
NHƯ LAI THỪA.
THÂM MẬT GIỚI
nơi phương tiện thiện xảo, vì giữ gìn Giới Thể trong sạch như Lưu Ly, và
khéo cứu vớt tất cả chúng sinh trót hủy phạm giới luật.
NHIẾP THỌ GIỚI
nơi đại nguyện viên mãn, vì luôn ngăn ngừa chúng sinh làm những việc ác,
mà chỉ giúp họ làm các việc lành.
NHẤT THIẾT NGHĨA KHÔNG GIỚI,
vì thấu triệt trọn vẹn nghĩa lý mật nhiệm của
KHÔNG TÁNH, RỜI BỎ TẤT CẢ
KIẾN CHẤP HỮU LẬU CŨNG NHƯ BUÔNG
bỏ ngay cả Trí Tạng VÔ
LẬU.
THỦ HỘ GIỚI,
vì nơi tất cả chúng sinh, luôn phát khởi lòng đại bi đưa hết thảy vào
Như Thật Đạo. Không để chúng sinh rơi vào Tà Kiến, và đọa vào ba đường
dữ.
TÙY NHẠO GIỚI,
vì luôn khiêm cung chất trực và nhu hòa. Không bao giờ rêu rao lỗi lầm
của chư Tỳ kheo, chư Tỳ Kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, cũng như những
người sơ học.
Này
VI ĐỀ HY!
Giả sử đem muôn ức
na do tha hằng hà sa quốc độ mà nghiền thành vi trần, cứ mỗi mỗi vi trần
là một đại kiếp. Dùng khoảng thời gian vô cùng dài lâu ấy, để diễn nói
tất cả NĂNG LỰC BẤT TƯ
NGHỊ của
Danh Hiệu NAM MÔ A DI
ĐÀ PHẬT thì
cũng không thể nào diễn nói cho đầy đủ hết được.
Nay ta tạm tuyên
thuyết ít phần trong vô lượng vô biên bất khả thuyết bất khả thuyết
NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ
của Danh
Hiệu thù thắng, vi diệu đệ nhất ấy Ngươi hãy tín thọ, ghi nhớ, suy gẫm,
và nhất tâm phụng trì.
Ngài
QUÁN THẾ ÂM
vừa dứt lời, bấy giờ, mười phương chư Phật đồng hiện ra, khen rằng:
- Lành thay! Lành
thay! Phật tử QUÁN THẾ
ÂM thực
hiện việc làm hi hữu. Khéo vì chúng sinh thời mạt pháp mà xưng tán,
tuyên dương NĂNG LỰC
BẤT TƯ NGHỊ
của Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
Ai nhất tâm xưng niệm Danh Hiệu ấy, sẽ được Chư Phật hộ trì và nhiếp
thọ, quyết định thành Phật.
PHẨM THỨ BẢY
KHUYẾN PHÁT NIỆM PHẬT VÀ ĐỌC TỤNG CHÂN
NGÔN
Lúc bấy giờ,
ngài PHỔ HIỀN Đại Bồ Tát bạch Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn,
con nay vì thương tưởng chúng sinh nơi thời mạt pháp, khi ấy kiếp giảm,
thọ mạng ngắn ngủi, phước đức kém thiếu, loạn trược tăng nhiều, kẻ chân
thật tu hành rất ít. Con sẽ ban cho Người
NIỆM PHẬT
thần chú đà ra ni này, để thủ hộ thân tâm, nhổ tận gốc rễ nghiệp chướng,
trừ sạch phiền não, được mau chóng sinh về
CỰC LẠC.
Gọi là BẠT NHẤT THIẾT
NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BẢN ĐẮC SINH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI.
Liền nói thần chú:
-
NAM MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA
DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA,
A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ,
A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ,
A DI RỊ ĐA TÌ CA LAN ĐẾ,
A DI RỊ ĐA, TÌ CA LAN ĐA,
DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA,
CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA.
Người niệm Phật
phải giữ giới, ăn chay, thân khẩu ý đều phải thanh khiết. Ngày đêm sáu
thời, mỗi thời tụng
HAI MƯƠI MỐT BIẾN.
Như vậy, diệt được các tội: Tứ trọng, Ngũ Nghịch, Thập Ác, và hủy báng
Chính Pháp. Thường được
ĐỨC PHẬT
A DI ĐÀ
hiện trên đỉnh
đầu. Hiện đời an ổn, phước lạc. Hơi thở cuối cùng, được tùy nguyện mà
vãng sinh Cực Lạc. Hoặc tụng đến ba chục muôn biến, liền thấy Phật ngay
trước mặt mình.
Bấy giờ, ngài
QUÁN THẾ ÂM Đại Bồ Tát bước ra trước Phật, bạch rằng:
- Này con nương
uy thần của Đức Phật A
DI ĐÀ, mà
ban cho chúng sinh quyết chí niệm Phật thời mạt pháp, một
CHÂN NGÔN
gọi là:
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN
NGÔN. Đây
là Tạng Pháp Bí Mật của Phật
A DI ĐÀ,
ẩn chứa vô biên thần lực tự tại bất tư nghị. Nếu hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo
Ni, hoặc Ưu bà tắc, Ưu bà di lỡ phạm giới căn bản, tụng xong bảy biến
liền trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Tụng hai mươi mốt biến, tiêu
diệt các tội Tứ Trọng, Ngũ Nghịch, Thập Ác và tất cả chướng ngại trên
bước tu hành đều trừ sạch. Hiện đời an lạc, thuận lợi, được sự nhiếp thọ
của Vô Lượng Thọ Như Lai. Tụng một muôn biến, tâm Bồ Đề hiển hiện nơi
thân không quên mất. Thấy Đức Phật phóng quang tụ trên đỉnh đầu. Người
niệm Phật lần lần thể nhập tịnh tâm tròn sáng, mát mẻ, tiêu tan tất cả
phiền não. Khi lâm chung, hành giả niệm Phật liền thấy Phật
A DI ĐÀ
cùng vô lượng muôn
ức Bồ Tát vây quanh, an ủi, tiếp dẫn. Người niệm Phật tức khắc được sinh
về THƯỢNG PHẨM Ở CỰC
LẠC.
Sau đây, con
xin tuyên đọc VÔ LƯỢNG
THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN.
- NAM MÔ RA TỜ NA, TỜ RA
GIA GIA, NAM MÔ A RI GIA, A MI TA BÀ GIA, TA TA GIA TA GIA, A RA HA TÊ,
SAM MIA SAM BỒ ĐÀ GIA.
TA ĐI GIA THA: A UM, A MI
RI TÊ, A MI RI TA, ÔN BA VI. A MI RI TA, SAM BA VI. A MI RI TA, CA RI
PI. A MI RI TA, PI TÊ. A MI RI TA, TÊ CHÊ. A MI RI TA, VI GA LAN TÊ, A
MI RI TA, VI GA LAN TÊ, GA MI NÊ. A MI RI TA, GA GA NAI, GA RI TÊ CA RI.
A MI RI TA, TÔN TÔ TÔ PI. SÔ OA RI, SA RI OA. A LẮT THÁT. SA TA NÊ. SA
RI OA. GA RI MA. CA RI XA. CA RI GIA. CA SO HA.
Ngài
QUÁN THẾ ÂM
vừa đọc xong bài Chân Ngôn ấy, bỗng vô lượng vô biên vô số thế giới đều
chấn động sáu cách, quang minh chiếu rực cả mười phương. Đức
THÍCH
CA
cùng chư Phật khắp thế giới hư không giới, đồng thanh khen
ngợi: “Lành thay! Lành thay!”.
Lúc bấy giờ, Diệu Nguyệt
trưởng giả
vui mừng vô hạn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo phơi bày vai hữu, đi
nhiễu quanh Đức Phật
THÍCH CA ba
vòng. Rồi chắp tay, quỳ gối, hướng Phật mà đọc bài kệ khen ngợi:
Đức Phật
THẾ
TÔN CHÍNH BIẾN TRI.
Tướng hảo đoan nghiêm đều viên mãn.
Rủ đại từ bi vô
giới hạn
Mở bày đại pháp
cứu quần mê.
NIỆM PHẬT HIỆN TIỀN ĐẮC
PHẬT TƯỚNG.
Thâm nhập Cảnh Giới Bất Tư Nghị.
Nhân đây Bồ Tát
Sơ Phát Tâm
Quyết định một lòng xưng niệm Phật
Hồng Danh chứa nhóm vô
lượng nghĩa
Lợi
lạc muôn ức chúng hữu tình.
Đức
PHẬT Thế Tôn đấng VÔ THƯỢNG
Tri
kiến giác ngộ đều quang minh
Rắc
rải tuệ nhật khắp mười phương
Rưới trận mưa
pháp như Cam lộ
NIỆM PHẬT VÃNG SINH CÕI CỰC LẠC
An
nhiên chứng đắc Vô Sinh Nhẫn.
Nhân đây Bồ Tát
Sơ Phát Tâm.
Gìn
giữ thân tâm bằng PHẬT HIỆU
Hồng danh tỏ ngộ CHÂN NHƯ TÁNH
Dẫn
dắt chúng sinh vào Tam muội.
Đức
PHẬT Như Lai đấng BẤT ĐỘNG
Chẳng đến,
chẳng đi, chẳng đoạn thường
Xa lìa chấp
HỮU
hoặc chấp VÔ
Tự tại chỉ bày
phương tiện lực
NIỆM PHẬT AN TRỤ NƠI BẢN
GIÁC
Tùy
nghi hòa hợp với TÁNH KHÔNG
Nhân đây Bồ Tát
Sơ Phát Tâm
Trang nghiêm tự
thân bằng NIỆM PHẬT
Hồng Danh hiển phát HƯ KHÔNG TẠNG
Tức
thời thẳng vào VIÊN GIÁC TÁNH
Con nay xưng
tán Đại Đạo Sư
Khen ngợi Hồng
Danh VÔ LƯỢNG LỰC
Nguyện đem hồi hướng khắp chúng
sinh
Mong cầu hết thảy cùng niệm Phật.
Lúc bấy giờ,
trưởng giả Diệu Nguyệt ở trước Đức Thế Tôn, đọc bài kệ khen ngợi Phật
rồi, thành khẩn thưa hỏi như thế này:
- Kính bạch
THẾ TÔN toàn giác toàn tri,
KINH
này tên gọi là gì?
Chúng con phải thọ trì như thế nào?
PHẬT
bảo ông Diệu Nguyệt trưởng giả rằng:
-
KINH
này gọi là NIỆM PHẬT
BA LA MẬT KINH
còn gọi là
XƯNG TÁN HỒNG DANH CÔNG ĐỨC
KINH. Cũng
có tên là NIỆM PHẬT
BÁT NHÃ TAM MUỘI KINH.
Các ngươi y theo đó mà thọ trì.
Này Diệu
Nguyệt, trong thời mạt pháp, các kinh điển Đại Thừa đều diệt tận. Nơi
cõi Nam Diêm Phù Đề này chỉ có kinh này tồn tại. Đức Phật
A DI ĐÀ
cùng Ta, đều rộng mở Đại Từ Bi mà lưu trụ kinh này thêm mười năm nữa.
Hai vị đại Bồ Tát QUÁN
THẾ ÂM và
PHỔ HIỀN
đồng phát nguyện thủ hộ kinh này, và che chở những người niệm Phật,
khiến những kẻ chống trái và các ác ma không thể làm nhiễu loạn, bức hại
được.
Đức
THÍCH CA MÂU NI
Thế Tôn nhìn chúng hội đạo tràng, mà bảo rằng:
- Này đại
chúng! Nơi thời kỳ chính pháp cuối cùng, hoặc về sau nữa, nếu có người
nào thọ trì, đọc tụng, suy gẫm, biên chép kinh
NIỆM PHẬT BA LA MẬT
này, thì các ngươi phải biết người ấy trong vô lượng vô biên bất khả tư
nghị kiếp lâu xa đã từng gặp gỡ, thân cận, cúng dường tôn trọng chư
Phật. Người ấy vốn thật sự từ
BÁT NHÃ TRÍ
sinh ra, đời đời thực hành giáo pháp
NHƯ LAI VÔ TẬN TẠNG.
- Này đại
chúng! Nơi thời kỳ chính pháp cuối cùng, hoặc về sau nữa, nếu có người
nào thoáng nghe qua kinh
NIỆM PHẬT BA LA MẬT
này, mà phát khởi tín tâm chắc thật, chẳng kinh nghi thì các ngươi phải
biết người ấy ở trong vô lượng vô biên bất khả tư nghị kiếp lâu xa từng
dũng mãnh phát BỒ ĐỀ
TÂM, tu
BỒ TÁT HẠNH
không mỏi nhọc, và nơi chư Phật từng gieo trồng Giải Thoát Đức, Bát Nhã
Đức, Pháp Thân Đức chẳng thể tính đếm, thí dụ được.
- Này đại
chúng! Nơi thời kỳ chính pháp cuối cùng, hoặc về sau nữa, nếu có người
nào tin nhận, ghi nhớ rõ ràng nghĩa thú của kinh
NIỆM PHẬT BA LA MẬT
này, rồi nương theo đó mà xưng niệm Danh Hiệu
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
Dẫu một niệm, hai niệm, cho tới mười niệm hoặc nhiều lần của mười niệm
thì các ngươi phải biết người ấy chắc chắn được Phật thọ ký, hiển phát
năng lực của TÁNH
KHÔNG, tỏ
ngộ Tri Kiến NHƯ LAI,
và bước thẳng vào Cảnh Giới
THÁNH TRÍ TỰ CHỨNG.
- Này đại
chúng! Nếu các ngươi thấy người nào thọ trì kinh này, và thường xuyên
niệm Phật, thì phải khởi lòng tôn trọng y như kính ngưỡng chư Phật vậy.
Chớ nên móng tâm ngăn trở người thọ trì kinh này, chẳng được phơi bày
lỗi lầm, sai trái của người niệm Phật.
Này đại chúng!
Nên biết rằng, vô lượng vô biên muôn ức na do tha vi trần số
HÓA THÂN
và TA
khắp tất cả quốc
độ trong mười phương, cũng đều giảng nói kinh
NIỆM PHẬT BA LA MẬT,
cùng đều khuyến phát chúng sinh siêng năng niệm Phật. Tất cả chư Phật
phân thân của TA
luôn luôn phóng đại quang minh nhiếp thọ và thủ hộ những chúng sinh niệm
Phật, không bỏ rời.
Lúc Phật dạy
kinh này xong rồi, chư vị đại Bồ Tát ở mười phương, chư vị Trưởng Lão,
Thanh Văn, như ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ma ha Ca Diếp v.v… cùng
các Trời, Rồng, Dạ Xoa, Nhân Phi Nhân… tất cả đại chúng đều rất hoan hỷ,
thọ trì lời Phật dạy, ân cần đảnh lễ mà lui ra.
PHẬT
THUYẾT NIỆM PHẬT
BA LA MẬT KINH
- NẾU AI CHUYÊN TU VỀ TỊNH
ĐỘ, CHÚ BẠT NHẤT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG TRÌ 108 BIẾN, TRÌ DANH HIỆU PHẬT A
DI ĐÀ TỐI THIỂU LÀ 1080 BIẾN, NGÀY HAI THỜI CÔNG PHU, TRÌ BẠT NHẤT THIẾT
NGHIỆP CHƯỚNG 200 NGÀN BIẾN, SẼ MỘNG THẤY HẢO TƯỚNG, ĐỨC A DI ĐÀ SẼ SỜ
ĐẦU THỌ KÝ. NẾU AI CÓ NHÂN DUYÊN TU HÀNH THEO NGHI TỊNH ĐỘ NÀY, VÀ LUÔN
LUÔN LẤY GIỚI LÀM THẦY – KHI MẠNG CHUNG QUYẾT ĐỊNH VÃNG SANH HÀNG THƯỢNG
PHẨM THƯỢNG SANH.
- NẾU NHẬP THẤT, NGÀY CHIA
SÁU THỜI, CÁCH HÀNH TRÌ NHƯ SAU: SÁM HỐI THẤT PHẬT, CHƠN NGÔN TRÌ 108
BIẾN – ĐẠI BI CHÚ TỤNG 21 BIẾN, BẠT NGHIỆP CHƯỚNG 108 BIẾN, TÂM CHÚ A DI
ĐÀ 108 BIẾN, DANH HIỆU PHẬT A DI ĐÀ 108 BIẾN CHO MỘT THỜI CÔNG PHỤ (MỘT
KỲ NHẬP THẤT LÀ 7 NGÀY, 21 NGÀY, 49 NGÀY, 100 NGÀY).
CÔNG NĂNG ĐẠI CHÚ A DI ĐÀ
- NẾU AI TỤNG CHÚ NÀY, VỪA
TỤNG MỘT BIẾN, TỨC THÌ DIỆT TRỪ ĐƯỢC 10 ÁC, 4 TRỌNG VÀ NĂM TỘI VÔ GIÁN Ở
TRONG TÂM, HẾT THẢY CÁC NGHIỆP CHƯỚNG ĐỀU ĐƯỢC TIÊU DIỆT SẠCH, NẾU CÓ TỲ
KHEO, TỲ KHEO NI, PHẠM TỘI CĂN BẢN, ĐỐI TRƯỚC TAM BẢO, THÀNH TÂM PHÁT
LỜI SÁM HỐI VÀ CHÍ THÀNH TỤNG CHÚ 7 BIẾN, LIỀN ĐƯỢC TRỞ LẠI GIỚI PHẨM
THANH TỊNH, TỤNG MỘT VẠN BIẾN, VĨNH VIỄN KHÔNG THỐI TÂM BỒ ĐỀ, SAU KHI
LÂM CHUNG SẼ THẤY PHẬT A DI ĐÀ VÀ VÔ LƯỢNG BỒ TÁT CÙNG THÁNH CHÚNG VÂY
QUANH NGHÊNH TIẾP HÀNH GIẢ, AN ỦI THÂN TÂM, TỨC SANH VỀ THẾ GIỚI CỰC
LẠC, BẤT THỐI CHUYỂN, HÀNG THƯỢNG PHẨM THƯỢNG SANH, CHỨNG BỒ TÁT VỊ.
CÔNG NĂNG CHÚ VÃNG SANH
-
AI TỤNG CHÚ NÀY, PHẬT A DI ĐÀ THƯỜNG TRỤ TRÊN ĐẢNH ĐẦU, SAU KHI MẠNG
CHUNG, TỰ NHIÊN ĐƯỢC VÃNG SANH, TỤNG CHÚ NÀY THƯỜNG XUYÊN, DIỆT ĐƯỢC CÁC
TỘI TỨ TRỌNG, NĂM NGHỊCH, THẬP ÁC, BÀI BÁC PHƯƠNG ĐẲNG VÀ DIỆT TRỪ ĐƯỢC
HẾT SỰ NHIỄU HẠI CỦA QUỶ THẦN, MA QUỶ TRONG HIỆN TẠI, CÔNG ĐỨC CHÚ NÀY
BẤT KHẢ TƯ NGHỊ.
CÔNG NĂNG A DI ĐÀ TÂM CHÚ
-
THƯỜNG XUYÊN THỌ TRÌ, ĐỌC TỤNG ĐƯỢC TĂNG TRƯỞNG PHƯỚC ĐỨC, TĂNG ÍCH TRÍ
HUỆ. BIỆN TÀI VÔ NGẠI, THỌ MẠNG VÀ SẮC LỰC CÀNG ĐƯỢC LÂU DÀI, TIÊU TRỪ
NGHIỆP CHƯỚNG, TIÊU DIỆT VẠN BỊNH, BI, ÁI, NGỮ TĂNG TRƯỞNG, MỌI SỰ ĐỀU
TỐT ĐẸP, VĨNH VIỄN THOÁT KHỎI NHÀ LỬA TAM GIỚI, NGƯỜI THỌ TRÌ ĐƯỢC VÃNG
SANH HÀNG THƯỢN
G
PHẨM THƯỢNG SANH. ĐÂY LÀ TÂM CHÚ BÍ MẬT CỦA ĐỨC A DI ĐÀ.
MƯỜI CÔNG ĐỨC ẤN TỐNG
KINH, TƯỢNG PHẬT
Một là, những
tội lỗi đã tạo từ trước, nhẹ thì được tiêu trừ, nặng thì chuyển thành
nhẹ.
Hai là, thường
được thiện thần ủng hộ, tránh được tất cả tai ương hoạn nạn, ôn dịch,
nước, lửa, trộm cướp, đao binh, ngục tù.
Ba
là, vĩnh viễn tránh khỏi những quả báo phiền khổ, oán cừu oan trái của
đời trước cũng như đời này.
Bốn là, các vị
hộ pháp thiện thần thường gia hộ nên những loài dạ xoa, ác quỷ, rắn độc,
hùm beo tránh xa không dám hãm hại.
Năm là, tâm
được an vui, ngày không gặp việc nguy khốn, đêm ngủ không thấy ác mộng.
Diện mạo hiển sáng, mạnh khỏe an lành việc làm thuận lợi, được kết quả
tốt.
Sáu là, chí
thành hộ pháp, tâm không cầu lợi, tự nhiên y phục đầy đủ, gia đình hòa
thuận, phước lộc đời đời.
Bảy
là, lời nói việc làm trời người hoan hỷ, đến đâu cũng được mọi người
kính mến ngợi khen.
Tám
là, ngu chuyển thành trí, bệnh lành mạnh khỏe, khốn nghèo chuyển thành
thịnh đạt. Nhàm chán nữ thân, mệnh chung liền được nam thân.
Chín là, vĩnh
viễn xa lìa đường ác, sinh vào cõi thiện, tướng mạo đoan nghiêm, tâm trí
siêu việt, phước lộc tròn đầy.
Mười là, hãy vì
tất cả chúng sinh trồng các căn lành. Lấy tâm cầu của chúng sinh làm
ruộng phước điền cho mình. Nhờ công đức ấy đạt được vô lượng phước quả
thù thắng. Sinh ra nơi nào cũng thường được thấy Phật, nghe Pháp, phước
huệ rộng lớn, chứng đạt lục thông, sớm thành Phật quả.
Ấn Quang Tổ sư
dạy: Ấn tống kinh, tượng Phật được công đức thù thắng như vậy, nên gặp
khi chúc thọ, thành hôn, cầu phước, thoát nạn, sám hối, cầu tiêu trừ tật
bệnh, cầu siêu độ hương linh, hãy tinh tấn phát tâm Bồ Đề ấn tống, để
trồng cội phước đức cho chính mình và thân bằng quyến thuộc.
Nam
mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Bạch Đức Thế
Tôn hôm nay chúng con đồng thành kính chung góp ấn tống quyển kinh “Niệm
Phật Ba La Mật”.
Nguyện tới tay
những ai đọc tụng kinh này đều được đầy đủ niềm tin phát tâm tinh tấn
bất thối chuyển. Niệm “Nam mô A Di Đà Phật” để được tiêu trừ hết tất cả
tội lỗi từ vô thỉ nghìn ức kiếp về trước cho đến ngày nay, và diệt tận
gốc rễ những vọng tưởng điên đảo mê lầm sớm thành tựu niệm Phật tam muội
hiện tiền, mãn báo thân này được vãng sinh về cõi Cực Lạc.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT