Trang tiếng Việt

 Trang Nhà Quảng Đức

Trang tiếng Anh

Truyện Tích Phật Giáo


...... ... .

 

 

 

Thay lời tựa

Tác giả vốn không có năng khiếu văn chương. Trong những ngày lạc lõng nơi xứ người, niềm khát khao tiếng mẹ thôi thúc tác giả viết về quê hương, xóm làng, bè bạn, chùa chiền… để vơi sầu, và nhân duyên tình cờ đó đã đưa đẩy đến việc hoàn thành tập truyện ngắn nầy.

Tác phẩm phảng phất hình ảnh chùa chiền như là những kỷ niệm không nguôi, có lẽ vì tác giả quá quen thuộc với việc ăn chùa và ngủ chùa – nghĩa đen lẫn nghĩa bóng - Đối với người dân miền Nam, những gì liên hệ đến chùa đều gần gũi, mật thiết với họ:  “của chùa” có thể hiểu giản dị là “của chính mình hay “của chung” – mà vì là của chung nên chùa cũng có nghĩa là miễn phí – Quay về dưới mái chùa, do đó, tương tợ như về dưới mái nhà xưa ấm êm, để được chở che, nâng niu trìu mến. Trong nếp sống lãng quên, quay cuồng theo thăng trầm vinh nhục, đôi khi tác giả bỗng dừng lại “TRỞ VỀ CHÙA” như một đứa con hoang đàng trở về nhà, để được sống những giờ phút thật “…chùa”. An nhiên tận hưởng hương vị đậm đà thương yêu mà chỉ riêng không khí chùa chiền mới có. Vì vậy, đối với tác giả, Chùa cũng là quê hương. Nhớ Chùa, viết về Chùa, chính thật ra là nhớ quê hương và viết về đất nước giống nòi.

Tác giả cũng long trọng minh xác là chuyện viết không ẩn ý. Nếu có sự trùng hợp làm phiền lòng giới nào, thì tác giả kính xin được rộng lòng tha thứ. Tác giả chỉ hy vọng gởi đến người đọc đôi chút giải khuây nhẹ nhàng, và nếu may mắn đạt được, thì đó là một khích lệ lớn lao cho tập truyện khiêm tốn nầy.

Trân trọng.

Dưới cội tùng

Thỉnh chuông lễ Phật, Can vẫn không thấy lòng thanh tịnh. Một chút bứt rứt pha lẫn hổ thẹn thúc đẩy Can rời chánh điện, vội vã như trốn chạy theo lối mòn sau tu viện.

Can áy náy vì thật ra, với chàng lễ Phật chỉ là một bình phong. Kim Sơn tu viện, chẳng qua là nơi tạm trú lý tưởng, chốn ẩn thân miễn phí, không tiết lộ lý lịch, lại tiện đường cho chàng, ban đêm, có thể về San Jose dò xét chuyện nhà.

Càng nghĩ vẩn vơ, Can càng tức giận điên cuồng, chàng lẩm bẩm chửi rủa, đập phá lung tung, rồi vô tình lượm một viên đá, ném mạnh vào thân tùng trước mặt. Cây cổ thụ hùng vĩ nầy là cây to nhất tu viện, ước chừng đã ngàn năm sừng sững với thời gian.

Tiếng sột soạt nhẹ làm Can bừng tỉnh. Từ sau thân cây tùng, một vị sư già chầm chậm đi ra. “A Di Đà Phật”, vị sư già trang nghiêm hướng về Can, hai tay chắp hình búp sen, xá chào thật sâu.

Can e thẹn về cử chỉ thô lỗ của mình, vừa bối rối trước lối chào trang trọng của vị sư già, vội ấp úng hỏi:

- Thưa Thầy! Dạ! Thầy đã tọa thiền ở đây lâu lắm chăng?

Nở nụ cười thanh thoát, vị sư già mà sau đó Can được biết pháp danh Thiện Tùng đáp:

- Thầy ngồi tu ở đây từ lâu… lâu lắm rồi, từ thuở Ngài Huishin (*) còn hoằng pháp ở Mỹ Châu. Nhưng tiếng Việt thì Thầy mới biết từ khi có tu viện Kim Sơn.

- Ô! Vậy Thầy là người Trung Hoa sao?

- Không! Thầy gốc thổ dân. Dòng họ Thầy đã định cư tại Mỹ Châu từ ngàn xưa.

Ngắm nhìn dáng dấp thoát tục của nhà sư, khỏe mạnh tươi mát như một cội thông già, từ thân thể toát ra tình thương tràn ngập, làm cho Can vừa kính cẩn vừa mến yêu. Chàng ngại ngùng thưa:

- Con xin lỗi đã làm kinh động giờ phút hành thiền của Thầy, bởi vì – Can ấp úng – con đang có tâm sự đau lòng; nơi thanh vắng này không mang bình an gì cho con cả mà chỉ làm tăng thêm phiền muộn, nên con đã hành động điên rồ.

Sư hiền hòa:

- Không hề gì con ạ!

Con nên nhớ “Tâm tịnh thì Đất tịnh.” Ngày xưa, các vị thiền sư thong hay vào chợ, đánh bạn với bọn hàng thịt, trộm cắp đĩ điếm, thấy nghe toàn chuyện nhơ nhuốc mà tâm vẫn an nhiên tự tại. Chốn chợ búa cũng có thể là tịnh độ huống chi tu viện. Còn tâm vọng động, ôm ấp chuyện thị phi, hơn thua, yêu ghét… thì dù có vãng sanh tịnh độ, thì tịnh độ cũng biến thành ô uế mà thôi.

Yên lặng hồi lâu, sư ân cần bảo:

- Con hãy nở nụ cười, rồi hãy kể cho Thầy nghe, chuyện gì đã làm con đớn đau sầu khổ.

Như con thơ được mẹ dỗ dành, nước mắt lưng tròng, Can khóc như một đứa trẻ thơ, và bộc lộ hết tâm sự mình.

Từ lúc Kim và chàng, hai người yêu nhau thơ mộng ở Việt Nam. Rồi thấy không thể sống với gong cùm Cộng Sản, Can cạy cục được một chân thủy thủ tàu cá; sau một năm chịu đựng nhọc nhằn, Can có cơ hội đưa người yêu tìm tự do. Đói khát trên biển, thiếu thốn, khổ cực ở trại tỵ nạn chỉ giúp cho tình yêu lứa đôi thêm đằm thắm. Định cư ở Los Angeles, đôi tình nhân, nay là vợ chồng, đã phải đương đầu với nếp sống mới, đôi khi phũ phàng. Tiền trợ cấp chấm dứt sau 18 tháng. Nhu cầu thì nhiều quá: xe hơi, TV, tủ lạnh, quần áo thời trang. Can không muốn thấy người yêu thiếu thốn, không nỡ nhìn nàng ăn mặc sơ sài, quê mùa như ngày mới định cư. Chàng không ngần ngại cày một job, rồi hai job, over time tối đa, để Kim tiếp tục học hành. Khổ sở vật chất không đáng kể, với Can, quần quật suốt tuần, để được thưởng một nụ cười, một giây phút hàn huyên với vợ thì bao nhiêu nỗi nhọc nhằn cay đắng đều sẽ xóa tan. Hai người dự định, sau khi Kim ra trường thì tới lượt Can đi học. Con gái dễ thích ứng với hoàn cảnh mới, thật ra thì Kim thông minh, chăm học hơn chàng mong mỏi, chỉ trong vòng ba năm nàng đã hoàn tất chương trình cử nhân kế toán kinh doanh. Hạnh phúc hứa hẹn tràn trề. Nhưng ngày mong đợi đó chưa đến, thì nàng bỗng biến dạng, chỉ để lại một bức thư ngắn ngủi: chúc người ở lại may mắn, phần nàng, nhận thấy hoàn cảnh đổi thay, tánh tình không thích hợp nên xin chia tay nhau. Can đau khổ cùng cực, bỏ việc tìm nàng khắp miền Nam Cali, nhưng hoàn toàn không dấu tích, họa hoằn là những tin đồn, bàn ra tán vào, thêm tan nát lòng chàng.

Mất người yêu, mất tất cả, đau khổ điên rồ, tự tử đôi phen mà vẫn còn nặng nợ; cuối cùng, vì mất việc, hết tiền nghe lời khuyên bè bạn, chàng quyết đi thật xa để lãng quên, đăng tên làm cá ở Alaska.

Hai năm nhốt mình một nơi lạnh lẽo cô đơn, tưởng hận tình sẽ phôi pha, ngờ đâu, cô đơn lại dễ sanh sầu muộn, đau khổ chất ngất thành hận thù. Từ một thanh niên hiền lành, Can trở nên nóng nảy, ám ảnh bởi ý tưởng giết người yêu và tình địch.

Vừa được người bạn thông báo tin Kim, dường như đã di chuyển về San Jose, thế là Can mua ngay súng, tức tốc lần mò về đây.

Kể xong câu chuyện, Can thẫn thờ nói tiếp:

- Thưa Thầy, nàng tệ bạc như vậy, làm sao con không hận thù được? Làm sao con sống bình an được?

- Không có cách nào giúp con quên được nàng sao?

Rồi không đợi Can trả lời, vị sư già nói tiếp:

- Con có nhớ chư Tổ thường dạy: “Tội từ tâm khởi đem tâm sám. Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu.” Thì cũng tương tợ như thế đó: “Tình từ tâm khởi đem tâm diệt. Tâm được tịnh rồi tình tất tiêu.” Tình yêu từ tâm con phát khởi, con diệt được là diệt từ tâm con, chớ không thể qua sự hiện hữu của nàng. Trong mấy năm qua, con cho rằng con xa nàng, thật ra chính con đã mang nàng theo kề cận tháng ngày ở Alaska, đến nỗi trái ngang chằng chịt, oán thù chồng chất. Dù con có giết nàng, thì sự hiện hữu của nàng vẫn còn nguyên vẹn trong tâm con, yêu đương thù hận vẫn còn đó. Có gì sẽ thay đổi đâu?

Pháp từ của nhà sư nhẹ nhàng mà Can tưởng như nó len lỏi vào từng tế bào trong tim óc chàng. Chàng chợt rùng mình, bất chợt một phút nhẹ nhàng, một thoáng lãng quên; nhưng chỉ một phút thôi, trạng thái hận thù lại phục hồi – hai năm trời ngày đêm sân hận, dễ đâu phai nhòa trong chốc lát – Can lắc đầu:

- Con đã quyết tâm gặp nàng lần cuối cùng – Can không dám nói thật là vẫn quyết tâm giết nàng - Phải, ít nhất là một lần thì con mới mãn nguyện, an tâm.

Sư thở dài:

- Nếu không có phương cách gì khác, thôi thì Thầy buộc lòng phải giúp con gặp lại Kim.

Sự kiện biến chuyển thuận lợi và đột ngột quá làm Can ngơ ngẩn. Sư nắm tay Can đưa đi, Can bước theo máy móc, không kịp hỏi tại sao sư biết Kim và tận tình giúp đỡ mình.

Chừng như lâu lắm mà cũng có thể chỉ trong phút giây. Can định thần lại, thì thấy Thầy đã đưa mình đến Palo Alto. Ngừng xe trước bệnh viện Stanford, Thầy chỉ lầu ba bên mặt và cho biết Kim đang ở đó. Can phỏng đoán Kim đang làm kế toán viên cho bệnh viện, chàng chỉ kịp nắm lấy khẩu súng, gấp rút theo Thầy lướt đi qua hai dãy hàng lang, lên lầu, lại đến một dãy phòng mờ tối. Can vừa chợt thấy hàng chữ “Trung Tâm Ung Thư,” thì đã được hướng dẫn đến căn phòng định mệnh.

Cửa mở, Can bước vào. Một bệnh nhân trọc đầu, trơ vơ một lớp da thâm tím bao quanh cái đầu lâu cằn cỗi, khoét sâu bởi đôi mắt lạc thần, đang thiêm thiếp chờ chết.

Can sững sờ khựng lại. Bao nhiêu ý tưởng mâu thuẫn múa men trong đầu.

Trời ơi! Nàng! Nàng đây sao?

Chao ơi! Đây là hình hài mình đã ôm ấp, nâng niu, yêu đương lẫn hận thù, thương nhớ không nguôi đây sao?

Trong một sát na, chàng cảm thấy mối tình đã chết, đã chết lâu rồi. Tất cả đều nhạt nhòa… nhạt nhòa. Chàng quay quắt trở ra, thì thấy bóng Thầy cũng tan biến lần.

Làn gió nhẹ làm chàng tỉnh lại. Chợt thấy mình vẫn đang đứng trong khuôn viên tu viện. Bàn tay chàng, quái lại thay, còn đang cầm khẩu súng, khẩu súng bằng cao su, mà đứa bé nào theo mẹ lễ chùa, đã bỏ rơi bên lối mòn.

Gần đó, bóng tùng hùng vĩ vẫn lặng yên như mỉm cười, bao la và vững chãi như một vị bồ tát đang vào từ bi tam muội, ban phát niềm vui cho mọi loài.

Cảm thấy niềm an lạc dâng tràn, Can chắp tay thành búp sen, hướng về bóng tùng, xá thật sâu. Trần Thị Thiên Kim, nàng đang ở đâu, khổ đau hay vui sướng, tất cả đều vô nghĩa với chàng.

GHI CHÚ:

(*): Hiushin: tức Tuệ Sinh, vị sư gốc Trung Hoa, đã đem Phật Giáo hoằng pháp tại Mỹ Châu từ năm 458. Ngài đã lưu lại Châu Mỹ 40 năm, và đã trao truyền hạt giống đạo đức thâm sâu vào các bộ lạc.

 

Hồng Hài Nhi

Ngọc cố thu mình thật nhỏ, thật nhỏ để mong không ai nhìn, nhất là để tránh cặp mắt cú vọ của bà chủ tàu, lúc nào cũng hằn học với nàng, ngay sau khi nàng đặt chân lên chiếc tàu KG 314  để cùng vượt biên.

Ngọc là con gái lớn của một gia đình giáo chức nghèo tại Rạch Giá. Cha nàng chỉ là một giáo viên tầm thường nhưng với cái “tội” quân nhân biệt phái, nên mãi học tập cải tạo. Mẹ nàng tảo tần buôn bán vụn vặt nuôi năm chị em nàng bữa đói bữa no.

Ba hôm trước, mẹ Ngọc cho biết đã sắp xếp cho nàng vượt biển một mình. Đây là dịp may hy hữu cho một gia đình nghèo xác xơ. Chú Tám, người hàng xóm tốt bụng, nhận đưa đò taxi cho một tàu vượt biên, đã đến giới thiệu và can thiệp với bà chủ tàu, nhờ vậy, họ chỉ đòi hai cây. Mẹ năn nỉ mãi họ mới bằng lòng giá một cây. Đó là tất cả vốn liếng cuối cùng của gia đình nàng. Ngọc khóc ngất từ chối: “Má ơi! Con không chịu đâu. Con không thể xa má và các em được.” Mẹ nàng cũng khóc rấm rức. Bà ôm nàng vào lòng, rồi lắp bắp qua tiếng nấc: “Ngọc à! Má cũng không bao giờ nghĩ đến việc xa con… Nhưng bây giờ, má đuối lắm rồi, má biết không thể cưu mang lâu dài cho gia đình được nữa… đói… chết… con ơi. Trừ phi, con đi, rồi tiếp má lo cho gia đình…” Hai mẹ con chỉ biết ôm nhau khóc, chớ không trao nhau thêm lời nào. Cuối cùng, hai vai trĩu nặng trách nhiệm, Ngọc rưng rưng nước mắt ra đi.

Tuy còn nhỏ dại, Ngọc cũng đoán có lẽ chú Tám không đưa cây vàng của mình cho chủ tàu, cho nên bà ta đối xử tệ với nàng: gay gắt nhìn và làm lơ quên đưa nàng vắt cơm buổi sáng. Phần nàng, lần đầu tiên xa nhà, chỉ biết lo sợ, và im lặng nhịn đói, nhịn khát. Nàng mơ về mái nhà thân yêu với dáng gầy còm của mẹ, có lẽ, giờ này, đang quỳ trước bàn thờ Phật, khấn nguyện cầu an cho nàng.

Thình lình, bà chủ hầm hừ hướng về Ngọc, nạt nộ:

- Con kia! Ai cho mày lên tàu?

Ngọc hoảng hốt, lí nhí đáp:

- Dạ thưa chú Tám.

- Tiền đâu? Đưa đây 5 cây. Không tiền xuống biển ngồi.

- Dạ thưa bác! Xin bác thương con. Má con đã đưa bác Tám một cây để trao lại bác.

- Hừ! Vượt biên gì chỉ một cây. Tàu chùa hả? Đô la vàng mang theo đâu? Đưa hết tao. Giấu giếm tao lột quần đó.

Ngọc khóc lóc năn nỉ:

- Xin bác thương con. Nhà con nghèo lắm. Con không mang được gì hết. Chỉ có một lượng đưa bác Tám mà thôi.

- Xí! Nghèo mà cũng ham vượt biên. Đồ giựt dọc! Tám ạ! Bây xét coi nó có giấu gì đem theo không?

Cũng may, Tám là con gái trạc tuổi nàng đến mò mẫm, nắn bóp khắp thân thể nàng, không chừa chỗ nào, lôi ra được sợi dây chuyền vàng với tượng Quan Âm cẩm thạch, giao cho bà chủ. Bà chủ không hài lòng chút nào tiếp tục chương trình chửi rủa thô tục.

Ngọc co rút thêm tí nữa. Tủi nhục khổ đau làm nàng ngạt thở, môt phần có lẽ vì nàng cố gắng một cách tuyệt vọng ngăn chặn những tiếng nấc và những dòng nước mắt thi đua chảy dài bên má nàng.

Ngọc nhắm mắt lại, nàng cố quên, cố bỏ ngoài tai, những gì đã và đang xảy ra cho nàng. Nàng hồi tưởng đến xóm làng, nhà cửa, mẹ và em. Nàng thì thầm: “Má ơi! Má có biết rằng con đau khổ lắm không?” Rồi nàng nhớ đến mái chùa “Phổ Minh” với vị Bổn sư khả kính của nàng. Hình ảnh buổi thuyết pháp ngày xưa bỗng hiện rõ trong tâm não. Giọng nói ấm áp của Thầy, từng tiếng một như rót vào tai nàng: “Cũng ví như đài phát tuyến đã phát sẵn làn sóng âm thanh trên không gian nhưng thính giả phải biết điều chỉnh máy thu thanh cho tương ứng với tần số phát thì mới nghe được. ÁNH SÁNG TỪ BI của CHƯ PHẬT CHIẾU THẬP PHƯƠNG QUỐC VÔ SỞ CHƯỚNG NGẠI, nhưng vấn đề, là ta có chịu điều chỉnh tâm mình cho tương ứng với tâm Phật không? Có bỏ hết vọng tâm, tạp niệm trở về với chân và tịnh thì mới hợp với tâm Phật và mới thấy cảm ứng được. Cho nên, khi niệm Phật, phải gạt bỏ hết ngoại duyên, dù trời long đất lở, sóng to gió lớn hay bom nổ đạn rơi cũng gạt bỏ ngoài tai; chỉ biết niệm Phật và đặt hết tâm trí vào đó. Có như vậy thì tai nạn nào cũng thoát khỏi mà ý nguyện vãng sanh cũng chắc chắn thành tựu.” Nương theo đó, Ngọc bắt đầu thầm niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát.” Nàng hoàn toàn đặt hết tâm trí vào việc quán niệm, gạt bỏ hết ngoại duyên. Nàng quên đi nguyên nhân và kẻ đã làm nàng đau khổ, kể cả việc vượt biên, với chiếc thuyền bồng bềnh trên biển cả. Trong tâm, nàng thấy như Bồ tát đang hiển hiện, tay cầm thanh tịnh bình, tay cầm nhành dương liễu, đang rưới giọt nước cam lồ xuống cõi Ta Bà. Đau khổ, giận hờn, tủi nhục tiêu tan. Nàng cảm thấy lòng thật an tịnh.

Trong khi Ngọc đắm chìm trong trạng thái đó thì biến cố đã dồn dập xảy đến. Biển đang lặng yên bỗng nhiên có dấu hiệu thay đổi. Mây đen cuồn cuộn kéo đến. Rồi thì mưa gió nổi lên từng cơn, càng ngày càng mạnh. Sóng từng đợt này đến đợt khác, bổ vào thân tàu như chợt đập tan tàu từng manh mún nhỏ. Trên tàu, tiếng khóc la, tiếng than thỉ, vợ chồng con cái kêu gọi nhau ơi ới, hòa lẫn với tiếng gầm gừ của biển cả, tạo thành một âm thanh cực kỳ bi thảm.

Ngọc vẫn an nhiên không bận tâm, nàng vẫn không rời quán niệm. Thình lình nghe tiếng hét của trẻ thơ, Ngọc mở choàng mắt, kịp thoáng thấy một em bé trai - dường như là con bà chủ tàu – đã bị lượn sóng đánh bật ra khỏi tàu. Giờ phút này đâu ai nghĩ đến thân mạng bé bỏng của nó. Riêng Ngọc thấm nhuần tinh thần từ bi cứu khổ, cứu nạn của Bồ Tát Quán Thế Âm, dù không lội giỏi, Ngọc cũng không thể làm ngơ. Phản ứng như một cái máy, nàng nhoài theo chụp cánh tay em bé. Rồi thì từng lượn sóng này đến lượn sóng khác, lôi cuốn nàng đi thật xa chiếc tàu, không còn chút hy vọng gì để sống sót.

Không biết có một sức lực tiềm tàng nào đã giúp nàng đủ sức ôm chặt đứa bé, rồi cứ để mặc cho nước cuốn trôi đi đến chân trời vô định nào. Nàng cảm giác như bị chìm sâu, sâu dần và chới với không định hướng. Chừng định thần lại, thì đã thấy mình trôi tấp trên một bãi cát trắng mịn. Mừng rỡ với cảm giác khoan khoái sống còn, nàng dẫn em bé đi dần lên đảo.

Phong cảnh đẹp quá. Hoa dại muôn màu điểm tô lối mòn. Tiếng chuông chùa ngân nhẹ. Nàng có cảm giác như mình đã trở về Việt Nam, dẫn em bé đi nhanh về hướng chuông đó. Bây giờ, Ngọc mới có cơ hội nhìn rõ em bé. Đó là một em bé trai bụ bẫm chừng 5, 6 tuổi, chân mang đôi hài đỏ. Mái chùa cong cong thấp thoáng hiện trong sương mờ. Ngọc hân hoan, chầm chậm đi vào chánh điện. Không khí yên tịnh, mà như có gì ảm đạm, lạnh lẽo. Một vị sư đang ngồi thuyết pháp. Ồ! Lạ chưa, những người đi cùng tàu với nàng, dường như tất cả đang ở đây nghe pháp, mặt họ sao có vẻ thê lương quá? Nhìn kỹ, nàng ngạc nhiên thấy vị sư già lại là vị bổn sư nàng. Phần thuyết pháp có lẽ đã mãn, thầy đang xướng bài: “Sám nguyện vãng sanh”:

Muôn pháp không thường còn

Người sanh ắt có diệt

Sanh tử  như thủy triều

Diệt tận chân phúc hiện

Thác bền, sống không bền

Người đời ai cũng chết

Chết mục tiêu cuộc đời

Đúng y lời Phật dạy

Kiếp sống trong ngắn ngủi

Chết thật là chắc chắn

Sớm muộn xác thân này

Trả về cho tứ đại

Nhìn xem thể phách hoại

Xác như gỗ mục hư

Tánh thanh tịnh chân như

Niết bàn vô sanh diệt…

Thầy vừa tụng xong, ngước mắt nhìn lên thì Ngọc vội quỳ trước mặt thầy, cảm tạ thầy đã cứu độ. Thầy đáp:

- Thật ra, thì chính con đã cứu độ con. Khi con niệm danh hiệu bồ tát nhất tâm, thì con với vật không khác. Con có thể là mây bồng bềnh khắp nẻo. Con có thể là nước trôi giạt giang hồ. Không một sức mạnh vật chất nào có thể ngăn trở hay hãm hại con cả.

- Con xin thầy cho con được theo thầy tu học. Con không thiết tha gì đến cuộc sống này nữa.

Bổn sư đeo sợi dây chuyền cho nàng, rồi ôn tồn khuyên nhủ:

- Con à! Tất cả đều tùy thuộc vào duyên số. Con còn trách nhiệm gia đình, vậy con hãy trở lại với nếp sống bình thường của con. Thầy gởi lại con kỷ vật hộ thân nầy để nhắc nhở con tiếp tục cuộc sống thanh tịnh, tu tâm dưỡng tánh mình…

Ngọc vâng lời vừa chào thầy mà chưa kịp hỏi thăm các bạn đồng hành, thì em bé hài đỏ đã nắm tay nàng lôi đi thật nhanh. Đi thật nhanh như bay trên mây. Ngọc không kịp suy nghĩ gì, chỉ biết nhắm mắt lại, để thân mình lướt nhanh theo mà không thấy mệt nhọc gì.

Khi Ngọc nghe em bé la lên: “Đến nơi rồi. Chị ơi!” Ngọc choàng tỉnh, mở mắt thấy đang nằm trên giường bệnh, y sĩ, y tá đứng quanh. Tay nàng vẫn còn ôm chặt khúc gỗ, mà nàng tưởng là em bé hài đỏ. Và ngạc nhiên hơn nữa là kỷ vật thân yêu - sợi dây chuyền với tượng “Quan Âm” – đã bị cướp đoạt, sao vẫn còn nguyên vẹn trên cổ nàng.

Sau đó, Ngọc được cho biết nàng vừa được chiếc tàu cứu trợ của Hội Y Sĩ Thế Giới cứu vớt. Đêm giông tố, chiếc tàu nhân đạo này đã chẳng ngại hiểm nguy lùng kiếm cứu trợ thuyền nhân, sau khi thấy xác chiếc tàu KG314 bể nát trôi dật dờ. Nhưng họ đã hoàn toàn tuyệt vọng cho đến khi họ tìm thấy được nàng. Không biết có một phép lạ nào đã giúp nàng, với một khúc gỗ nhỏ, mà có thể chống chõi với bão tố gần 24 giờ; nhất là, sự kiện, dù đang bất tỉnh mà nàng vẫn ôm khúc gỗ, trôi lênh đênh trên mặt biển. Thật là một kỳ diệu mà họ không thể giải thích được.

Ngọc hiểu rất rõ sự kỳ diệu đó, nhưng nàng thấy không thể thổ lộ sự bí mật của riêng nàng. Ngọc nhắm mắt lại, hình dung chuyến viễn du huyền ảo, cuộc hội ngộ với bổn sư, với em bé mang hài đỏ. Nàng quỳ xuống niệm chú vãng sanh cho những người bạn đồng hành xấu số.

Buông xuôi

Tháng tư, đêm 30 tối đen, biển lặng yên như mặt hồ, chiếc tàu vượt biên lướt nhanh, xé toẹt biển khơi thành 2 mảnh lân tinh chạy dài theo mạn tàu.

Thức giấc nửa đêm, đầu tựa vào người yêu, Lan nhìn những cánh sao giăng giăng trên bầu trời mà lòng hân hoan sung sướng. Đã rời Việt Nam trên 24 giờ, Lan tin chắc mình đã thoát, ánh sáng tự do đã lấp lóe ở chân trời.

Chuyến đi hoàn toàn do Tân, người yêu nàng thực hiện. Tân may mắn được một thương gia ra vốn để tạo tàu cá, ước hẹn cùng vượt biên chung. Cả gia đình người chủ đến 12 người, mà y còn nhận vàng dự trù rước thêm hàng 20 người nữa. Thấy cưu mang đám đàn bà con nít vô trật tự, thật là nguy hiểm, phần ghét người chủ tham lam mù quáng, nên Tân âm thầm đưa hai cô em và người tình, xé rào đi trước. Theo Tân, là vài người bạn cá, cộng với thân hữu được tham gia bất ngờ và miễn phí.

Do đó, chiếc tàu bé bỏng 2-bloc máy, chỉ chứa 13 thanh thiếu niên rộng chán, nên không khí của chuyến vượt biên thật thoải mái, vui tươi và đầm ấm như trên một chiếc du thuyền.

Thình lình Tân buộc miệng than: “Mẹ! Tao thấy thèm gói thuốc Pall-Mall và một lon bia Mỹ quá!" Thế là cả bọn nhốn nháo tranh nhau nói, không ai chịu nhường ai.

Lúc đầu, thì các loại trái cây, các thực phẩm Âu-Mỹ được nhắc nhở và mô tả rườm rà. Kế đến, đề tài phim ảnh xi-nê, tài tử rồi gái được đem ra mổ xẻ hấp dẫn, tưởng như bất tận.

Trời vừa sáng, bỗng Hải thợ máy la lớn:

- Ô kìa! Có nhiều tàu Mỹ tụi bây ơi!

Tân bình tĩnh:

- Không thấy ống khói mầy! Tàu đánh cá nhỏ thôi, đừng mừng!

- A! Sao nó đi về hướng mình kìa! Tân ơi! Mình kêu cầu cứu nhe! Lan lên tiếng:

- Đây thuộc vùng biển Thái Lan, anh nghi lắm. Mình cứ tiếp tục đi. Mặc họ.

Tân chậm rãi trả lời. Lan lo lắng hỏi tiếp:

- Tụi nó theo mình hoài, làm sao bây giờ?

- Đừng để ý chúng nó. Mấy đứa con gái đừng ló mặt ra – Tân la lên.

Chiếc tàu sắt to lớn hiện rõ dần, lái thật nhanh về hướng tàu vượt biên làm mọi người nín thở, khẩn trương chờ đợi. Tàu lạ đến gần, bắt đầu súng chỉ thiên đe dọa, đoạn chúng cặp tàu. Chừng 10 tên lực lưỡng nhảy sang, với vũ khí trên tay, chúng hung hăng lùa bọn con trai qua một bên. Chúng bắt đầu lục soát thật lành nghề, có trật tự và không hấp tấp. Xem kỹ lưỡng đồ vật rồi mới đến giai đoạn xét người, cẩn thận từng li từng tí, không chừa một lai quần chét áo nào. Lan mừng thầm vì thấy chúng chỉ lưu ý bọn con trai. Ngờ đâu, khi kéo về, chúng lại lôi tuốt ba cô gái về tàu chúng. Bọn Lan khóc lóc van xin thảm thiết, nhưng chỉ được trả lời bằng những chuỗi cười hả hê man dại.

Tàu Thái Lan từ từ lui ra. Bọn con gái hoảng hốt, cố vùng vẫy vô vọng giữa những bàn tay cứng như sắt thép. Bọn con trai cũng la hét đòi trả lại bạn.

Bọn Thái Lan càng tỏ vẻ khoái trá, cười hô hố nhạo báng. Chúng cho tàu đi xa một đoạn, bỗng nhiên quay trở lại, mở máy thật lớn, phóng thẳng vào tàu vượt biên, rồi tiếp tục chạy đi như không việc gì xảy ra. Chiếc ghe nhỏ bể nát chìm lỉm. Lan la một tiếng thất thanh, cố quay đầu tìm kiếm Tân trong đám người loi ngoi trên biển cả. Vừa chợt thấy người yêu trồi lên, lụp chụp bơi về một chiếc thùng phuy dật dờ trước mặt, thì bọn chúng lôi nàng đến trình diện thủ lãnh chúng. Tên này đích thân rờ mó ba chị em nàng để lục soát, đoạn hắn lôi con Út, con bé 13 tuổi em của Tân về cabin. Hắn xổ một tràng với thuộc hạ, bọn chúng hoan hô nhiệt liệt. Rồi một đứa lôi Lệ, đứa khác lôi Lan về một trong các khoang tàu.

Lan cố vùng vẫy, la hét, cào cấu hắn. Hắn nổi giận một cách ghê sợ, giơ nắm tay như một cái búa, đập cho nàng hai cái. Đầu lại đập mạnh vào thanh gỗ, mặt mũi sưng vù, nàng đau đớn gần bất tỉnh, và nằm rũ riệt để hắn làm gì thì làm.

Bão tố nào rồi cũng qua, hắn thỏa mãn, khoái trá bỏ ra ngoài, để lại Lan với nỗi đau đớn tuyệt vọng, và dòng nước mắt từ từ tuôn trào. Chợt Lan nghe tiếng Út la hét thật lớn, tiếng tên đầu đảng chửi rủa, tiếng đánh đập tàn nhẫn. Út đang la hét, bỗng im bặt, sau đó, có tiếng ùm thật lớn. Lan nghĩ rằng có lẽ vì Út chống cự dữ quá nên hắn nổi cơn điên giết nàng quăng xuống biển. Còn đang phân vân thương xót cho Út, thì tên thứ hai bước vào. Màn cũ lại tái diễn, rồi lại tiếp tục…

Sự đau đớn thể xác và tinh thần quá đột ngột, kinh khủng quá sức tưởng tượng của con người. Lúc đầu, Lan còn la hét, rên rỉ khóc lóc. Nàng nghe như từng long xương, từng thớ thịt đều rã rời nhức nhối. Lần lần, không còn sức rên la, tất cả dường như tê dại như chai cứng, vô tri vô giác, đầu óc cũng ngây dại chỉ mường tượng rằng mình đang ở trong hoàn cảnh cực kỳ đau khổ, ngoài ra, không có thể suy nghĩ gì hơn được.

Sau hai ngày đêm hành hạ, thình lình chúng lại lôi nàng lên cabin. Lệ cũng đứng gục đầu gần đó từ lúc nào. Tên đầu đảng đang bàn luận gì với kẻ lạ mặt. Chúng chỉ Lan và Lệ, vạch áo quần 2 người xem xét như đi mua một món hàng. Cuối cùng, tên lạ mặt, chỉ Lan rồi hắn lôi nàng theo, qua bên chiếc tàu cá khác, đã cặp kè bên nhau từ lúc nào.

Giờ đây, đổi chủ, như một kẻ nô lệ, Lan đành để cho tên chủ tàu và đàn em hắn hành hạ thân xác nàng. Sau những đợt giông tố phũ phàng, nằm yên một lúc lâu, lại có tiếng chầm chậm đi vào. Mắt mở lớn mà không thấy gì cả, nàng để mặc hắn muốn làm gì thì làm. Kẻ lạ mặt đến gần, lấy quần áo che lại những chỗ hở hang cho nàng. Lan giựt mình nhìn kỹ. Đó là một người lớn tuổi, gầy gò, mà nhìn nét mặt phong sương Lan hiểu được là ông rất hiền hòa và thương xót nàng. Ông già ân cần đỡ nàng ngồi dậy, đút cho nàng từng muỗng cháo với đường, đoạn trao cho nàng khăn ướt lau mặt, một chai dầu để thoa những vết tím bầm và xây xát khắp cơ thể nàng. Lần đầu tiên, kể từ phút sa cơ, Lan mới thấy được tình người. Sự săn sóc thương yêu, như của một người cha đối với đứa con nhỏ, của ông lão – mà về sau nàng biết tên là Choi – đã giúp Lan bình phục phần nào. Từ đó, ngoài những giờ phút bị hành tội, nàng theo ông Choi phụ nấu bếp. Dù ông Choi cũng bất lực trước hành động dâm dật của bọn bất lương, nhưng ở cạnh ông, Lan cảm giác một chút an toàn, một sự  che chở đỡ cảm thấy cô đơn giữa đám thú rừng man dại.

Những lúc bất chợt Lan để dòng lệ tuôn trào, ông lão cũng rơm rớm nước mắt, dùng lời nói ôn hòa an ủi nàng. Không hiểu tiếng Thái, nhưng nàng vẫn hiểu qua ánh mắt dịu hiền của ông. Có lần, ông Choi cầm một tượng Phật, được cột bằng sợi dây nylon - loại dây câu – trao cho Lan. Lan từ chối thì ông chỉ cho nàng những cánh tay Phật, đang che mắt, miệng, tai… như cố ý giải thích ý nghĩa ẩn sâu của tượng Phật và ép nàng đeo vào cổ. Lan cảm động vô ngần vì hiểu ông Choi nghèo lắm, nhưng vẫn hy sinh cho nàng. Tuy không hiểu rõ ý nghĩa của tượng Phật, nàng tạm cho rằng ông Choi khuyên nàng nên ẩn nhẫn, chờ Phật trời cứu giúp.

Lênh đênh chừng một tuần lễ, thì chiếc tàu ghé lại một hoang đảo nhỏ. Lan mừng rỡ khi thấy chúng cho nàng được theo lên đảo. Lan ngạc nhiên thấy trên đảo đã có trên trăm người Việt tỵ nạn gầy gò. Phần lớn là đàn bà, nhưng cũng có trẻ em và cả đàn ông nữa. Hỏi thăm tự sự, thì được chị Năm, người lanh lợi nhứt trong đám cho biết đây là đảo Ko Kra, một sào huyệt của bọn nửa cướp, nửa đánh cá Thái. Trên đường về đất liền, chúng dừng tàu ở trạm này chờ đợi đúng con nước mới lại khởi hành. Chúng để tạm những người con gái nô lệ trên đảo, vì mang theo sợ nguy hiểm, trở ra chúng bắt trở lại. Có tàu hải tặc tương đối nhân đạo, chỉ cướp của, hiếp dâm chớ không giết người. Chúng mang cả đàn ông, con nít bỏ đó, khi thì bắt vài người đàn ông theo tàu cá làm nô lệ; khi thì bắt cả đám xẻ cá làm khô cho chúng.

Mỗi ngày hàng mươi tàu cá ghé bến, đàn bà con gái là mồi ngon cho bọn khát dâm. Mạnh ai nấy lo thân, có những em núp mình dưới cỏ tranh chúng đốt cỏ tìm kiếm, phỏng cả mình mẩy. Có em ngâm mình dưới biển, nép sát vào những tảng đá vôi bén nhọn cả ngày trời, da thịt bị san hô rạch nát, chân tê dại, cá tôm rỉa thịt sứt từng mảnh mà vẫn không hay biết. Chị Năm sanh quán tại Lào, hiểu biết chút đỉnh tiếng Thái, đã cố năn nỉ những tên cướp có vẻ hiền lành để cầu cứu nhưng không hiệu quả. Lan nghĩ đến ông Choi, vị bồ tát của nàng, một tia hy vọng nhen nhúm trong lòng.

Ông Choi lên đảo mang theo cho nàng thật nhiều thực phẩm, ông lại cẩn thận đưa nàng về các ghềnh đá phía Nam, chỉ một hang kín đáo bé nhỏ, ý chừng hướng dẫn nơi ẩn trốn. Lan thừa lúc vắng vẻ, kéo chị Năm đến giải thích nguyện vọng nhờ ông chuyển thư cầu cứu dùm. Ông Choi vui vẻ đồng ý. Thế rồi, ông Choi phải đi tìm giấy, viết cho Lan. Vốn liếng Anh ngữ ít quá, nàng chỉ viết mấy chữ “S.O.S Vietnamese refugee at Ko Kra island.” Chị Năm căn dặn ông phải tìm cho được người Mỹ hay ít nhứt là người da trắng để đưa thư.

Ông Choi đi rồi, hang đá kín đáo Lan nhường lại cho hai em bé nhỏ nhứt trong bọn lẩn trốn. Chị Năm cho biết bé Liên, 10 tuổi, bị hiếp dâm sợ quá đến ngất xỉu đáng được giúp đỡ. Lan đã 16 tuổi, chị Năm nói:

- Tụi mình ráng chịu được. Buông xuôi tới đâu thì tới.

Chị thường ví von thân phận mình như chiếc lá khô lìa cành, buông xuôi cho định mệnh.

“Nhâm nhi từng giọt ưu sầu,

Hồng nhan bạc mệnh dãi dầu đắng cay.

Ích lợi chi, kiếp sống nầy

Gượng cười gượng nói qua ngày mà thôi.

Lửng lơ ngày tháng buông trôi

Nhặt khoan thì cũng một đời phù du.

Ngày mai vô vọng mịt mù

Còn trông, còn đợi, còn mơ mộng gì?

Buông xuôi cho gió cuốn đi.”

Ba ngày sau, vào một buổi chiều biển động, trên đảo chỉ còn hai chiếc tàu Thái Lan với khoảng 40 ngư phủ, vừa thỏa mãn xong dục vọng, đang hả hê nhậu nhẹt. Bất ngờ, giữa con sóng gió xuất hiện thêm một chiếc tàu Thái Lan khác, tiến dần về đảo Ko Kra. Một toán 4, 5 người đổ bộ lên đảo, trong đó có một người da trắng. Người da trắng cố gắng nói chuyện với bọn thủy thủ Thái. Lúc đầu, bọn Thái có vẻ sửng sốt, sau đó, chúng la hét dường như phản đối. Thế rồi bọn chúng vây đánh người lạ, bằng chai rượu, bằng ống nước… làm người này ngã gục bất tỉnh. Có lẽ nghĩ rằng nạn nhân đã chết, để tránh liên lụy lôi thôi, cả hai tàu đánh cá Thái vội vàng rời đảo. Dân tỵ nạn lúc nầy mới dám chạy lại săn sóc bệnh nhân. Tỉnh dậy, thấy những người tỵ nạn vây quanh, ông mừng đến rơi nước mắt. Ông cho biết ông tên là Theodore Schweiter, Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp quốc, được thơ S.O.S. mà không được chánh quyền Thái Lan yểm trợ, nên đành cô đơn hành động một mình. Ông thuê tàu bằng tiền riêng, liều lĩnh tìm đến đảo Ko Kra trong cơn mưa bão.

Mọi người nghe chuyện mừng rỡ, có người  khóc ngất vì sung sướng. Họ chia nhau tìm kiếm những người còn lẩn trốn, rồi theo sự sắp xếp của ông Theodore, để dắt díu nhau thành một chuỗi dài lội ra tàu. Đưa hết mọi người lên tàu, mà phần lớn bệnh hoạn, suy nhược là một công việc khó khăn và kéo dài, mà tinh thần lúc nào cũng căng thẳng vì những bóng dáng tàu Thái Lan khác thấp thoáng.

Cuối cùng, ông Theodore cũng đã đưa được 157 người Việt tỵ nạn về đất liền.

Những bệnh nhân đặc biệt, như Lan, được đưa ngay đến bệnh viện và được tận tình chăm sóc. Ông Theodore lưu ý tìm kiếm thân nhân cho Lan và bè bạn, nhưng vẫn bặt tin.

Những vết thương lở lói, những bệnh nguy hiểm lần lần rồi cũng lành. Nhưng vết thương lòng, bao giờ mới có thể nguôi ngoai. Lan bị bệnh mất ngủ trầm trọng, vì những cơn ác mộng thường đe dọa nàng. Nàng rơi vào một tâm trạng buồn nản tột độ. Không thiết tha, không mơ ước, không biết có nên sống hay chết. Chỉ cảm thấy nỗi buồn rười rượi làm khô héo cả tạng phủ nàng.

Các nạn nhân khác cũng tương tợ. Chị Năm, người đàn bà can đảm từng che chở an ủi cho các chị em, lại mưu toan tự tử. Chị Năm sống với hy vọng gặp lại chồng con, nay tất cả đều chết, thì chị còn sống để làm gì? Cả bọn quây quần bên chị để ngăn cản và an ủi. Bé Liên lại ở trạng thái kinh hoàng thường trực. Bất cứ một người đàn ông nào đụng tới chân tay em – dù là y sĩ chẩn bệnh – cũng làm em khiếp đảm.

Gần một tháng sau, rời bệnh viện Lan được nhập trại Songkhla. Nàng xấu hổ, gục mặt lững thững đi như một kẻ mất hồn. Buổi tối, rón rén ngồi trong một xó tối, nghe vị Đại Đức thuyết pháp, nhân ngày đản sanh Phật.

Thầy bắt đầu trinh bày về lịch sử Phật Thích Ca Mâu Ni, sau đó, giảng giải về bài thuyết pháp đầu tiên: Tứ Diệu Đế (Bốn chân lý cao cả) của Ngài. Lần đầu tiên nghe pháp, lại được nghe về Chân Lý Khổ, Nguồn Gốc của Khổ, Sự chấm dứt của Khổ và con đường đưa đến sự chấm dứt Khổ, Lan có cảm giác tất cả những chân thật đó hoàn toàn thâm nhập vào trí óc nàng. Nàng tưởng như bài thuyết pháp chỉ dành riêng cho nàng, vì chỉ có nàng là người đã trải qua những giờ phút cực kỳ khốn khổ. Nàng như bừng tỉnh khi được hiểu, khổ không  phải chỉ đơn giản gồm những cái khổ thông thường, khổ khổ, mà còn phải hiểu khổ dưới khía cạnh hoại khổ và hàn khổ nữa.

Khi nghe tiếp tục đến con đường đưa đến sự chấm dứt khổ hay đạo đế, nàng nghe như bừng sáng cả tim óc. Cảm giác như mình mới hồi sinh thành một con người nghị lực có thừa để quyết tâm noi gương Đức Phật chọn một hướng đi cho đời mình. Nàng lẩm bẩm:

“Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió

Ngoảnh lại cùng trong bể khổ thôi.”

(Thơ của Đoàn Như Khuê)

Hai ngày kế tiếp, Lan đến cái nhà lá rách nát dùng làm mái chùa tạm, để xin thầy dạy thêm về giáo lý. Bất ngờ, có lẽ do sự giúp đỡ đặc biệt của ông Theodore, nàng được thông báo phải chuẩn bị để được đưa đi Vọng Các, rồi sang Hoa Kỳ. Chỉ có hai giờ để sắp xếp, Lan bối rối gặp thầy xin được quy y. Lễ quy y được tổ chức cấp tốc, giản dị nhưng không kém phần trang nghiêm. Thầy ban cho nàng pháp danh Diệu Nhẫn, rồi sau phần pháp từ, thầy soạn trao cho Lan phẩm “Phổ Môn” chép tay và biên cho nàng 4 lời phát nguyện để đọc tụng:

“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.”

Thế là Lan lên đường, mang theo một ít cẩm nang và hạnh nguyện học làm Phật.

Nghe tiếng chuông nhà thờ Saint Mary đổ dồn dập, Lan chắp tay lại, yên lặng giữ gìn hơi thở và tâm niệm:

“Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe,

Tiếng chuông mầu nhiệm hướng về nhất tâm.”

Tiếng chuông nhắc nhở Lan hình ảnh vị bổn sư khả kính của nàng, nàng vội vã biên thư thăm thầy:

Thưa thầy,

Con là đệ tử Diệu Nhẫn, người đệ tử đã thọ giới quy y cấp tốc và được thầy ban cho Phẩm Phổ Môn với 4 lời phát nguyện vào ngày rời trại.

Chắc thầy không ngờ rằng bí kiếp thầy trao quý giá với con biết ngần nào.  Một hôm, khi tụng câu “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,” con bỗng thấy ngại ngùng. Con tự hỏi lòng mình coi có thật tâm phát nguyện không? Con nhớ đến những nguời đã hành hạ con trên bước đường lưu lạc. Con lại nhớ đến câu chuyện Đề Bà, người mà nhiều lần hại Phật. Thế mà Phật vẫn từ bi, thương xót, cứu độ và còn thọ ký cho làm Phật ở tương lai. Con lại nghĩ có thể những người gieo khổ cho mình chính là những thiện tri thức tạo duyên cho mình phát bồ đề tâm. thế nên, con quyết noi gương Phật, nguyện ở kiếp tương lai nào đó, khi con đã vững chãi bất thối chuyển, thì dù ở địa ngục nào con cũng đến để cứu giúp họ. Từ đó, hận thù không còn, ác mộng cũng hết. Con cảm thấy tâm con thư thái nhẹ nhàng.

Con hiện đang sống tại Leviston (MONTANA), một nơi xa xôi hẻo lánh, không thấy bóng dáng người Việt, nhưng con may mắn được ông bà bảo trợ chân thật thương yêu.

Hai ông bà là người ngoan đạo. Đó là một điểm quý giá, nhưng đó cũng là một điều đã gây cho con sự khổ tâm lúc ban đầu.

Họ ép buộc con đi nhà thờ tạo cho con ý nghĩ là họ đã bảo trợ con không vì tình thương mà chỉ nhằm lợi dụng cơ hội ép uổng tôn giáo. Tối hôm đó, tụng kinh Phổ Môn, đến đoạn nếu chúng sanh muốn cầu bất cứ thân hình nào cứu độ Bồ Tát Quán Âm đều hóa hiện dưới hình thức đó để cứu độ. Con chợt nghĩ, như vậy nếu có chúng sanh mong ước được Trời hoặc Con của Trời cứu độ, thì chắc chắn bồ tát cũng hóa hiện để cứu họ. Bỗng nhiên, con thấy tượng Chúa cũng có thể là tượng Phật Quán Thế Âm. Chiều chiều, con thường quì dưới tượng Chúa một mình, để tụng kinh Phổ Môn, và phát nguyện độ sanh. Thấy con quì trước tượng Chúa chân thành quá, ông bào bảo trợ con rất hài lòng.

Thầy ơi!

Thường thường tụng kinh xong, con bỗng nhớ tiếng chuông chùa quá. Biết rằng tất cả đều do tâm tạo, âm thanh là ảo, là huyễn thì chuông chùa hay chuông nhà thờ cũng vẫn cảm thấy nhẹ nhàng, thư thái hơn.

Con còn lệ thuộc vào thói quen, vào âm thanh sắc tướng quá. Con còn vọng quá phải không thầy.

Kính chào Thầy và kính chúc thầy thân tâm thường an lạc.

Đệ tử Thầy,

Diệu Nhẫn

Chú thích:

Các sự kiện về hải tặc Thái Lan, về đảo Ko Kra, về hai vị hành hạnh Bồ Tát: Ông Theodore Schweiter và ông già Thái Lan vô danh đều là những việc có thực (xin xem Reader’s digest số January 1986).

Tình nhiễm

Đối với Tuân, mùa Xuân ở Mỹ chẳng có gì hấp dẫn. Hoa lá có xanh tươi, nhưng bông cỏ đã làm chàng dị ứng triền miên. Lái xe đi làm, mà nước mắt, nước mũi chảy ròng ròng, thật là bực dọc. Bịnh lười lại hiện đến, làm Tuân quay xe lại, ghé vào tịnh xá Pháp Duyên muợn điện thoại gọi vào sở cáo bệnh.

Tịnh xá xế trưa, ngày thường nên thật vắng. Tuân lễ Phật xong, lên thọ trai đường ngồi nghe Thầy đang nói chuyện pháp với một thiếu nữ tên Lan, từ Montana xuống thăm.

Thiếu nữa đưa Thầy xem một tượng lạ, tạc hình một tu sĩ hay bồ tát, với đặc điểm là 2 bàn tay che mặt, 2 tay khác che tai.

- Thưa Thầy. Đây là tượng mà con được một người Thái Lan tặng. Con không hiểu tượng nầy tượng trưng cho vị Phật hay Bồ Tát nào? – Cô gái thưa hỏi.

Thầy hiền hòa đáp:

- Thật ra Thầy cũng không rõ. Loại tượng nầy không thấy xuất hiện ở Trung Hoa, Việt Nam. Dường như các chùa Miên miền Nam, theo Nam Tông cũng không thấy loại nầy.

- Về thâm nghĩa, có lẽ nhằm khuyến khích người tu hành phải không thấy, không nghe, không biết, phải không Thầy?

Cô gái nhanh nhảu hỏi tiếp. Thầy cười hỉ hả trả lời:

- Nếu hiểu giản dị như thế thì hóa ra tu để trở thành trơ trơ vô tri vô giác như gỗ đá sao? Thật ra, đối với Phật giáo hành giả vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn biết, mà không vương tình nhiễm.

- Sao gọi là tình nhiễm thưa Thầy?

- Khi nghe, thấy, ngửi… tức thời sanh tâm đắm nhiễm, cảm thọ hoặc vui, buồn, hờn, giận. Còn tuy cũng nghe thấy mà tâm không vọng động, không phân biệt ta, người, chúng sanh, thọ giả… thì gọi là không tình nhiễm.

- Thấy những việc trái tai, gai mắt không động tâm thì khó thật. Chắc phải vào rừng núi hay vào chùa thì họa may mới tu được.

Tuân chen vào hỏi:

- Dĩ nhiên có gia đình mà tu thì khó nhất rồi. Người Việt có câu ca dao:

“Thứ nhất thì tu tại gia,

Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.”

Thật ra, tu ở rừng núi thanh vắng dễ nhất, vì không va chạm, không va chạm, không sanh nghịch cảnh, ít có cơ hội động tâm. Kế đó, đến tu chùa, tu chợ rồi mới tu nhà. Thế nên, các Thiền sư sau khi đắc đạo ở chốn hoang vắng hay tự viện, rồi mới đủ hùng lực “thõng tay vào chợ” độ sinh.

- Có vị Thiền sư nào thõng tay vào chợ, rồi tiến một bước nữa lập gia đình để tu tại gia không thầy?

Tuân hóm hỉnh hỏi.

- Ơ! Các vị Bồ tát như Ngài Duy Ma Cật vẫn thị hiện có gia đình để độ sanh. Còn các nhà sư thì Thầy không được biết ai đắc đạo rồi lại đi cưới vợ. Chỉ có những vị có vợ mà vẫn đắc đạo thôi.

- Có vợ nghịch cảnh tùm lum, làm sao tu đắc đạo được. Khó quá đi Thầy – Lan thắc mắc.

- Đúng ra, thuận cảnh mới là cạm bẫy nguy hiểm, người tu được Phật tử thương kính, tôn thờ, săn sóc, tán tụng dễ sanh tình nhiễm hơn người bị Phật tử phá hoại. Nghịch cảnh đôi khi là duyên để tiến bước trên đường hành đạo.

Ở Việt Nam, có phái Cổ Sơn Môn, ở Nhật có phái Tân Tăng, cho phép những nhà sư được cưới vợ. Nếu gặp cô vợ hỗn láo, ghen tuông, ngoại tình thì thật là phiền não, nhưng cũng là một thử thách giúp hành giả trực diện với khổ đau để thấy rõ biến động của tâm mình.

Thầy kể cho các con nghe chuyện của một nhà sư tân tăng bên Nhựt. Vị cao tăng Vô Nhiễm. Theo lời người con, mà về sau cũng là tu sĩ phái không vợ, thì gia đình ông, như những gia đình khác ở Nhật, thường ngủ chung trên sàn. Khách cũng ngủ chung trên đó. Dĩ nhiên, là mỗi người một góc. Trên sàn chỉ giăng một mùng duy nhất. Lúc đó, tu sĩ chừng 8,9 tuổi, đêm đêm thức giấc thường thấy mẹ mình ngoại tình với người bạn của cha. Thế mà cha ông, nhà sư Vô Nhiễm vẫn điềm nhiên thương vợ, kính bạn như không việc gì xảy ra. Người con được cha gởi sang chùa khác tu học đến lớn. Không còn mục kích chuyện tồi bại đó nữa, nhưng ông tin chắc việc ngoại tình vẫn tiếp diễn. Ông kính trọng cha và đâm ra oán ghét mẹ mình.

Nhà sư Vô Nhiễm vẫn có vợ, vẫn tiếp tục tu hành và nổi tiếng là vị đắc đạo cao tăng đương thời. Ngày liễu đạo, Hòa Thượng họp chúng, đọc kệ phú chúc rồi chắp tay nhắm mắt. Nhưng trước đó, Hòa Thượng đã gọi con lại dặn bảo: “Ta thấy con không được yêu kính mẹ, người đàn bà yếu đuối đó, đáng được con thương yêu, nâng đỡ lúc tuổi già.” Thấy người con vẫn lặng yên không trả lời, Hòa Thượng nói tiếp: “Ta hiểu con bất mãn về hành vi của bà. Thật ra, chính những hành vi đó giúp ta tiến bộ rất xa trên đường tu hành. Ngoài ra, người có lỗi chính là ta đây, chớ không phải bà ấy. Khi kết hôn ta đã ngầm hứa mang hạnh phúc tinh thần lẫn vật chất, kể cả tình dục cho bà. Ta đã không làm tròn, nàng cũng không đòi mà chỉ tự lo lấy thân là quá tốt với ta rồi. Ta thật rất cảm ơn bà.”

Người con vẫn còn hờn mẹ và thú nhận rằng, phải đợi đến 30 năm, dày công tu học ông mới hiểu được cha mình.

Nghe xong chuyện nhà sư Vô Nhiễm mọi người trầm ngâm. Tuân cảm thấy có cái gì nhột nhạt, nặng nề vương vấn chàng.

Để thay đổi câu chuyện, Tuân lái sang vấn đề thiền học, rồi lại yêu cầu Thầy hướng dẫn thực tập thiền, hy vọng bệnh dị ứng sẽ trị được.

Tuân ngồi bán già, tập theo dõi hơi thở theo tùy tức quán, chàng buông bỏ mọi duyên cảnh, quên dần hiện tại.

Làm “ca” chiều (swing shift) thường thường phải 12 giờ đêm mới về nhà. Hôm nay thình lình về sớm, chắc Bích Uyên phải vui sướng. Hai người kết hôn mới hai năm nay, mà đã tạo được một ngôi nhà khang trang, đầy đủ tiện nghi, chưa kể hai chiếc xe đáng giá.

Đó là nhờ Tuân làm 2 job và cũng nhờ sự đảm đang, tiện tặn của Uyên. Người thiếu nữ tài ba này, không cần khóa học điện tử nào, nhưng chỉ hơn một năm làm việc, từ một assembler đã nghiễm nhiên được thăng thưởng làm tech, lương bổng lên như diều.

Đến nhà, không muốn quấy rầy vợ, Tuân lặng lẽ tra chìa khóa mở cửa, nhưng Uyên lại vô ý khóa chốt bên trong rồi. Định bấm chuông gọi vợ, nhưng Tuân đổi ý, mở cửa hông đi vòng ra sau vườn, đến bên cửa sổ nhìn vào. Màn che kín đáo không thấy Uyên đâu, chợt nghe tiếng động gì lạ quá làm lùng bùng tai chàng.

Tuân rón rén qua cửa sổ phòng kế bên – phòng dư bỏ trống chàng dùng làm nơi đọc sách - Giựt mạnh cửa lưới quăng xuống đất, hai tay nâng nhẹ cửa kiếng qua một bên. May quá, cửa không khóa kỹ, Tuân phóng lẹ lên cửa sổ, nhè nhẹ đến phòng ngủ. Cửa hé mở, Tuân chết điếng người khi thấy Uyên đang say mê làm tình với Bob, tên “xếp” của nàng. Máu nóng sôi sùng sục, Tuân chạy ra nhà bếp, lấy con dao xắt thịt bén nhọn trở vào.

Bỗng có người nắm lấy vai chàng lắc mạnh, Tuân giựt mình làm rớt dao. Ngoảnh mặt nhìn thì thấy Thầy đang lay vai mình, mỉm cười “Di Lặc”, nhỏ nhẹ nói “Con lại hôn trầm rồi.”

Tuân bẽn lẽn gượng cười. Chàng không ngờ tâm ý mình như khỉ vượn, trong phút giây đã đưa mình về tận nhà.

Mồ hôi ướt đẫm. Tim vẫn còn đập thình thịch, viện lẽ nhuốm bệnh, Tuân uể oải từ giã Thầy rồi ra về.

Trời mát làm Tuân thật tỉnh và thật yêu đời. Nhìn vòm trời đầy sao, ánh trăng lưỡi liềm đủ le lói để chàng thưởng thức được mấy cành hoa hồng, hoa “tu-líp” lay động. Tuân đứng dừng lại ngắm nhìn thỏa mãn những công trình do mình vun quén.

Bỗng dưng cánh cửa chợt mở. Tiếng vợ chàng ngọt ngào “Good night! Honey!” Một thân hình đồ sộ phóng ra như cơn gió lốc. Cơn gió lại càng phóng nhanh khi chợt thấy chàng.

Chới với không đủ sức để phản ứng. Tuân tần ngần một thoáng rồi nhìn Uyên, với chiếc áo ngủ mỏng dính, lồ lộ nguyên vẹn hình hài, cũng đang bối rối nhìn chàng.

Phút giây yên lặng bàng hoàng đủ để Tuân nhớ lại nhà sư “Vô Nhiễm”. Chàng tự nghĩ vụ đó mình vẫn còn đều đặn mà. Tai văng vẳng lời Uyên giải thích: “Thằng Bob đến cho em hay em được thăng thưởng làm lead rồi.”

Tuân chợt tìm được lý do, chàng lẩm bẩm một câu không ăn nhập gì với lời giải thích của Uyên: “Đúng rồi! Lỗi của anh mà… anh về sớm quá…” Chợt thấy con dao xắt thịt còn lăn lóc ở hành lang, Tuân ầm ừ nói tiếp: “À để coi.. anh về để sửa lại cửa sổ…”. Chàng lượm con dao, vào phòng đọc sách, đóng lại cửa sổ, rồi đi trở ra ngoài lượm cái cửa lưới méo mó, đập sửa lại, gắn vào.

Thời gian đủ để Uyên sửa soạn ngay ngắn giường nệm, và đứng trước cửa phòng đón chồng, ngây thơ và vô tội như một thiếu nữ ngoan hiền.

Am mây

Buồn bã tuyên bố bãi triều, vua Trần Thái Tôn thẫn thờ trở về cung nội tìm Hoàng Hậu. Bối rối, buồn thương lẫn lộn, đắn đo mãi mà nhà Vua vẫn chưa đủ can đảm để bộc lộ cho Hoàng Hậu am tường nội dung kiến nghị của triều đình.

Hoàng Hậu là vị vua cuối cùng của triều Lý, đã kết hôn với nhà vua từ khi nàng mới 7 tuổi và Thái Tôn 8 tuổi. Ngay sau đó, Hoàng Hậu thoái vị để nhường ngôi cho chồng. Sau 12 năm chung sống, dù chỉ mới vừa 19 tuổi xuân, nhưng vì không con nên bị thân tộc trách cứ về tội hiếm muộn.

Tể tướng Trần Thủ Độ, thúc phụ của nhà Vua, lúc đầu nhắc nhở khéo, nhưng lần lần đặt vấn đề hiếm muộn như là một sự kiện vô cùng trọng đại, liên quan đến sự trường tồn của triều đại và sự an nguy của đất nước. Tể tướng kéo theo sự ủng hộ của triều đình, công khai áp lực nhà vua phải truất phế Hoàng Hậu Chiêu Hoàng, để tấn phong công chúa Thuận Thiên làm Hoàng Hậu. Điều vô luân là Thuận Thiên công chúa, chị ruột Chiêu Hoàng, đang là vợ của Trần Liễu, anh ruột của nhà vua. Thuận Thiên mạnh khỏe, mắn con, lại đang có mang ba tháng bị ép buộc bỏ chồng, để gả cho Thái Tôn.

Họ đã quyết định chọn công chúa Thuận Thiên hầu thái tử tương lai vẫn là cháu ngoại Lý Huệ Tông, một thủ đoạn chính trị ru ngủ thần dân còn thương tưởng nhà Lý, nhất là, Thuận Thiên đang mang thai ba tháng với Trần Liễu, đủ bảo đảm nối nghiệp cho dòng họ nhà Trần, nếu Thái Tôn không thể có con.

Nhà vua xưa nay tuyệt đối phục tùng Tể Tướng, xem chú như cha, vì Tể Tướng đã hết lòng chăm sóc, gầy dựng cho Ngài, cả ngai vàng này cũng chính do một tay Trần Thủ Độ dàn xếp mà ra. Tuy nhiên, khi nghĩ đến người vợ thân yêu của mình, thân thể gầy yếu, mà lúc nào cũng tận tụy săn sóc cho chồng. Không kể ngai vàng nầy chính nàng đã trao cho chồng, cả mạng sống của nàng cũng ký thác cho nhà vua. Nhà vua không đành lòng phụ bạc nàng.

Vua ngồi thừ trên long kỷ, khi Hoàng Hậu xuất hiện vẫn không hay biết. đột nhiên, Hoàng Hậu đến gần chồng rồi tha thiết nói: “Xin chàng để thiếp lau mặt, gỡ tóc chàng nhé!” Vua buồn bã lắc đầu.

Hoàng Hậu nhỏ nhẹ: “Thiếp muốn được thân săn sóc chàng lần chót.”

Vua giựt mình nhìn vợ: “Nàng biết tất cả rồi sao?”

Chiêu Hoàng gật đầu nhè nhẹ. Hai người nhìn nhau mà lệ cứ tuôn trào. Một lúc sau, Hoàng Hậu cố gắng cắt đứt không khí buồn thảm, nàng khẽ nói: “Mẫu hậu báo tin cho thiếp từ sáng. Thiếp chỉ biết cam chịu số phận phũ phàng đó.”

Vua xúc động: “Không! Nàng hãy tin ta. Ta không phụ rãy nàng. Ta hoàn toàn không đồng ý với giải pháp vô luân đó.”

Hoàng Hậu vẫn ngọt ngào. “Chàng ơi! Không con nối dõi tông đường là một trọng tội. Thiếp xin gánh chịu hy sinh, để chàng có con nối dòng.”

- Nàng đừng nói nữa. Nàng còn trẻ. Chúng ta vẫn còn hy vọng có con sau này.

- Cảnh chàng! Nếu chàng truất phế thiếp - giọng của nàng hạ thấp thật nhỏ và đượm vẻ u oán – thì dù lẻ bóng, ở chốn cô phòng nào đó, thiếp vẫn còn có thể trông ngóng chàng, để nhớ, để thương. Còn như chàng chống đối thúc phụ, thì thiếp biết rõ, rất rõ rằng thiếp sẽ sớm mạng vong.

- Còn đại ca và đại tẩu thì sao? – Nhà vua hy vọng mong manh.

- Đại ca phản đối nên đã bị thúc phụ giam lỏng, còn chị Thuận Thiên, thì cuối cùng cũng vì mạng sống của chồng con mà chấp thuận thôi.

Nhà vua trầm ngâm cúi đầu. Thái Tôn hiểu nhận xét của vợ hoàn toàn hợp lý. Trần Thủ Độ là một người rất thâm độc, thúc phụ không bao giờ khước từ một thủ đoạn ác độc, vô luân nào, miễn là đạt được mưu đồ của mình mà thôi.

Vua ngậm ngùi: “Thuận thì lòng không nỡ, còn nghịch thì có lẽ Chiêu Hoàng và Trần Liễu sẽ bị ám hại.” Bối rối điên cuồng, nhà Vua giã từ Hoàng Hậu, lên thư phòng gậm nhấm cay đắng một mình.

Suy nghĩ thật lâu, Vua viết thư cho Tể Tướng và triều đình, nội dung loan báo từ chức và yêu cầu triều đình chọn người khác thay thế. Vua để lại ngọc ấn, thay đồ thường dân, rồi rời cung điện giả dạng như những lần di hành thăm dân. Theo vua, chỉ có vài hầu cận, mà dù Vua bảo thế nào, họ cũng trung thành theo hộ giá. Vua lên ngựa lang thang, vượt qua dòng sông Nhị. Ý nghĩ tự trầm lảng vảng, nhưng Vua gạt bỏ ngay ý định đó, vì tự trầm cũng phạm vào giới sát. Sau cùng, Vua cương quyết tiếp tục đi về hướng Vĩnh Yên, núi Yên tử, Ngọa Vân Anh để xuất gia đầu Phật.

Sau 2 ngày lặn lội, leo trèo cực khổ, đến giờ mùi, thì vua đến đỉnh núi Yên Tử, ra mắt Quốc sư Phù Vân. Sau buổi cơm chay đạm bạc, Quốc sư vui vẻ hỏi:

- Lão tăng đã quen với cảnh núi rừng, tấm lòng như mây nổi nên mới theo gió mà lên đây. Còn nhà vua là bực nhân chủ, có việc chi mà lại đến chốn quê mùa nầy?

Vua đáp:

- Trẫm nghĩ sự nghiệp đế vương đời trước thịnh suy thất thời, nên vào núi nầy, lòng chỉ cầu làm Phật, chớ không cầu gì khác.

Quốc sư ung dung chỉ dạy:

- Trong núi vốn không có Phật. Phật ở tâm ta. Nếu tâm ta lắng lại và trí tuệ xuất hiện đó chính là Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay, không phải đi tìm cực nhọc bên ngoài.

Ngừng lại một lúc lâu, để nhà Vua có thời giờ suy gẫm, nhà sư ôn tồn nói tiếp:

- Bồ Tát Quán Thế Âm, tùy theo cơ duyên mà biến hiện dưới hình thức cư sĩ, tu sĩ, vua, quan, nam, nữ để cứu độ chúng sanh. Nay bệ hạ hiện thân làm vua, thì cứ làm vua mà cứu độ thần dân, đâu cần phải làm tu sĩ thì mới có thể cứu độ được.

Nhà Vua nghe bừng sáng trong tâm, cảm thấy nhẹ nhàng tâm trí đôi phần, nhưng nghĩ đến oan trái tình duyên, lòng vẫn còn phần bất an.

Chừng như hiểu rõ tâm trạng của nhà Vua, Quốc sư hỏi:

- Dường như bệ hạ còn có tâm sự u buồn, lão tăng nhận thấy tâm thần bệ hạ vẫn bất an?

Nhà vua thuật rõ giải pháp chính trị vô luân của Trần Thủ Độ mà ngậm ngùi. Quốc sư thở dài than:

- Oan nghiệt! Ôi oan nghiệt!

Rồi như tạo duyên cảnh cho Vua vơi đi phiền muộn, Quốc sư đưa nhà Vua đến sườn núi, để nhìn từng áng mây nổi lơ lửng trên dòng suối nhỏ uốn quanh.

Vua lắng nghe và lắng nhìn, lần lần cảm giác như quên hiện tại và chập chờn đi về quá khứ xa xưa, thật xưa từ thuở Hùng Vương thứ 6:

“Có hai anh em nhà họ Trần, giống nhau như 2 giọt nước. Cả hai đều đem lòng yêu thương Lý thị, một cô gái dệt lụa ở làng bên. Lý thị là một cô gái nết na đằm thắm, nhưng vì cả hai anh em giống nhau như đúc không phân biệt được, làm cho nàng lẫm lẫn, hứa hẹn kết duyên với cả hai, mà nàng nghĩ là chỉ một người.

Hai anh em cùng yêu cầu cha cưới nàng làm vợ, nhưng dĩ nhiên, chỉ người anh được kết hôn cùng nàng. Thất vọng ê chề, và đớn đau thay, người yêu lại là chị dâu, ngày ngày xuất hiện trước mặt mình. Người em đau khổ, âm thầm đi lang thang khắp nước. Sức khỏe mỏi mòn, khi đến chân núi Yên Tử, thì đuối sức, gục ngã bên dòng suối nhỏ. Nỗi nhớ nhung lâu ngày kết tinh tim chàng thành một khối rắn chắc, xác thân chàng sau khi chết biến thành khối đá vôi, bên dòng suối.

Biết được nỗi lòng đứa con nhỏ, Trần lão la mắng đứa con lớn sao không biết nhường nhịn cho em để đến nông nỗi nầy. Người anh, bị cha hối thúc, phần thương em, bỏ nhà đi lang thang khắp nước để tìm, nhưng nào thấy tăm hơi. Khi đến bờ suối dưới chân núi Yên Tử, thì chàng gục ngã. Ước vọng tượng hình thành một thân cây, cố vươn mình thật cao để tìm em, người đời gọi là cây cau. Đến phiên người vợ đi tìm chồng, nàng cũng vất vả hỏi tìm khắp nước không thấy bóng chồng và em. Khi đến chân núi Yên Tử, dựa lưng vào thân cây cau mà nhắm mắt. Nỗi lòng thương nhớ khôn nguôi, từ thân xác nàng, mọc lên sợi dây leo, leo lên cây cau để vươn mắt tìm chồng. Người đời gọi là dây trầu.

Người dân hái trái cau, nhai chung với lá trầu, lại thêm tí vôi, biến thành một chất ngất ngây, vị ngọt ngào mà say say, như một mối tình son trẻ. Rồi thói quen biến thành tục lệ trầu cau, lan rộng nhân gian…”

Đó là chuyện cổ tích mà nhà Vua đã biết rất tường tận. Nhưng lần nầy, không hiểu tại sao, trong giấc mơ quá khứ nầy, nhà Vua bất giác hiểu rõ oan nghiệt tiền duyên của mình. Trần Thủ Độ hay Trần Lão, người cha già gay gắt bắt buộc người con lớn nhường vợ cho em. Và Thuận Thiên hay Lý Thị, người con gái mà trong đáy lòng thầm kín đã yêu thương cả hai anh em họ Trần. Và chàng, chàng có ngờ đâu, ước mơ lấy được chị dâu của tiền kiếp, đến kiếp nầy đã đặt chàng ở trong một hoàn cảnh thật là trớ trêu, khó nghĩ.

Nhà Vua còn đang bàng hoàng, thì Quốc sư thân mật nắm tay nhà Vua khuyên nhủ:

- Cảnh con! Bồ Tát không sợ quả, chỉ sợ nhân. Nhân dù nhỏ cũng không tạo thêm. Mà quả xưa dù lớn lao, gian khổ hay rắc rối đến chừng nào thì cũng an nhiên đón nhận, không trách than trốn tránh.

Sáng hôm sau, Tể Tướng đưa triều đình cùng các bô lão đến tận đỉnh núi đón vua. Tất cả đều thiết tha đạo đạt nguyện vọng toàn dân đang nhốn nháo đợi chờ. Tể Tướng lại đề nghị xây cất cung điện để thiên đô từ Thăng Long về Yên tử, nếu Vua thích nơi nầy. Nhưng Vua vẫn còn phân vân chưa quyết định.

Quốc sư Phù Vân lại long trọng nói:

- Phàm là đấng nhân quân thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình và phải lấy Tâm Thiên Hạ làm Tâm Mình. Nay thiên hạ đều muốn đón Bệ hạ về, Bệ hạ không về sao được?

Quốc sư lại nghiêm trang lễ lạy Vua theo đúng lễ nghi vua tôi, rồi xá chào và thưa rằng:

- Lão tăng ở chốn am mây xa xôi nầy, nhưng lúc nào cũng thấm nhuần ơn mưa móc của bệ hạ.

Nhìn vạn vật đang mơn mởn đón chào ánh thái dương, Vua liên tưởng đến thần dân mình. Ngài lặng lẽ lên kiệu bâng khuâng nhìn cánh nhạn lẻ bóng lưng trời. Vô tình bắt gặp tân Hoàng Hậu đang nhìn Ngài. Trên gương mặt kiều diễm, buồn thương lẫn lộn của nàng. Vua thoáng thấy ẩn hiện nét vui mừng. Mối tình tiền kiếp xa xưa ấy, bỗng trở về bừng dậy trong lòng.

Chú thích:

Chuyện ngắn dã sử nầy rất gần với chính sử. Theo Việt Nam Sử Lược, quyển I, của Trận Trọng Kim, thì: “Chiêu Thánh Hoàng Hậu lấy Thái Tông đã được 12 năm mà vẫn chưa có con. Thủ Độ bắt Thái Tông bỏ đi và giáng xuống làm công chúa, rồi đem chị bà Chiêu Thánh tức là vợ của Trần Liễu vào làm Hoàng Hậu, bởi vì người chị đã có thai được ba tháng. Vua Thái Tông bị Thủ Độ hiếp chế như thế, trong bụng cũng không yên, đến đêm trốn ra, lẻn ở chùa Phù Vân v.v…

Những lời dạy của Quốc sư Phù Vân:

“Trong núi vốn không có Phật. Phật ở tâm ta. Nếu tâm ta lắng lại và trí tuệ xuất hiện đó chính là Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay, không phải đi tìm cực nhọc ở bên ngoài.” Và: “Phàm là đấng nhân quân thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình và phải lấy tâm thiên hạ làm tâm mình. Nay thiên hạ đều muốn đón Bệ hạ về, Bệ hạ không về sao được…” – Đã được chính vua Trần Thái Tôn ghi lại trong bài tựa của tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” của Ngài.

 

Thăng Trầm

Nhớ đến quê hương, Báu liên tưởng đến lời ru ngọt lịm của người mẹ hiền:

“…À… ơ! Bí lên ba lá,

Trách ba với má

Không chịu làm giàn

Để bí bò lang

Vô dang (duyên) bạc phận

Duyên nợ ở gần chẳng đặng xứng đôi” (1)

Lời ca dao mộc mạc gợi cho chàng nhớ cái thuở mà chàng đã từng tự hào mình là một “giàn bê-tông cốt sắt,” sơn son thếp vàng dành riêng cho dây bí Trần Thị Ngọc Ngà nương tựa. Ngờ đâu, cơn đổi đời 30 tháng 4/1975 đã xô ngã quỵ cái giàn xuống bùn sâu, lôi theo dây bí lấm lem, làm nàng tủi phận hẩm hiu buồn than trách móc.

Hai người đã gặp gỡ nhau từ khi Ngà, hoa khôi Trung học Thoại Ngọc Hầu (Long Xuyên), vừa chập chững trên ngưỡng cửa Đại học Văn Khoa. Báu là một luật sư tài ba, vừa trẻ tuổi, lại đẹp trai, tương lai đầy hứa hẹn.

Ngà đã yêu chàng dễ dàng, say mê và tôn quí chàng như một thần tượng. Tình nguyện suốt đời tận tụy săn sóc chàng như một thần dân trung thành phục vụ đấng quân vương.

Báu ngây ngất hạnh phúc trong hương vị tình yêu đó. Tuy nhiên, kể từ ngày mất nước thì dường như tình yêu đã phai nhạt dần, nhất là khi Ngà khám phá được rằng kiến thức luật pháp của chàng vô dụng đối với bọn cộng sản, và làng nhàng chẳng ra gì vì không thể kiếm cơm được.

Hai người đã may mắn móc nối được tổ chức vượt biên, rồi sang Mỹ để làm lại cuộc đời.

Ngà lanh lợi, giỏi sinh ngữ, thích ứng ngay với hoàn cảnh mới. Nàng tìm việc nhanh chóng và chỉ trong một thời gian ngắn, từ chân thư ký kế toán đã đường đường trở thành một Chánh sở kế toán đầy oai quyền.

Báu chậm chạp, mang đầy mặc cảm không dễ thích ứng như vậy. Không thể lãng phí thời giờ theo đuổi ngành luật vô dụng. Báu buộc lòng học điện tử. Ra trường, lang thang vác bằng đi tìm việc khắp nơi, nhưng số lận đận, được đó rồi mất đó, thật là nản lòng.

Báu lui dần, lui dần để Ngà làm chủ gia đình, quyết định mọi việc, muốn thế nào thì chàng cũng vui vẻ nuông chiều. Và Ngà thì ngày càng lấn lướt khinh thường, Bừng tỉnh, Báu khám phá rằng, dưới con mắt của nàng, chàng là một tên khù khờ, vô tích sự, không xứng đáng với nàng. Ngà bắt đầu trách móc, nặng nhẹ rồi hỗn láo với chàng. Nàng lại đua đòi theo thời trang, giải phẫu thẩm mỹ, chưng diện lắm trò, rồi tự do đi ngang đi dọc chốn vũ trường với bạn trai ngoại quốc.

Báu chới với thấy nàng từ từ vuột khỏi tầm tay chàng. Chàng cố chiều chuộng, cố nhịn nhục, lốc cốc chạy theo thị hiếu của nàng, bám víu nàng như một cái đuôi - một cái đuôi vô dụng – mà nàng chỉ mong quăng vào sọt rác.

Buổi chiều, khi biết tin Báu lo lập hồ sơ bảo lãnh mẹ già, bỗng nhiên, Ngà nổi cơn thịnh nộ, hết trách mẹ chồng đến em chồng, đã ăn ở không phải với nàng ngày còn ở Việt Nam. Rồi như thường lệ, Ngà đùng đùng lái xe đi mất.

Buồn hiu, Báu cũng ra đi, lang thang vô định. Đâu đây bỗng văng vẳng lên tiếng chuông chùa ngân nhẹ. Báu bồi hồi tưởng như mình đang lạc bước trên đại lộ Thống Nhứt, Long Xuyên, hướng về chùa Quảng Đức. Chàng ngần ngừ nhìn lên thấy tên chùa Việt Nam, nên lảng vảng đến gần mà loanh quanh chẳng dám vào vì đến lần đầu mà trong đêm vắng thật ngại ngùng. May quá, một vị Sư trông thấy mời chàng vào lễ Phật.

Báu chào Thầy rồi bối rối nói:

- Nghe tiếng chuông ngân con nhớ chùa ở quê nhà quá. Không biết thời cuộc đổi thay, mái chùa đã tàn tạ như thế nào?

Lời nói xuất phát từ tâm can, than cho mái chùa và cũng than cho chính mình, làm Báu rưng rưng.

Nhìn hình dáng tiều tụy của Báu, và có lẽ đọc được ý nghĩ thầm kín của chàng, Thầy thân mật an ủi rồi giảng giải cho chàng nghe về hoại khổ, tức khổ phát sinh từ sự biến chuyển của luật vô thường.

Thầy dạy:

- Vạn vật trong vũ trụ, từ nhỏ như con vi trùng đến lớn như núi non, trời đất… đều chi phối bởi luật vô thường, có sinh thì phải có diệt, tuần hoàn trong vòng “Thành, Trụ, Hoại, Không.” Lý vô thường chi phối muôn pháp từng sát na, thân ta và mọi vật luôn biến đổi, có thể nói ta già đi, ta chết dần đi, từng giây từng phút. Thân mạng mà còn như vậy, huống chi là công danh, sự nghiệp. Thịnh đó rồi suy đó, có một thời đại, một cơ nghiệp nào mà không phải thăng trầm. Kẻ thế tục, thí dụ như Bà Huyện Thanh Quan trong bài thơ “Thăng Long Thành hoài cổ”, đã trách than:

“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường

Đến đây thấm thoát mấy tinh sương

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường” (2)

Trong khi đó thì Vạn Hạnh Thiền sư lại an nhiên tự tại:

“Thân như bóng chớp chiều tà

Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời,

Sá chi suy thịnh trên đời,

Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.” (3)

Đạo hữu! Ý thức được lý vô thường ta sẽ không buồn than cho bất cứ sự đổi thay nào. Ta chỉ xem đó là một duyên lành giúp ta nhận chân được chân lý khổ, hầu quyết tâm chọn con đường diệt khổ.

Từ tạ Thầy ra về, Báu miên man nghĩ: “Đúng rồi, tất cả đều vô thường kể cả thân thể, công danh, sự nghiệp của mình. À! Mà ngay cả tình nghĩa vợ chồng mặn nồng cũng vô thường nữa. Mới ngày nào, Ngà dễ thương ngoan hiền, mà nay, do điều kiện vật chất đổi thay, đã trở thành đanh đá, hỗn hào. Báu chợt thấy chán chê cho lòng dạ đàn bà dễ đổi thay, tráo trở. Còn như, người đàn ông tâm trí rộng rãi, hiểu biết, đâu đến nỗi tác tệ như vậy.

Báu suy nghĩ đi thật chậm, lại mất mấy phút ghé mini-market mua gói thuốc và tờ vé số Cali, nên chùa Từ Quang cách chung cư chỉ có mấy khu phố, mà phải cả giờ mới về đến nhà.

Báu chậm rãi ngồi vào sofa, đốt điếu thuốc, trầm tư và cạo vé số. Hai ô đầu tiên hiện chữ ENTRY nữa lại ló dạng. Hy vọng tràn trề, Báu lo lập thủ tục gởi đi tham dự cuộc rút thăm chung kết. Một tháng sau, Báu được điện tín gọi đến Los Angeles quay số. Trái banh nhảy tưng tưng, dừng lại ô 10.000 trong một giây, rồi không biết do động lực vô hình nào, lại rơi gọn vào ô độc đắc. Liên tiếp trong hai tuần chưa ai trúng lô nầy, thế là Báu lại trúng lớn đến 9 triệu đồng. Nỗi mừng thật bất ngờ, nhưng Báu cũng cố gắng để giữ thái độ bình tĩnh. Được phỏng vấn là tân triệu phú sẽ xử dụng tiền vào việc gì? Báu đã mỉm cười đáp: “Sửa lại giàn bí đã ngã.” Cả triệu người theo dõi chương trình đã ngẩn ngơ trước câu đáp kỳ cục đó, nhất là khi người phóng viên cho biết chàng ở chung cư, chẳng có một mảnh vườn nhỏ để trồng rau.

Giàu sang biến đổi Báu trở thành một nhân vật quan trọng của cộng đồng. Chàng tự tin, chững chạc, lịch thiệp, rồi cũng phong lưu, hào hoa như thuở nào.

Ngà đã đệ đơn ly dị, bỏ nhà đi gần cả tháng, bỗng dưng lại ngoan ngoãn trở về, tận tụy chăm sóc cho chồng. Tuy nhiên, nhớ những lúc nàng hỗn hào, tệ bạc, Báu có lý do để lơ là, bay bướm ngày đêm, thay tình nhân như thay áo.

Trong một đêm dạ vũ, Báu tình cờ quen biết Mỹ Linh, cô gái nhỏ hơn chàng gần 20 tuổi, hoạt bát, khiêu gợi và đa tình. Cả hai đều bị cú sét ái tình. Báu mê nàng như điếu đổ, cảm giác như đây là lần đầu tiên biết yêu và được yêu, nên quyết tâm chung sống vĩnh viễn với nàng.

Bấy giờ, Ngà lại là chướng ngại vật, bám sát chồng, đã vậy còn giở màn cải lương, ghen tuông khóc lóc. Ly dị thì được rồi, nhưng quá tốn hao, nhứt là cái mục phải chia hai tài sản, thiệt thòi mà Báu thấy quá bất công.

Giải pháp êm đẹp nhứt là Ngà không còn hiện hữu, nhưng thuê người thanh toán, thì Báu thấy nguy hiểm quá. Sau cùng, Báu đặt một kế hoạch vẹn toàn, do đích thân chàng thực hiện.

Báu lấy vé phi cơ đi Los Angeles gặp Luật sư cố vấn, đường hoàng ở khách sạn Holiday Inn và tiếp xúc cả lô bạn bè. Đến 12 giờ đêm, Báu lẻn ra phi trường đi chuyến bay trở về San Francisco, thuê xe lái về khu nhà vắng vẻ của chàng – căn nhà chàng mua sau khi trúng số - dùng máy phát tuyến mở cửa ga-ra tự động, chỉ trong một phút chàng đã vào nhà. Chụp tí thuốc mê cho Ngà ngủ thật say, mở cho hơi gas xì ra, rồi bình tĩnh lái xe ra khỏi nhà. Vào ra, nhanh chóng, an toàn, Báu thong thả lái xe trở ra phi trường. Trở xuống Los mới hơn 3 giờ sáng, Báu tiếp tục chương trình vạch sẵn như không việc gì xảy ra. Hôm sau, khi Báu đang thảo luận công việc với cố vấn thì được Cảnh sát thông báo tin vợ chàng đã bị lâm nạn.

Báu đóng kịch thương khóc vợ thật đẹp. Đám tang tổ chức long trọng. Cầu siêu thật chân thành. Thế nhưng chỉ 2 ngày sau, thì Báu bị Cảnh sát bắt giữ. Âm mưu bị phát giác vì một kẽ hở rất lãng. Khi trả lại chiếc xe thuê, quá sung sướng, Báu hờ hững bỏ quên máy phát tuyết (transmitter) dùng để mở cửa ga-ra tự động. Hãng xe liên lạc không gặp chàng. Để tránh trách nhiệm, họ đành gởi Cảnh sát giữ dùm, với đầy đủ chi tiết và lý lịch của chàng.

Đang gục đầu rầu rĩ trong khám tạm giam, Báu chợt nghe tiếng chìa khóa lạch cạch mở cửa. Cửa mở, Báu nhìn ra. Chàng giật mình sợ điếng không nói nên lời: “Trời ơi! Rõ ràng là Ngà, Ngà hiện hồn về để đòi nợ máu hay sao?”

Báu định thần nhìn kỹ lại thì thấy nàng chẳng phải là ma, mà chàng cũng không nằm trong khám. Báu vẫn còn đang ngồi trên sofa, tay vẫn còn cầm tấm vé số mới cạo lở dở 2 ô, mà mộng giàu sang đã làm chàng ngơ ngẩn xuất thần.

Ngà điềm nhiên vào nhà, mở máy nhạc thật lớn, vừa thay đồ vừa nhún nhảy theo điệu nhạc dâm dật.

Báu vò vé số dang dở liệng vào sọt rác, rồi nhìn vợ mỉm cười. Nụ cười thật hiểu biết và thông cảm.

S.J. 9/5/1986

Chú thích:

(1)  Câu ca dao được nghe ở miền Hậu Giang. Khi bí lên 3 lá thì bắt đầu thả vòi. Người nông dân phải làm giàn cho bí leo. Người con gái đến tuổi cặp kê cũng mong cha mẹ gả chồng cao sang để nương tựa. Nếu có chồng bằng hoặc kém mình thì thật vô duyên vô phận, như dây bí bò lan dưới đất.

(2)  THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường

Đến nay thấm thoát mấy tinh sương

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt

Nước còn cau mặt với tang thương

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ

Cảnh đấy, người đây, luống đoạn trường.

(3)  Nguyên văn thi kệ của VẠN HẠNH THIỀN SƯ

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Bản dịch của Thượng Tọa MẬT THỂ:

Thân như bóng chớp chiều tà

Cỏ Xuân tươi tốt, Thu qua rụng rời

Sá chi suy thịnh việc đời

Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.

 

Thuật bí truyền

Thiền là một môn học thời trang. Đến đâu, cũng nghe đàm luận về thiền, từ các sinh hoạt thuần túy tôn giáo trong các tự viện, các trường đại học, và ngay như các võ đường, người ta cũng tranh đua nghiên cứu thiền và thực tập tọa thiền.

Dân là một sinh viên có khiếu về quyền thuật, nhu đạo nhất là quyền anh; và dĩ nhiên, chàng cũng mong mỏi trau giồi thêm chút đỉnh thiền quán – như nhiều người tin tưởng - hầu tăng cường thêm ý chí tranh đấu, sự điềm tĩnh và dẻo dai trên võ đài.

Từ võ đường tham dự buổi tập dợt thường lệ, thuộc chương trình huấn luyện do nhà dìu dắt quyền anh hướng dẫn, Dân chạy lúp xúp về nhà. Tiện đường, chàng ghé chùa Đức Viên, thử tìm hiểu phương pháp thiền quán. Tuy nhiên, Dân cảm thấy những gì mà vị sư trẻ cố gắng giải thích, dường như lờ mờ, mông lung, khó nắm vững. Những điều Dân còn nhớ loáng thoáng, thì Thiền là một pháp môn Phật giáo để giác ngộ, điều mà Dân thấy không liên quan gì đến sở thích của mình. Rồi Dân lại nghe nhà sư nhấn mạnh đến tương quan giữa TINH, KHÍ và THẦN trong sự hành thiền. Hành giả phải biết tiết kiệm khí lực, dưỡng thần, và nhất là phải diệt dục. Vì dâm dục, loại hoại tinh; mà tinh lực hao mòn thì thần khí suy kém, thì dù có hạ thủ công phu thì tâm trí cũng loạn động lao xao. Nên tọa thiền mà đa dâm dục thì không đạt mấy kết quả, đôi khi còn tai hại, có thể gọi là “tẩu hỏa nhập ma,” như các nhà văn kiếm hiệp thường đề cập.

Dưỡng khí và thần thì may ra Dân còn gắng gượng tìm hiểu, còn diệt dục hay thiếu dục thì Dân xin chịu thua. Với Dân, đó là thú vui tuyệt vời của cuộc đời, mà tội nghiệp thay, nhà sư trẻ này lại dại khờ chối bỏ. Vả lại, dâm dục chưa chắc đã làm hao mòn sức khỏe, trái lại, Dân còn cảm thấy dù dâm dục bừa bãi, mà chàng vẫn mạnh như thần.  Chàng chỉ hằng ao ước tìm được một bí quyết, bí thư, bí truyền nào về thuật “dụng âm bổ dương,” để tăng cường sinh lực mình, như các bộ kiếm hiệp mô tả thì mới thật là thích thú.

Không vừa ý với điều mình nghe, Dân bỏ đi ra hông chùa, lơ đãng nhìn cỏ cây, đang chuyển mình đượm một màu xanh mơn mởn, đón mùa Xuân mới. Cây mai trắng đơm đầy bông rực rỡ cả góc vườn, chợt nổi bật giữa cành hoa trắng, động đậy hai chú bọ ngựa, như hai chiếc lá xanh lung lay theo gió. Chú bọ ngựa đực, cao lều khều, nhưng đầy những bắp thịt rắn rỏi như một chàng võ sĩ, đang chồm tới gần nàng. Có lẽ chàng đang vận dụng mọi khả năng để tán tỉnh, nên tay chân chàng múa máy lung tung; còn nàng, thì nàng có lẽ cũng chịu lắm rồi. Dường như, đang đờ đẫn nhìn chàng.

Đang vui vẻ ngắm hoạt cảnh bọ ngựa, chợt Dân nhớ đến giờ hẹn với Linh, tại nhà nàng. Linh là một cô gái “đầu gà đít vịt,” tức là người Việt Nam mà cha gốc Tiều Châu, mẹ gốc Khmer, rất xinh đẹp. Bao nhiêu chàng trai rắp tâm bắn sẻ, nhưng nhờ số đào hoa, hay như nàng thố lộ, nàng thích đàn ông hùng, rắn chắc như võ sĩ, nên nàng đã chọn Dân.

Hai người yêu nhau rất cao thượng, vì lẽ, gia đình Linh nghiêm khắc canh chừng nàng. Buổi hẹn chiều nay làm Dân rạo rực, vì Linh cho biết hai ông bà già đã rủ nhau đi Reno, nhà không có ai “chúng ta tha hồ.” Tha hồ cái gì nàng không đề cập, nhưng nghe tiếng cười rộn rã của nàng qua điện thoại, Dân cũng đủ run lẩy bẩy trong lòng. Vừa bấm chuông, đã thấy Linh nhảy vồ ra ôm chầm, sự háo hức của nàng, cộng với làn da nóng bỏng, đôi môi thèm khát làm Dân không chịu đựng nổi. Hai người yêu nhau tức thời, rào rạt để trả thù những lúc bị cấm đoán. Nghĩ đến trận tranh tài ngày mai, Dân dự định sẽ từ giã sớm để dưỡng sức, nhưng Linh hấp dẫn quá, đa tình quá, nên trước sự cám dỗ của xác thịt, hai người cứ yêu nhau mù mịt. Còn ngày mai Dân cũng bất cần.

Tình yêu lứa đôi thật mầu nhiệm. Dân tưởng sẽ thất trận vì phung phí quá sức với người đẹp. Nào ngờ, chàng vẫn khỏe mạnh như thần, sự nhanh nhẹn đã không giảm mà quả thôi sơn lại thêm công lực, ngay trong hiệp đầu, chàng đã hạ đo ván đối thủ. Khán giả hoan hô, nhà dìu dắt hân hoan, và chính chàng, chàng cũng ngạc nhiên trước sức mạnh thần tốc của mình. Chàng cám ơn nhà dìu dắt đã tận tình huấn luyện mình, rồi nhớ đến Linh, Dân chợt mỉm cười một mình: “hay là nhờ nàng,” như các thằng bạn trời đánh của chàng thường kháo với nhau là đàn bà Miên bổ thận, không đau lưng lại làm tăng sức khỏe cho chồng?

Sau trận đấu đó, cuộc đời của Dân liền bước sang một khúc quanh mới. Dân may mắn được hội “Găng Vàng” bảo trợ để tiếp tục tranh vô địch quyền anh tài tử tại Thế Vận Hội. Từ đó, ông bầu Marcus, một tay tổ trong ngành quyền anh nhà nghề về khả năng huấn luyện, quảng cáo và dàn xếp trận đấu, đề nghị hợp tác. Từ trận đấu tài tử phúc khảo, vượt lên vô địch nhà nghề chỉ trong vòng 3 năm ngắn ngủi. Danh tiếng lớn lao, khán giả mộ điệu mê mệt. Bao nhiêu ký giả thể thao ca tụng quả đấm móc tay trái, quả đấm thẳng tay mặt là thần tốc, thần tình là thần lực … đã knock out biết bao nhiêu địch thủ. Bao nhiêu thanh thiếu nữ tôn chàng là thần tượng để đón đưa dồn dập để xin một chữ ký, một nụ hôn hờ.

Thế nhưng Dân chỉ yêu Linh, và chỉ lẩn quẩn với nàng. Ngay sau trận đấu phúc khảo của chàng, bất chấp tất cả, Linh đã dọn đến chung sống công khai với chàng. Cha mẹ Linh cũng không có cách nào ngăn cản nổi cô con gái đang xuân, lửa tình hừng hực.

Có hai điều mà Dân không biết mệt mỏi và nhàm chán là hạ địch thủ trên võ đài và làm tình với Linh. Với Linh, thì Dân cảm thấy càng quấn quít càng say mê, lại càng cảm thấy sung sức dẻo dai.

Tuyệt đỉnh danh vọng bất ngờ dồn dập đến. Ngoài những trận đấu trị giá bạc triệu, Dân lại được mời xuất hiện, đóng vai người hùng cho loạt phim quảng cáo Vitamin X, đại hùng lực. Bên cạnh chàng, lại có nữ tài tử lừng danh Michele Brown, với sắc đẹp kiều diễm và thói thay đổi tình nhân như thay đổi áo của nàng. Michele chịu Dân ngay khi mới gặp gỡ, nàng ta tấn công Dân tới tấp, nhưng Dân chỉ cười đùa cho qua, vì chàng chỉ rạo rực với Linh. Tuy nhiên, việc đùa chơi trong chốc lát, đôi khi lại biến thành sự thật, khi Dân nể lời đưa nàng về nhà, rồi lại nể lời ghé nhà uống tí rượu. Trước sự quyến rũ của Michele, trong một khung cảnh nên thơ vắng vẻ, Dân không ngần ngại phiêu lưu một lần với người đẹp. Dù Michele đẹp, hấp dẫn và dâm dật có thừa, nhưng Dân chỉ cảm thấy thỏa mãn chút tự ái – đã ngủ với một minh tinh nổi tiếng – mà sự ham muốn rã rời.

Trời nóng. Về trễ lại càng kẹt xe. Mệt nhọc và bực bội, đã vậy, vừa bước chân vào nhà thì Linh lại nghi ngờ, dở giọng ghen tuông. Hai người bắt đầu cãi vã, lúc đầu còn nhỏ nhẹ, lần lần đến to tiếng, một phần vì Dân mệt mỏi nên cũng hơi gắt gỏng, phần khác, đàn bà ghen thì không hành động gì hợp lý hết. Linh bắt đầu hỗn láo, và Dân đáp lại bằng một tát tay nhẹ. Tát tay nhẹ thôi của một võ sĩ cũng đủ in đậm 5 ngón tay sâu trên má nàng. Người con gái lai đó, đang hùng hổ như một con cọp cái, bỗng khựng lại. Nàng mím môi nhìn Dân thật sắc, thật hận thù, làm Dân cảm thấy rợn người, rồi lặng lẽ bỏ đi.

Trận đấu bảo vệ đai vô địch gần kề, cần phải tập dợt, không có thời giờ để Dân hàn gắn đổ vỡ với Linh. Thiếu nàng, mất hứng tình dục, Dân lại thấy mình mất hứng thú luyện võ.

Thói quen làm tình với Linh đêm trước trận đấu làm Dân bứt rứt nhung nhớ. Vô tình Michele lại tìm đến đúng lúc, giúp cho cơn dâm dật của chàng giảm xuống. Nhưng với Linh, sao Dân cảm thấy mình mạnh hẳn lên; còn với Michele sao Dân thấy mình mệt hẳn ra? Đó là câu hỏi làm Dân run sợ, và làm Dân mất ngủ trọn đêm.

Ra trận như một kẻ mất hồn, mất sự nhanh nhẹn thường lệ, cú đấm lại hờ hững. Hiệp đầu, đối thủ còn e dè thăm dò sức lực, chỉ trong hiệp sau là Dân đã bị hạ đo ván nhục nhã, như một kẻ non nớt vào nghề làm một bia thịt cho kẻ khác biểu diễn.

Báo chí lại giở giọng chửi bới và đề cao vị anh hùng mới. Khách mộ điệu tẩy chay, nhà dìu dắt chán nản. Tất cả đều có chung một luận điệu là Dân đã hết thời.

Dân vẫn tin mình còn có thời, nếu như chàng tìm lại được Linh. bấy giờ, không nghi ngờ gì nữa, Linh chính là nguồn sức mạnh tiềm tàng của chàng.

Cuối cùng, rồi Dân cũng tìm được Linh. Gặp nhau, Linh vẫn lạnh lùng, vẫn thù hận không nguôi. Dân dùng mọi cách năn nỉ ỉ ôi nhưng đều vô hiệu. Cuối cùng, chàng nghĩ đến giải pháp làm càn để ân ái, rồi sau đó mới lựa lời hòa giải được.

Đang băng giá giận hờn mà Dân vừa ôm choàng thì Linh đã mềm nhũn ra. Rồi nàng cũng nóng sốt, vồ vập, háo hức như ngày nào. Không bỏ lỡ cơ hội, Dân mang hết tài nghệ tận lực chiều chuộng nàng. Dù đang mệt ngất ngư, Dân cũng tự hào sung sướng về khả năng chinh phục của mình, khi thấy Linh say mê, ngây ngất và rên rỉ như một con thú rừng hoang dại. Trong cơn lốc cuồng nhiệt đó, mắt Linh đang nhắm nghiền, bỗng mở choàng ra thật lớn, nhìn Dân long lanh. Đôi mắt long lanh lạ lùng và rực máu thù hận như muốn ăn tươi nuốt sống chàng. Dân hoảng hốt đến bất động, chàng muốn kêu la và vuột chạy đi, nhưng không nhúc nhích được. Rồi thình lình Linh hươi 10 ngón tay nhọn hoắc bấu vào da thịt chàng rồi há miệng, nhe hàm răng trắng bén nhọn, cắn mạnh vào cổ chàng. Chàng còn có cảm giác cổ mình bị đứt lìa, máu tuôn chảy. Dân ú ớ la lên.

Chợt giựt mình, Dân thấy mình vẫn còn đứng dưới gốc bạch mai. Trên cành chị bọ ngựa đang ung dung gậm xác tình nhân, mà đầu đã đứt lìa, nằm rơi trên mặt đất.

Dân rùng mình, sờ cổ. Cảm giác lành lạnh tê dại như vẫn còn lẩn khuất đâu đây.

 

Huyễn

Sinh trưởng thuộc miền sông Hương núi Ngự, nhưng khi về miền Tây, Văn lại cảm thấy đây mới đích thực là quê hương của chàng. Vàm sông này, thửa ruộng kia, cù lao nọ… tất cả dường như đã nằm trong ký ức chàng.

Đối với Văn, CỬU LONG và THẤT SƠN, 2 đặc trưng của miền Tây, là một hiện hữu mầu nhiệm ràng buộc chàng từ bao tiền kiếp. Cho nên, nếu CỬU LONG được Văn đề cao như con rồng thiêng uốn khúc mang dòng nước ngọt ngào nuôi dưỡng một miền Tây trù phú, thì THẤT SƠN được chàng tin tưởng như một địa linh tàng ẩn những năng lực siêu hình.

Từ xưa, THẤT SƠN vẫn là chốn thanh tĩnh cho những tâm hồn tiêu dao thoát tục, cũng là nơi trú ẩn, hội họp của những phong trào Cần Vương chống Pháp. Kết tinh bởi yếu tố yêu nước nồng nàn và thoát tục, nên những giáo phái liên hệ đến THẤT SƠN: Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật Thầy Tây An, Bửu Sơn Kỳ Hương, Phật Giáo Hòa Hảo… đều mang một tính chất đặc thù: tích cực nhập thế cứu dân, cứu nước.

THẤT SƠN vừa được tôn xưng như Thánh địa khai mở Hội LONG HOA, khi Đức Phật DI LẶC chuyển pháp luân, lại cũng là một long huyệt, nơi xuất phát vị minh quân cho một nước Việt Nam hùng cường vào cơ thượng ngươn tái tạo. Sấm Trạng Trình:

“Bảo giang thiên tử xuất

Bất chiến tự nhiên thành”;

Hay bài kệ trấn sơn kỳ bí của phái Bửu Sơn Kỳ Hương:

“Bửu ngọc quân minh thiên việt nguyên

Sơn trung sư mạng địa nam tiền

Kỳ niên trạng tái tân phục quốc

Hương xuất trình sinh tạo nghiệp yên” (1)

đều ám chỉ vùng địa linh thiêng liêng đó.

Sấm ký trên còn được tô điểm thêm bằng huyền thoại Đức Phật Thầy đã đích thân đốn ngã 24 cây nam đàn, mà từ ngàn xưa, Cao Biền, cỡi diều giấy vào Nam trồng, nhằm trấn yểm long huyệt THẤT SƠN.

Văn chuẩn bị cho chuyến hành hương NÚI CẤM thật chu đáo: đầy đủ lương khô cho chàng có thể lang thang đây đó nhiều ngày. Truyền thuyết tuy có quyến rũ, nhưng mục đích chuyến đi không nhằm khám phá những bí ẩn đó. Chàng có cảm giác như có sự ràng buộc vô hình thôi thúc chàng đi “trở về,” nhưng trở về đâu? Để làm gì? Thì chàng lờ mờ chẳng biết.

Phong cảnh thật thanh tịnh nhưng không cô liêu, vì chim chóc bay lượn và hót vang suốt ngày, còn những chú sóc thì nhí nhảnh, lăng xăng khắp nẻo. Xa xa, xuất hiện những mái tranh, những miếng rẫy với những bác nông dân hay ông đạo hiền lành, cần cù trồng hoa màu về đồng bằng đổi gạo.

Đường đi, khi thì bằng phẳng, lúc phải leo trèo trên những vách đá dựng đứng thật khó khăn, mà đường mòn thì chi chit. Thế nhưng Văn không hỏi thăm ai, một mình thơ thẩn nương theo trực giác hay theo những áng mây chập chờn dẫn lối. Khi chàng dừng chân uống ngụm nước mát lạnh bên dòng suối nhỏ, tiềm thức chàng bỗng mường tượng được động Thủy Liêm trước mặt, cũng như phân biệt lối mòn theo “dấu chân tiên,” lối lên đỉnh Bửu Sơn với ngôi chùa uy nghi. Văn rẽ sang đường mòn đưa lên đỉnh Đông Nam, chàng mang máng nhớ tới dải đất thoai thoải, với tảng đá lớn được mang tên Thạch Bàn, nơi mà chàng có thể tạm làm giường ngủ về đêm.

Văn bước thật nhanh, xúc động bồi hồi như kẻ tha phương trên đường về quê nhà, chàng có cảm giác biết rất rõ từng cành cây, khóm đá. Đến khi, chàng thoạt thấy dáng liễu xinh ẻo lả bên cạnh thạch bàn, thì không còn nghi ngờ gì nữa, Văn tin chắc mình đã từng ở nơi nầy. Mới đây, như ngày hôm qua, chàng đã vun quén khóm trúc, lót sàn nhum, sửa mái tranh cho cái “cốc” đơn sơ. Chàng leo vội lên thang tự nhiên như nhà của mình. Nhà có người. Văn giựt mình tỉnh mộng nhớ là mình chỉ là khách hành hương. Một Ông đạo lớn tuổi, râu bạc trắng, tóc bới cao, đang khoan thai và trang trọng lễ Phật. Ông đạo thật khả kính, Văn mong mỏi được thân cận nhưng chờ đợi mỏi mòn gần 2 giờ, Ông Đạo mới chấm dứt phần lễ lạy.

Sau phần xã giao thông thường, ngạc nhiên về lối hành đạo mê tín, chỉ biết sùy sụp lạy không ngừng, Văn buột miệng hỏi:

- Ông đạo lễ lạy suốt ngày hay sao?

- Dạ! Ngoài thời gian làm rẫy, lão chỉ biết lễ Phật. À! Lão chỉ biết lễ Phật. À! Lão xòe ngón tay tính nhẩm – có lẽ đã 30 năm công phu rồi, mà phải tốn đến 10 năm đầu để thâm nhập được diệu lý của lễ Phật.

- Ông đạo không có đọc kinh sách để tìm hiểu về giáo lý hay sao?

Ông đạo nhè nhẹ lắc đầu, làm Văn thương hại giải thích:

- Thật ra, tu Phật là tu tâm. Tất cả hình tướng như tượng Phật, lễ bái, chuông mõ, nhang đèn… đều là huyễn, là không. Ngày xưa, tổ Đơn Hà (2), đã cầm dao chẻ Phật đốt lò sưởi, cũng nhằm dạy đệ tử hiểu là Phật ở tự tâm chớ không nương nơi hình tượng. Thế nên, trong Kinh Kim Cang, Phật đã dạy rõ ràng:

Tất cả pháp hữu vi

Như mộng, huyễn, bọt, bóng,

Như sương, cũng như điện

Nên khởi quán như vậy.. (3)

Ông lão tỏ vẻ thán phục Phật học uyên bác của Văn, mời chàng ở lại ngủ đêm, rồi lại tiếp tục thời khóa lễ Phật.

Trăng sáng ẩn hiện bên nhành liễu thật nên thơ, mời mọc Văn ra ngoài ngoạn cảnh. Dựa lưng vào vách đá, lơ đãng đùa những cụm mây lơ lửng, rồi phóng tầm mắt nhìn các vồ đá đa dạng gần xa. Văn dừng ánh mắt ở vồ đá nhìn hình con voi đang phủ phục, hơi sương quyện với áng mây tạo tảng đá thành một hình ảnh sống động. Hốt nhiên, Văn chợt thấy bóng voi chờn vờn chồm dậy, bước từng bước, rồi bắt đầu chạy như bay. Nghĩ là ảo tưởng Văn gụi mắt, cấu tai… nhưng sự thực vẫn lạ lùng hiển hiện. Trời bỗng tối sầm lại, mặt đất như đang lung lay theo tiếng chân voi ầm ầm chạy càn quét cây cối ngã ngổn ngang. Linh cảm voi điên sẽ hại chàng, Văn muốn cầu cứu ông lão, nhưng chân dính chặt vào tảng đá không kéo lên được. Mồ hôi lạnh toát ra, tóc tai dựng đứng, sợ hãi kinh khủng mà chỉ biết trợn trừng chờ chết. Văn ngã quỵ dưới bàn chân voi, đang từ từ giày xéo thân chàng.

Trong giây phút cực kỳ nguy hiểm đó, chợt có tiếng Ông đạo ngâm:

“Tất cả pháp hữu vi

Như mộng, huyễn, bọt, bóng

Như sương, cũng như điện

Nên khởi quán như vậy.”

Dường như không đúng hẳn là tiếng ngâm vì quả thật không có âm thanh phát ra, mà ý tưởng từ tâm Ông đạo đã chui tuột vào tâm chàng. Cũng câu kệ mà chàng “ba hoa,” đọc tụng hàng trăm lần không khác lạ, mà nay hốt nhiên gây chấn động cả vũ trụ càn khôn và bùng nổ sáng ngời trong tâm chàng. Sau phút giây không gian và thời gian ngưng đọng, nước mắt ràn rụa, Văn quỳ xuống đảnh lễ Thầy.

Ông đạo hiền lành nhìn chàng mỉm cười:

- Quảng Văn! Đạo Phật là đạo để thực hành chớ không phải để huyền đàm. Sở học mênh mông vô cùng tận nhưng sở đắc chỉ cần có một. Xưa nay, chư Bồ Tát, chư Tổ chỉ cần chuyên trì một pháp môn để đạt đạo mà thôi.

Con hãy tự chọn một pháp môn mà tinh tấn tu tập. Nên nhớ pháp môn chỉ là một phương tiện “điều tâm”, nên pháp môn nào, dù là tọa thiền, tụng kinh, lễ Phật, niệm Phật hay thậm chí trồng cây, gánh nước… cũng đều có thể đạt đạo được…

Dứt lời, Ông đạo từ tốn ngồi trên lưng bạch tượng đã quì bên cạnh từ lúc nào. Bạch tượng nhẹ nhàng bước, từng bước lên mây về hướng Tây, rồi mất hút dần giữa hư không.

Văn chỉ biết quì xuống, chắp tay niệm “Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.”

Cư sĩ Quảng Văn quyết định ở lại Núi Cấm tu hành. Nhận thấy đường hành hương quá cheo leo trắc trở, Văn nguyện sửa sang lại các lối đi nên đã chọn pháp môn “trì địa” – thay vì pháp môn lễ Phật của Bổn sư - để nuôi dưỡng tâm mình.

Ngày ngày, Văn siêng năng tu tập: không ngừng đục đá, đốn cây, đắp đường cho các lối mòn Núi Cấm, nhưng mỗi động tác đều được an trú trong chánh niệm:

Xây cầu đắp lộ

Tâm địa khai hoa

Trang nghiêm Ta Bà

Thành thanh tịnh độ.

Sau 5 năm hành trì, Văn nghĩ đã đến lúc “thõng tay vào chợ,” tùy duyên độ đời. Văn xuống núi, lang thang từ xóm làng nầy đến xóm làng khác, làm công lặt vặt; cuốc đất, trồng cây, đào ao, đắp đập, cày thuê, cấy mướn… để sinh sống đạm bạc. Tiền dư đem giúp đỡ bà con lối xóm nghèo hèn; thời giờ rảnh rỗi, Văn khai mương, đắp lộ, làm cầu tre, cầu ván… giúp cho dân làng đi lại dễ dàng. Còn duyên thì ở, hết duyên thì đi, lẩn quẩn khắp vùng Tịnh Biên, Tri Tôn (Châu Đốc), nơi có nhiều đồng bào Miên thực thà tốt bụng nhưng dốt nát, nghèo nàn.

Rồi do nhân duyên tiền kiếp đưa đẩy, Văn đã về xã Sóc Sơn (Rạch Giá), tạm ngụ tại chùa Miên mong gặp lại bạn xưa.

Quảng Văn kể xong câu chuyện, nhìn Trí mỉm cười.

Trí ấp úng thưa hỏi: “Thưa Thầy, con xin phép hỏi Thầy…”.

- Không! Chú Quảng Trí. Chú là sư đệ, chỉ nên gọi ta là sư huynh mà thôi.

Tiếng của Quảng Văn có lẽ lớn quá, làm cho thiếu Tá Lê Quang Trí, Trưởng Trung Tâm Thẩm Vấn Cảnh Sát Quốc Gia Kiên Giang, đang gục đầu ngủ trên bàn viết, giựt mình thức dậy.

Trên bàn, lạ lùng thay, tập hồ sơ nghi phạm Nguyễn Quảng Văn, 55 tuổi, làm công, tình nghi hoạt động cho Việt Cộng, đang mở ra trước mặt chàng.

Trí đọc lại tờ phúc trình của thẩm vấn viên:

“Căn cứ vào báo cáo của mật báo viên, tên Văn đã có những điểm khả nghi như sau:

1/- Tên Văn hành nghề đào đất sét làm nồi đất, ngoài giờ làm công, thường hay lân la làm quen giúp đỡ các gia đình nghĩa quân để tạo ân nghĩa. Không rõ hắn có mưu cầu khai thác tin tức gì không?

2/- Chiều ngày 19 tháng 5, tên Văn đã âm thầm thông báo cho các gia đình Miên, thuộc khu gia binh nghĩa quân phải di tản đến chùa Sóc Soài hầu tránh đạn lạc. Do liên hệ nào tên Văn đã biết rõ Việt cộng sẽ tấn công chính xác vào hướng trại gia binh? Cũng ghi nhận là nhờ các gia đình nầy báo cho chồng con họ, nên xã Sóc Sơn đã kịp thời tổ chức phòng thủ.

3/- Đêm 19 rạng 20.5, hai tên Việt cộng bị thương chạy về hướng chùa Miên Sóc Soài, đã được tên Văn băng bó.

Được thẩm vấn, tên Văn phủ nhận tất cả tội lỗi. Y khai vì linh cảm (?) Việt cộng tấn công nên báo tin cho dân lánh nạn, chớ không phải nhờ liên hệ với cộng sản mà hay biết. Ngoài ra, y nhận có băng bó vết thương cho 2 người, nhưng lúc đó thấy máu chảy, y lo lắng chăm sóc mà chẳng quan tâm suy xét coi họ là quốc gia hay cộng sản.

Ý Kiến Của Thẩm Vấn Viên: Hành vi của tên Văn rất đáng nghi ngờ, nhưng bằng chứng chưa rõ rệt. Đề nghị trả tự do cho đương sự, nhưng theo dõi gắt gao để bắt trọn ổ.

Trí đọc kỹ hồ sơ và đã phê “đồng ý” từ đêm qua, nhưng mệt quá, chàng đã ngủ quên với giấc mộng dài.

Trời lần lần sáng tỏ. Trí trao hồ sơ cho nhân viên lập thủ tục phóng thích lão Văn. Giấc mộng ám ảnh chàng, nên Trí cố ý quan sát ông lão, hành trang trên vai, với nụ cười nhẹ, đang khoai thai rời Trung Tâm. Thình lình, ông lão chợt thấy một ổ gà giữa lộ - con đường Lâm Quang Ky, khoảng nầy là đường riêng của Trung tâm chỉ có xe cảnh sát ra vào – Ông lão trang trọng để túi hành trang xuống, cuốc đất lấp lại ổ gà, rồi tiếp tục lộ trình.

Những người lính chỉ trỏ vỗ tay cười lão già nhà quê đang khúm núm “lấy điểm” cảnh sát. Riêng Trí, chàng hiểu hành động cao quí thể hiện bởi hạnh bồ tát trì địa của Quảng Văn. Nước mắt chực trào ra, Trí muốn chạy đến bên Quảng Văn để thân cận người sư huynh trong mộng. Tuy nhiên, thân phận một người Trung Tâm Trưởng không thể liên hệ với một nghi phạm do chính mình vừa phóng thích, làm Trí ngại ngùng.

Bên tai chàng, chợt nghe tiếng nói nhẹ như tơ - tiếng truyền âm nhập mật - chỉ nói riêng cho chàng nghe:

“Chỗ mà cuối cùng con người tụ họp

Là nghĩa địa đầy những mồ mả.

Những gì khi sống cưng giữ

Lúc chết vất bỏ tất cả…” (4)

Huỳnh Trung Chánh

Chú thích:

(1) Đọc theo chiều dọc thì bài kệ Trấn Sơn của phái Bửu Sơn Kỳ Hương tương đối dễ hiểu hơn:

Bửu Sơn Kỳ Hương

Ngọc trung niên xuất

Quân sư Trạng Trình

Minh Mạng tái sanh

Thiên địa tân tạo

Việt Nam phục nghiệp

Nguyên tiền quốc yên.

(2) Thiền sư ĐƠN HÀ THIÊN NHIÊN (738-824) đời nhà Đường dừng bước vân du ở chùa Huệ Lâm, tại kinh đô gặp tiết đại hàn giá buốt, Sư rinh một tượng Phật lớn xuống bửa củi đốt lò sưởi. Ông Từ kinh hoàng hỏi: “Sao Hòa thượng dám đốt tượng Phật?” Sư đưa gậy bới đống tro như tìm kiếm vật gì đáp: “Tôi đốt Phật để tìm xá lợi.” Ông Từ đáp: “Phật gỗ mà xá lợi ở đâu?” Sư bảo: “Thế sao ông trách tôi?” Sau đó, ông Từ bị rụng hết lông mi vì quở trách tổ Đơn Hà.

(3) Nguyên văn bản chữ Hán như sau:

Nhứt thiết hữu vi pháp

Như mộng, huyễn, bào, ảnh

Như lộ diệc như điển

Ưng tác như thị quán.

(4) Bài kệ trên trích trong phần “Lời Nói Đầu” của kinh Tọa Thiền Tam Muội.

 

 

Trúc biếc hoa vàng

Quang cảnh hàng trăm Tăng Ni hàng hàng lớp lớp ngồi kiết già tĩnh lặng trong Viện Mâu Ni, Thiên Long Quốc Tự nước Đại Lý, làm cho ngôi cổ tự thêm phần trang nghiêm hùng tráng.

Sau tiếng chuông ngân nhẹ, Phương trượng Thiên Nhân, vị Quốc sư lãnh đạo tinh thần toàn nước Đại Lý, khoan hòa ban đạo từ:

“Nam Mô A Di Đà Phật!

Thiên Long tự xin tán thán công đức chư tôn Hòa Thượng, Đại Đức Tăng Ni đã vân tập về đây tham dự khóa lễ giỗ 120 năm của Tổ sư Thiên Long. Tổ sư đã khai sáng dòng Thiền Thiên Long và đã ban cho hậu thế Lục Mạch thần kiếm bảo đồ (1), một bảo vật của thiền lâm.

“Thưa quí vị, Thiên Long tự cũng như các đại tòng lâm khác, đã có truyền thống huấn luyện môn sinh võ nghệ song song với nội điển, nguyên nhân vì đạo lý Phật học và võ học có chỗ tương đồng, mà với nhiều năm trau giồi, qua võ công môn sinh có thể thâm nhập thêm diệu lý của Đức Thế Tôn.

“Tương tợ như kẻ tu hành, giữ gìn hơi thở như mạng sống, theo dõi kiểm soát hơi thở, từ đó kiểm soát thân tâm, xây dựng bước đầu cho thiền định; người luyện võ công cũng đặt nặng việc luyện khí, vận dụng khí lực, dùng hơi thở làm gạch nối cho thân tâm, luyện cho thân tâm hợp nhất thì chiêu thức mới vững chãi, xuất phát mới như ý.”

Ngừng một giây, Phương trượng nhìn xuống hàng cuối cùng, hướng về vị Tăng trẻ tuổi nhất hỏi:

- Tuệ Giác! Trong 84 vạn pháp môn, pháp nào cao, pháp nào thấp?

Tuệ Giác chắp tay kính cẩn:

- Kính thưa Sư thúc tổ! Muôn pháp vốn bình đẳng, đều đồng một vị giải pháp; không một pháp nào cao, không pháp nào thấp cả. Chỉ có công phu tu tập là có kẻ hơn người kém mà thôi!

- Đúng thế! Tuệ Giác. Công phu tu tập là yếu tố quyết định cho hành giả. Kẻ có nội công thâm hậu thì một chiêu thức tầm thường hay thậm chí chỉ vận công chịu đựng cũng khắc phục được địch thủ. Còn nội công yếu ớt, thì dù thuộc vô lượng chiêu thức thâm độc cũng không vận dụng được. Đối với bậc tu hành thì đạo hạnh chính là nội công. Đạo hạnh đã tròn đầy, thì đi đứng nằm ngồi cũng không ra ngoài đạo, một pháp đơn sơ cũng hiển lộ được pháp thân, nụ cười, lời nói mộc mạc, tiếng hét, cái đá cũng độ được người. Còn kẻ lăng xăng loạn động, dù viện dẫn thiên kinh vạn quyển, thao thao bất tuyệt đủ pháp môn cao siêu thì cũng đồng hóa với ma thuyết, hại người, hại mình mà thôi!

Thế nên, để tránh cho kẻ sơ cơ thiếu đức, mới chập chững làm quen với tư tưởng đại thừa, chưa thâm nhập kinh tạng đã vội sanh tâm chấp có, chấp không, ngông nghênh cuồng ngạo, nên Thiên Long tự chỉ cho phép chúng đệ tử đạo hạnh khá cao mới được vào Mâu Ni đường chiêm bái Lục Mạch thần kiếm bảo đồ. Tuy nhiên, theo tôn ý Tổ sư, cứ 60 năm, cửa Mâu Ni đường lại rộng mở một ngày cho chư Tăng Ni Đại Lý tham khảo, mong có những anh tài xuất chúng thấu hiểu nghĩa mầu.

Phương trượng khoác tay cho thị giả kéo màn để hiển lộ 8 bức tranh cổ, bạc màu trên tường. Sáu bức tranh đầu, vẽ người thiếu nữ múa kiếm, đường kiếm tung hoành dọc ngang, chiêu thức chập chờn biến ảo, nhất là bức tranh thứ 6, đường kiếm càng phức tạp, trùng điệp, như có như không. Có lẽ do 6 bức tranh này mà bảo đồ đã mang danh Lục Mạch thần kiếm, vì hai bức tranh còn lại không liên hệ gì đến kiếm thuật. Tranh thứ 7, chỉ vẽ một vòng tròn thật mỏng, mong manh như chợt vỡ tan và bức cuối cùng là phong cảnh thần tiên của dải Thiên Sơn hùng vĩ.

Đại chúng bị các bức tranh thu hút mãnh liệt, mọi người đều ngưng thần để hết tâm trí vào những đường kiếm tuyệt diệu để ghi nhớ. Có kẻ dùng ngón tay vạch vẽ trên hư không, kẻ thì huơ tay múa chân, người gục đầu ưỡn ngực; dường như không ai còn nhớ mình là Tăng sĩ, đang ngồi kiết già trong một thiền viện để chiêm bái một tác phẩm thiền.

Có lẽ thấy đạo chúng quá say mê kiếm thuật mà thả lỏng chánh niệm Phương trượng thở dài rồi lên tiếng:

- Kiếm cũng như trí tuệ. Xử dụng trí tuệ phá thức: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức. Lại biết vận dụng thức thành kiếm trí tuệ đập vỡ mại na thức, để nhảy ùm về nguồn a-lại-da-thức…

Trong đại chúng bỗng có tiếng cười khẽ, âm điệu bất phục. Tiếng cười nhỏ nhưng đang lúc mọi người yên lặng nghiên cứu kiếm pháp thượng thừa, làm ai cũng bất bình.

Chợt phía sau Phương trượng, một vị sư già xoay mặt nhìn vách tọa thiền, lên tiếng:

- Xin hoan hỉ kính chào Đại sư Cưu Ma Trí, Quốc sư nước Thổ Phồn, quang lâm đến tệ tự.

Danh tánh của Đại sư Cưu Ma Trí nổi như cồn, mà sự hiện diện lại không mấy đoan chánh – trà trộn vào đám tăng nhân Đại Lý để xem trộm bảo đồ - làm mọi người cực kỳ ngạc nhiên.

Vị sư già từ từ xoay mặt lại, chắp tay chào Đại sư Cưu Ma Trí. đại chúng lại một phen giựt mình kinh hãi. Vị sư già có gương mặt rất lạ lùng kỳ dị; nửa gương mặt bên trái hồng hào tươi nhuận, da thịt đầy đặn, mủm mỉm như đứa trẻ; còn nửa bên phải thì ngược lại chỉ có làn da nhăn nheo bọc xương, tương tự như nửa cái đầu lâu người chết.

Đại sư Cưu Ma Trí cũng ngạc nhiên không kém, vì không ngờ vị sư già diện bích thiền chỉ nghe tiếng cười mà đã khám phá ra lý lịch của mình. Tuy nhiên, là bực danh tăng biện tài vô ngại, Đại sư cất tiếng cười vang khỏa  lấp, rồi vừa chào đáp lễ vừa đọc ngay bài kệ:

Hữu thường mà hóa vô thường

Bốn bể song thọ một trường khô vinh

Đông, Tây, Nam, Bắc phân minh

Đã hình như giả lại hình như không (2)

Lão tăng khẽ mỉm cười từ tạ:

- Tiếng đồn quả thật chẳng sai. Đại sư chính là bậc thần tăng, vừa nhìn đã khám phá ra ngay pháp danh cũng như trình độ tu chứng của lão tăng. Thật là bội phục! Bội phục!

Nguyên Đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn giữa bốn cây Sa-la. Sa-la loại cây một gốc mà có hai thân, trông như hai cây mọc sát nhau, nên thường gọi là Sa-la song thọ. Bốn cây Sa-la lại có bốn thân xinh tươi, bốn thân khô héo, nên gọi là Tứ Khô Tứ Vinh. Cây Sa-la song thọ hướng Đông tượng trưng cho thuyết thường dữ vô thường; song thọ phương Tây thuyết ngã dữ vô ngã; song thọ phương Nam thuyết lạc dữ vô lạc; và song thọ phương Bắc thuyết tịnh dữ vô tịnh. Tóm lại, bốn thân khô héo tượng trưng cho vô thương, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Pháp danh của nhà sư là KHÔ VINH, lấy từ thuyết này, và gương mặt của nhà sư, ảnh hưởng từ pháp danh mà cũng hiển lộ nửa khô héo, nửa tươi nhuận. Cưu Ma Trí thoạt nhìn đã biết ngay, quả thật là người thông minh xuất chúng.

Chờ hai vị Đại sư đáp lễ nhau xong, Phương trượng hướng về Cưu Ma Trí lên tiếng:

- Bần tăng vẫn đang chờ Quốc sư mở lượng chỉ giáo.

Phương trượng đạo đức cao dày, không trách người có hành vi khiếm nhã, chỉ ôn tồn thỉnh ý, thật là hành vi đáng khâm phục. Cưu Ma Trí miệng lưỡi lanh lẹ, cười ha hả đáp:

- Lục Mạch bảo đồ rõ ràng là kiếm pháp. Cớ sao Phương trượng lại vẽ vời thành Phật Pháp để làm rối loạn lòng người?

Phượng trượng hiền hòa trả lời:

- Tâm kiếm thì ngộ được kiếm pháp; tâm Phật thì ngộ được Phật pháp. Ba cõi chỉ do tâm, muôn pháp chỉ do thức. (3)

Cưu Ma Trí gượng cười bỏ đi không từ giã ai. Tuy nhiên, Khô Vinh và Thiên Nhân vẫn bình thản tiễn đưa khách tận cổng. Hậm hực rời bước, nhìn lại Thiên Long tự tuy có vẻ uy nghiêm nhưng so với Kim Luân tự, ngôi chùa của Đại sư, vẫn thua xa về sự tráng lệ, xa hoa. Sư bĩu môi:

- Thiên Long tự chỉ có chừng đó thôi sao?

Khô Vinh đọc hai câu thơ thay câu trả lời:

“Trúc biếc, hoa vàng đâu cảnh khác

Tăng trong, mây bạc lộ toàn chân.” (4)

Khô Vinh mượn hai câu thơ của đắc đạo cao tăng Đại Việt, Thiền Lão thiền sư (4) nhằm nhắc nhở Cưu Ma Trí rằng, nếu lấy tâm phân biệt thì có lớn nhỏ, đẹp xấu, yêu ghét, chớ Thiên Long tự, cũng như trúc biếc, hoa vàng, tất cả đều hiển lộ rõ ràng pháp thân thường trụ.

Nhìn theo bóng Cưu Ma Trí, đang hớn hở xum xoe giữa đám tùy tùng tiền hộ, hậu ủng, Khô Vinh khẽ thở dài. Ngài thương tiếc cho một nhân tài thông minh xuất chúng, vì sớm nổi danh được tôn sùng thành một Quốc sư danh vọng, quyền lực tột bực, kẻ hầu người hạ, nịnh bợ tâng bốc đủ điều, nhân đó lòng kiêu căng nổi dậy lúc nào không hay. Ám cảnh khi đã hiện ra liền hướng dẫn sang khúc quanh ma đạo, trở thành cuồng thiền, cuồng ngộ, nên hành vi chừng như phóng túng thoát tục, thật ra vẫn lẩn quẩn trong danh lợi cuồng si.

Nghĩ lại phận mình Ngài thấy đường tu vẫn còn lắm gian nan. Sau 20 năm chiếu theo Lục Mạch thần kiếm bảo đồ diện bích thiền, Khô Vinh phá được 6 cửa ngăn che của lục thức, nhiều phen tưởng như đập vỡ được mạt na thức, loáng thoáng thấy được bản lai diện mục. Thế nhưng lộ trình tu chứng dường như có chỗ đình trệ, không tiến, không lùi, sắc diện lần lần biến dạng nửa khô, nửa vinh không sao giải quyết được. Nay nhân hình tích đã lộ, Khô Vinh nghĩ đến chuyện hành hương về phương Nam, tham kiến Thiền Lão đại sư, vị cao tăng đắc đạo mà Ngài vẫn hằng ngưỡng mộ mong Người ấn chứng sở đắc của mình.

Không thích sử dụng phương tiện cung cấp bởi hoàng triều, Sư du hành theo hạnh khất sĩ lang thang lếch thếch đến gần 4 tháng mới đến chân núi Thiên Phúc, huyện Tiên Du, nước Đại Việt.

Thị giả đón Đại sư dưới núi, thưa:

- Bạch Đại sư! Thầy con đang đợi Đại sư. Đại sư đến thật đúng lúc…

Chùa Trùng Minh, tuy không ở nơi đô hội, xây cất giản dị mà rất rộng rãi cho hàng trăm Tăng Ni tu tập, không khí thật thanh tịnh và đầy đạo vị. Khi thị giả đưa Khô Vinh đến đại hùng bửu điện, thì Thiền Lão đại sư đã chấm dứt phần pháp từ. Hàng ngàn Tăng Ni đệ tử, kể cả Cư sĩ vẫn ngồi yên lặng, vẻ mặt thật trang nghiêm long trọng.

Theo truyền thống Vô Ngôn Thông, hai vị cao tăng chào nhau không nói, dường như không cần mở lời mà đã cảm thông với nhau hàng ngàn kiếp, hay là chỉ cần để tâm nói chuyện thẳng với tâm là đủ.

Bất ngờ, Thiền Lão đưa ngón tay chỉ lên chánh điện. Thật là lạ lụng. Tượng Phật biến dạng từ lúc nào? Bên phải có tượng Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tượng trưng cho lý tính tức đại trí, tay cầm gươm trí tuệ cỡi sư tử đại hùng; và bên trái là tượng Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, tượng trưng cho sự tướng, tức đại bi, đang cỡi voi cần cù để lập muôn vàn hạnh nguyện cứu độ chúng sanh. Hai tượng Bồ Tát tự nhiên chuyển động, xoay quanh nhau thật nhanh, không thể phân biệt được đâu là Văn Thù, đâu là Phổ Hiền? Rồi bất thình lình, hai tượng Bồ tát hội nhập làm một hiển lộ thành tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, với hào quang sáng ngời.

Thiền Lão chắp tay lễ Phật thật thành kính rồi niệm thần chú: “OM, MANI PADME HUM” (5)

Câu thần chú đánh bật vào tâm Khô Vinh. Bao nhiêu nghi vấn còn sót lại, chút vi tế ngăn che, bất ngờ vỡ tan, Khô Vinh hoát nhiên đại ngộ, vội vàng sụp lạy vị Nam tăng.

Nguyên Khô Vinh thiết tha cầu đạo, khi loáng thoáng vượt thoát mạt na thức lại càng gắng công, gắng sức. Phần thô tuy không còn, song vi tế trước ý lại manh nha; lòng đã mong cầu dù là mong cầu đạt đạo, là vẫn còn chút chấp ngã, nên chỉ thoáng thấy bản lai diện mục mà loanh quanh chẳng ra vào thường trực được. Cũng chính vì chút vi tế chấp ngã nên đại trí là đại trí, đại bi là đại bi; khô là khô, vinh là vinh, tách rời cách biệt. Nay do thần thông của Thiền Lão, tượng hoán đổi nhắc nhở quả vị không thật, rồi hai tượng bồ tát nhập một thành tượng Thích Ca vừa đúng lúc thì thần chú vang rền đã giúp cho Khô Vinh gột rửa vi tế chấp ngã còn sót lại. Giờ đây thì đại trí đã là đại bi, trong đại trí đã có đại bi, trí là bi, bi là trí. Nguyên lý căn bản này Khô Vinh quá quen thuộc, nhưng vi tế chấp ngã vô hình khó tận diệt, nếu không được Thiền Lão hỗ trợ.

Khi Khô Vinh đứng dậy, thì gương mặt Ngài đã trở thành bình thường, Khô và Vinh thật ra không khác.

Người thị giả vội vã quì dưới chân Thầy, nước mắt rưng rưng. Thiền Lão đại sư, sau khi phú chúc chư đệ tử, đón Khô Vinh hiển lộ thần thông cứu độ rồi vẫn trong tư thế kiết già, miệng vẫn mỉm cười mà đã an nhiên thị tịch từ lúc nào.

Tháng 7. 1986

Chú thích:

(1) Chuyện Lục Mạch thần kiếm với các nhân vật Khô Vinh, Cưu Ma Trí, Thiên Nhân… đã được nhà văn nổi danh Kim Dung viết trong bộ kiếm hiệp Thiên Long Bát Bộ. (Xem Thiên Long Bát Bộ quyển 2, từ trang 558 - bản dịch của Hàn Giang Nhạn). Nhân vật kỳ bí Khô Vinh với gương mặt nửa héo nửa tươi gợi ý tác giả viết truyện này.

(2) Bài thơ này do Hàn Giang Nhạn dịch

(3) Nguyên văn chữ Hán: “Tam cõi duy tâm, vạn pháp duy thức.”

(4) Thiền Lão Thiền Sư: Thiền sư thuộc đời thứ 6, Trụ trì chùa Trùng Minh, huyện Tiên Du, một đại tòng lâm với đệ tử hàng ngàn người. Trong khoảng niên hiệu Thông Thụy (1034-1038), vua Lý Thái Tôn, nhân một hôm đến thăm và hỏi:

- Hòa thượng trú ở chùa này bao lâu?

Thiền sư đọc 2 câu thơ:

“Đản tri kim nhựt nguyệt

Thùy thức cựu xuân thu”

dịch:

Sống ngày nay biết ngày nay

Còn xuân thu trước ai hay làm gì.

- Ngày thường Hòa thượng làm việc gì?

- “Túy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh,

Bạch Vân minh nguyệt lộ toàn chân.”

dịch:

“Trúc biếc, hoa vàng đâu cảnh khác,

Trăng trong, mây bạc hiện toàn chân.”

Trích Việt Nam Phật giáo sử lược của Thượng Tọa Mật Thể.

(5) OM MANI PADME HUM là phiên âm theo tiếng Phạn. Kinh điển cũ đọc theo phiên âm Hán tự thành: ÁN MANI BÁT DI HỒNG. Thần chú diệu nghĩa vô biên không thể luận bàn được. Một trong những diệu nghĩa là thần chú nói lên sự bất phân ly giữa đại trí và đại bi.

 

Có nghĩa gì đâu?

Có lẽ nhằm phô trương tình yêu thương vĩ đại của mình đối với lang quân, bà Hà Đông tổ chức lễ cầu siêu cho người bất hạnh thật long trọng.

Chánh điện chùa Đức Viên vốn nhỏ hẹp, khách tham dự quá đông đảo, lại chào hỏi nhau lăng xăng làm không khí chốn tôn nghiêm có thêm phần náo nhiệt!

Để vãn hồi trật tự phần nào, trước khi nguyện hương chủ lễ, Thầy mở lời:

- Thông thường, Phật tử có quan niệm sai lầm là giao khoán phần lễ cầu siêu cho tu sĩ tụng niệm, còn thân nhân bè bạn chỉ tham dự chiếu lệ, lơ là mong lễ sớm kết thúc. Nếu mang tâm giải đãi pha lẫn tham, thân, si vào chánh điện, thì tâm nhơ bẩn sẽ làm vẩn đục sự thanh tịnh, chướng ngại cho vong linh, gây phiền não cho người dự; nếu có chút lợi ích, có lẽ chỉ là ảo tưởng yên ổn giả tạm, là đã trả nợ xong đã làm trọn đạo nghĩa… với người chết vậy thôi.

Trái lại, nếu tụng niệm thành kính trong chánh niệm, thì tâm ta là tâm Phật, thanh tịnh trong lành. Tâm cùng thanh tịnh thì sẽ cộng hưởng nhau thành sức mạnh tâm linh khả dĩ hướng dẫn vong linh “tốc xả mê đồ, siêu sinh tịnh độ.” Cầu siêu có thực chất thì kẻ sống người chết đều lợi lạc, đúng theo nguyên lý “cầu siêu cho người chết tức là cầu an cho người sống…”.

Lời giảng dạy của Thầy làm Hải Vũ hơi nhột nhạt. Đối với người bận rộn như chàng, khi đến chùa hay nơi nào khác thì cũng vì mục đích giao tế nhân sự, yểm trợ cho nghề nghiệp. Hải làm sao thành tâm tụng niệm, khi mà lòng chàng đang cân nhắc nghiên cứu từng khách hiện diện, đặt chương trình móc nối để “thương thảo về kế hoạch hóa tương lai bằng thể thức bảo hiểm nhân thọ.” Chắc không ai nỡ trách móc chàng, khi mà, chính gia chủ cũng vậy. Bà Hà Đông bất quá tổ chức cầu siêu rậm đám để khuất lấp việc bà đã lơ là tiếp cứu phu quân trong cơn lâm nạn. Giờ này diễn hịch thiểu não, chớ trong lòng chắc đang rộn ràng suy tính bao nhiêu cách thức hay ho để tiêu xài số bạc bảo hiểm nhân thọ một triệu đô-la của chồng.

Đúng bon như Hải tiên liệu, cái chết của thân chủ Hà Động quyết định một bước thành công nhảy vọt của chàng. Sau đó không lâu, Hải lần lượt bán bảo hiểm nhân thọ cho đám thân nhân, bè bạn của gia đình Hà Đông từ từ từng người một, không sót ai.

Số thương vụ tăng gấp bội, tiếng tăm Hải nổi như cồn. Hải được tiếng nhân hậu – săn sóc thân chủ đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời, chớ không ngoảnh mặt làm ngơ như các thường tình đồng nghiệp – ngoài ra, “huyền thoại Hải mát tay” lại là luồng sóng ngầm có hiệu quả sâu rộng. Ai không ước mơ sớm chiều ngồi xổm trên đống đô-la như bà Hà Đông dạo nọ. Thế là chị em bảo nhỏ nhau “phải tìm cho đúng đích danh ông Hải Vũ để mua bảo hiểm cho chồng thì mới chắc ăn.”

Đường công danh của Hải nhờ thế cũng trở nên rộng rãi thênh thanh. Từ một nhân viên thường, Hải được thăng chức liên tục, lên Quản lý, Phó chủ tịch, rồi sau cùng là Chủ Tịch cho cơ sở bảo hiểm địa phương.

Chức vụ to, danh vọng lớn, trọng trách cũng nhiều. Để làm gương cho đàn em và để giữ thể diện của chủ tịch, Hải tự mua cho chàng một khế ước bảo hiểm một triệu đồng, thay thế cho cái khế ước lấy lệ 50 ngàn khi chàng tập tễnh vào nghề. Dĩ nhiên, người thụ hưởng, không thể ai khác hơn là Bích Ngọc, người vợ yêu, cũng là thân nhân duy nhất của chàng trên đất Mỹ.

Công việc ngày càng tiến triển êm đẹp. Hải sung sướng kiểm điểm nguyên nhân thành công mau chóng của mình. Không ai có thể phủ nhận được tài ba và khôn khéo của chàng, nhưng thật ra “huyền thoại mát tay” cũng có hiệu quả vô song của nó. Đang mỉm cười khoái trá, chợt Hải rung mình: “Mẹ! Rủi mình lại mát tay cho cả mình thì sao?” Hải thầm hỏi rồi lặng yên tránh né không nghĩ tới. Nhưng càng tránh né thì dấu hỏi lại lù lù hiện ra. “Mình chết Bích buồn khổ hay hí hửng như mụ Hà Đông? Một triệu đồng bảo hiểm, cộng với tài sản hiện tại trên 300 ngàn, số tiền to tát ấy nàng sẽ tiêu xài như thế nào? Hoang phí cũng được đi, miễn là đừng ngu dại đem dâng nạp cho thằng ma cà bông nào đó, nó xài đã đời mà còn cười khoái trá trên đầu, trên cổ mình. Thế thì đau thật! Ức thật! Chớ chi mình có một đứa con, để lại tài sản cho nó thì yên tâm biết bao nhiêu?” Nghĩ ngợi vơ vẩn như vậy, mà Hải đâm ra buồn phiền, lo lắng thật sự.

Mang nỗi ám ảnh về nhà, nhưng cố gắng gượng cười, gượng nói huyên thuyên khỏa lấp.

- Nè em! - Hải âu yếm gọi vợ - Anh đã bảo hiểm nhân thọ một triệu đồng đó.

Hạ thấp giọng, chàng nói tiếp:

- Đủ bảo đảm đời em, nếu như anh mệnh hệ gì!

- Vậy sao anh?

Bích mỉm cười bâng quơ, rồi bắt sang chuyện khác.

Giá Bích cải lương ca màn em chả: “Em đâu cần tiền bảo hiểm! Em chỉ cần anh thôi” hay là “Anh lắm chuyện quá! Anh chết thì em tự tử ngay mà!” thì dù biết nàng diễn kịch, anh chàng cũng sướng tê người. Đằng này nàng cười. Nụ cười khó hiểu thật. Nàng vô tâm hay nàng thích thú số tiền bảo hiểm, mong chàng chết phức đi cho rồi?

Thế là Hải đâm ra hờn giận vô cớ, lo lắng suy nghĩ đủ chuyện xưa tích cũ, để nghi ngờ mông lung. “Ôi! mụ vợ của mình còn hơ hớ quá! Sung sức quá! Dễ gì chịu cảnh phòng không? Ôi! Trang Tử! Nhà hiền triết một thời, vừa lăn quay là vợ vội vàng kiếm tình nhân tức khắc, huống chi kẻ phàm phu tục tử như mình.”

Trằn trọc không yên, Hải chồm dậy rút một quyển sách đọc để dỗ giấc ngủ. Tình cờ chàng lại vớ nhằm quyển “Liễu sinh thoát tử”, quyển sách nghe tên hay hay nên chàng thỉnh hôm lễ cầu siêu.

Đọc mấy trang, Hải giật nẩy người. Quyển sách có nội dung như quyển “The Tibetan Book of the Dead,” đề cập đến những hiện tượng thân mạng con người ngay sau khi chết.

Hải vốn dĩ nhát gan, càng đọc càng lo lắng phập phồng. Đầu óc choáng váng nặng nề, chàng xếp sách đứng dậy, chợt thấy hoa mắt, nghe nhói ở tim. Hải chỉ kịp la lớn một tiếng rồi ngã gục.

Hải cảm thấy mình vượt thoát ra được từ một hang sâu thăm thẳm tối tăm. Nghe cảm giác thật nhẹ nhàng thư thái. Thình lình Hải la lên: “Ồ! Lạ chưa! Bích! Sao em lại khóc… Sao em không trả lời? Quái ai nằm chình ình kia? Giống mình quá? Ủa! Mình sao? Mình chết thật rồi sao?” Khám phá mình đã chết, Hải bối rối tới lui muốn an ủi vợ mà bất lực, nghẹn ngào.

Có tiếng còi hụ, xe cứu thương ngừng trước của. Nhân viên y tế rầm rập chạy vào, mang đủ dụng cụ, máy móc… tận tình cứu chữa cho chứng đau tim đột phát của chàng. Chàng không quan tâm, chỉ đứng bên cạnh vuốt tóc an ủi vợ, đang khóc ngất từng cơn. Dường như thấy vô vọng, họ đưa xác chàng lên xe, dìu Bích theo, chở thẳng vào bệnh viện O’Connor. Hải cũng lốc cốc theo xác chàng đến một phòng trang bị đầy đủ dụng cụ tối tân. Thôi thì họ thử, họ nghe, họ chụp hình… lung tung, nhưng Hải còn lòng dạ nào nhìn nữa. Bước thẳng xuyên qua vách đến cạnh bên Bích đang ngồi khóc rấm rức mà ruột gan bối rối không cùng.

Bích quăng khăn giấy ướt đẫm, lục lọi tìm khăn khác. Tay chân vụng về đánh rơi bóp, giấy tờ hình ảnh văng tứ tung.

“Lạ thật! Hình của Lê Hùng, người mà Bích giới thiệu là anh họ xa của nàng, sao lại ở đây?

Chợt Hải hiểu rất rõ - người ta nói hồn người chết rất linh - những gì Bích nghĩ ngợi trong đầu đều hiện ra trước mắt chàng.

Đang khóc lóc, mà vừa thấy tấm hình, Bích liền tươi tỉnh, nàng nghĩ đến số bạc một triệu, đám ma rềnh rang, cái biệt thự, chiếc xe nguy nga lộng lẫy… “Tức giận thật! Té ra con quỉ này ngoại tình từ lâu mà mình không hay?” Cơn điên cuồng đột ngột dâng tràn. Hải quyết tâm giết chết bọn gian phu dâm phụ, không để chúng an hưởng tài sản mình được. Hải gầm lên, thò tay bóp cổ Bích thật chặt.

Tự nhiên Hải cảm giác tay chân chàng nặng trĩu, chớp mắt chàng thấy như mình biến thành một khối sắt ngàn cân, vùn vụt lao về hố thẳm mịt mù… Chừng một khắc, lấy lại bình tĩnh - với con mắt nhìn xa của hồn người chết - Hải lờ mờ thấy mình đang lao về một biển dầu sôi, triệu triệu người đang chết đi, sống lại, lặn hụp ở đó, đang đớn đau rên siết vì thú dữ phanh thây, quỉ dạ xoa hành hạ… Hải biết chắc rằng mình đang rơi vào địa ngục cực kỳ khốn khổ. Hải hoảng sợ kêu la vô vọng. Chợt một tiếng “má ơi!” thốt ra trong vô thức. Đó là phản ứng tự nhiên của kẻ quá sợ hãi, tâm lý trở lại thời còn bé, chỉ biết gọi mẹ mà thôi. Nhưng nhờ tiếng kêu đó, Hải nhớ tới bà mẹ già, suốt ngày chỉ lo tụng kinh niệm Phật. Hải vội vàng niệm “Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát” thật thành tâm, thật liên tục.

Sức hút bỗng nhiên nhẹ dần, nhẹ dần. Rồi Hải cảm thấy mình như mây khói bay vùn vụt trở lên cao. Không ngừng niệm danh hiệu Bồ Tát, Hải mường tượng mình hiểu biết thế nào là nghiệp lực. Dường như tâm mình đắm nhiễm dục lạc nghiệp lực dẫn dắt lẩn quẩn cõi Ta Bà, tâm chợt hung ác dữ dằn nghiệp lực thu hút về chốn dữ dằn phù hợp với nó, còn tâm hướng về Phật Trời, thì nghiệp lực cũng thu hút về cõi trên nhẹ nhàng siêu thoát. Hải bỗng thương mẹ vô bờ. Mấy năm nay chỉ biết làm giàu chàng đã quên lửng mẹ già, không ngờ đến giây phút rùng rợn tối hậu mà chính mẹ đã cứu được mình.

Tình thương mẹ tràn ngập làm Hải quên niệm Phật, bất ngờ, chàng thấy mình về đến chợ Vườn Chuối. Trong căn nhà siêu vẹo ngày xưa, bàn tủ ghế có lẽ bán hết không còn gì, mẹ chàng đang ngồi tụng kinh Vu Lan. Kinh Vu Lan là kinh dành cho con cháu đọc tụng báo hiếu cho cha mẹ vào ngày Rằm Tháng Bảy. Chàng đã không đọc tụng cầu an cho mẹ, mà chính bà mẹ già nua, bệnh hoạn, đói rách lại đọc tụng cầu nguyện cho đứa con khỏe mạnh, giàu sang “thân tâm thường an lạc.”

Hải xấu hổ bối rối vì đã bỏ bê mẹ. Chàng giận mình bê bối đến nỗi, có gói nấm đông cô cho mẹ ăn chay mà cũng lần lựa chưa gởi đi. Ý nghĩ đó hướng dẫn chàng về ngay căn nhà vắng tanh của chàng tại San Jose, rồi chàng lại liên tưởng đến bệnh viện O’Connor. Đúng lúc vị bác sĩ chỉ cho Bích xác chồng, rồi long trọng tuyên bố HAI VU đã chính thức chết. Hải tò mò đến bên xác mình, bỗng nhiên có sức hút lạ lùng lôi sển chàng.

Nghe đau đớn vô tả, Hải cố gắng vùng vẫy cựa quậy chân tay, rên la một tiếng. Bích và cô y tá lăn quay ra bất tỉnh, còn lão y sĩ thì co giò phóng mất.

Hải khám phá rằng mình sống lại, chàng cảm thấy rỗng không, không vui buồn, chỉ tiếc phút kề cận bên mẹ vừa qua quá ngắn ngủi.

Dù trường hợp người chết sống lại không hiếm hoi trong y học, nhưng các nhóm bác sĩ cũng ào ạt vây quanh chàng phỏng vấn tới tấp. Hải một mực trả lời không biết gì và nằng nặc đòi về. Nhưng mãi đến chiều, sau khi thấy chàng tỏ vẻ thật  bình phục thì Hải mới được phép xuất viện.

Trước sự ngạc nhiên của Bích, Hải bảo vợ đưa chàng ngay đến chùa để dự lễ Vu Lan. Đến nơi, hai người mới biết lễ Vu Lan sẽ tổ chức cuối tuần, dù rằng điều lạ lùng là hôm đó đích thực là ngày Rằm Tháng Bảy.

Hải dự khóa công phu thường lệ. Lần đầu tiên trong đời, Hải tụng kinh rất chân thật, nhờ đó thân tâm tràn ngập an lạc. Niềm an lạc với chàng thật quí giá vô biên, vì giờ đây, danh vọng bạc tiền, hay lòng thủy chung… còn có nghĩa gì đâu.

Tháng 8/1986

Tình Thầy

Sau hai năm phát bồ đề tâm dõng mãnh, chú Từ Danh bắt đầu giải đãi vì nhận thấy dường như lề lối tu tập ở chùa Kỳ Viên, một chùa thôn dã tại xã Cần Đăng, quận Châu Thành, tỉnh An Giang không phù hợp với căn cơ của chú. Giáo lý đốn ngộ không được giảng dạy. Hòa Thượng là con người bình dị, thích rẫy bái ruộng nương hơn việc tổ chức và phát huy Phật Giáo. Ngày ngày Thầy chỉ khuyên nhủ đệ tử học theo hạnh Quán Thế Âm Bồ Tát, tập lắng nghe tiếng kêu thương của chúng sanh để cứu giúp. Thầy thường hướng dẫn Phật tử viếng thăm cô nhi viện Gò Vấp – Cô nhi viện mà Thầy tán thán công đức vô lượng của quý “sơ” quản trị - để nghe thấy được những thảm trạng cô nhi tàn tật, điên khùng trì độn… Quỹ chùa bao nhiêu cũng thiếu. Tiền Phật tử cúng dường, hoa lợi ruộng rẫy mà Thầy trò suốt ngày lam lũ canh tác nhọc nhằn, đều được Thầy cúng hết cho cô nhi viện, cho nạn nhân chiến cuộc. Nếp sống chùa đạm bạc không cần thiết, nhưng cửa chùa đã mục, mái dột và xiêu vẹo mà Thầy cũng lãng quên.

Không đồng ý với đường lối hoằng pháp của Thầy, chú lại không mấy thuận thảo với sư huynh khó tính Từ Thông và dì Bảy lắm chuyện. Ôi! Hòa Thượng quá dễ dãi, quá từ bi hỉ xả, luôn luôn ngợi khen chư thiện tín, chớ biết bao kẻ đi chùa chỉ để có dịp khoe khoang khoác lác, lợi dụng đạo mà thôi. Thật là éo le, khi cũng trong mái chùa thanh tịnh, mà bao nhiêu chuyện thị phi phiền não đã khơi dậy. Các vị Phật tử, cúng dường chút đỉnh cho chùa, là đã huênh hoang, tự hào công đức ngập trời, không vị nào chịu thua vị nào. Ai cũng đeo tượng Phật to tướng, chào nhau bằng hồng danh Đức Phật, tay lần chuỗi không ngừng… nhưng vừa gặp nhau là đã phân chia phe nhóm chống đối, khích bác, móc ngoéo nhau… hay hè nhau bươi xấu kẻ vắng mặt đủ điều.

Chú Từ Danh vị Sa-di trẻ đầy nhiệt tình đạo pháp và tự tin mình có đủ đại hùng lực để ngộ đạo độ đời. Tuy nhiên, chờ đợi đã mỏi mòn, mà Thầy chỉ trao cho quyển Tì Ni Nhật Dụng Thiết Yếu, chớ không hề ban dạy một giáo lý cao siêu nào cả. Điều đó làm chú thất vọng; chú lại chán ngán ruộng rẫy, bực bội chuyện trái tai gai mắt trong chùa. Do đó, chú cương quyết xin phép Thầy ra đi, tìm chốn thanh vắng để tự vạch con đường tu tập. Ra đi, chú chỉ mang theo hai bộ kinh: Kim Cương và Pháp Bảo Đàn, với tâm nguyện đại hùng là tu nhất kiếp độ nhất thời, để cứu độ chúng sanh.

Không biết do sự ràng buộc vô tình nào, mà khi Hòn Lại Sơn (1) vừa ẩn hiện mờ nhạt trong sương mù, Chú Từ Danh đã cảm thấy quyến luyến chốn nầy. Giữa biển khơi mênh mông, núi rừng Lại Sơn sừng sững xanh tươi nên trông đẹp và oai hùng. Bãi cát trắng phau, nước trong veo nhìn thấy đáy sâu thẳm, được tô điểm bằng vài mươi chiếc thuyền cá xanh đỏ tấp nập ra vào. Trên bờ hàng dừa cao vút và hàng thiên tuế cằn cỗi lao xao tàu lá theo cơn gió bạt, như vẫy tay chào mừng khách lạ. Dân biển thật hiếu khách và mộ đạo. Gia đình nào cũng rước chú về cúng dường, hướng dẫn chú quan sát khắp nơi, và say sưa kể cho chú nghe huyền thoại về vua Gia Long trong thời lánh nạn. Bãi Thiên Tuế nhỏ bé hoang vắng. Là nơi vua giấu thuyền dưới cát. Bãi nhà – nơi tập trung 2/3 dân cư – là bãi biển mà vua trong cơn đói khát tuyệt vọng, được một đàn ráy cung cấp cá rồi hướng dẫn đến suối nước ngọt che khuất bởi lùm bụi bên ghềnh đá. Đảo được mang tên Lại Sơn và “Ông Ráy” được sắc phong Lại Tướng Quân từ đó. Trên đỉnh non cao là đồi Đề Thơ, phong cảnh hùng vĩ hữu tình, nơi vua đã đề thơ trên đá thệ nguyện dựng lại cơ đồ, gần đó có suối Trầm Tư, nơi Vua nhơi sầu mất nước và mù tịt về hướng Tây Nam, đường đi gian lao cực khổ, là đỉnh Ma Thiên Lãnh, nơi Vua ẩn thân an toàn trong lúc bị truy lùng.

Đi đến chốn nào, chú Từ Danh cũng man mác cảm thấy sự hiện hữu của tiền nhân. Hùng tâm của chú bỗng trỗi dậy mãnh liệt. Hướng về núi rừng chú hét to một mình: “Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về.” Vua Gia Long đã về để tranh bá đồ vương. Còn Từ Danh, tức Nguyễn Bảo Giang, rồi cũng sẽ về để đem ánh đạo vàng cứu độ nhân dân Việt Nam.

Chú Từ Danh chọn khoảng đất non 2 mẫu, cạnh suối Trầm Tư để ẩn cư. Diện tích đất nhỏ hẹp, nhưng vị trí lý tưởng: có suối nước ngọt, có rừng núi hùng vĩ nối tiếp hữu tình. Trên tảng đá chồng cao ngạo nghễ, tầm quan sát không bị ngăn ngại, chú có thể nhìn xuống xóm làng xinh xinh hay hướng về biển khơi vời vợi.

Rừng thưa, cây nhỏ nên việc khai phá không mấy cực nhọc, nhất là, chú lại được vài Phật tử chia phiên nhau phụ giúp. Chỉ mới nửa tháng, chú đã dọn sạch đất, gom lá cây thành đống, chờ khô héo rồi đốt. Chú cũng lo học cách thức cây một cái cốc -  một loại nhà sàn - ở núi. Một cây dừa già, được Phật tử cúng dường, để làm cột, kèo thì sử dụng số cây rừng thân thẳng vừa khai phá. Chú lại được chỉ dẫn vào rừng đốn nhum, một chủng loại với cau, để chẻ đôi thành vạc, đóng làm vách làm sàn. Sàn nhum không bằng phẳng, nhưng không mối mọt, bền chắc, và ngày càng lên nước bóng loáng. Mái nhà thì đã có sẵn tranh, mọc san sát ven rừng rất thừa thãi.

Mùa mưa khởi đầu cho công việc trồng tỉa. Chú trồng ớt để có hoa màu cấp thời; các loại chuối, đu đủ, mít… cũng được trồng chen kẽ, dự trù cho việc sản xuất lâu dài. Đất núi mầu mỡ, không cần phân bón mà cây cỏ thật tươi tốt. Chỉ mới vài tháng, đám ớt xanh um và đơm đầy trái. Chú lại bắt đầu trồng hoa và kiểng cũng như để ý sưu tầm gốc cây, hòn đá dị kỳ trang trí quanh cốc. Thỉnh thoảng, chú lại vác rựa thám hiểm rừng núi, để mang về vài khóm phong lan xinh xắn tô điểm thêm cho vách đá chồng, vốn đã nên thơ bởi mấy cụm ráng dương-xi phất phơ giữa đám rong rêu xanh mướt.

Chú cảm thấy thât thảnh thơi vui thú. Không có trách nhiệm, không có ràng buộc nào thôi thúc. Trừ lúc xuống núi, mang hoa màu đổi nhu yếu phẩm, chú không phải tiếp xúc, không phải phiền lụy với một khách tham quan nào. Những người thợ rừng, đôi khi có đi ngang qua suối Trầm Tư, nhưng không hề ghé lại, còn các chú sóc và khỉ thì cũng chỉ lấp ló, khọt khẹt xa xa ở những cành thanh trà trĩu nặng trái vàng tươi mời mọc.

Thấm thoát mà chú Từ Danh đã ẩn tu tại Lại Sơn gần 3 năm trời. Trình độ tu chứng của chú mỗi ngày một tiến bộ. Chú đã đạt được trạng thái ngây ngất của thiền lạc. Điều đó làm chú hứng chí. Lần lần, chú lại khám phá thêm là nhĩ căn chú linh mẫn lạ lùng. Thoạt tiên, sự linh mẫn bắt đầu với âm thanh thuần túy thiên nhiên. Chú nghe và phân biệt tiếng gió hú đầu ghềnh, tiếng sóng ầm ĩ xa xôi. Sau đó, chú nghe rõ mồn một tiếng lá rơi trong đêm vắng, rồi đến những tiếng động nhẹ của loài chồn, sóc hay tiếng hải âu ríu rít ở biển khơi. Gần đây, bước chân khua nhẹ của loài người lại vang động bên tai. Chú khởi sự phân biệt và biết trước cả hai, ba giờ là bao nhiêu người thợ rừng sẽ đi ngang qua suối Trầm Tư.

Chú biết rằng định lực của chú tương đối khá vững vàng. Chú tự tin là nếu chú quán thân thể như chiếc lá khô thì chắc chắn chú có thể đi lại hay thả nổi lênh đênh trên mặt nước dễ dàng. Rất tiếc là suối Trầm Tư quá cạn, không thuận tiện để thực hành việc luyện tập này. Nghĩ đến những thành tựu của mình, chú Từ Danh rộn ràng phấn khởi. Chiều chiều đứng trên tảng đá chồng cao ngất, chú nhìn về đất liền mà vẽ vời một tương lai độ đời huy hoàng.

Hôm nay, nhĩ căn của chú Từ Danh thật là hữu hiệu. Chú vừa phân biệt được tiếng chân của hàng mươi người. Họ leo trèo chưa thành thạo, chứng tỏ họ là khách phương xa chớ không phải là người địa phương. Bỗng nhiên chú suy luận và biết chắc khách sẽ viếng thăm giang san của chú, vì đỉnh Ma Thiên Lãnh, nơi ẩn cư của Thầy Thích Thiện Nghĩa xa xôi, hiểm trở, khách khó mà đến được. Chú vội vã vào rừng hạ hai cây đủng đỉnh lấy củ hủ, và xuống Đề Thơ xin một trái mít non. Chú nấu cơm, kho mít, nấu canh chua củ hủ đủng đỉnh. Tất cả đều nóng sốt ngon lành, sẵn sàng dành cho những người đến thăm một sự ngạc nhiên kỳ thú. Tiên đoán của chú Từ Danh thật chính xác, nhưng người ngạc nhiên nhất lại là chú, vì chú không thể ngờ được là phái đoàn thăm núi là Phật tử chùa Kỳ Viên, do đích thân Hòa Thượng hướng dẫn. Mừng rỡ tíu tít săn sóc Thầy, vừa phải trả lời không ngừng thăm hỏi của các thân hữu, chú cảm thấy thật hãnh diện với giang san của chú. Phái đoàn hết lời khen ngợi phong cảnh thanh tịnh thần tiên, cái cốc xinh xắn, vách đá phong lan nên thơ, đám rẫy sởn sơ và nhất là buổi cơm chay ngon tuyệt. Tuy nhiên phái đoàn chỉ lưu lại vài giờ, thì phải trở xuống núi trước khi trời tối. Cốc nhỏ hẹp nên chú Từ Danh chỉ có thể nài nỉ mình Thầy ở lại một đêm cho thỏa tình Thầy trò, sau mấy năm xa cách. Hòa Thượng vẫn hiền hòa, dễ dãi, và vẫn thương yêu chú sâu đậm, nhưng không biết vì lý do gì, mấy lần chú định trình bày cho Thầy nghe về sở đắc của mình, thì lại hồi hộp không an nên đành chuyển sang đề tài phá rừng làm rẫy. Loay hoay đã đến giờ tọa thiền, câu chuyện đành bỏ dở vì ngày mai đã phải đưa Thầy xuống núi rồi.

Vừa mới xuất hiện vài tuần lễ mà uy danh ông “đạo nổi” đã vang dậy khắp nơi. Rời đảo về đất liền, đúng theo dự tính, Từ Danh đến An Giang vào buổi chiều chúa nhật. Chọn giờ đông người tựu tập tại công viên Nguyễn Du, chú bình tĩnh đến đó tọa thiền. Rồi thản nhiên không màng lưu ý đến những kẻ hiếu kỳ chăm chú nhìn, chú ung dung đi thẳng đến bờ sông Cửu Long, nhẹ nhàng bước từng bước trên nước. Đến giữa dòng, chú ngồi kiết già nổi lềnh bềnh trên nước như một giề lục bình, xuôi dòng về hướng chợ. Đám đông tại công viên và bên kia cồn Mỹ Hòa Hưng túa ra chiêm ngưỡng phép lạ. Một giờ sau, Từ Danh bệ vệ tấp bến Bạch Đằng và được bao vây bởi đám đông sùng mộ, tôn kính chú một  vị thần tiên giáng phàm.

Từ Danh được thí chủ tranh đua nhau thỉnh về nhà phục dịch. Họ rỉ tai nhau ca tụng chú bằng những huyền thoại mà chính chú cũng ngẩn ngơ. Thật ra, chú chỉ phác họa kế hoạch biểu diễn thần thông cho mọi người khâm phục, mà chưa nghĩ đến chi tiết kế tiếp. Chú thật bối rối không biết nên giải thích xuất xứ của mình thế nào cho đặc biệt nên đành im lặng. Ông đạo càng im lặng thì người hâm mộ càng nể sợ và ngóng chờ. Tình cờ có một thí chủ kính cẩn thưa: “Bẩm Thầy! Thầy đắc đạo rồi xuống núi độ đời…” Từ Danh chỉ có việc gật đầu. Cái gật đầu hàm hồ của chú vậy mà hóa hay. Chú không vọng ngữ, nhưng họ đương nhiên hiểu lầm chú là Tu sĩ của vùng Thất Sơn, với bao nhiêu huyền thoại bí ẩn. Họ mặc sức phô trương khoác lác thêm thân thế và sự nghiệp của ông Thầy. Đệ tử càng ngày càng đông đòi hỏi chú phải có kế hoạch thu hút đệ tử và nói pháp “cứu độ,” mà nói pháp gì, cứu độ là như thế nào chú vẫn còn mù mịt. Chú vốn thiếu căn bản giáo lý, chưa quen thuyết pháp; mà nếu chỉ khuyên lơn ăn chay, niệm Phật thì tầm thường quá. Nhu cầu của đám đệ tử cuồng tín thúc đẩy chú phải có một hành vi gì ngoạn mục hơn việc ngồi nổi trên nước. Chú chọn ngày hoàng đạo để “tiết lộ thiên cơ, khai mở đạo mầu.” Khi đệ tử tựu tập đông đủ và tuyệt đối im lặng, chú bèn phán: “Đời sắp tới rồi. Tu mau kẻo trễ.” Rồi chú chấm dứt, không thèm giảng nghĩa gì thêm. Chuyện thiên cơ đâu thể nói rõ rệt được. Đệ tử thầy thông minh nên mặc sức bàn ngang tán rộng. Sắp tận thế đến nơi rồi, nếu không nghe thầy, phục dịch trung thành thì chắc chắn mất mạng. Trong đám đệ tử, có chàng Trung úy, hôm trước nghe pháp, hôm sau tử trận. Thế là đệ tử xôn xao, họ quả quyết viên Trung úy nghe pháp mà lộ vẻ nghi ngờ nên tán mạng.

Nghề dạy nghề. Càng ngày Từ Danh càng thông thạo nghệ thuật gây niềm tin và điều khiển đệ tử. Thỉnh thoảng ông đạo lại phán một câu sấm bí hiểm để hâm nóng tinh thần họ. Nhờ nhĩ căn linh mẫn, lâu lâu nghe lóm được lời bàn bạc riêng của họ, ông đạo tiết lộ ra để họ thêm khâm phục tôn sùng. Sự thần phục có ảnh hưởng dây chuyền, nên uy tín của “ông đạo nổi” ngày càng lan rộng. Nhận thấy danh xưng “đạo nổi” có phần quê mùa, chọn ngày lành tháng tốt Từ Danh chánh thức tuyên bố “Đại đạo huyền bí vô vi” ra đời. Ông lại lửng lơ úp mở như là hiện thân của Bồ Tát Di Lặc từ cung Trời Đâu suất hóa hiện độ đời. Đệ tử lại được dịp sùng bái suy tôn “đại giáo chủ.” Sự suy tôn nồng nhiệt đến nỗi, chính giáo chủ biết rõ “người” là ai, nhưng lâu ngày cũng đinh ninh mình chính là một vị Bồ Tát chánh hiệu con nai vàng.

Đại đạo đã khai mở thì giáo chủ cũng được thỉnh về thủ đô đặt trụ sở cho xứng đáng danh uy. Giáo chủ ngự trị trong một biệt thự sang trọng, và được cung phụng vật chất xa hoa. Do sự an trí của nữ gia chủ, một thương gia giàu có, thì từ nay không phải đệ tử nào cũng có thể tự tiện diện kiến giáo chủ. Tất cả mọi việc đều phải được trình bày qua trung gian của nữ bí thư Hồng Liên, cô con gái của gia chủ. Ít xuất hiên càng khỏe. Thời giờ thọ dụng cúng dường được tăng gia. Đề nghị đó thật cao thâm, làm giáo chủ rất hài lòng.

Trong phòng kín đáo, với máy lạnh khang trang mà chỉ có cô bí thư, tuổi vừa đôi mươi, trẻ đẹp kề cận làm giáo chủ cũng cảm thấy ngẩn ngơ lòng. Giáo chủ bèn nảy sinh ý nghĩ là có lẽ làm vua mới là điều đáng mơ ước. Lẩn quẩn với tư tưởng đó một thời gian, giáo chủ lần lần lại tin mình là một chân mệnh đế vương. Tên Bảo Giang mà cha mẹ đã khai sanh cho há chẳng phải là một điềm lành sao? Giáo chủ bèn truyền cho chúng đệ tử đặt đôi liễng vàng y:

“Bảo Giang, thiên tử xuất,

Bất chiến tự nhiên thành.”

Sấm Trạng Trình đã linh ứng báo: Một vị thiên tử tên Bảo Giang sẽ xuất hiện, không cần ra sức cũng thành công. Đã là Bồ Tát nay giáo chủ lại kiêm thêm chơn mạng đế vương, đại đạo lại một phen phồn thịnh ồ ạt. Lắm kẻ bất tài, dốt nát, hay ngay như già yếu lú lẫn… bỗng đâm ra ước mơ ngày bám theo giáo chủ để “chấp chánh” trị dân.

“Đại đạo huyền bí vô vi” chuyển hướng khai mở một khung trời tràn trề hy vọng cho đệ tử ước mơ, đồng thời cũng tạo lối thoát cho giáo chủ có cơ giải quyết ấm ức sinh lý dày vò. Giáo chủ càng ngày càng nhận thấy đệ tử bí thư xinh đẹp và dễ thương. Khi đệ tử bí thư mặc áo ngắn khoe cánh tay trắng ngần thì giáo chủ không kềm hãm nổi dục lòng, nắm cánh tay vuốt ve âu yếm. Chợt giáo chủ thấy vẻ mặt ngơ ngác lẫn sợ hãi của người đệ tử trung thành, giáo chủ cũng đâm ra bối rối. Lanh trí, giáo chủ phán vớt vát: “Thầy ban điển lành cho con.” Phép mầu đó giúp cho người đệ tử bình tĩnh và cũng giúp cho giáo chủ nới rộng thẩm quyền sờ soạng xa xa thêm tí nữa. Sau cơn hứng tình, giáo chủ ăn năn lo lắng, tự hứa sẽ bỏ tật suồng sã lỡ đổ bể hại uy danh mình. Thế nhưng nàng bí thư vẫn triệt để trung thành, nhởn nhơ ra vào săn sóc giúp cho giáo chủ an lòng. Từng bước, từng bước nới rộng phạm vi “ban ân điển”, sau cùng thì liên hệ giữa giáo chủ và bí thư là sự giao du xác thịt mà thôi. Thần chú “ban điển lành” có vể hết hiệu nghiệm, giáo chủ bèn dùng tước “hoàng hậu” kín đáo phong riêng cho nàng.

Từ lâu giáo chủ bỏ bê thiền tọa. Hành thiền không có gì hứng thú đối với người có đời sống vương giả. Nhĩ căn linh mất của giáo chủ tiêu mất tự lúc nào, giáo chủ cũng không hay biết. Sắc dục cộng với thực phẩm béo bổ, làm giáo chủ ngủ mê mệt, bích kích pháo rơi ngay vào biệt thự, phá đổ nát một góc nhà, mà giáo chủ vẫn không hay. Mọi người chạy đến chỗ ẩn trú, chừng nhớ đến Ngài vội đến cứu giá, thì hỡi ôi, Ngài vẫn ngáy pho pho ngon lành. Sự kiện đó có thể làm tổn thương chút ít uy danh giáo chủ, nếu Ngài không lộ thiên cơ bí mật là Ngài đã xuất hồn vội vàng để “đỡ” viên đạn bích kích pháo tạt qua một bên cứu mạng cho cả nhà. Uy danh của giáo chủ, lại có dịp bay cao ngất trời. Ai lại không mơ ước được diễm phúc có giáo chủ ở gần để đỡ đạn cho mình?

Biệt thự Hồng Liên cần sửa chữa, giáo chủ được nữ đệ tử khác, nàng Diễm Thúy, phu nhân Trung tá triệu phú rước về. Biệt thự của một sĩ quan kiên cố an toàn giúp giáo chủ yên tâm. Giáo chủ cũng ngự trị trong một phòng máy lạnh khang trang, và Diễm Thúy tự nhận vai trò mới. Nàng Hồng Liên lốc cốc chạy theo để lo săn sóc giáo chủ đã bị khéo léo chối từ. Diễm Thúy đẹp lẳng lơ, và bạo dạn đến sỗ sàng. Bình thường nàng mặc quần áo cũn cỡn, khoe đùi, khoe ngực. Nay chỉ mình nàng với giáo chủ trong phòng, Diễm Thúy lại thân mật mặc bộ đồ ngủ mỏng dính làm đôi mắt giáo chủ láo liên. Đang thiếu vắng bí thư Hồng Liên, giáo chủ thèm dâm dục đến rỏ dãi, mà Diễm Thúy lại cứ nhơn nhơn lồ lộ nguyên vẹn hình hài làm giáo chủ không chịu đựng nổi. Lý trí giáo chủ nhắc nhở Ngài là người đẹp đã có chồng, và dù lão Trung tá bận hành quân, nhưng khẩu súng của ông ta rất nên lo ngại. Thế nhưng, Diễm Thúy lại ơ hờ, tiến sát gần giáo chủ quá, và đến khi bộ ngực thỗn thện của nàng vô tình chạm nhẹ vào giáo chủ, thì cơn động tình của Ngài nổ tung lên. Giáo chủ ôm lấy nàng. Cũng may Diễm Thúy dạn dĩ hơn Hồng Liên, chẳng bối rối e ngại, mà lại có cử chỉ khuyến khích giáo chủ tấn công đến mục tiêu cuối cùng. Ái ân xong, giáo chủ mới cảm thấy e ngại, bèn lại hát bài cũ “ban ân điển nhiệm mầu.” Nào ngờ, Diễm Thúy cười ngất lộ vẻ chẳng tin tưởng gì, rồi bảo: “Mần ái tình thì cưng cứ mần ái tình. Em cưng là đủ rồi. Bỏ qua vụ ân điển đi anh.” Giáo chủ cảm thấy vừa trơ trẽn vừa lo sợ, mà chỉ biết than thầm: “Mới đây nó lễ phép thưa giáo chủ, xưng con ngọt ngào mà bây giờ xưng hô anh em rồi. Dây dưa với nó có ngày nó đòi làm giáo chủ mình chớ chẳng chơi.” Giáo chủ tiên liệu như thần. Chỉ một lát sau, Diễm Thúy lại bày trận mây mưa, và lần này, nàng trở thành bà thầy dạy dỗ tên đệ tử mới về nghệ thuật ái ân. Giáo chủ lờ mờ nghĩ rằng Diễm Thúy có lẽ chả tin tưởng gì về “đại đạo huyền bí vô vi” mà chỉ khoái thân thể cường tráng của giáo chủ, nhứt là có chỗ dựa vào lý do tín ngưỡng để đem trai về nhà ngoại tình. Vì vậy, giáo chủ có ý định quay trở về biệt thự Hồng Liên, nhưng một phần vì tài nghệ làm tình của Diễm Thúy cao cường quá, phần khác giáo chủ cũng chưa dám tỏ ý dứt khoát sợ mích lòng nàng. Đang say mê quần thảo với người đẹp, thì cửa phòng khóa kỹ, bỗng bị đạp tung ra. Viên Trung tá mặt bừng bừng sát khí, hung hãn bước vào. Giáo chủ quên mất thân phận cao cả, thất sắc kinh hoàng, run lẩy bẩy quì lạy van xin tha mạng sống. Lời van xin đó vô hiệu, viên Trung tá chĩa súng vào ngực giáo chủ bóp cò “Đoành! Đoành!...”

“Từ Danh! Từ Danh!”, tiếng Hòa Thượng ôn tồn, “đó chỉ là mộng huyễn thôi con.”

Từ Danh giật mình mở mắt, mới nhớ là chú đang tọa thiền tại cốc Trầm Tư. Quá vui mừng được thoát nạn, nhưng chú cũng hổ thẹn vô cùng về loạn tưởng điên đảo, nên chú ấp úng định bào chữa mà không nói nên lời.

“Con à!”, tiếng Hòa Thượng thật ấm và thật yêu thương, “trên lý thuyết việc tu hành có thể đơn giản bằng hai chữ tu tâm. Tâm thanh tịnh thì tất cả đều rỗng rang không ngăn ngại, chân như hiện tiền, là Phật không khác. Đâu còn dính mắc thì còn bận tâm gì đến chuyện tu, chuyện ngộ.

Xưa nay vô nhất vật

Chỗ nào dính trần ai? (2)

Trên thực tế, chúng sanh đời đời kiếp kiếp gắn bó với tham, sân, si, nên việc tu tập để chuyển tâm nhiễm ô thành thanh tịnh thật gian nan nguy hiểm. Lộ trình tu chứng trải qua 55 địa vị mà chỉ một chút sơ hở là 50 chứng ma ngũ ấm (4) liền quyến rũ theo đường tà. Thông thường, hành giả chỉ mới đoạn được phần thô bên ngoài tưởng đã tiêu diệt được tam độc (3), nào ngờ tam độc vi tế khó lường tiềm phục ẩn náu bên trong. Đến khi hành giả dụng công tu thiền đạt được vài hiện tượng lạ lùng, đã mừng vui cho rằng mình ngộ đạo, để rồi tự cao, khoe khoang… thì tam độc bị dồn nén bắt đầu hiện ra tác quái, mà hành giả đang mừng vui đắc đạo ơ hờ buông lung. Lúc đó, hoặc do tham vọng quấn quýt ám ảnh hoặc tà tâm ứng hợp với Thiên ma nên Thiên ma hỗ trợ, mà giả cảnh hiện bày trước mắt. Giả cảnh lại đúng sở nguyện giấu kín trong đáy lòng hành giả. Hành giả muốn thành Phật, thấy mình thành Phật, muốn làm Bồ Tát, thấy thành Bồ Tát, cầu Ngọc Hoàng Thượng Đế thành Ngọc Hoàng Thượng Đế, muốn có thần thông, biết tiền kiếp, xuất hồn, biện tài vô ngại, tài dâm dục… đều có những thứ đó. Tưởng mình đắc đạo, hành giả lại càng cống cao ngạo mạn, khinh chê kinh điển, chỉ trích mọi người tự suy tôn mình và lần lần dẫn dắt đệ tử theo con đường bại hoại.

Từ Danh rùng mình rởn ốc. Chú biết rằng chú đã lầm lạc, tu thiền mà tham danh mong cầu thần thông để cho người khâm phục. Nếu tiếp tục, chắc chắn chú cũng lâm vào cảnh ma như bao người khác. Người tự xưng là Phật, Bồ Tát, kẻ thì Ngọc Hoàng Thượng Đế, Tiên, Thánh… để độ đời, mà quan sát kỹ thì thấy tâm lượng hẹp hòi như người thế tục, cũng thích nịnh bợ, ham danh, ham lợi, tự cao, tự mãn, ganh tị và lắm người còn tham dục, tham ăn nữa. Trong khi những bậc chân tu lấy đạo đức để cảm hóa dạy dỗ đệ tử, thì tà sư chỉ có thể sử dụng mánh khóe, phương chước để mê hoặc người. Họ dùng quyền lợi thiển cận: chuẩn hứa cho giàu sanh, may mắn, phân chia chức tước phẩm hàm quả vị… để dụ dỗ đệ tử. Hoặc giả nói chuyện thiên cơ, huyền bí, tận thế, chiến tranh, bão lụt để dọa cho người sợ mà nghe. Lời dạy của Đức Phật trong Kinh Lăng Nghiêm bỗng hiện ra nhắc nhở chú rằng các vị Bồ Tát có thị hiện giáo hóa chúng sanh quyết chẳng bao giờ tự xưng mình là Bồ Tát hay tỏ ra một vài cử chỉ tiết lộ mình là Thánh nhơn thị hiện (5)… Ôi! Tu thật là khó!

“Đúng vậy! Từ Danh!” Chỉ vừa móng tâm phân biệt thì vọng niệm trùng trùng sinh khởi. Chỉ vừa chấp trước thì đã nhận giả thành chân. Cho nên, cổ đức trước khi tinh chuyên thiền định, phải lập muôn vàn công đức, thường tu tứ vô lượng tâm: từ bi hỉ xả, và kiên trì giới luật. Giới luật có nghiêm trì thì tâm mới sanh định, nhơn có định thì huệ mới phát sanh. Đã vậy, hành giả vẫn phải luôn luôn kề cận minh sư, đề phòng khi hờ hững có thầy dẫn dắt ra khỏi đường ma đạo. Thật ra, dù đã ngộ, thì theo châm ngôn thiền “Lý tuy đốn, sự phải tiệm tu,” hành giả phải tiếp tục tu hành, không chấp trước vào sự chứng đắc, cho đến khi lý sự viên dung mới dám thõng tay vào chợ độ đời.

Từ Danh bỗng cảm thấy thương Thầy vô hạn. Thầy đã âm thầm quan sát căn cơ chú và dạy dỗ chú theo con đường chánh đạo mà chú lại chê bai. Thầy là bài học sống về đạo đức, về từ bi hỉ xả mà mình không học. Rồi chú lại hiểu thêm ra. Tu hành đâu phải chỉ ở trong vài giờ công phu hay thiền quán. Tu thì phải hành thường trực: đi, đứng, nằm, ngồi hay nhất nhất trong mọi sinh hoạt cũng đều phải được sử dụng để gột rửa tâm mình. Những bài kệ trong quyển Tì Ni Nhật Dụng Thiết Yếu thầy trao nhìn có vẻ giản dị, để giúp mình, trong mỗi hành động đều phải quan sát tâm mình đồng thời cũng mong cầu cho chúng sanh lợi lạc. Đó là trì giới, đó là giữ chánh niệm… thế mà mình ngu dại không chuyên cần tập luyện. Rồi chú bỗng nhớ tới ruộng rẫy, cây sầu đâu trầm lặng bao dung trước cổng, hai cây vú sữa sai hoằng, hàng dừa, hàng cau… nơi nào cũng đầy thương yêu, và đều là đạo tràng để tu tập cả. Kể cả cái nhà bếp, nơi chú bực bội chuyện thị phi phiền não, cũng thật là ấm cúng biết bao. Sống trên núi một mình không tiếp xúc dễ lầm tưởng là tam độc không còn. Chính ra phải nhờ sống chung đụng, gặp thị phi phiền não thì mới có thể quán sát, theo dõi biến động của tâm để mà tu sửa. Mình đã có cơ hội may mắn nhận diện thị phi phiền não, mà lơ là không tu. Tiếc thật! Uổng thật!

- Lành thay! Lành thay! Từ Danh! Phật Pháp vốn không rời thế gian. Phiền não tức là bồ đề vậy.

Hai Thầy trò tâm ý tương thông. Không cần mở lời chú Từ Danh cũng hiểu rằng Thầy bao dung cho chú được TRỞ VỀ làm một chú tiểu khiêm nhường, tu một pháp môn bình thường tại ngôi chùa Kỳ Viên quê mùa đó.

Tháng 2-1987

Chú thích:

(1) Lại Sơn là một hòn đảo cách đất liền khoảng 60 cây số. Về phương diện hành chánh Lại Sơn là một xã thuộc quận Kiên Thanh, tỉnh Kiên Giang. Những địa danh trên đảo, theo truyền thuyết đã xuất hiện vào thời Vua Gia Long lưu lạc.

(2) Kệ của Lục Tổ Huệ Năng:

Bồ đề bổn vô thọ

Minh cảnh diệc phi đài

Bổn lai vô nhất vật

Hà xứ nhạ trần ai?

Bản dịch:

Bồ đề vốn không cội

Gương sáng cũng chẳng đài

Xưa nay không một vật

Chỗ nào dính trần ai?

(3) Tam độc: tham, sân, si.

(4) Ngũ ấm ma gồm có: 10 chứng ma về sắc ấm, 10 chứng ma thọ ấm, 10 chứng ma tưởng ấm. 10 chứng ma hành ấm và 10 chứng ma thức ấm. Để có một ý niệm, tác giả xin trích dẫn vài chứng ma trong Kinh Lăng Nghiêm:

- Chứng ma sắc ấm thứ 1:

Thân thể không bị chướng ngại. “Này A Nan, người trong khi tu thiền do sức dụng công, nên tâm tánh được nhiệm mầu sáng suốt, tự thấy thân thể mình trong giây phút qua lại tự tại, không bị cái gì làm chướng ngại. Vì dụng công tu luyện, nên tâm hiện ra các việc như vậy, không phải chứng thánh; nếu sanh tâm nghĩ mình chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.”

- Chứng ma sắc ấm thứ 4:

Thấy Phật hiện và hoa sen trổ: “Người tu thiền định, khi tâm thanh tịnh rồi, tự phát ra ánh sáng. Lúc bấy giờ thấy mười phương đều hiện ra sắc vàng, tất cả các loài vật hóa thành Phật cả. Lại thấy Đức Phật Tì-lô-giá-na ngồi trên đài thiên quang, các đức Phật ngồi xung quanh và có vô số hoa sen đồng thời xuất hiện. Đây do hành giả dụng công tu thiền, nên thấy có các cảnh tạm hiện ra như vậy, không phải chứng Thánh; nếu nghĩ mình chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.”

- Chứng ma sắc ấm thứ 8:

Tham cầu thần thông: “Người tu thiền định, móng tâm muốn được thần thông biến hóa. Khi đó Thiên ma liền biết, nên xuất hồn nhập cho người mà người không biết, tự cho rằng: “Đặng đạo vô thượng bồ đề.” Miệng nói kinh pháp mà một tay cầm lửa, một tay rứt ánh sáng phân phát để trên đầu của thính giả. Mỗi người đều thấy trên đầu có ánh sáng dài đến vài thước mà chẳng biết nóng; hoặc đi trên nước hay ngồi trên hư không vẫn tự tại; hoặc vào trong bình, vô trong đảy, đi qua vách tường, mà không bị chướng ngại. Chỉ trừ khi đối với binh đao, thì họ không tự tại. Họ tự xưng là Phật mà thân mặc đồ thế gian; thọ các thầy Tỳ kheo lễ bái, chê bai người tham thiền và trì giới, mắng nhiếc đồ chúng, làm tiết lộ việc nhà người mà không sợ người hiềm giận. Họ thường nói với người: “Ta đã đặng thần thông tự tại”; hoặc làm cho người thấy được cõi Phật, đem những điều đê hèn làm việc truyền đạo và ngợi khen việc hành dục. (Trích đại cương Kinh Lăng Nghiêm, Thượng tọa Thiện Hoa).

(5) “A-Nan, ta có dạy các vị Bồ Tát và A La Hán: “Sau khi ta diệt độ rồi, các Ông phải thị hiện thân hình, trong đời mạt pháp để cứu độ chúng sanh đang trầm luân, làm thầy sa môn, cư sĩ, vua, quan, đồng nam, đồng nữ, cho đến hiện đàn bà góa, kẻ dâm nữ, người gian xảo, kẻ trộm cướp, người hàng thịt, kẻ buôn bán, để lẫn lộn trong từng lớp người, chung một nghề nghiệp, đặng giáo hóa chúng sanh trở về chánh đạo.” Nhưng các vị ấy quyết chẳng bao giờ nói: “Ta đây thật là Bồ Tát hoặc A La Hán, v.v…” hay tỏ ra một vài cử chỉ làm tiết lộ sự bí mật, để cho người ta biết mình là Thánh nhơn thị hiện. Chỉ trừ sau khi mạng chung rồi, các vị ấy mới âm thầm để lại một vài di tích cho người biết thôi.” (Trích đại cương Kinh Lăng Nghiêm - Thượng tọa Thiện Hoa).

TRỞ VỀ

I.     Băng Tâm

Bắt chợt mình buông tiếng thở dài khi nhớ đến Thiện, Băng Tâm tự hỏi: “Có lẽ mình đã yêu chàng rồi sao? Một cô gái ăn sương, hàng ngày ôm ấp bao nhiêu người đàn ông lại có thể lãng mạn yêu đương dễ dàng vậy sao?”

Chàng trai nhút nhát ấy đã đến động Đinh Công Tráng một mình, chị Tư kiểm soát tên người giới thiệu, chấp thuận mời vào, rồi giao cho Tâm tiếp đón.

Tâm dồn dập đưa chàng vào một căn phòng máy lạnh khang trang, để sẵn sàng phục vụ chàng như một người chồng yêu. Bất ngờ, Thiện bẽn lẽn, mặt đỏ bừng, rồi ấp a, ấp úng ngăn cản không cho nàng tự cởi quần áo.

- Không! Không! Mình chỉ nói chuyện chơi cho vui thôi.

Anh chàng vừa khoác tay vừa lên tiếng. Rồi như thấy dáng điệu ngạc nhiên lẫn bất mãn của Tâm, Thiện nói tiếp:

- Nói chuyện thôi, nhưng tôi vẫn biết điều… trả đàng hoàng mà.

Thấy anh chàng lẩm cẩm quá, Tâm hơi bực mình, nhưng vốn tính hiếu khách, nàng cố gắng vui vẻ để hàn huyên. Lúc đầu, Tâm dè dặt vì nghi chàng là một ký giả phóng sự, nhưng bất ngờ, anh chàng dáng dấp lù khù nhưng lại biết gợi chuyện, khéo pha trò, nên từ chuyện gia đình mình, đến chuyện cấm kỵ nghề nghiệp, đời sống, tâm lý ái tình của chị em ta, nàng đều cung khai hết.

Rồi chàng thỉnh thoảng đến, quí trọng và nâng niu nàng như cô em gái nhỏ, đồng thời cũng từ tốn, nhỏ nhẹ với mọi người. Thái độ của chàng có cái gì đặc biệt, vì khách chơi chỉ si mê thể xác hay nhan sắc, chớ chưa ai biết quí trọng, nâng niu và chăm sóc như chàng. Tâm yêu chàng từ lúc nào nàng cũng không hay, vì chàng trở nên một điểm tựa cần thiết, một kẻ tâm giao chia ngọt xẻ bùi với nàng.

Có lần, Thiện bắt gặp Tâm vừa hoen lệ. Chàng xót xa tìm hiểu. Khi biết được lý do là nàng vừa bị một khách thô lỗ vũ nhục: “Đĩ là cái thá gì, mà bày đặt làm cao.” Chàng bực bội hỏi: “Chà! Hắn là cái ông gì mà nói năng có vẻ khinh người quá vậy?”

- “Trung tá Tỉnh trưởng đó.” Chị Tư lên tiếng.

- Tỉnh trưởng xứ nầy mà…

Thiện chặc lưỡi rồi lắc đầu, như cố nén khỏi phải buông lời khinh bạc. Ngừng một lúc, Thiện nhỏ nhẹ an ủi nàng:

- Thật ra, tôi nghĩ rằng chưa chắc nghề nào tốt hơn nghề nào. Có những người chễm chệ cao sang, vẻ mặt vênh váo khinh người, nhưng bên trong thì nịnh bợ, luồn lọt, tham nhũng, ăn cắp cũng chả ra cái gì. Không có một nghề nào mà tôi không nhìn thấy được bề trái xấu xa của nó. Ngay cái nghề mà tôi kính trọng nhất là nghề dạy học thì có mấy người có lương tâm đâu, chưa kể các việc mua bán đề thi, bằng cấp, bài giảng… - rồi Thiện tiếp tục nói một cách nghiêm trang – Cho nên, tôi có thể nói thẳng là tôi tin chỉ có nghề của các em là nghề mà tôi quan niệm là trong sạch nhất về tinh thần, vì các em chỉ buôn bán sòng phẳng cái gì mình có, chớ không phải gian dối hay lường gạt ai.

- Anh ngụy biện nghe cũng vui. Thôi khỏi tán nữa, đủ rồi. Đi anh.

Tâm vui vẻ cắt ngang rồi nắm tay kéo chàng đi.

- Không! Anh không ngụy biện cũng không nịnh em đâu. Đó là điều mà anh thao thức từ lâu. - Thiện phản đối.

- Thôi mà anh! Em biết thân phận gái mãi dâm mà! Anh khỏi an ủi em. Đi vào phòng nói chuyện chúng mình đi.

- Ê Tâm! Ảnh nói nghe được. Mầy để ảnh nói nghe chơi chớ.

Đám con Hồng, Thanh, Mai la ầm lên:

- Đừng có mặc cảm! Cái gì mà thân phận gái mãi dâm? Nếu cho rằng dâm dục là xấu thì dù có nhận tiền hay không nhận tiền cũng xấu. Vả chăng, dâm dục để thỏa mãn thú tính so với kẻ ép lòng dâm dục để lấy tiền nuôi gia đình, thì chưa chắc ai tốt hơn ai?

Có tiếng hoan hô của bọn con gái làm Thiện càng hứng chí:

- Có những bà lớn dùng nhan sắc mình để làm ăn, chạy áp-phe, mua quan bán chức… cái đó là thứ mãi dâm cao cấp mà có ai dám khinh khi họ đâu? Nói cho cùng, một cô gái gọi là đứng đắn, khi kết bạn, tìm chồng có nhìn đến nghề nghiệp, tức là cách kiếm tiền của họ không? Có ai dám tự hào rằng đằng sau vấn đề dâm dục, tô son bằng hai chữ tình nghĩa vợ chồng, không có bóng dáng của tiền bạc không? À! Còn nếu cho rằng mãi dâm đáng khinh vì ăn ngủ với nhiều người thì tôi cũng không đồng ý. Với tôi, ngủ với một người hay với nhiều người cũng không khác. Vả chăng, có mấy ai có thể tự hào là mình chỉ biết một người, nếu chưa dám phiêu lưu thực tế, thì có chắc gì tư tưởng chẳng phiêu lưu. Thật ra, thì đã dâm dục thì với một hay nhiều, đụng chạm vật chất hay trong tư tưởng thì cũng cá mè một lứa. Có ai dám tự hào mình trong sạch mà khinh khi ai?

Tâm nắm tay lôi Thiện đi, mà bọn con gái còn cố chọc ghẹo:

- Nói được lắm, Tâm ơi! Mầy bảo anh Thiện ra ứng cử. Tụi tao ủng hộ chăm phần chăm!!!

Sợ anh chàng lại tiếp tục đề tài nhạt nhẽo đó, Tâm nũng nịu:

- Thiện! Anh có yêu em không?

- Anh thương em nhiều hơn em tưởng.

Thiện nồng nàn trả lời. Tâm nhảy chồm vào lòng chàng, thì Thiện dường như cố né tránh làm nàng buồn hiu.

- Anh chỉ thương cái miệng, chớ hạng gái như em anh đâu để ý tới.

Tâm tủi thân. Thiện ngọt ngào:

- Anh thật sự thương mà! Nhưng thương đâu có nghĩa là ôm ấp xác thịt. Kẻ ôm ấp nhau mà vẫn oán ghét nhau thì sao?

Nghe triết lý ba xu của chàng Tâm chán nản vô cùng, nhưng đã lỡ yêu “thầy đồ gàn”, nàng đành nhỏ nhẹ:

- Thiện! Em muốn làm vợ anh. Em hứa nuôi anh trọn đời… - nước mắt rơm rớm – mà anh muốn bỏ em lúc nào cũng được.

- Ơ! Ơ! Chuyện đó tính sau đi em! À! Có khi nào em nghĩ đến việc thay đổi nghề không em?

Tâm tái người, dang xa Thiện, mặc cảm và tủi thân, nàng đáp nho nhỏ.

- Không!

- Em đừng hiểu lầm. Anh quí trọng nghề nầy. Nhưng em nghĩ coi em còn có thể làm ra tiền sau mấy năm nữa? Năm năm hay mười năm chăng? Nếu không thì mình phải lưu ý chớ.

Tâm gật đầu:

- Anh thấy ở Kiến Hòa, có những vườn dừa nhỏ, bán giá mỗi mẫu chừng 15 ngàn. Mình mua chừng 5 mẫu thì hoa lợi đã kha khá. Họ trồng dừa kỹ thuật cao, dừa khô để rụng theo con nước dồn lại một góc. Cứ lượm lên đem bán không cực nhọc gì. Mỗi năm chỉ phải thuê người móc đất sình bồi đắp gốc mà thôi.

Tâm thấy việc để chân đất, mặc áo đen mốc thít đi lượm dừa phiêu lưu quá, không hấp dẫn tí nào nên chỉ lặng yên.

Thiện thân mật vuốt tóc nàng - cử chỉ âu yếm đầu tiên của chàng - rồi nhỏ nhẹ nói:

- Hồi nhỏ, có lần anh đến chùa Linh Sơn, Cầu Muối - gần nhà em đó – anh may mắn nghe được có một thời kinh nói về vị Bồ Tát Thường Bất Kinh. Gặp bất cứ người nào, dù sang hay hèn, cũng chắp tay kính cẩn xá: “Tôi không dám khinh Ngài, Ngài là Phật tương lai.” Từ đó, ai anh cũng tôn kính, mà anh cũng tôn kính anh nữa. Anh ráng hành động sao cho xứng đáng là Phật tương lai. Em là vị Phật tương lai, em cũng phải kính trọng em. Em không thể để cho bất cứ người nào có thể khinh khi em, giày vò em. Tâm à! Lượm dừa tuy cực khổ nhưng không ai làm phiền mình. Em có thể thong dong tự tại, nhìn gió, nhìn mây mà sung sướng tự hào.

Thiện ra về để lại lòng Tâm nỗi bâng khuâng khó nghĩ. Nghĩ đến cực khổ làm nàng chùn bước, nhưng cuối cùng rồi tình yêu thắng thế, nàng mơ đến một mái nhà tranh dưới gốc dừa, với hai quả tim vàng.

Cả tháng trời dệt mộng mà phải đợi chờ mòn mỏi thì Thiện mới lò dò đến. Chàng có vẻ gầy gò, còn Tâm thì cũng hốc hác. Tâm mừng quýnh nhưng ra dáng giận dỗi, nũng nịu trách:

- Ghét anh quá! Anh trốn đi đâu biệt dạng cả tháng vậy?

- Anh chỉ muốn gặp em từng ngày, mà không cách nào được.

- Thiện ơi! Em bằng lòng rồi đó. Em chịu theo anh về Kiến Hòa hay đi đâu cũng được.

Tâm ỏn ẻn nhõng nhẽo. Thiện bối rối:

- Anh xin lỗi Tâm.  Anh… lẽ ra phải cho em biết trước là anh không thể cưới vợ được.

Tâm vỡ mộng buồn thiu, khóc như mưa. Thiện cũng bứt rứt nhưng không tìm được lời lẽ gì để an ủi nàng. Rồi không biết nghĩ sao, Tâm vụt nói:

- Anh viện cớ gì để chê em cũng được. Em không đòi anh phải cưới em. Em chỉ xin anh yêu em một lần. Chỉ một lần thôi rồi vĩnh viễn xa nhau cũng được.

Tâm ôm chặt Thiện, mắt nhìn chàng như van xin chờ đợi. Thiện ngần ngừ rồi chậm rãi nói:

- Lần sau, không ở khung cảnh nầy, nếu em vẫn còn giữ ý định đó, anh sẽ chiều em.

- Anh hứa chắc.

Thiện gật đầu, rồi trao cho Tâm gói quà, gói giấy thật đẹp:

- Đây là quà mọn gởi em.

Thiện hôn nhẹ trán nàng rồi ra đi.

Gói quà gồm có số bạc 30 ngàn đồng và bức thư mỏng vỏn vẹn vài hàng:

Anh xin lỗi Tâm,

Nghề nghiệp không cho anh lập gia đình.

Số tiền mọn hy vọng góp phần cho em chuẩn bị về quê.

Xin vị Phật tương lai nhớ bảo trọng lấy thân.

Thân ái.

Bức thư không có câu đoạn tuyệt mà hàm chứa lời vĩnh biệt ngàn trùng. Tâm ngã quỵ, để cho dòng nước mắt tự do tuôn tràn.

Ba tháng sau, lẳng lặng nghe lời Thiện, Tâm về Kiến Hòa mua lại một mảnh vườn dừa nhỏ. Đúng như Thiện đã bảo, nàng chỉ phải mệt nhọc ba tháng đầu để sắp xếp công việc. Sau đó, việc lượm dừa bán dừa rất nhẹ nhàng, mẹ và đứa em trai nàng giành phần gánh vác.

Tâm không ngờ nàng lại dễ thích ứng với hoàn cảnh mới. Nếp sống đồng quê buồn, thanh vắng nhưng tâm hồn rất thoải mái nhẹ nhàng.

Rảnh rang, Tâm thu mua thổ sản quanh vùng mang về chợ Cầu Muối phân phối. Công việc quen dần, ngày càng phát đạt. Nàng lợi dụng việc đi đó đây, để hy vọng mỏng manh lùng kiếm Thiện.

Sau 2 năm tần tảo, Tâm khám phá rằng buôn bán các loại gia vị như tiêu ớt vừa nhẹ, vừa lời. Nàng thường ra Phú Quốc mua tiêu. Nhưng mùa nầy, nàng lại đến xã Bình Trị, một xã nhỏ vừa mới bình định, thuộc quận Kiên Lương (1).

Sau khi thưởng thức cơm gà Ba Cùi, sò huyết Rạch Đùn, vịt nấu tiêu tươi… là những món ăn đặc biệt của Bình Trị, nàng được chị Sáu, chủ vườn đưa đi xem thắng cảnh.

Bãi biển mênh mông không dấu chân người. Trước mặt, hai hòn Phụ Tử kề cận nhau tâm sự. Xa xa bóng dáng Hòn Họ - dòng họ nhà Hòn - gồm có hòn Ông, hòn Bà, hòn Cha, hòn Con… đang chen chúc nhau trên mặt biển, khoe những ngọn dừa xanh um phất phơ. Tâm liên tưởng đến Thiện, than thầm: “Hòn mà còn xúm xít có vợ có chồng. Sao anh đành bỏ em. Thiện ơi!”

Tâm buồn bã quay ra chân núi. Chị Sáu đưa nàng vào một hang động rộng lớn và sâu thẳm. Ánh sáng lờ mờ rọi lên những thạch nhũ dị dạng còn đọng nước óng ánh, lung linh theo tiếng gió rít từng cơn.

Có tiếng chuông nhè nhẹ, mà âm hưởng làm rung động lònnggười. Tâm thầm nghĩ tiếng chuông đầy thiền vị và người tu có lẽ cũng thoát tục. Tiếng tụng kinh rõ dần, tượng Phật được thiết trí giữa động, ánh sáng mờ ảo tạo chốn thanh vắng thêm phần huyền bí. Từ ngày hoàn lương nhớ đến Thiện, Tâm thường tìm đến chùa tìm hiểu về đạo Phật nên biết nhà sư đang tụng Phẩm Chúc Lụy, kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện. Nàng lễ Phật và quỳ phía sau để lắng nghe. Âm thanh nghe quen thuộc quá. Từng tiếng tha thiết như người và kinh đã kết hợp thành một:

“Nầy Địa Tạng! Ông chớ để cho các chúng sanh đó phải bị đọa vào địa ngục ngũ vô gián, cùng địa ngục A Tì, mãi đến muôn nghìn ức kiếp không lúc nào ra khỏi ư?”

“Nầy Địa Tạng! Tâm tánh của chúng sanh ở cõi Diêm Phù Đề không định, phần đông đều quen theo thói ác, thoảng có người phát tâm lành, nhưng rồi không bao lâu liền thối thoát, còn như các duyên ác lại luôn luôn tăng trưởng.”

“Nầy Địa Tạng! Địa Tạng! Hôm nay ta ân cần đem chúng trời người giao phó cho Ông.”

Thời kinh hoàn mãn, Thầy từ từ quay lại. Tâm giựt mình sửng sốt. Nhà Sư lại chính là Thiện. Không biết chàng đã đi tu từ lúc nào? Trước hay sau khi đã gặp nàng? Trong giây phút ngắn ngủi, Tâm chợt cảm nhận được rằng, dù Thiện đã đi tu từ lúc nào, thì khi đến gặp nàng, chàng đã mang theo hạnh nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát, đến chốn địa ngục trần gian để cứu độ nàng.

“Lời hứa hẹn năm xưa còn đó,” nhưng làm sao nàng có thể mở lời trước hạnh nguyện cao cả của nàng. Tâm xá chào Sư thật sâu và niệm: “Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.”

Rồi Tâm bước nhanh ra khỏi động. Ánh sáng lùa vào chói chang như chia hai ranh giới trong với ngoài và ngăn cách vĩnh viễn tình nàng.

II. Huệ Thiện

Dù đang bị bọn Miên Cộng hành hà cực kỳ khốn khổ tại trại tù vô danh, thuộc ngoại ô Sihanoukville, Thầy Huệ Thiện vẫn an nhiên tự tại, vì Thầy luôn tâm nguyện tùy tâm tịnh độ. Chốn lao lung cũng có thể là nơi lý tưởng để hoằng dương Phật pháp, huống chi, Thầy thầm nghĩ: “Được vào nơi tù tội như thế nầy, lại chính là ước nguyện thầm kín của mình.”

Ngày Lễ Vu Lan năm đó, Huệ Thiện, một giáo sư trẻ vừa thọ giới Sa di, tháp tùng phái đoàn Phật Giáo ủy lạo Trung Tâm Cải Huấn tỉnh nhà. Phái đoàn thật nhộn nhịp quà cáp với ban bảo trợ vui tươi, áo quần tươm tất, huyên náo hân hoan làm việc phước thiện. Cạnh đó, tù nhân rách rưới, thiểu não, sợ sệt… đang khoanh tay khúm núm đón chào. Cảnh tượng đối nghịch đó khiến Thiện thấy xót xa, chua chát. Bố thí dưới mỹ từ ủy lạo sao hời hợt, hình thức quá. Tình thương mà phải ráp nối với nghi lễ long trọng: chào kính, diễn từ, cảm tưởng… thì còn đâu thực chất. Điều đó chỉ làm ngăn cách tình người, phân chia ranh giới giữa kẻ cho người nhận. Càng suy tư, Thiện càng cảm thấy thương họ vô bờ, do đó, chàng nghĩ, có lẽ phải hành môn “đồng sự,” làm bậu bạn để chia sẻ vui buồn với tù nhân thì mới thực sự an ủi, gây niềm cảm thông với họ. Bỗng nhiên, Thiện nảy sanh phát nguyện học theo hạnh Địa Tạng Vương Bồ Tát, mong vào chốn địa ngục để cứu độ chúng sanh.

Thiện vội đến ngay Ty Cảnh Sát Quốc Gia quận nhứt, tìm Thiếu tá Lê Quang Trí, người bạn nối khố thân thiết, trình bày suy tư của mình rồi nói:

- Trí à! Anh có cách nào giam tôi vào khám, chung sống với tù nhân được chăng?

Trí há hốc mồm trong giây lát, rồi đáp:

- Không cách nào chú ạ! Muốn giam ai thì phải có hồ sơ phạm pháp. Chú không giết người, trộm cắp, lường gạt… thì không một viên chức nào có quyền giam giữ chú được.

Ngừng một lúc lâu, rồi vừa chắc lưỡi, lắc đầu, Trí tiếp:

- Chú lạ quá! Sa di không lo tu, lại dở chứng đòi đi tù! Ha ha! Ngông thật! Chú ngông thật!

- Trí! Đừng cười mà. Tuổi trẻ nên tôi cũng hơi bốc đồng một chút. Vả lại, tôi mới là Sa-di, tu tập sự thôi mà… - Thiện giả lả.

- Mà nầy! Chú đòi làm bạn với tù nhân, vậy có đủ can đảm làm bạn với gái điếm không? Họ cũng là những kẻ khốn cùng tại chốn thanh lâu, và cũng cần được cứu độ đó – Trí bỗng ranh mãnh hỏi.

- Làm bạn với gái mãi dâm thì cũng chẳng sao! Thi hào Nguyễn Du, trong chế độ phong kiến mà còn tự coi việc đi làm quan cho triều Nguyễn là một thứ bán mình, nên đã so sánh mình là nàng Kiều, một cô gái mãi dâm tài hoa bạc mệnh.

- Lý luận như chú thì hóa ra tôi đã “bán mình cho chế độ” còn chú cũng “bán mình cho nhà chùa,” ai cũng ngang hàng với gái điếm phải không? – Trí cười to.

- Không! Anh yêu nghề, mến chế độ. Tự nguyện thì không thể gọi là bán mình. Kẻ làm một nghề gì trái lòng, thí dụ như một tu sĩ, đi tu không vì lý tưởng, mà chỉ muốn trốn tránh quân dịch, kiếm miếng cơm manh áo… tu mà phải gắng gượng, ép lòng thì mới có thể gọi là bán mình…

- Thôi chú đừng thuyết dông dài để tránh né câu hỏi của tôi. Thật lòng chú, chú dám dấn thân cứu độ gái điếm không?

- Trong thâm tâm thì tôi rất mong muốn, nhưng thân “đầu tròn áo vuông,” thì làm sao dám lân la đến chốn đó.

- Điều gì khó, chớ chuyện ấy dễ ợt. Tôi sẵn sàng tặng chú đầu tóc giả của Phòng Cảnh Sát Đặc Biệt. Chú đội vào, mặc thường phục thì có thánh mới biết. Chỉ sợ chú không đủ can đảm vì ngại các cô Kiều tân thời hớp hồn mà thôi.

- Trí à! Tôi biết anh cố ý thách thức và mong tôi sụp bẫy tình, vì anh vẫn chống đối việc tôi xuất gia. Nhưng tôi tin ở tôi. Tôi cương quyết đến đó tìm phương cách cứu giúp họ.

Thế rồi, theo hướng dẫn của Trí, Thiện thử đến một động mãi dâm hạng sang nằm trong phạm vi kiểm soát của Trí. Mang thông điệp tình thương và Phật tánh đến chốn lầu xanh. Thiện đối xử thật lễ kính với tất cả mọi người, kể cả những kẻ thô lỗ tục tằn. Sau mỗi chuyến đi, phân tích tỉ mỉ tâm mình, Thiện có thể tự hào là tâm chàng không hề vọng động, ngay cả những lúc vô tình thấy sự hở hang khêu gợi. Những câu chuyện về gái mãi dâm tương đối lạ và hấp dẫn làm Thiện thích thú tìm hiểu. Cũng có những kẻ dư dật thỉnh thoảng nhảy dù để thỏa mãn tình dục. Nhưng hầu hết, vào nghề chỉ vì nhu cầu tiền bạc, dù đó là một cô gái “choi choi” đua đòi chưng diện hay kẻ lầm đường lạc bước bị gạt gẫm sa chân. Trường hợp tương tự như nàng Kiều, bán thân nuôi gia đình cũng không hiếm hoi. Băng Tâm, một nữ sinh thùy mị, dễ thương, chỉ vì gia đình hoạn nạn, mẹ lâm bệnh ngặt nghèo cần thuốc thang, mà phải liều thân. Thiện phân vân tự tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của sự bành trướng nạn mãi dâm. Có thể, học đường và xã hội cùng gây ấn tượng rằng phái nữ phụ thuộc, các cô gái chỉ nghĩ đến việc nương nhờ chồng tương lai, chớ không ý thức tự lập, dự bị cho mình một nghề nghiệp. Để rồi, khi gặp lúc bất trắc, họ làm sao đủ khả năng đương đầu với xã hội chông gai, nên chỉ đành nhắm mắt buông xuôi. Cũng có lẽ, vì xã hội chậm tiến không cung cấp đủ nghề cho dân, nếu ai cũng dễ có việc, đồng lương đủ sống thì mãi dâm phải giảm thiểu. Chớ nghèo đói sắp chết đến nơi, thì liệu thứ đạo đức nào giữ vững được lòng họ. Càng nghĩ đến hoàn cảnh của gái mãi dâm, Thiện càng xót xa, nhứt là Thiện còn biết, họ chính là cái máy đẻ tiền, mà biết bao người nhắm vào khai thác: tú bà, ma cô, viên chức kiểm tục, bọn cho vay cắt cổ, bọn cờ gian bạc lận, và ngay chính thân nhân của họ nữa.

Cho đến một hôm, trong khi ngồi thiền, Thiện cảm thấy không được nhất tâm. Hình ảnh của Băng Tâm, lời nói, nước mắt của nàng dường như nhảy múa trong tâm chàng. Thiện càng gắng định tâm, thì tâm lại càng loạn động. Thiện quán thân bất tịnh, quán Băng Tâm lúc về già, da mặt nhăn nheo xấu xí, quán nàng chết sình trương, thối tha gớm ghiếc… nhưng khi gặp nhau, tự chủ được một chút thì Thiện lại quên ngay, và nàng thì vẫn xinh tươi mơn mởn. Càng quán niệm suy tư, càng bối rối hổ thẹn, và cảm thấy lưới tình ràng buộc, khổ sở tưởng chừng không lối thoát. Sau cùng, lý tưởng và hạnh nguyện giúp chàng đủ nghị lực để quyết định cắt đứt liên lạc với Tâm. Thiện trao thư khuyên nàng hoàn lương, rồi thẫn thờ ra đi. Lần đối diện sau cùng đó, Thiện thấy lòng mình mềm nhũn, tưởng chừng như nếu Tâm bi thương thêm một chút là chàng đành thua cuộc.

Thiện xin nghỉ dạy, trở về chùa Phổ Minh, Rạch Giá. Buồn thương tột độ, chú quỳ dưới chân ân sư, thuật rõ nguồn cơn và lạy xin sám hối. Chú thở than: “Con không hiểu được lòng con. Hằng ngày con lo chăn giữ tâm mình, thế mà không biết tại sao lòng từ bi của con lại biến chuyển thành tình yêu thương tầm thường thế tục, mà con không kềm chế được.”

- Thiện con! Từ bi của Phật giáo vốn vô hình tướng. Hành  hạnh từ bi mà còn chấp tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả… thì duyên khởi trùng trùng, thương yêu ganh ghét phát sanh. Vả chăng, nếu không nhờ công năng của chú Lăng Nghiêm, của Long Thần Hộ Pháp thì có mấy ai thoát khỏi oan gia nghiệp chướng. Con phải biết, chúng sanh lăn lộn luân hồi, đời đời kiếp kiếp là do ái thủ mà ra. Tập nghiệp dày đặc mà oan trái mênh mang, nên chỉ hơ hỏng thờ ơ, thì lưới tình liền vương vấn. Con ạ! Tuy tình dễ phát sanh nhưng cũng dễ phát hiện. Chính ra danh lợi vì vi-tế nên đối với kẻ tu hành vẫn nguy hiểm hơn nhiều. Biết bao nhiêu vị mải miết chạy theo trường Bồ Đề và tự viện nguy nga mà thờ ơ chánh niệm. Lợi danh phát sanh nhưng tự dối lòng là tham cho chùa, cho đạo, để rồi buông thả mặc cho tình nhiễm kéo lôi như người thế tục.

- Con xin cảm tạ Thầy dạy dỗ. Xin Thầy gia ân cho con được sám hối và tiếp tục tu hành.

- Con à! Sám hối hay không tùy thuộc tâm con. Tu hay hoàn tục cũng vậy. Thế nhưng, kẻ trượng phu phải quang minh chánh trực, nếu quyết tâm tu thì dù bị đe dọa, đánh đập, tù đày… vẫn không thay lòng đổi dạ. Còn đã không muốn tu, thì đường hoàng mà xuất thế, hiên ngang chấp nhận tất cả những hậu quả đau thương của sự hoàn tục. Chớ không thể có thái độ lửng lơ nương cửa Phật, mà lòng hươu dạ vượn, dối đời làm hoen ố chốn thiền môn.

Sau 2 năm hầu Thầy, Huệ Thiện thọ giới Tỳ kheo, rồi được cử đến xã Bình Trị tu bổ lại Chùa Hang, một thắng cảnh bị chiến tranh làm tiêu điều. Xã mới bình định, an ninh là ưu tiên tối hậu, còn y tế, giáo dục chỉ là thứ yếu. Do đó, Thiện một mình đứng ra dạy các cấp tại ngôi giáo đường đổ nát, dùng làm trường học. Thầy lại có dịp ứng dụng khả năng thuốc Nam và châm cứu, kiến thức mà giáo hội tỉnh đã tổ chức hướng dẫn – để trị liệu cho đồng bào nghèo. Thời giờ còn lại, Thầy gần gũi với người Việt gốc Miên, để chăm nom, săn sóc họ, đồng thời trau dồi thêm ngôn ngữ nầy.

Bận rộn suốt ngày, nhưng chính thời gian bận rộn là thời gian tu tập hiệu nghiệm nhứt. Thực hành pháp môn buộc tâm niệm của tổ Ưu Bà Cúc Đa, mỗi khi khởi niệm lành, chàng bỏ vào túi viên sỏi trắng, niệm ác thì viên sỏi đen. Nhưng, nếu niệm thiện mà còn vướng chút vấp ngã, Thầy vẫn kể như đó là ác niệm cần tiêu trừ. Do đó, suốt ngày làm việc phước thiện, mà sỏi đen vẫn chiếm đại đa số. Tình trạng đó lần lần được cải thiện, sỏi trắng tăng dần. Nhờ tinh tấn tu tập, mà khi Băng Tâm xuất hiện thình lình tại Chùa Hang, Thầy Huệ Thiện vẫn giữ chánh niệm. Tuy nhiên, để tránh khơi lại dĩ vãng, Huệ Thiện xin ân sư cho phép tịnh tu tại quần đảo Thổ Châu (2), hầu giải quyết công án “Tiếng vỗ của một bàn tay” mà Thầy đã trao. Huệ Thiện ôm ấp công án, đặt hết tâm lực vào đó, mà lãng quên tháng ngày. Bất ngờ, sau khi Miền Nam bị cộng sản chiếm đoạt, thì bọn Miên Cộng lại gây hấn xâm chiếm quần đảo Thổ Châu. Chúng bắt giữ tất cả đồng bào trên đảo lớn, rồi biệt phái một chiếc tàu nhỏ, sang đảo Dừa, bắt 7 vị tu sĩ đưa về Sihanoukville giam giữ, khởi đầu cho bước gian truân của Thiện.

III.         Ngục Tù

Thủ tục hành chánh của nền Dân chủ Kampuchia rất giản dị. Quyết định giam giữ, tha hay giết cũng chỉ bằng khẩu lệnh. Thế nhưng, phải hơn hai tháng trời bị giải lao lang thang, bó gối chầu chực khắp mọi cơ quan, thì số phận của 7 vị Tu sĩ Việt Nam mới được giải quyết. Quý Thầy được giải đến trường Tiểu học Kompong Som, nơi tập trung các gia đình ngụy và tư sản mại bản, để phân phối đưa đi lao động tại các làng giải phóng. Bọn tù nhân dành cho quý Thầy một cảm tình nồng hậu. Sự quí trọng có thể nhìn thấy trong cử chỉ, ánh mắt, chớ thật ra, cũng không mấy người dám thân mật tiếp xúc. Ở chế độ nầy, tu sĩ là một tội lớn, mà người Việt Nam lại là kẻ thù bất cộng đáy thiên, nên liên hệ với quí Thầy có nghĩa là tự chuốc lấy những tai họa không lường. Trời mùa đông ở Miên rất lạnh, nhất là đối với những kẻ chỉ mặc một bộ quần áo mỏng manh, nằm trơ trọi trên nền xi-măng giá buốt. Nằm cạnh quí Thầy là một tù nhân già cô đơn, đang co quắp người lại, run lẩy bẩy và rên rỉ từng cơn. Lão bị cảm nặng mà không thuốc thang chạy chữa. Buổi chiều, Thầy Huệ Thiện đã cạo gió và đánh dầu nóng khắp người lão, nhưng phương pháp trị liệu tạm bợ nầy không hiệu nghiệm. Ánh trăng rằm lơ lửng trên đọt cây thốt nốt giữa sân trường thật đẹp, nhưng Thầy đang bứt rứt tìm phương pháp sưởi ấm bệnh nhân, mà tia sáng yếu ớt của mặt trăng thì vô dụng. Thầy bỗng thở dài khi thấy các huynh đệ tóc tai không cạo, trông thật thiểu não. Thầy liên tưởng đến câu thơ của Đức Thầy Phật Giáo Hòa Hảo: “Tu đầu tóc không cần phải cạo.” Câu thơ hiển hiện đúng lúc, thật nhiệm mầu giúp cho Thầy giải được bài tính khó. Tu là tu tâm chớ việc cạo đầu hay mặc y vàng chỉ là hình thức không ảnh hưởng gì đến đạo hạnh của mình. Thầy thầm nghĩ: “Thế mà tại sao ta lại khư khư ôm giữ cái y vàng vô tích sự, trong khi có con bệnh đang cần được đắp.” Thầy hướng về Việt Nam, xá cảm tạ Đức Thầy, rồi ân cần cởi y vàng đắp cho ông lão. Chiếc y vàng không cứu được ông lão, nhưng có lẽ cũng sưởi ấm được lòng người trong cơn hấp hối. Không còn y vàng, đối với người Miên, áo nhật bình màu lam tương cận với y phục người Trung Hoa, Thầy Huệ Thiện biến thành một tù ngụy bình thường. Thầy lại càng dễ dàng thân cận với các gia đình tù nhân khác. Thầy băng bó những mụt ghẻ lở, cạo gió đánh đầu, khuyên lơn an ủi hay lau những giọt nước mắt đau thương cho họ.

Lệnh tập họp thình lình ban ra. Đang săn sóc một bệnh nhân ở dãy phòng xa, Thầy Huệ Thiện bị tống lên xe di chuyển với những bạn tù xa lạ, và từ đó mất liên lạc với huynh đệ của Thầy. Những kẻ lưu đày được phân phối đến nhiều địa điểm khác nhau. Toán của Thầy Huệ Thiện, được đưa đến khu rừng cạnh làng Svay Tep, thuộc miền bắc tỉnh Kok Kong để lập trại. Trại được đặt dưới quyền sanh sát của tên Hùa Sua, phụ tá bí thư xã đặc trách công an. Thạch Phiên, người bạn tù gốc Trà Cú (Vĩnh Bình) biết rõ lý lịch Thầy, khuyên Thầy nên giấu hẳn tông tích Việt Nam đầy nguy hiểm. Do đó, Thầy Huệ Thiện được đọc trại tên thành Hu-Then, một Đông y sĩ gốc Trung Hoa, mà chiếc áo nhật bình là một bằng chứng hùng hồn. Tù nhân được cung cấp cưa, búa… để vào rừng đốn cây dựng trại: Một trại dành cho những kẻ độc thân và nhiều căn nhà lụp xụp cho những kẻ có gia đình chung sống với nhau. Nguyên tắc không làm không có ăn. Tù nhân dù bệnh hoạn cũng phải ra đồng lao động, nếu không muốn khẩu phần ăn chết đói - một muỗng dừa gạo một ngày - bị cắt bán phần hay toàn phần. Nông cụ thì thiếu kém, cuốc xuổng không đầy đủ, trâu cày cũng khan hiếm. Thế là, Thầy Huệ Thiện cùng một số người trẻ tuổi, phải thí thân làm trâu kéo cày đến sưng vù cả hai vai và rách nát bàn tay. Những kẻ thị thành, vốn không quen với nắng mưa và ruộng rẫy, đã vậy, khí hậu miền núi ẩm độc, thuốc men thiếu kém, đói và rách… nên sức chịu đựng mỏi mòn. Chỉ trong 6 tháng đầu mà có đến gần 50 người, tức 1/3 nhân số trại đã lần lượt bỏ mình vì bệnh hoạn. Một số ít đã tự tử vì bị mắng chửi nhục nhã và đánh đập tàn nhẫn. Thầy Huệ Thiện cũng đã chịu những đày đọa vật chất đó, nhưng về tinh thần thì Thầy vẫn an lạc. Đối với Thầy, thì dù trồng cây, cuốc đất hay thậm chí bị đánh đập chửi mắng, đều cũng có thể thực tập thiền quán. Áp dụng phương pháp của thiền sư Độc Thể trong quyền Tỳ Ni Nhật Dụng thiết yếu, Thầy thường trực quán niệm để tâm hồn tỉnh thức. Sinh hoạt thay đổi thì Thầy tùy theo hoàn cảnh mới mà sáng tác những thi kệ thích hợp. Như khi cuốc đất cày ruộng, Thầy quán niệm:

“Cuốc đất kéo cày

Nguyện cho chúng sanh

Vun sới ruộng tâm

Chóng thành Phật quả.”

Khi trồng cây gieo hạt giống, Thầy có thi kệ:

“Gieo giống trồng cây

Xin nguyện chúng sanh

Ương hạt bồ đề

Phát lòng vô thượng”

Thậm chí, ngay những lúc bị bọn cán bộ hành hạ, chửi mắng, Thầy vẫn an nhiên bất động:

“Người đánh đập chửi mắng

Chính là bạn trung thành

Nhắc nhở kẻ tu hành

Kiên trì trau đạo hạnh.”

Tư tưởng bị kiểm soát nghiêm nhặt, chữ “Phật” còn không thể đề cập đến, thì sự thuyết pháp lại càng không hợp với “khế cơ.” Tuy nhiên, nếp sống của Thầy Huệ Thiện đã là hình ảnh sống động của đạo Phật. Thầy áp dụng “tứ nhiếp pháp”: bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, để chung sống, giúp đỡ, ngọt ngào an ủi, chia sẻ vui buồn với họ. Thầy là một ông lang cũng là một người bạn thân thiết và tận tụy chăm sóc họ, đến với họ bằng tình thương ngọt ngào để tạo cho họ chút niềm tin trong chốn tù đày. Sự hiện hữu của Thầy giống như sự hiện hữu của một dòng nước ngọt làm tươi mát cho vùng đất khô cằn.

Sau vụ hoa màu phụ, buổi ăn ngoài cơm hẩm và muối, được độn thêm khoai nên cũng tạm no bụng. Chế độ lương thực cũng được cải thiện đôi chút khi vụ lúa được may mắn trúng mùa, và bọn ngụy được phép nuôi thêm gia súc. Đến đầu năm 1977, tình hình biên giới Việt-Miên sôi động. Để tạo hậu thuẫn chính trị, chính quyền đưa ra những biện pháp khoan hồng đối với những kẻ tù đày. Trại được biến cải thành Tổ hợp Sản xuất. Công an không còn kiểm soát thường trực. Tù nhân được phép đi lại và giao thiệp với dân làng. Giờ đây, họ có thể đi câu để có thêm lương thực, trao đổi hàng hóa với dân làng, và cũng có thể đến bệnh xá để khám bệnh, xin thuốc. Thầy Huệ Thiện cũng được phép lên núi để tìm những dược thảo trị bệnh. Thầy cũng thường bị trưng dụng để làm việc tại bệnh xá, mỗi khi có những luồng dịch cúm hoành hành, bệnh nhân gia tăng. Thầy là một ông lang tận tâm. Vì vậy, Sa Leng người nữ cán bộ với danh xưng Bác sĩ dù chỉ thụ huấn khóa cấp tốc 6 tháng về y tế thường thức và thuốc dân tộc, đã yêu cầu Thầy làm việc thường trực. Thầy Huệ Thiện một mực từ chối. Thầy chỉ mong muốn được làm ruộng cực khổ chung với bạn tù, hơn là được thoải mái riêng tư tại bệnh xá. Nàng bác sĩ trẻ thỉnh thoảng lại đến tận trại để viếng thăm Thầy, mang tặng Thầy hộp sữa, một chút bột ngọt hay chút đường. Điều đó chỉ làm Thầy lo ngại, vì nàng Sa Leng càng lộ cảm tình với Thầy, thì Hùa Sua, viên công an trưởng lại hằn học.

Nàng Sa Leng bất ngờ đến thăm Thầy. Sa Leng vận sà-rông sặc sỡ cổ truyền, lại trang điểm tươm tất, trông thật xinh xắn và dễ thương, nếu so sánh với gái quê trong làng. Việc chưng diện nầy kể ra là một điều lạ đối với một nữ cán bộ luôn luôn đề cao đảng và nhà nước.

- Anh Hu Then! Anh xem Sa Leng vận sà-rông nầy có đẹp lắm không?

- Thưa cô, đẹp lắm! Màu sắc nầy rất hợp với cô.

- Anh Then ạ!

Nàng ngập ngừng:

- Anh có nghĩ đến việc lập gia đình gì chưa?

- Thưa chưa.

Thầy rụt rè:

- Người ngợm như tôi, lại đang cảnh lao động, đâu có điều kiện để nghĩ đến điều đó.

- Anh hiền lành dễ thương. Anh lại đẹp trai nhất làng. Nếu anh…

Sa Leng ngần ngừ bỏ lửng, mắt đắm đuối nhìn Thầy.

- Tôi!

Huệ Thiện bối rối tránh ánh mắt của nàng.

- Tôi… muốn mình vẫn độc thân để hết lòng lao động, hy vọng đảng và nhà nước sớm khoan hồng ban trả quyền công dân…

- Hu Then! Em yêu anh.

Sa Leng mạnh bạo nắm tay Thầy hỏi dồn:

- Anh có yêu em không?

- Cô Sa Leng ơi!

Huệ Thiện thối lui một bước:

- Tôi van xin cô. Xin cô đừng nói giỡn chơi như vậy. Nguy hiểm cho tôi lắm. Bọn tôi bị cấm liên hệ tình cảm với dân làng, huống chi là một cán bộ như cô.

- Em nói thiệt mà. Anh làm gì mà sợ hãi như vậy?

- Thưa cô Sa Leng! - Thầy cố né tránh – tình hình biên giới độ rày như thế nào?

- Anh đừng đánh trống lảng. Anh trả lời cho Leng đi.

- Tôi là kẻ có tội. Tôi đâu dám nghĩ ngợi đến chuyện tình yêu.

- Nè! Em báo tin mừng cho anh. Đảng vừa quyết định sẽ trả quyền công dân cho tất cả những người gốc thị thành. Anh giỏi về thuốc dân tộc, ba em là bí thư có thể giúp anh tiến thân được. Anh yên tâm đi mà.

- Cô Sa Leng ơi! Xin cô đừng nói nữa. Quả thật tôi rất sợ, tôi không dám nghe thêm đâu.

Vừa lúc đó, thì Hùa Sua hiện đến gỡ rối cho chàng. Hùa Sua không ngó ngàng gì đến Huệ Thiện đang kính cẩn chào hắn. Hắn vồn vã xum xoe với Sa Leng, bám sát theo nàng rời trại.

Thầy Huệ Thiện rất lo lắng. Thầy không sợ bị đánh đập, khổ cực trong lúc tù đày, mà Thầy rất sợ lưới tình, sợ có người khổ lụy vì mình. Vì vậy, Thầy nghĩ đến việc trốn đi. Như di chuyển đi đâu? Bằng phương tiện gì? Làm sao ghi tên được vào sổ hộ khẩu? Là những việc mà Thầy phân vân chưa quyết định được. Từ ngày rời trại bớt bị công an kềm kẹp, Thầy vẫn thường tọa thiền vào lúc nửa đêm. Đêm nay, câu chuyện Sa Leng vương vấn làm Thầy bị phân tâm. Thầy vừa xả thiền, thân còn ngồi kiết già, thì thấy viên công an trưởng Hùa Sua đùng đùng đi tới. Bị bắt quả tang ngồi thiền, Thầy biết chắc chắn là đại họa sẽ đến. Hùa Sua từ lâu ghét Thầy, vì Thầy được dân trại thương mến, huống chi hắn lại đang nổi cơn ghen, khi thấy Sa Leng đến thăm Thầy và hững hờ với hắn. Hùa Sua cười gằn, không nói không rằng, cầm ngay chiếc ghế bổ thẳng vào đầu Thầy. Thầy Huệ Thiện nghe đau đớn cả cơ thể. Thầy ráng không rên la nhưng biết mình sẽ không chịu đựng nổi. Chợt Thầy nhớ đến Đức Phật thuở xưa, tu hành nhẫn nhục, bị vua Ca Lợi chặt đứt thân thể mà lòng không sanh tâm sân hận, vì lúc đó, Ngài “không có tướng ngã, không có tướng nhân, không có tướng chúng sanh, không có tướng thọ giả” (3) Thầy liền giữ vững chánh niệm, không thấy có kẻ đánh đập và người bị đánh đập. Thầy không thấy nỗi lòng sân hận, và sự đau đớn thể xác cũng không còn nữa. Thầy ngồi yên lặng, miệng mỉm cười khoan dung hỉ xả. Lần đầu tiên hành hạ người, mà nạn nhân không khóc lóc, van xin hay sợ hãi, làm cho Hùa Sua càng nổi cơn điên lồng lộng. Hắn gầm lên, đập gãy nát hết các thành ghế, rồi đánh đá không ngừng cho đến lúc chính hắn cũng mệt nhoài. Khi Hùa Sua bỏ đi, thì Thầy Huệ Thiện cũng chỉ còn là một đống thịt máu me, trên tay những người bạn tù bi thương xúc động.

IV.        Vượt biên

Cảnh tượng một người ngồi bất động nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của kẻ ác thật bi tráng làm mọi người xúc động và thương xót. Thân thể Thầy bị tan nát tưởng như sắp chết lại hồi sinh và bình phục mau chóng khiến họ rỉ tai nhau bàn tán cho là một phép lạ nhiệm mầu. Rồi cuộc đời hy sinh tận tụy của Thầy lại được nhắc nhở, đôi khi còn thêm thắt, thổi phồng… để biến thành một huyền thoại, truyền tụng từ trại lan đến các thôn làng lân cận. Thầy trở nên một nhân vật được mọi người thương yêu, quí trọng. Trong khi ấy thì tình hình chính trị sôi động dồn dập. Việt cộng tấn chiếm Kampuchia. Tất cả cán bộ trong tỉnh, vốn trung thành với chế độ Pol Pot đều rút về miền Tây. Nền Cộng Hòa Nhân Dân Kampuchia, dưới sự lãnh đạo của Heng Sarim, được thành lập. Bây giờ, kẻ thù chánh của họ là những người cộng sản anh em, còn ngụy lại là thành phần cần lôi kéo làm hậu thuẫn. Do đó, ngụy được trả quyền công dân, có thể xin hồi cư hoặc trở nên dân thường trú trong làng. Các chuyên viên, giáo chức được gọi làm việc trở lại, kể cả, một số nhân viên hành chánh địa phương. Nhân cơ hội chánh quyền mới đưa ra chiêu bài tự do tín ngưỡng, Thầy Huệ Thiện xin tu bổ lại ngôi chùa làng, hầu dân chúng có nơi lễ Phật. Nhờ sự ủng hộ của dân chúng, chỉ trong vòng 6 tháng, ngôi chùa đã dựng lại được, tượng Phật lớn bị cộng sản đập bể từng phần được đắp vá lại…

Nhìn áng mây trắng tự tại thong dong, không dính mắc, không ràng buộc… Thầy Huệ Thiện cảm thấy đã đến lúc mình từ giã chốn nầy. Thầy đã chuẩn bị rước một vị sư già – dĩ nhiên thuộc hệ thống Phật Giáo Theravada yêu nước - về trụ trì. Những gì cần làm Thầy đã làm, không còn có gì để luyến tiếc hay lưu giữ Thầy nữa. Thầy cũng muốn tránh không để mình dính mắc rồi sanh tình nhiễm bởi sự thần thánh hóa và thương yêu của dân làng. Dù ở đâu, Thầy vẫn nhớ đến quê hương thứ hai của Thầy. Nơi mà, tất cả mọi người, kể cả Hùa Sua, đều là ân nhân, là thiện tri thức đã trợ duyên cho Thầy tu hành. Nhờ đó, mà đạo hạnh Thầy có phần tăng tiến. Thầy không dụng công, hành động tự nhiên bình thường mà hợp đạo. Ngay trong giấc mộng, thâm tâm cũng an trụ trong chánh niệm. Thầy chỉ tiếc là công án “Tiếng vỗ của một bàn tay” mà ân sư trao, Thầy đã không dám nghĩ tới vì đời sống trong trại vừa bận rộn vừa quá phiền phức. Nay gặp lúc ở chùa một mình, có cơ hội thuận tiện nên vừa nghĩ tới thì nghi tình liền phát động. Thầy ngần ngơ như người mất hồn. Bao nhiêu nghi vấn, bao câu hỏi vùn vụt đến, dồn nén như muốn nổ tung. Thầy lẩm bẩm: “Âm thanh là không? Bàn tay cũng không? Vậy thì ai vỗ? Ai nghe?” Chữ “Ai” bỗng vang động, cuồn cuộn gầm thét như tiếng hải triều. Đại địa bỗng biến dạng để lại một mình Thầy rộng rãi thênh thang nghêu ngao tụng Tâm Kinh Bát Nhã: “Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị sắc…” Khi Thầy Huệ Thiện đứng lên thì trời đã sáng. Thầy lễ Phật, quét sân để chuẩn bị ra săn sóc khóm rẫy quanh chùa.

Hai người bộ đội trẻ đi trên đường làng, hàn huyên vui vẻ, chợt dừng lại ngắm chùa.

- Tấn à! Lạ quá! Sao ở đây lại có một ngôi chùa nhỏ bé mà tươm tất như thế này?

- Đúng vậy. Các chùa khác mình gặp đều hoang vắng tiêu điều, chớ không có sinh khí như chùa nầy. Không có “đồng chí” nào theo dõi, mình vào lễ Phật, Mẫn nhé!

- Đồng ý! Tao cũng muốn cầu nguyện Phật Bà Quan Âm phù hộ cho chuyến vượt biên của mình.

- Mày lúc nào cũng ồn ào cái miệng. Có người đang quét lá kìa. Lỡ họ nghe ra thì chết cả đám.

- Ở xứ Miên nầy ai nghe được tiếng Việt mà mày lo. Sao Tấn lại sanh chứng “sợ Quảng sợ Tiều” như vậy?

Hai chàng vào chánh điện, lễ Phật và cầu nguyện thật chân thành. Sau một lúc lâu, vừa trở ra họ vừa tiếp nối câu chuyện dang dở.

- Tao lo quá đi Mẫn à!

- Có gì trở ngại đâu. Bà chị tao cho biết chạy được giấy phép để đưa hai đứa em mầy cùng sang đây, theo chuyến quân vận tháng tới mà.

- Đành vậy. Nhưng khi đến đây thì sao? Ai hướng dẫn? Ai thuộc đường sá? Ai tiếp xúc với người Miên khi cần? Giấy đi đường giả của tụi mình chỉ giúp cho mình được một đoạn đường nào đó, chớ băng rừng, lội suối, qua thôn xóm thì sao đây?

- Ơi! Ơ!...

Bất ngờ, người Miên đứng tuổi đang quét lá sân chùa bỗng lên tiếng:

- Các cậu thành khẩn lễ Phật thì chắc chắn Long Thần Hộ Pháp sẽ gia hộ.

Hai chàng bộ đội sợ điếng người, vì không ngờ ở chốn này lại có người Miên sành sỏi tiếng Việt hiểu rõ dự tính của họ. Tuy nhiên, nhờ thái độ của người Miên có vẻ hiền hòa nên lần lần họ cũng định thần lại. Tấn bỗng nhìn sững người Miên trong giây lát rồi ú ớ la lên:

- Thầy! Thầy Huệ Thiện.

- Thầy đây con. Chỉ mới hơn 6 năm mà con nay trưởng thành rồi.

- Nghe tin Thầy bị chúng bắt. Ai cũng cho rằng Thầy khó sống sót.

Tấn cảm động khóc òa lên.

- Nhưng Thầy còn sống đây mà!

Thầy Huệ Thiện vỗ về rồi nói tiếp:

- Con kể Thầy nghe chuyện chùa Phổ Minh đi.

- Thầy Chánh Đại Diện bị chánh quyền vu cáo là CIA. Công an đòi trình diện hàng ngày và làm khó dễ đủ điều. Rồi bât thình lình thầy mất tích, không biết sống chết như thế nào. Các đệ tử thì tản lạc khắp nơi, phần lớn đã phải hoàn tục. Chỉ có sư huynh Huệ Phổ, thân thể tàn tật được Việt cộng cho ở lại giữ chùa…

- Tổ chức Gia Đình Phật Tử chắc cũng không còn - Thầy bùi ngủi hỏi tiếp.

- Chúng con cương quyết sinh hoạt, nhưng được vài tuần thì hai Huynh trưởng bị lên án là phản động. Thế rồi, không ai dám sinh hoạt gì nữa…

Ngừng một lúc lâu, Tấn hỏi:

- Thưa Thầy! Cuộc đời lưu lạc của Thầy chắc gian lao nguy hiểm lắm?

- Thầy bị bắt rồi mất liên lạc với các huynh đệ. Sau đó, được chuyển đến xã nầy lao động cải tạo. Kể ra thì cũng không cực khổ nguy hiểm gì. Khi được trả quyền công dân, Thầy xin về tạm trú nơi đây để sửa sang lại ngôi chùa làng này.

Đoạn quay sang Mẫn, Thầy nói:

- Thầy xin lỗi anh! Thầy trò tôi bất ngờ gặp nhau mừng rỡ tíu tít, làm câu chuyện của anh bị dang dở. Anh cùng quê quán Rạch Giá như Tấn?

- Thưa không. Quê con ở Kiến Hòa. Tụi con đi nghĩa vụ nên thân với nhau như anh em ruột. Xin Thầy xem con như Tấn…

- Thưa Thầy! - Tấn xen vào - Thầy nghĩ sao về vụ tụi con định vượt biên?

- Thầy thấy môi trường này không hợp với các con. Thầy nghĩ rằng các con đã quyết định đúng và Thầy cũng sẵn lòng giúp đỡ các con, nếu các con cần.

Tấn và Mẫn mừng rỡ reo lên. Sau đó ba thầy trò bàn bạc chi tiết về chuyến vượt biên.

Băng Tâm được Mẫn, người em trai, ca tụng đức độ của người hướng dẫn, một nhà sư Việt Nam lưu lạc sang Miên. Tuy nhiên, điều mà nàng không thể ngờ được là nhà sư ấy lại chính là Thiện, người mà nàng hết lòng yêu thương nhung nhớ. Lần cuối cùng gặp lại người yêu tại chùa Hang, trong phút nông nỗi dại khờ hy sinh bỏ đi để chàng tiếp tục tu hành. Ngờ đâu tình si vương vấn, khi nàng trở lại thăm tìm thì người xưa đã biến dạng từ lúc nào. Nay ước mơ nàng lại thành sự thật. Tình yêu nàng vẫn cao ngất, mãnh liệt, tuy mang tính chất lý tưởng và cao quý chớ không nông nổi tầm thường thế tục như xưa. Bởi vì, tuy Thầy Huệ Thiện vẫn đối xử bình thường với mọi người, nhưng mà trong thân thể Thầy toát ra một sự an lạc thuần khiết, giúp cho mọi người cảm thấy được tươi mát, nhẹ nhàng. Tâm gởi gấm tất cả tình yêu thương trìu mến của nàng trong những cơ hội nhỏ: Lo lắng buổi ăn vội vàng hay một chỗ nghỉ tạm cho Thầy. Được như thế là nàng đã cảm thấy hạnh phúc ngập tràn, và chỉ mong giây phút kề cận bên nhau kéo dài bất tận.

“Tu đâu cho thiếp tu cùng

Mai sau thành Phật ngồi chung một bàn.”

Cũng câu ca dao đó, ngày xưa khi nghe nàng cảm thấy thật mỉa mai, châm biếm. Ngày nay, thì lại thấy êm ái, không có điểm gì để mà cười, để mà chê cả. Ước mơ thầm kín và nhỏ bé của nàng là sau khi đến phần đất tự do, Thiện sẽ trụ trì ở một ngôi chùa nho nhỏ. Và nàng, nếu được Thầy cho phép, chỉ xin là một Phật tử thuần thành suốt đời công quả, lo cúng dường Phật, lo cúng dường Thầy. Giả thiết nầy không đồng ý, thì mình chỉ xin là một Phật tử thường thôi. Thỉnh thoảng, xin đến chùa lễ Phật, để nghe chàng tụng kinh, chàng thuyết pháp… thì đã là một hạnh phúc lớn lao rồi. Ôm ấp bao nhiêu mộng đẹp, nên trong tháng trời vượt biên, dù phải leo trèo, lội suối, băng rừng núi, đói lạnh gian khổ, mà nàng vẫn tưởng như đang đi trên thảm nhung hoa mộng thần tiên.

Từ tỉnh Kok Kong, toán vượt biên đã dùng giấy phép chính thức để sang Ta Keo, rồi lên đến Nam Vang. Rời Nam Vang đi Battambang, việc kiểm soát trở nên nghiêm ngặt, nên mọi người phải giả trang thành dân Miên. Tuy vậy, Thầy Huệ Thiện vẫn phải hỏi thăm các con đường tắt, vượt qua các thôn xóm vắng vẻ, băng rừng, lội suối… để tránh các nút chặn tại các trục lộ. Càng gần biên giới, nguy hiểm càng gia tăng, vì đó là vùng xôi đậu của cả bốn, năm phe nhóm đang tranh hùng. Toán vượt biên chỉ có thể di hành lúc đêm tối, và phải len lỏi ở giữa vùng ảnh hưởng của hai phe đối địch về chủ thuyết nhưng rất giống về sự dã man, tàn ác. Có lẽ nhờ đức độ của Thầy, mà đi đến đâu cũng gặp may mắn, nhất là được người dân Miên hiền lành, che giấu giúp đỡ. Vừa vượt khỏi vùng xôi đậu cuối cùng, Thầy Huệ Thiện dừng lại, nhìn mọi người thật lâu, rồi hiền lành mở lời:

- Chúng ta sắp được tự do rồi. Con đường mòn trước mặt hướng dẫn đến trại Khang I Đằng bên kia biên giới Thái Lan. Khoảng đường này tương đối an ninh mà chỉ độ chừng 15 cây số thôi. Xin chị Băng Tâm tiếp tục đưa các em đi qua bên kia biên giới…

- Ủa! Thầy bỏ tụi con sao? Thầy không vượt biên sao?

Cả bọn nhốn nháo lên tiếng hỏi dồn dập.

- A! Các con à! - Thầy ngập ngừng - Thầy đã phát nguyện xin ở chốn địa ngục để cứu độ chúng sanh. Nơi lưu giữ Thầy là nơi đầy dẫy khổ đau, chớ không phải là vùng đất hứa bên kia biên giới. Thầy rất tiếc, nhưng Thầy phải “TRỞ VỀ.”

Trước hạnh nguyện cao cả của Thầy, không ai đồng ý mà cũng không ai có thể nêu ý kiến trái nghịch. Tất cả đều thất vọng, và chỉ buồn thương sụt sùi. Chừng như thấy mọi người quá bi thương, Thầy Huệ Thiện ngần ngừ trong giây phút rồi nói tiếp:

- Chúng ta cùng đi chung một đoạn đường dài tức là đã có nhân duyên hội hợp từ kiếp trước. Hợp rồi tan, tan rồi lại hợp. Chia tay nhau, nhưng đâu có nghĩa là cách biệt, nếu như chúng ta đồng giữ chung ý nguyện học Phật, tu thân.

Đoạn, Thầy chắp tay thành đóa sen, xá thật trang nghiêm hàm ý:

“Sen búp xin tặng người

Các vị Phật tương lai” (5)

Rồi Thầy chầm chậm ra đi “TRỞ VỀ”; bóng Thầy lẫn khuất mờ nhạt dần bởi những cành mai rừng, mà trong buổi tàn xuân, chỉ còn lại cành và lá.

Băng Tâm bàng hoàng không ngờ ước mơ nhỏ bé của nàng, lần nữa lại tan vỡ. Nàng muốn lên tiếng để nói một lời từ biệt, nhưng dường như nàng đã mất hết tri giác, miệng lưỡi tay chân cứng đơ, không thể có phản ứng gì cả. Nàng chỉ tận lực theo dõi Thầy lần cuối cùng, nhưng dòng nước mắt lại làm cho bóng Thầy nhòe nhạt, ẩn hiện bên một cành mai khẳng khiu. Hình ảnh đó giúp Băng Tâm liên tưởng đến hai câu thơ của Mãn Giác thiền sư, mà trong chuyến đi nhân lúc vượt qua rừng mai tàn tạ Thầy đã giảng:

“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận!

Đình tiền tạc dạ, nhất chi mai” (4)

(Đừng bảo xuân đi hoa rụng hết

Trong lòng ghi tạc một cành mai ở trước sân)

Nàng thầm nhủ: “Xuân đến, xuân đi. Hoa nở rồi hoa tàn. Tất cả đều theo định luật tuần hoàn. Nhưng Xuân trong lòng – cành mai ấy - của vị thiền sư thì vẫn như miên viễn.” Rồi Băng Tâm chợt cảm thấy bình tĩnh và an lạc. Nàng vừa khám phá ra rằng nàng không bao giờ mất Thiện. “Ừ nhỉ!” nàng tự nhủ “Từ vô thủy cho đến vô chung có bao giờ mình rời xa Thiện đâu.”

Chú thích:

(1) Xã Bình Trị là một xã ven biển thuộc quận Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. Bình Trị có nhiều thắng cảnh: hòn Phụ Tử, Chùa Hang, Hang Tiền, Hòn Nghệ, Động Bình Tích… Xã còn được nổi tiếng với sò huyết to nhất nước và với những vườn tiêu, vườn trầu tươi tốt.

(2) Quần đảo Thổ Châu tức Pulau Panjang, nằm hướng Đông Nam tỉnh Rạch Giá, và ở ngoài hải phận quốc tế. Quần đảo có 7 đảo nhỏ, đảo lớn nhất là Thổ Châu có chừng khoảng 100 dân đánh cá sinh sống. Đảo Dừa đối diện, là một cơ sở thuộc Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Kiên Giang. Giáo hội đã cho trồng hàng ngàn cây dừa và xây dựng thiền thất cho tu sĩ tu tập. Về phương diện hành chánh, Thổ Châu chỉ là một xóm, thuộc ấp Nam Du (quần đảo Nam Du, tức Cổ Tron hay Pulau Dama), xã Lại Sơn (cũng là một hòn đảo), quận Kiên Thành, tỉnh Kiên Giang. Năm 1975, Miên cộng đã tấn chiếm bắt dân và 7 tu sĩ đem về Cam Bốt.

(3) Nầy Tu Bồ Đề! Như Lai nói pháp nhẫn nhục ba la mật chẳng phải nhẫn nhục ba la mật, chỉ tạm gọi là ba la mật. Tại vì sao? Nầy Tu Bồ Đề! Như ta thuở xưa bị vua Ca Lợi (Kakiraja) chặt đứt thân thể, lúc đó ta không có tướng ngã, không có tướng nhân, không có tướng chúng sanh, không có tướng thọ giả. Tại sao vậy? Vì thuở ấy, nếu trong lúc thân thể bị chặt đứt, mà ta còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, làm sao khỏi khởi lòng hờn giận…” Kinh Kim Cang Bát Nhã (bản dịch Như Hiền).

(4) Mãn Giác Thiền sư (1052-1096)

Nguyên văn:

Xuân khứ bách hoa lạc,

Xuân đáo bách hoa khai.

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thượng lai.

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Bản dịch: (Thích Thanh Từ):

Xuân đi trăm hoa rụng,

Xuân đến trăm hoa cười

Trước mắt việc đi mãi

Trên đầu già đến rồi.

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua, sân trước, một cành mai.

(5) Thi kệ Thượng tọa Nhất Hạnh (Từng bước nở hoa sen).

 

---o0o---

Đánh máy: Nhuận Giai – Proofread: Giác Viên
Trình bày: Tịnh Tuệ

Cập nhật: 01-10-2011

 


Webmaster:quangduc@quangduc.com

Trở về Mục Lục Truyện Tích 2

Đầu trang

 

Biên tập nội dung: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp cho Trang Nhà qua địa chỉ: quangduchomepage@gmail.com
Địa chỉ gởi thư: Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic. 3060. Tel: 61. 03. 9357 3544