TƯ TƯỞNG PHẬT
GIÁO TRONG CA DAO VIỆT NAM
MANG VIÊN LONG
Văn
chương bình dân-nhất là ca dao, là một cuộn phim ghi lại những sinh hoạt
hàng ngày, những tư tưởng, tình cảm diễn biến qua nhiều thời kỳ của nhân
dân, một cách trung thực và đầy đủ nhất. Nói rằng ca dao là một tấm gương
lớn phản ánh lại nét mặt của mọi người trong cuộc sống với nhiều khía
cạnh, cũng là một ví dụ khá chính xác. Bởi vì, hơn đâu hết, văn chương
bình dân, là một loại văn hiện thực chân xác: Văn tức là người. Văn chương
bình dân được sản sinh, lưu truyền lại, cũng chính nhờ yếu tố có liên hệ
máu thịt với đời sống của tất cả mọi người, được mọi người chấp nhận và
giữ gìn.
Đọc lại ca dao Việt Nam, ai
cũng dễ nhận thấy rằng, tư tưởng Phật giáo đã được đề cập đến, trình bày
dưới nhiều khía cạnh tình cảm, suy nghĩ khác nhau đã chiếm một số lượng
lớn, quan trọng. Chúng ta cũng có thể nói rằng, ngoài tư tưởng Phật giáo,
các hệ thống tư tưởng khác - trừ suy tư ban đầu về tín ngưỡng sai lạc,
không có một tư tưởng nào, giáo lý nào, đã được nhắc nhở đến nhiều như
vậy. Điều này, tự nó đã khẳng định cho chúng ta một điều cốt lõi: tư tưởng
Phật giáo đã được mọi người tiếp nhận có ảnh hưởng trực tiếp đến mọi sinh
hoạt hằng ngày của nhân dân, từ lúc xa xưa, vì đã đem, lại được nhiều lợi
lạc, an vui cho mọi người.
Bằng một số câu ca dao trong
kho tàng ca dao Việt Nam , chúng ta muốn làm sáng tỏ hơn những nhận định
trên, những sự kiện đã có trong lịch sử; đồng thời để giải thích phần nào
tiến trình của tư tưởng con người, khởi từ một niềm tin nhỏ thô thiển, dẫn
tới niềm tin về tín ngưỡng, và sau cùng, đã tìm ra tư tưởng Phật giáo chân
chính - như một nguồn an ủi vô tận, niềm vui sống trong sáng và nỗi hạnh
phúc vĩnh hằng mà con người đang khao khát hy vọng trong cuộc đời đã phải
chịu nhiều thống khổ...
Một hình ảnh rất dễ nhận biết
là trong các làng quê Việt Nam - và sau này là ở phố thị, chùa chiền được
xây dựng, chùa chiền được xây dựng phát triển lên rất nhiều. Được khơi dậy
từ đời vua Đinh Tiên Hoàng, củng cố ở đời Lê Đại Hành và cực thịnh ở các
triều vua nhà Lý. Tuy các đời sau (hậu Lê, Chúa Trịnh, Tây Sơn, vua Gia
Long) không mấy quan tâm đến đạo Phật; có thời kỳ đạo Phật bị ngăn trở,
xem nhẹ; nhưng bên cạnh, đã có Chúa Nguyễn ở Đàng Trong cổ xúy, tôn trọng
- nhất là tư tưởng đạo Phật đã được thấm nhập vào con người Việt Nam, hòa
nhịp cùng trái tim, khối óc của họ; cho nên các tư tưởng của đạo Phật đã
chỉ tạm thời ngưng trễ trong các sinh hoạt có vẻ hình thức (xây chùa, hành
lễ, thuyết giảng,...) nhưng lại trỗi dậy mạnh mẽ trong tâm hồn, trong cuộc
sống. Cùng với sự chấn hưng đạo Phật ở Trung Hoa năm 1920; Phật giáo Việt
Nam cũng đã âm thầm xây dựng nền tảng vững chắc cho đạo pháp nước nhà; Hội
"Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học" (1931), tiếp theo ở Trung Việt (1934) và Bắc
Việt (1934). Trong thực tế của cuộc sống, ca dao ghi lại các sinh hoạt,
suy tư, tình cảm chịu ảnh hưởng sâu rộng của tư tưởng Phật giáo thì rất
nhiều - chiếm đa số trong những câu ca thuộc lãnh vực này, nhưng với giới
hạn của một bài giới thiệu có tính khái quát, chúng tôi xin minh chứng
tiêu biểu: Khuyên dạy về thuyết nhân quả:
Có tiền thì hậu
mới hay.
Có trồng cây
đức, mới dầy nên nhân.
Nhắn với đàn bà,
con gái:
Đã thành gia
thất thì thôi
Đèo bồng chi lắm
tội này ai mang?
Ảnh hưởng của
thuyết luân hồi:
Người trồng cây
hạnh người chơi
Ta trồng cây đức
để đời về sau
Về nghiệp quả,
sự vô thường của vạn vật:
Sinh không, tử
lại hoàn không
Khó ta, ta chịu;
đừng mong giàu người.
Xa lánh cuộc
sống tham ái, dục vọng; tìm về chánh đạo:
Mặc ai chuốc
lợi, mua danh
Miễn ta học đặng
đạo lành thì thôi
Ý nghĩa của lời Phật dạy trong
kinh Pháp Cú: "Người nào trước buông lung sau lại tinh tấn, người đó là
ánh sáng chiếu cõi thế gian như vầng trăng ra khỏi mây mù" cũng đã được
giải bày rất giản dị, gần gũi:
Mười năm lưu lạc
giang hồ
Một ngày tu tác
cơ đồ lại nên
Thấu hiểu sâu sắc được lời
khuyến dạy khẩn thiết của đức Thế Tôn với chúng sanh hãy còn tham đắm, vui
say trong "nhà lửa" ca dao đã kêu gọi:
Tu cho trọn kiềp
bụi hồng
Kẻo già lại tiếc
rằng lòng từ bi
Từ sự hòa nhập, đắm mình trong
đạo pháp một cách thuần thục, sâu sắc, đã làm đổi thay nếp nghĩ cũ, rất
tiến bộ về sự "giàu" và "nghèo" của người đời; về nghiệp quả tương báo của
mỗi cá nhân:
Thiên cao đã có
Thánh tri (A La Hán, Bồ Tát)
Người nhân nghĩa
chẳng hàn vi bao giờ
Do vậy, trong bể khổ trầm luân
(còn gọi là "cửa thần phù" theo ca dao và "Ngũ uẩn" theo Phật pháp) kẻ nào
sớm giác ngộ, sống và hành theo lời Phật, sẽ được an lạc, giải thoát; còn
kẻ xấu ác, chướng nghịch, sẽ mãi quay cuồng trong sinh tử khổ đau:
Lênh đênh qua
cửa Thần phù
Khéo tu thì nổi
vụng tu thì chìm
Chính vì thấy được cái ngắn
ngủi của kiếp nhân sinh, sự khổ đau không ai tránh khỏi trong cuộc sống:
"tất cả các hành là vô thường là khổ đau" (lời Phật dạy); chúng ta cũng đã
nghe được lời tâm sự:
Đời người như
bóng phù du
Sớm còn tối mất,
công phu lỡ làng
Chữ "công phu" ở đây, theo ý
nghĩa toàn câu, được xem như là "những xây dựng vật chất, tranh giành
quyền lợi, danh vọng". Những cái tạm bợ, vọng tưởng ấy, sẽ bị tiêu diệt
trong từng sát na, mà người đời không hề hay biết, lại cố "ái thủ". nên
mới có lời kêu gọi: "Tu cho trọn kiếp bụi hồng - Kẻo già lại tiếc rằng
lòng từ bi".
Thuyết luân hồi (sanh tử) cũng
đã ảnh hưởng rất sâu đậm trong lòng mọi người, tuy rằng vẫn còn ở mức độ
giản dị, sơ đẳng; nhưng đã góp phần xây dựng điều thiện, diệt trừ cái ác;
mở đường quang đãng cho con đường tiến gần đạo pháp chơn chánh:
Kiếp sau xin chớ
làm người
Làm cây thông
đứng giữa trời mà reo.
MANG VIÊN LONG