Kính lạy thầy,
Trước mắt con là di bút Thầy để lại, nét chữ
thân quen với màu mực còn đậm nét tinh khôi.
Nghiệp đã qua
rồi lòng nhẹ nhõm
Ngàn xưa mây
bạc vẫn thong dong
Thầy vừa an nhiên xã bỏ báo thân, dãi mây bạc
giờ nương theo gió loãng tan mất dấu. Nẻo sinh
tử Thầy thong dong qua lại, như đi trên những
dặm đường quen để gieo trồng hạt giống từ bi,
giáo hóa, độ sinh. Thân bệnh Thầy mang trong
những năm tháng sau này, cho con biết rõ vô
thường tất đến. Vậy mà nỗi đau đớn, bàng hoàng
vẫn khơi động trong con khi đón nhận tin xa, bởi
từ đây con vĩnh viễn mất Thầy trong kiếp sống
này.
Nơi ngôi chùa xưa mang tên Vạn Đức tại thành phố
biển Nha Trang, Thầy- chú bé dường như đã sẵn đủ
túc duyên, thế phát xuất gia khi còn để chỏm.
Hình ảnh chú điệu mới lên mười với đôi mắt sáng,
khuôn mặt thơ ngây như phảng phất vẽ trầm tư của
một ngưòi mang chí nguyện nhập thế, nỗ lực tinh
tấn tu tập để mai sau phục vụ cho đạo pháp, đem
lợi lạc đến quần sanh, đã là nguồn khích lệ vô
biên cho con tỏ lòng kính ngưỡng, noi theo. Dấu
chân Thầy đã đi qua cùng khắp những ngôi chùa từ
Nha Trang đến Saigon, Bình Tuy, Diên Khánh, Tuy
Hòa... để tham cầu học đạo và lần lượt thọ giới
Sa Di, giới Tỳ Kheo tại những giới đàn ở chùa
Hoa Quang, chùa Hải Đức, Hoa Nghiêm.
Duyên lành đưa đến một ngày, cho bước chân Thầy
dừng lại ở ngôi chùa nhỏ, đã mục nát tang thương
cùng với thời gian trong bối cảnh chiến tranh
năm 1972. Sự hiện diện của Thầy như thắp sáng
niềm tin vào tam bảo, thu phục ngày càng nhiều
những người con Phật tìm về. Nhờ vào oai nghi và
đức độ của Thầy mà nhiều bàn tay góp lại, những
tấm lòng phụng sự đạo pháp mở ra, tạo phương
tiện tu bổ, xây dựng lại ngôi già lam hầu có chỗ
tham cầu, tu học cùng Thầy. Cũng ở chính ngôi
chùa Thiên Phú nhỏ bé, đơn sơ thuở đó, con có
phước duyên được Thầy đón nhận vào.
Thầy kính thương,
Làm sao con nói hết những tháng năm đã trôi qua
cùng với nhiều thăng trầm biến đổi không ngừng.
Con làm sao quên được, những năm đầu của thập
niên 80 như thoáng hiện đâu đây, mỗi khi con nhớ
nghĩ về Thầy, về mái chùa xưa. Những bữa cơm đạm
bạc được dọn lên mời Thầy, mang vị lạt lẽo hay
mặn đắng, mà Thầy trò đã san sẻ cho nhau qua sự
nấu nướng vụng về của ba chú điệu chưa đến tuổi
thành niên. Mặc cho mưa nắng dãi dầu, trên con
đường có bụi đất mịt mù hay lầy lội ướt trơn,
Thầy và các đồ đệ nhỏ đã oằn mình trên chiếc xe
đạp mong manh chở trầm hương, hay những bao lá
khuynh diệp, lá tràm khi không còn tiền mua trầm
về xay để làm nhang độ nhật và mua hoa đèn về
cúng Phật. Nửa đêm, Thầy còn đạp xe đạp, tay cầm
chiếc đèn pin, lang thang cùng khắp trên những
con đường ngập bùn xình để đi tìm đứa đệ tử xay
trầm chưa thấy trở về. Nhà máy cúp điện phải đi
xa hơn nữa và bánh xe bể lốp giữa đường đêm,
thật không còn sự chọn lựa nào, bởi cả thảy Thầy
trò bằng mọi cách phải có hương liệu để trộn vào
mọt cưa, lăn thành cây nhang trong buổi sớm mai,
sau đó phơi khô, gói lại đem đi bán. Cơm không
đủ no, áo không đủ ấm nhưng đó là những tháng
năm ấm nồng tình thương và đạo pháp mà Thầy đã
ban cho, đã dụng công dạy dỗ, luyện rèn các môn
đồ. Khi không còn khả năng mua được trầm hương,
Thầy đã tìm đến chùa Thiên Quang để xin hòa
thượng trụ trì lá cây khuynh diệp trong đất chùa
về làm hương liệu. Lá khuynh diệp rồi cũng hết,
xuôi bước chân Thầy đi xa hơn về phía Sông Lô,
nơi có rừng tràm bát ngát tỏa mùi hương dìu dịu.
Lá tràm khô xay nhuyễn trộn làm nhang. Con biết
thêm điều lạ, và cũng từ chính nơi Thầy, con học
hạnh nhẫn nhục và tinh tấn không ngừng, qua việc
làm độ nhật hằng ngày.
Bài học vỡ lòng cho con mở mắt, thấy mình là một
với thiên nhiên. Những nhọc nhằn trong công việc
hằng ngày như không thực có, bên cạnh Thầy và
cảnh trí nên thơ, hùng vĩ của Sông Lô. Biển pháp
mênh mông trước mặt. Bóng Thầy là dáng núi lặng
lờ, sừng sững uy nghi ở phía sau lưng như chở
che con từng mỗi phút giây. Thầy nghiêm như núi,
lòng bao la từ hòa như sóng biển rì rào. Con có
thể an tâm vừa làm việc vừa tận dụng không bỏ
sót một khoảnh khắc nào để tu tâp trong chánh
niệm. Thầy lặng yên mà như đang giảng cho con
nghe bài pháp không lời. Con chợt biết mình có
phước duyên rất lớn khi được cận kề bên cạnh ân
sư, tấm gương ngời sáng để con noi theo từ thuở
mới vào chùa và cho đến hết đời này.
Công hạnh và oai nghi Thầy thắp sáng, phật tử
tìm đến chùa ngày càng nhiều nên việc phật sự
càng trở nên bề bộn. Bên cạnh sự giáo dưỡng
nghiêm từ, Thầy không ngần ngại tạo cơ hội cho
đệ tử tham cầu, du học nơi xa, dù biết rằng mỗi
khi một đệ tử rời chùa, phần Thầy sẽ gánh vác
nhọc nhằn hơn. Quen nép dưới bóng Thầy như đứa
con nép bên bóng mát tình thương của người cha,
con nghĩ Thầy luôn cảm nhận được lòng quý kính,
thương yêu đáp lại, dù có thể Thầy không nhìn
Thấy giọt nước mắt âm thầm đọng lại, khi đứa học
trò từ biệt xa Thầy, xa ngôi chùa hằng ấp ủ
những năm tháng được cùng Thầy sẻ chia từng chút
khổ vui. Thầy ở lại sau khi giáo dưỡng và ươm
trồng hạnh nguyện, cho con làm hành trang tiếp
tục đi trên cuộc hành trình mà Thầy đã và đang
đi để tự độ và độ tha, giác ngộ và giải thoát.
Những trường lớp từ Phật học cơ bản, cho đến
trung cấp và cao cấp Phật học, đã đẩy đưa trôi
giạt đệ tử của Thầy xa mịt mù xa. Lòng con có
lúc thoáng ngậm ngùi, bởi không còn đường để trở
về thăm viếng, vấn an, kề cận chăm sóc Thầy khi
bệnh yếu.
Thầy kính thương,
Dù ở tận bên này bờ đại dương xa thẳm, mỗi lúc
nghĩ về Thầy con luôn thấy ấm lòng. Chạnh thương
Thầy với thân bệnh hoành hành, nhưng không ngừng
nghỉ trong nỗ lực kêu gọi, vận động xây dựng
nhằm phát triển và mở rộng ngôi chùa Thiên Phú
hầu phật tử có nơi tu học, tăng thân có chốn
nương thân, đem chánh pháp trao truyền lại cho
những người con Phật. Thầy cũng không quên việc
tổ chức gầy dựng gia đình Phật tử, tạo môi
trường cho những người trẻ gieo trồng hạt giống
bi, trí, dũng làm hành trang vào đời với đầy đủ
trí tuệ, từ bi. Tuệ Tĩnh Đường trong khuôn viên
chùa cũng được hình thành, để những người dân
nghèo quanh đó được khám bệnh và bốc thuốc hoàn
toàn miễn phí. Đôi tay thầy ngày càng yếu nhưng
chí nguyện Thầy bền vững, kiên trì để có được
ngôi chùa Thiên Phú rộng rãi, uy nghi giống ngày
nay. Tu viện Phước Sơn được hình thành vào năm
2000 cũng là do tâm nguyện hằng ấp ũ của Thầy,
để Phật tử quanh vùng có nơi quy tập, tìm về
nương tựa bên ngôi tam bảo. Từ đó những người
hữu duyên có cơ may được dắt dìu đi vào đạo lộ
của hành trình vượt qua bể khổ tử sinh.
Với 59 năm trụ thế, và 49 năm nhập đạo, Thầy
không ngừng cống hiến, phụng sự đạo pháp cho đến
giờ phút sau cùng dù thân bệnh hoành hành. Đạo
tràng Pháp Hoa từ đây vắng bóng Thầy, chúng đệ
tử chừng ngơ ngác, bởi quen chờ để được nghe
từng thời pháp của Thầy. Quyễn Kinh Nhật Tụng
Thầy biên soạn năm nào còn vang âm hưởng, làm
thương tiếc ngập lòng người ở lại mỗi khi đọc
tụng. Đường trần Thầy vắng bóng từ đây, nhưng
dưới mái chùa Thiên Phú Thầy vẫn luôn ngời sáng,
luôn hiện diện trong tâm tưởng của hàng đệ tử
xuất gia lẫn tại gia. Tháng Bảy, năm nhuần, muà
Vu lan báo hiếu con mất thầy vĩnh viễn từ đây.
Thầy kính thương,
Ngôi chùa Thiên Phú yêu thương hằng ấp ũ một
thời con nép dưới bóng Thầy, hay tu viên Phước
Sơn mà Thầy đã bỏ nhiều tâm sức ra gầy dựng,
dường như thoáng có, thoáng không. Với con, di
bút Thầy để lại là cả tấm lòng vì đạo pháp một
đời. Một đời hành đạo của Thầy gói ghém lại bấy
nhiêu cũng đủ cho con. Làm sao có thể đáp đền ơn
muôn một của ân sư đã giáo dưỡng cho con muôn
kiếp thoát tử sinh, làm ánh đuốc sáng dẫn đường
cho con tiến bước. Tủ kinh sách và chỗ ngủ đơn
sơ trong căn phòng nhỏ, là tất cả những gì Thầy
có bên mình trong cỏi tạm này. Chút trăn trở,
băn khoăn còn lại, Thầy bình thản an bài, sắp
xếp mọi điều để chúng đệ tử thừa hành, tiếp tục
sứ mạng truyền đăng tục diệm sau khi Thầy trả
lại báo thân.
Hướng về phương trời xa, một lạy này con kính
cẩn dâng Thầy. Ngưỡng nguyện noi gương ân sư con
sẽ vì lợi ích của muôn loài mà tu tập, hành trì
để tự độ và độ tha. Thầy dù ra đi nhưng mãi mãi
vẫn bên con, như dãi mây bạc thong dong qua bầu
trời rộng. Con tin rằng Thầy sẽ chọn sinh tử làm
chốn đi về, trong hạnh nguyện
hội nhập ta bà, phổ
độ quần sanh.
Nguyên Thảo
http://www.quynhmy.blogspot.com