Cảm tạ xứ Đức
Thích Như Điển
Phật lịch
2546 - 2002
Trung
tâm văn hóa xã hội Phật Giáo Việt Nam
---o0o---
Chương VIII
Vị trí của ngôi chùa Viên Giác tại Hannover
đối với người Việt cũng như người Đức
Chùa
Viên Giác là một ngôi chùa Việt Nam được xây dựng tại thành phố Hannover
thuộc Tiểu Bang Niedersachsen Bắc Đức, mà cũng có thể nói đây là ngôi chùa
đầu tiên của người ngoại quốc cũng như của người Đức xây dựng kể từ khi
Phật Giáo được du nhập vào nước Đức đến nay.
Thật ra cho đến năm
2002 là hơn 200 năm Phật Giáo có mặt tại đây và đã có gần 500 Hội Đoàn, Tổ
Chức Phật Giáo của người Đức cũng như của người ngoại quốc sinh hoạt;
nhưng chỉ có 2 ngôi chùa xây theo kiểu Á Đông và hoàn toàn mới là ngôi
chùa Viên Giác tại Hannover và ngôi chùa Nikko của người Nhật tại
Düsseldorf được xây dựng khoảng năm 1994. Còn đa số các chùa khác đều mua
hoặc thuê những lâu đài cũ, nhà ở hay nhà tư nhân để làm chùa. Ngay cả
ngôi nhà Phật Giáo tại Berlin (Buddhistisches Haus) được Dr. Dahlke hiến
dâng cho Phật Giáo Tích Lan từ đầu thế kỷ thứ 20; nhưng tại đây cũng là
một ngôi nhà biến thể, chứ không phải toàn diện được xây dựng thành như
một ngôi chùa.
Chùa Viên Giác ở tại
Tiểu Bang Niedersachsen. Do vậy cũng nên biết rõ thêm hơn về Tiểu Bang nầy
một chút, dẫu rằng trong chương trước đã có giới thiệu sơ qua. Tiểu Bang
hiện có 7.815.000 người đang sinh sống. Xem như 9,5 phần trăm dân số của
toàn Cộng Hòa Liên Bang Đức. Trong đó có 3.999.600 đàn bà; 3.815.500 đàn
ông và ngoại kiều chiếm tổng số là 476.700 người. Trong số nầy có
4.735.000 người theo Tin Lành giáo và 1.401.000 người theo Thiên Chúa
giáo. Đây là con số thống kê mới nhất vào ngày 18.6.2002 của Phủ Thủ Tướng
Tiểu Bang Niedersachsen.
Như vậy Tiểu Bang
nầy có số đàn bà nhiều hơn đàn ông và Tin Lành gấp 3 lần Thiên Chúa. Về
các đạo khác chưa có thống kê chính thức trong số gần nửa triệu người đó;
nhưng chắc chắn có lẽ là Hồi Giáo. Vì người Thổ Nhĩ Kỳ sống ở đây rất
đông. Tôi đang sao lục, tìm kiếm về tài liệu của người Việt Nam tại Tiểu
Bang nầy để thực hiện một chương trình công ích từ thiện rộng lớn cho toàn
Tiểu Bang và có thể trong tương lai cho cả Liên Bang nữa.
Chùa chúng ta chính
thức sinh hoạt từ năm 1978 tại đây; như vậy là đã 25 năm rồi. Chúng ta chỉ
còn 5 năm nữa là đủ điều kiện để được công nhận là một Tôn Giáo như nước
Ý, Áo đã thực hiện thành công. Trong vòng 5 năm đó Phật Tử Việt Nam, hoặc
Đức, hoặc bất cứ một người ngoại quốc nào ở tại Tiểu Bang nầy theo Phật
Giáo cũng được tính chung vào để chúng ta có được tư cách quyền công cộng
(Offenliches Rechts) như những tôn giáo khác.
Điều kiện đầu là cần
30 năm sinh hoạt.
Điều kiện thứ nhì là
có 1 phần ngàn người theo đạo. Nghĩa là phải có ít nhất là 7.800 người
Phật Tử chính thức ghi tên tuổi, ngày sinh, có địa chỉ, chữ ký và được
quyền sinh sống lâu dài tại đây. Số người ấy không phải là nhiều; nhưng sợ
5 năm nữa sẽ có người sinh sản thêm và đồng thời cũng có người mất đi. Do
đó chúng ta có thể tính sát suất thay đổi là 8.500 đến 9.000 người là tốt
nhất. Dĩ nhiên khi chính thức khai báo như thế, sau khi chúng ta được công
nhận chúng ta có nhiều quyền lợi và điều kiện hơn. Ví dụ con em của quý vị
có nhu cầu học giáo lý bằng tiếng Đức tại trường học; những ngày lễ của
Đạo Phật; sự chết chóc ma chay của các Phật Tử nơi nghĩa trang v.v... tất
cả đều có tính cách đại chúng hóa; nếu chúng ta được công nhận; nhưng với
điều kiện chúng ta phải liên kết hỗ trợ cho việc nầy thật chặt chẽ mới
thành công được. Khi chúng ta có quyền lợi, dĩ nhiên chúng ta cũng phải có
một số bổn phận. Bổn phận chi tiết như thế nào chúng tôi sẽ gởi đến quý vị
sau trong thời gian tới.
Điều kiện thứ ba là
có liên hệ tốt với Bộ Tài Chánh và Bộ Nội Vụ. Điều kiện nầy cho đến nay
sau 25 năm sinh hoạt, chúng ta được biết là rất tốt; không những liên hệ
bình thường với các Bộ nầy mà còn rất chặt chẽ nữa là đằng khác.
Đây là một công việc
lâu dài có tính cách lịch sử cho hằng trăm hàng ngàn năm về sau nầy. Chúng
tôi mong rằng quý vị Phật Tử không nên bỏ qua cơ hội đóng góp phần mình
vào sự lợi ích chung cho Đạo Pháp.
Theo thống kê ngày
31.12 năm 1996 của Phủ Thủ Tướng Tiểu Bang Niedersachsen, thì Tiểu Bang
nầy có những thành phố sống trên 100.000 dân như sau:
-
Hannover : 523.000 người
- Braunschweig :
251.000 "
-
Osnabrück : 167.000 "
-
Oldenburg : 114.000 "
-
Göttingen : 126.000 "
-
Wolfsburg : 125.000 "
-
Salzgitter : 117.000 "
- Hildesheim :
105.000 "
Chính quyền địa
phương của Tiểu Bang gồm có 4 nơi. Đó là:
- Braunschweig và
Vùng phụ cận : 1.678.000 dân
- Hannover và Vùng
phụ cận : 2.147.000 dân
- Lüneburg và Vùng
phụ cận : 1.616.000 dân, và
- Wesses - Ems
: 2.374 dân
Diện tích tổng cộng
của Niedersachsen là 47.609 kmỲ, chiếm tỷ lệ 13,3% của Cộng Hòa Liên Bang
Đức; trong đó có 29.700 kmỲ là diện tích nông nghiệp cho chăn nuôi và
trồng trọt. Ngoài ra còn có 9.850 kmỲ rừng. 2.850 kmỲ diện tích đất xây
dựng và mặt bằng còn trống. 2.250 kmỲ về giao thông; 10.000 kmỲ về vùng
cảnh trí được bảo trì và 1.300 kmỲ vùng thiên nhiên được bảo trì.
Về phương diện địa
lý của Tiểu Bang nầy được đo nơi điểm cao nhất cũng như thấp nhất như sau:
- Wurmberg
(Harz) : 971 m
- Bruchber
(Harz) : 927 m
- Achtermann
(Harz) : 925 m
- Freepsumer Meer
sâu : 2,3 m
- Wynhamster Kolb
sâu : 2,3 m
Tiểu Bang nầy cũng
có những con sông và kênh đào quan trọng như sau:
- Sông Weser (cùng
với Werra và Fulda) dài 378 km
- Sông Elbe dài 262
km
- Sông Ems dài 241
km
- Sông Line dài 211
km
- Con kênh đào giữa
Tiểu Bang dài 195 km
- Con kênh đào
Dortmund - Ems dài 147 km
- Con kênh đào Elbe
- Seiten dài 115 km
Ngoài ra tại Tiểu
Bang nầy cũng có những đầm và hồ được kể như sau:
- Steinhuder Meer
rộng 27 kmỲ
- Dümmer rộng 13 kmỲ
- Zwischenahner Meer
rộng 5,5 kmỲ
- Großes Meer rộng
2,6 kmỲ
- Okertalsperre rộng
2,3 kmỲ
- Granetalsperre
rộng 2,2 kmỲ
Phần bên trên thuộc
về dân số, đất đai, địa lý, sông ngòi, ao hồ v.v... sau đây xin đơn cử một
vài dữ liệu tương đối quan trọng để chúng ta có một cái nhìn cụ thể hơn.
Hiện tại (2002) Đảng
SPD có 47,9% số ghế trong Quốc Hội Tiểu Bang và có 83 Dân Biểu.
Đảng CDU chiến 35,9%
có 62 Dân Biểu.
Đảng Xanh chiếm 7%
và có 12 Dân Biểu.
Chính quyền trong
hiện tại do Đảng SPD cầm quyền và những nhiệm vụ được phân chia như sau:
- Thủ Tướng Tiểu
Bang : Sigmar Gabriel (SPD)
- Bộ Tài
Chánh : Heinrich Aller (SPD)
- Bộ Nội
Vụ :Heiner Nartling (SPD)
- Bộ Văn
Hóa :Jürgens-Pieper (SPD)
- Bộ Thực Phẩm, Nông
Nghiệp Lâm Sản : Uwe Bartels (SPD)
- Bộ Phụ Nữ, Lao
Động & Xã Hội: Dr. Gitta Trauernicht (SPD)
- Bộ Tư
Pháp : Dr. Christian Pfeiffer (SPD)
- Bộ Kinh Tế, Kỹ
Thuật và Giao Thông: Dr. Susanne Knorre (không đảng phái)
- Bộ Khoa Học và Văn
Hóa : Thomas Oppermann (SPD)
- Bộ Môi
Sinh : Wolfgang Jüttner (SPD)
- Bộ Liên Bang và Âu
Châu : Wolfgang Senff (SPD)
Ngoài ra cũng nên
biết về những vị Thủ Tướng Tiểu Bang tiền nhiệm như sau:
1946 -
1955 : Hinrich Wilhelm Kopf (SPD)
1955 -
1959 : Heinrich Hellwege (DP)
1959 -
1961 : Hinrich Wilhelm Kopf (SPD)
1961 -
1970 : Georg Diederichs (SPD)
1970 -
1976 : Alfred Kubel (SPD)
1976 -
1990 : Ernst Albrecht (CDU)
1990 -
1998 : Gerhard Schröder (SPD)
1998 -
1999 : Gerhard Glogowski (SPD)
và từ 1999 đến
nay : Sigmar Gabriel (SPD)
Trong 9 đời Thủ
Tướng Tiểu Bang chỉ có đời của Thủ Tướng Albrecht là cai trị lâu đời nhất;
nghĩa là 14 năm thuộc Đảng CDU. Còn Đảng SPD tuy chiếm đa số và lâu dài;
nhưng người cai trị lâu nhất trong 2 lần làm Thủ Tướng là Hinrich Wilhelm
Kopf cũng chỉ được 11 năm. Đặc biệt trong thời gian ông Dr. Ernst Albrecht
làm Thủ Tướng, ông ta chủ trương vớt người Việt Nam vượt biển tìm tự do.
Tôi đã có cơ hội 2 lần tiếp xúc trực tiếp với ông tại dinh Thủ Tướng và
một lần hai Ông Bà đến thăm chùa Viên Giác nhân một lễ Vu Lan cách đây mấy
năm.
Ngôi chùa Viên Giác
ngày nay đứng sừng sững tại số 6 đường Karlsruher, tại thành phố
Hannover, chiếm cứ một diện tích 4.000mỲ đất và 3.000mỲ diện tích xử dụng,
là nhờ ý tốt của ông cựu Thủ Tướng Tiểu Bang Albrecht không ít; nếu không
có ông lưu tâm vào thì chùa cũng khó mà nhận được giấy phép xây cất sớm
như thế. Hồi đó khi xây chùa mặc dầu Tiểu Bang Niedersachsen không giúp
cho được một khoản tài trợ nào; nhưng sổ xố Loto Lotto của Tiểu Bang đã
giúp chùa được 10.000 Đức Mã và suốt từ năm 1978 đến nay Bộ Văn Hóa Tiểu
Bang cũng đã chỉ giúp một lần năm 1979 để tổ chức lễ Phật Đản tại Bethoven
Saal độ hơn 10.000 Đức Mã. Tuy vậy công ơn của đất nước nầy, của Tiểu Bang
nầy chúng tôi không bao giờ quên cả.
Từ hướng
Messegelảnde quẹo mặt qua đường Karlsruher khách hành hương sẽ thấy có
bảng chỉ công cộng "Pagode Viên Giác" màu nâu. Như vậy ngôi chùa của chúng
ta cũng đã có nhiều người nhìn thấy bảng. Mặc dầu không có ý đi tìm chùa;
nhưng họ cũng sẽ gặp chùa. Còn những người có ý đi tìm thì trở nên dễ dàng
hơn.
Ngoài ra trong quyển
bản đồ thành phố Hannover xuất bản năm 2000 có ghi địa chỉ nơi chùa là một
dấu thánh giá và chú thêm "Tibetisches Buddhist-Zentrum". Thật sự ra khi
làm bản đồ, người vẽ không biết biểu hiệu ngôi chùa bằng dấu gì, nên cho
dấu thánh giá cho tiện. Đây là ngôi chùa Việt Nam chứ không phải là của
người Tây Tạng. Có lẽ họ thấy chùa là họ nghĩ về Phật Giáo Tây Tạng chăng?
Điều ấy cũng quý thôi! Vì lẽ họ có cơ hội để biết đến chữ Buddhismus hay
Buddhisten; chứ ngay cả bây giờ nhiều người Đức viết chữ Phật Tử hoặc Phật
Giáo đó chỉ có 1 chữ d, hoặc không có chữ h phía sau.
Trong chùa Viên Giác
cũng có một phòng nhỏ, tôi đã cho Hội Phật Giáo Chöling, gồm nhiều người
Đức theo Phật Giáo Tây Tạng sinh hoạt cả 7, 8 năm nay và năm 1995 Đức Đạt
Lai Lạt Ma cũng đã đến phòng nầy làm lễ cầu nguyện cho các Phật Tử Đức. Do
vậy mà cũng có người gọi đây là Trung Tâm của Phật Giáo Tây Tạng chăng ?
Tiện đây cũng xin
giải thích thêm mấy chữ như thế nào là một Niệm Phật Đường; thế nào là một
ngôi Chùa? thế nào là một Pagode? thế nào là một Tu Viện? thế nào là một
Đại Tòng Lâm?
Niệm Phật Đường là
nơi nhỏ dùng để cho ít người có thể đến đó ngồi tụng kinh hoặc niệm Phật.
Không nhất thiết phải to lớn, mà ngay cả tại tư gia cũng có thể biến thành
nơi thờ Phật trang nghiêm và có thể gọi là một Niệm Phật Đường. Nơi đây
cũng có thể có Tăng Ni trụ trì, mà cũng có thể là Cư Sĩ tại gia cũng có
quyền coi sóc cơ sở như thế.
Một ngôi Chùa, tiếng
Đức gọi là Tempel; tiếng Anh gọi là Temple. Chùa là nơi thờ Phật, lớn hơn
Niệm Phật Đường, chỗ dành cho người lui tới sinh hoạt định kỳ vào mỗi cuối
tuần hay ngày Rằm và Mồng Một. Đây phải là nơi công cộng, ai cũng có thể
đến để lễ bái, cầu nguyện, làm lễ cầu an, cầu siêu, cưới hỏi, ma chay, học
học giáo lý v.v...
Thế nào gọi là một
Pagode? Chữ Pagode người Việt Nam thường hay dùng để chỉ cho chùa; nhưng
thật ra không đúng hoàn toàn. Vì từ nầy tiếng Đức không có; nên phải vay
mượn của tiếng Pháp và tiếng Anh (Pagoda). Nếu tiếng Phạn thì gọi là
Stupa. Nghĩa là một ngôi tháp có nhiều tầng; nên gọi là Pagode. Có nhiều
chùa có cả Pagode; nhưng cũng có nhiều chùa không có tháp. Ngày nay có
nhiều người Đức vẫn còn nghĩ Pagode là một nhà hàng (Restaurant); nhưng
trên thực thế Pagode là nơi để thờ Xá Lợi của Phật chứ không phải để bán
đồ ăn. Nhiều hôm tôi đứng trước cổng chùa, có người Đức đến gặp và hỏi:
- Hôm nay có mở cửa
không ?
- Có chứ! Chùa lúc
nào cũng mở cửa từ 6 giờ sáng đến 10 giờ đêm. Tôi trả lời thế.
- Thế có bán không ?
Tôi bảo:
- Ở đây là chùa thờ
Phật của Phật Giáo chứ không phải nhà hàng. Nếu quý vị muốn đi dùng cơm
thì xin ra chỗ góc đường kia sẽ có tiệm.
Thế là họ lủi thủi
ra đi. Cũng có lần tờ báo địa phương của Mittelfeld chụp hình cái tháp của
chùa Viên Giác và ra câu đố, ai trả lời được đó là cái gì và nằm ở đâu?
Nếu ai đáp trúng sẽ được thưởng 35 Đức Mã. Tôi không biết là có bao nhiêu
người đáp đúng, mà chắc chắn sẽ có nhiều người nói đúng, nếu họ là những
Phật Tử Việt Nam hay đi chùa; hoặc những người Đức sống ở gần chùa thì sẽ
biết. Tiếc rằng hôm tôi nhận được tờ báo ấy thì đã trễ 2 ngày rồi; nhưng
nghĩ ra cũng vui vui. Vì người Đức cũng có những sáng kiến mới lạ và do
vậy mà ngôi chùa đã trở thành chỗ công cộng cho người Đức lẫn người Việt
lui tới lễ bái nguyện cầu.
Nếu quý vị mở máy
Computer lên và vào tìm xem chỗ Pagode Viên Giác hoặc Thích Như Điển thì
sẽ có nhiều tin tức, hình ảnh về chùa cũng như những bài thuyết trình của
tôi bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau; nếu quý vị muốn tra cứu, tham khảo.
Ngày nay cái gì trên máy computer cũng có; nếu có thiếu thì chỉ thiếu
thiện chí của con người mà thôi.
Tu Viện là gì ? Có
nhiều người nghĩ vào đó tức không được tiếp xúc với ai cả. Không nhất
thiết phải như vậy. Có lẽ bên Thiên Chúa giáo có những dòng tu kín như
thế; nhưng bên Phật Giáo Việt Nam thì rất hiếm; người Tăng sĩ hay Ni cô
đang sinh sống tại các Tu Viện hay Phật Học Viện là nơi có nhiều người, kể
từ số trăm trở đi. Họ cùng chấp tác chung, ở chung, tụng kinh chung, học
chung, tụng luật, bố tát chung v.v... nghĩa là cái gì cũng có tính cách
công cộng; nên gọi là Tu Viện. Nhiều khi gọi điện thoại cho người Đức,
xưng là tôi từ chùa (Pagode) Viên Giác gọi thì họ không hiểu, thế là chúng
tôi phải nói là Tu Viện (Kloster) Viên Giác thì họ hiểu ngay. Vì danh từ
nầy họ đã quen bao đời nay rồi với danh từ của Thiên Chúa, hoặc Tin Lành.
Còn Đại Tòng Lâm là
gì ? Đó là nơi tu học của chư Tăng Ni, không nhất thiết ở thành phố, mà
phải nằm xa thành thị. Nơi đó có thể là vùng núi non, vùng thung lũng và
chỗ ấy có thể ở, sinh hoạt, tu học cho cả mấy ngàn người chứ không phải
chỉ vài trăm người. Trong ấy vẫn có một ngôi chùa chính và nhiều ngôi chùa
phụ cũng như trường học để Tăng chúng học tập, tu luyện..
Tại Việt Nam, Trung
Quốc, Đại Hàn, Nhật Bản v.v... đều có nhiều danh từ để chỉ về một ngôi
chùa như thế. Còn trong ngôn ngữ tiếng Đức nầy nó chỉ có sự giới hạn của
nó và người Đức cũng khó phân biệt thế nào là một ngôi Chùa hay một Tu
Viện. Do vậy tôi đã giới thiệu qua một số nét căn bản để người Đức hoặc
các trẻ em Việt Nam sinh ra ở đây có cơ hội để biết rõ ngọn ngành hơn.
Nhiều người Đức cũng
đi chùa; nhưng mới đầu học còn bỡ ngỡ và khó gần gũi với nếp sống của
người Á Châu; nhưng dần dần rồi cũng quen đi. Ví dụ như vào chùa phải bỏ
giày dép bên ngoài; hoặc giả không được mặc y phục cao hơn đầu gối. Ngoài
ra sự cầu nguyện, lễ bái của người Á Châu động hơn và người Đức thường hay
thích tịnh. Tuy nhiên tất cả đều là thói quen và thời gian năm tháng người
ta sẽ tự nhiên thích hợp.
Đây là một ngôi chùa
Việt Nam được xây dựng đầu tiên ở xứ Đức và cũng có thể nói từ khi Đạo
Phật truyền vào xứ Đức nầy đã 200 năm rồi và đây cũng là ngôi chùa đầu
tiên được xây dựng theo lối kiến trúc kết nạp giữa Á và Âu; nên có nhiều
nét đặc thù. Khi một đứa bé con của một gia đình Việt Nam sinh ra và lớn
lên tại đây, chúng sẽ hãnh diện và tự hào là ông cha, tổ tiên của chúng đã
đến đây tỵ nạn bằng hai bàn tay trắng; chỉ có một ý chí cương quyết tạo
dựng một cuộc đời mới tại xứ Đức nầy; trong ấy đã xây dựng một ngôi chùa
tại đây. Chúng sẽ hãnh diện giới thiệu với bạn bè Việt và Đức của chúng là
nơi ngôi chùa Viên Giác ấy xứng đáng đại diện cho Văn Hóa Việt Nam và nếu
có ai muốn đến đó xem thì tại đó sẽ cung ứng những nhu cầu về tâm linh mà
họ cần hiểu biết. Người Việt lập nghiệp ở đây hơn 25 năm nên cơ sở thương
mại, kinh doanh, nhà hàng rất nhiều; nhưng đấy không phải là văn hóa của
dân tộc; nên những người trẻ không thể vào một nhà hàng bán thức ăn, hoặc
tiệm thực phẩm Á Châu bảo rằng: Đó là quê hương của tôi, là văn hóa của
dân tộc tôi đó. Thì đây là một sự sai lầm lớn vậy.
Người Việt ra đi đã
bỏ lại sau lưng tất cả và trong ấy có bỏ lại ngôi chùa. Do vậy mà sự nhớ
thương dằng dặc, bao giờ ngôi chùa cũng xuất hiện đầu tiên trong tâm trí
của họ. Thi sĩ Huyền Không, tức Hòa Thượng Thích Mãn Giác, cách đây 50 năm
đã làm một bài thơ Nhớ Chùa rất hay, đã diễn tả đúng tâm trạng của những
người xa quê khi hướng về lại nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Bài thơ ấy
nhan đề là :
Nhớ Chùa
Từ thuở ra đi vắng
bóng chùa
Đường đời đã nhọc
chuyện hơn thua
Trong tôi bừng dậy
niềm chua xót
Xao xuyến mơ về lại
cảnh xưa.
Đây là lối thơ thất
ngôn trường thiên. Nghĩa là mỗi câu 7 chữ và không nhất thiết bài thơ phải
dừng nơi 4 câu như những loại thơ Đường luật bị gò bó niêm luật, mà ở đây
gồm 9 đoạn, mỗi đoạn 4 câu như thế.
Con người khi xa quê
mong muốn làm nên một cái gì đó cho đời; nên phải bon chen với danh với
lợi, tranh đấu hơn thua để phần thắng được về mình; nhưng khi sực tỉnh
lại, thấy sao mà chua xót quá. Do vậy mới mơ màng nhớ lại cảnh cũ người
xưa, trong ấy có bóng dáng một ngôi chùa.
Thấp thoáng đâu đây
cảnh tượng làng
Có con đường đỏ chạy
lang thang
Có hàng tre gợi hồn
sông núi
Im lặng chùa tôi
ngập nắng vàng.
Cảnh cũ người xưa
đâu còn nữa; nhưng trên con đường đất đỏ chạy vào làng đó, hai bên có
những hàng tre thẳng tắp, đứng sừng sững với núi sông, tượng trưng cho
cuộc đời của người quân tử. Chỉ đơn giản thế thôi; nhưng là biểu tượng cho
làng tôi đấy và nơi đó dưới ánh nắng chói chang hay những chiều ta ảm đạm,
ngôi chùa vẫn im lìm trong cuộc sống trầm lặng của dân quê.
Có những cây mai
sống trọn đời
Bên hàng tùng bách
vẫn xanh tươi
Nhìn lên phảng phất
hương trầm tỏa
Đức Phật từ bi miệng
mỉm cười.
Thật là hạnh phúc
biết bao! Thật là hoan hỷ biết bao! trong tất cả hoàn cảnh, trong tất cả
nhịp điệu sống của dân làng đều có sự hiện diện của ngôi chùa; trong ấy có
Đức Phật dưới làn khói hương nhẹ tỏa, Ngài ngồi yên đó mỉm cười với cuộc
thế đổi thay từ bên trong lẫn bên ngoài bản thân của mỗi con người. Tuy
vậy trong vườn chùa kia có những cây mai sống rất lâu. Mỗi năm Đông đến
Xuân sang thì hoa mai đua sắc thắm để chào đón nàng Xuân, mặc cho gió Đông
có khe khắt. Ngoài những gốc mai già ra còn có những cây tùng và cây bách
vẫn sừng sững với gió sương, trơ gan cùng tuế nguyệt, chịu đựng với bao
nhiêu gian khổ khó khăn; nhưng lá vẫn xanh, cây vẫn thẳng, chịu đựng gian
khổ với thời tiết, với hoàn cảnh. Điều nầy cũng nói lên được ý chí của
những người ở lại quê, khi họ đã chấp nhận sống chết với lũy tre làng,
nương khoai, bờ giậu ấy.
Tôi nhớ làm sao
những buổi chiều
Lời kinh giải thoát
giọng cao siêu
Đây ngôi chùa cổ
ngày hai buổi
Cầu nguyện dân làng
sống mến yêu.
Dưới mái chùa hiền
hòa ấy có hình bóng của vị Sư già ngày 2 buổi với kinh kệ, mõ chuông, cầu
nguyện cho dân làng sống cho có hạnh phúc qua lời dạy của chư Phật, bỏ ác
làm lành, giữ tâm ý cho được thanh tịnh. Lời kinh tiếng kệ ấy như là những
tiếng vọng cao cả dội vào tâm tư của người dân, ngay cả những người đang
sống nơi viễn xứ. Lời kinh ấy cứ vang vọng mỗi ngày sớm chiều hai buổi,
khiến cho khách trần ai tục lụy cũng phải hướng về cảnh giới giải thoát
nhiệm mầu để tu thân tích đức.
Vì vậy làng tôi sống
thái bình
Sớm khuya gần gũi
tiếng chuông linh
Sắn khoai gạo bắp
nuôi dân xóm
Xây dựng tương lai
xứ sở mình.
Cuộc sống nông thôn
rất đơn giản; chỉ có gạo, khoai, sắn, bắp, rau cải chứ có gì đâu; nhưng
trong từng vi sinh vật ấy được sinh trưởng, lớn lên tại làng quê kia có
mục đích rõ ràng là tô bồi cho quê hương xứ sở cho đẹp đẽ, mà muốn thế
phải nương theo sự cầu nguyện, nương theo chuông mõ, linh tang, gõ nhịp
vào thành trống, thành chuông để gióng lên bao hồi chuông cảnh tỉnh. Để từ
đó con người sống trọn vẹn trong cảnh thái bình an lạc. Sự yên ổn đó không
phải tự nhiên mà nó có. Đó là do sự cầu nguyện, do ý chí mong cầu. Do sự
hướng về Đấng Toàn Giác. Do tâm nguyện ấy mà đời sống của mọi người trong
thôn trở nên an lạc.
Mỗi tối dân quê đón
gió lành
Khắp chùa dào dạt
ánh trăng thanh
Tiếng chuông thức
tỉnh lan xa mãi
An ủi dân hiền mọi
mái tranh.
Đời sống của nông
dân rất là hồn nhiên chất phác. Cật lực làm lụng suốt ngày để có miếng
cơm, manh áo, tối về tắm rửa sạch sẽ, sau đó cơm nước và dẫn vợ con lên
chùa để ngắm trăng. Vì sao vậy? Vì tại chùa bao giờ cũng có cây to bóng
mát. Xuyên qua ngàn cây nội cỏ đó, ánh trăng rằm sẽ dọi chiếu khắp đó đây
trở nên muôn hồng ngàn tía hòa lẫn với tiếng chuông ngân nga như đem mùi
Thiền làm nên cảnh vật của thiên nhiên. Khiến người nông dân thư thái,
hạnh phúc vô cùng. Đây là niềm an ủi, một sự động viên không phải dùng
thuốc uống để chữa lành bệnh tật mà tất cả đều khởi đi từ chỗ tâm hướng
thượng của mỗi con người.
Trầm đốt hương xông
thơm ngạt ngào
Thôn trên xóm dưới
dạ nao nao
Dân làng tắm gội lên
chùa lễ
Mười bốn, ba mươi
mỗi tối vào.
Đến ngày sám hối vào
tối 14 âm lịch hoặc tối 30. Mỗi tháng 2 lần như thế sau khi cơm nước tắm
gội, vợ chồng con cái cả nhà lên chùa với sản phẩm trong vườn như rau,
chuối, đậu, mè mang lên chùa để cúng dường Sư cụ và thập phương bá tánh.
Đây là tâm nguyện của dân làng khi đi chùa lễ Phật. Cho nên ai ai cũng nôn
nao trông cho đến những ngày trọng đại ấy để mà lên chùa dâng hoa hương
cúng Phật và dầm mình vào trong trầm hương khói tỏa, để như thấy mình cũng
được sám hối những tội lỗi từ lâu đời, lâu kiếp đã gây ra.
Biết đến bao giờ trở
lại quê
Phù vân lòng gởi nhớ
nhung về
Tang thương dù có
bao nhiêu nữa
Cũng nguyện cho chùa
khỏi tái tê.
Ngôi chùa với phong
sương cùng tuế nguyệt ấy, với thời gian năm tháng chất chồng, với chiến
tranh đổ nát, với sương gió phũ phàng, chắc chắn phải có ảnh hưởng; nhưng
trong tâm trạng của kẻ xa quê vẫn muốn rằng những hình ảnh của năm xưa,
một ngôi chùa hiền hòa yên tĩnh tọa lạc trong một ngôi làng và trong tâm
thức của người xa quê như thế cũng mong rằng không bị ảnh hưởng gì nặng nề
cả. Vì ngôi chùa trong lòng người xa xứ là cả một bầu trời, một đất nước,
một quê hương. Chưa biết là bao giờ mới có thể trở lại thăm quê; nhưng
mong rằng ngôi chùa trong lòng của tuổi ấu thơ ấy vẫn còn mãi mãi nơi tâm
thức của người xa quê.
Chuông vẳng nơi nao
nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ
chùa chung
Mái chùa che chỡ hồn
dân tộc
Nếp sống muốn đời
của Tổ Tông.
Thật là tuyệt vời!
Thật là vi diệu khi bên tai mình văng vẳng đâu đây tiếng chuông và nhiều
tiếng chuông liên tục như thế vọng ra từ một ngôi chùa cho nên mình đã
thức tỉnh và nhớ lại chùa xưa. Ai là người đã ra đi, chắc chắn không bao
giờ quên được ngôi chùa ấy. Vì sao vậy? Vì lẽ mái chùa kia đã che chở hồn
dân tộc qua bao nhiêu năm tháng chất chồng, qua các triều đại thịnh suy
của dân tộc; che chở hết tất cả những muộn phiền của thế sự đổi thay và
đó, đó chính là nếp sống nghìn đời của ông bà, cha mẹ ta trong tinh thần
của Phật Giáo vậy.
Chỉ một bài thơ 36
câu gồm 9 đoạn thôi, mà đã diễn tả được tất cả hình ảnh của một ngôi chùa
đối với bên trong của nội tâm qua bao thăng trầm của thế sự cũng như đối
với những hoàn cảnh đổi thay ở bên ngoài của cảnh vật, của đất nước quê
hương. Thật ra tác giả đã gởi gắm tâm sự của mình vào đây khi xa quê và
hình ảnh ngôi chùa ấy tại một làng quê hẻo lánh tại nơi chôn nhau cắt rốn
đã chiếm trọn vẹn cuộc đời và tuổi thơ của tác giả. Hai câu thơ cuối là 2
câu quan trọng nhất. Đã là người Việt Nam, không nhất thiết là có đạo hay
không có đạo. Tất cả đều được và bị ảnh hưởng bởi tiếng chuông chùa. Trong
dân tộc Việt ấy dĩ nhiên là có nhiều tín ngưỡng khác nhau nữa; nhưng mái
chùa ở đây đã phủ kín mọi khuynh hướng tôn giáo, để tất cả cùng nhau xây
dựng cho một dân tộc Việt Nam sớm thanh bình thịnh vượng.
Còn tôi ? sau 30 năm
xa xứ, ngôi chùa ấy luôn luôn hiện hữu trong tâm thức và hôm nay đã làm
trụ trì ngôi chùa nầy đã 25 năm rồi; nên có rất nhiều kỷ niệm. Tuy đây
không phải là một làng quê hẻo lánh như ở Việt Nam; nhưng hình ảnh từ bi
của Đức Phật thì ở đâu cũng tương tự như vậy. Không biết một mai đây tôi
về với Phật hoặc đi nước khác, có lúc nào đó tôi rảnh rỗi ngồi lại để nhớ
và nghĩ về ngôi chùa Viên Giác nầy suốt 25 năm qua hay còn nhiều năm sau
đó nữa, về những kỷ niệm thân thương, vui buồn, an ổn, nhiều vấn đề v.v...
để rồi chính ngôi chùa trong tâm thức đó sẽ hiện về như tác giả Huyền
Không đã mô tả chăng ?
Tôi không phân biệt
người Phật Tử theo tông nầy hay tông khác, nước nầy hay nước kia. Có người
nói tôi theo Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada); có người nói tôi theo Phật
Giáo Đại Thừa (Mahayana) nhưng với tôi trên bình diện tâm thức, không phân
biệt là Đại hay Tiểu, lớn hay nhỏ, cao hay thấp, mà tôi chỉ có một thừa để
theo. Đó là Phật thừa (Buddhayana) mà thôi. Tại chùa Viên Giác nầy có
nhiều phái đến sinh hoạt. Ví dụ như Thiền của Nhật Bản, Phật Giáo Đại Hàn,
Phật Giáo Thái Lan, Phật Giáo Tây Tạng, Phật Giáo Đức, Phật Giáo Mỹ và dĩ
nhiên là Phật Giáo Việt Nam, tất cả đều cùng sinh hoạt chung dưới mái chùa
nầy và không có một vấn đề gì bị kỳ thị về tông phái đã xảy ra cả. Tôi còn
cố vấn giúp đỡ cho những Hội mới thành lập, như Hội Phật Giáo Phật Quang
Sơn tại Berlin chẳng hạn. Lúc mới bắt đầu, dầu cho những người Phật Tử ở
đây lâu năm cũng không biết nên làm sao. Do vậy tôi đã chỉ vẽ cho cách lập
Hội, bản nội quy, sau đó đi khai báo ở Tòa Án và cuối cùng phải qua Sở Tài
Chánh để có được tư cách từ thiện công ích (Gemeinnütziger). So ra như vậy
tôi đã chẳng có phân biệt để giúp cho những ai, hoặc những hội nào cần cố
vấn trong vấn đề giấy tờ hợp pháp của tôn giáo đối với xã hội nầy.
Ở Việt Nam hay các
xã hội Á Châu luật pháp về tôn giáo ít hơn. Vì nhiều khi một ngôi chùa tại
làng đó đã có trước, sau đấy cả 100 năm ngôi làng ấy mới thành hình. Do
vậy mà vị trí của ngôi chùa ấy cũng là một vị trí độc tôn, khỏi cần phải
xin phép ai và xin phép cái gì cả. Còn ở đây, tất cả đều luật pháp, tất cả
đều giấy tờ, chứng từ, xuất nhập, chi tiêu v.v... thật sự ra không phải là
vấn đề rắc rối; nhưng đó là vấn đề hành chánh và vấn đề điều hành cơ sở ở
các nước Tây phương nầy cũng phải biết qua, hay nói đúng hơn là biết rành
về luật pháp lại tốt hơn nữa.
Lời Kết
Cộng Hòa Liên Bang
Đức được thành lập năm 1949 và năm đó cũng là năm ra đời của tôi. Chẳng
biết có nhân duyên gì với nước Đức không, mà tôi đã đến đây và đã ở đây
cho đến hôm nay (2002) là 25 năm rồi. Trong 25 năm đó cuộc đời tôi cũng
lắm đổi thay, mà nước Đức nầy cũng có rất nhiều thay đổi. Miền Đông Đức
theo chế độ Cộng Sản và ngày 7.10.1949 chính quyền tại đây được thành lập.
Sau bao nhiêu năm thống trị, bức màn sắt càng ngày càng khép kín giữa Đông
Tây, khi bức tường ô nhục Berlin được xây dựng từ năm 1960 và vào ngày 9
tháng 11 năm 1989 bức tường đã bị chính nhân dân Đông Đức phá bỏ cũng đồng
thời có nghĩa là phá bỏ chủ nghĩa Cộng Sản để trở thành hòa hợp thống nhất
với thế giới tự do.
Sau 40 năm sống với
Cộng Sản người dân Đông Đức hay Đông Âu và Nga Sô đã thấm mệt, họ muốn sửa
đổi, cải cách. Họ tự bỏ phiếu bằng bước chân đi tìm tự do của họ và chúng
tôi cũng thế, những người Việt Nam cũng đã ra đi tìm tự do từ ngày 30
tháng 4 năm 1975. Họ không ở lại nơi quê hương của họ, như người Đức đã ở
lại để hít thở không khí tự do nầy mà họ phải ra đi. Ra đi không định
hướng, chỉ nhắm vào tấm lòng nhân đạo của thế giới nầy mà thôi. Từ đó đến
nay đã có gần 3 triệu người đã bỏ nước ra đi và chỉ còn sống sót lại hơn 2
triệu đang định cư gần 150 quốc gia trên thế giới. Còn bao nhiêu là làm
mồi ngon cho thú dữ của rừng thiên, làm thức ăn cho cá ngoài biển cả khi
lênh đênh trên biển nhiều ngày mà không có tàu nào cứu vớt. Do sóng to gió
lớn bị chìm tàu, những oan hồn ấy vẫn còn vất vưỡng đâu đây. Do vậy năm
1991 khi khánh thành Chùa Viên Giác, chúng tôi có làm một Lễ Vớt Vong nơi
biển Hamburg và đem những vong linh ấy về siêu độ chẩn tế cho họ. Cầu
nguyện cho những người thân cũng như không thân thuộc khi ra đi tìm tự do
chẳng may bị tử nạn.
Khi bức tường Đông
Tây Bá Linh và Tây Đức còn hiện hữu mỗi năm cũng đã có biết bao nhiêu
người từ Đông đã vượt sang Tây. Có người may mắn thì còn sống sót để đoàn
tụ với tự do. Nếu ai đó chẳng may thì cũng là nạn nhân của lính biên phòng
Đông Đức. Từ trước năm 1989 nếu ai đó có lần viếng thăm Berlin, nơi Tòa
Nhà Quốc Hội bây giờ có chôn hoặc có những bia đá để tưởng niệm những
người xấu số vượt biên qua Tây Bá Linh chỉ bằng con sông nhỏ; nhưng bị
lính Đông Đức phát hiện và bắn chết. Họ bắn người đi tìm tự do cũng có
nghĩa là họ đã phá hoại sự tự do rồi đó. Một điều đáng lưu tâm là từ bên
Đông tìm sang bên Tây để tỵ nạn thì có rất nhiều người; mà từ bên Tây tìm
qua bên Đông Đức để sống thuở ấy, hầu như không có ai. Cũng như thế đó
ngày 20 tháng 7 năm 1954 Việt Nam bị chia đôi đất nước, phân nửa miền Bắc
thuộc chế độ Cộng Sản và phân nửa miền Nam thuộc chế độ Quốc Gia. Đã có
hơn 1 triệu người từ Bắc di cư vào Nam năm 1954 để tìm tự do và hầu như
sau đó, không có người miền Nam Việt Nam nào tự nguyện ra miền Bắc để sinh
sống cả. Điều đó chứng tỏ rằng những chủ nghĩa độc tài dầu cho Đông hay
Tây cũng đều giống nhau; nhưng nơi thiên đường phát sinh ra chủ nghĩa ấy
là Liên Xô qua 70 năm kinh qua với chủ nghĩa Cộng Sản họ cũng đã dẹp rồi.
Ngày nay trên thế giới chỉ còn 4, 5 nước trong đó có Cộng Sản Việt Nam;
nhưng Trung Quốc đã đổi màu thì Việt Nam cũng theo chủ trương ấy mà thay
đổi để được tồn tại.
Miền Nam Việt Nam đã
không giữ vững được thành trì của tự do, chỉ tồn tại gần 21 năm
(1954-1975), trong khi đó Đại Hàn đang giữ vững (1950 đến nay) hơn 50 năm,
và nước Đức đã tiên phong dùng tự do để phủ kín những dị biệt của Đông Tây
sau hơn 40 năm người Đức sống trong xã hội độc tài, Đảng trị ấy. Honecker
là một người có uy quyền tuyệt đối; nhưng sau khi nước Đức thống nhất rồi
cũng phải lưu vong ra ngoại quốc và cuối đời cũng phải chết đơn côi tại
ngoại quốc mà thôi. Danh lợi, địa vị như thế mà cuối cùng chỉ 3 tấc đất là
cùng. Xác cũng không được chôn trên quê hương của mình. Do vậy ai ai rồi
cũng phải hiểu sự vô thường là thế. Vì là nhân duyên hòa hợp thì tồn tại;
nhân duyên không còn hội ngộ nữa thì chia ly, phân tán v.v... Chắc có lẽ
ông Honecker cũng không nghĩ rằng mình phải lưu vong và phải chết như thế.
Không biết trong tâm tư ông có một ngôi nhà thờ, một vị Linh mục nào để
ông nghĩ đến không? Nếu chẳng có gì cả hóa ra tạo hóa và cái chủ nghĩa kia
vô tình bạc bẽo quá.
Trong khi đó tại Tây
Đức nầy đã thành lập một chính quyền Liên Bang dân chủ và từ năm 1949 đến
nay đã trải qua các đời Tổng Thống như sau:
- Ông Theodor Heuss
(FDP) 1949-1959
- Ông Heinrich Lübke
(CDU) 1959-1969
- Ông Gustav
Heinemann (SPD) 1969-1974
- Ông Walter Scheel
(FDP) 1974-1979
- Ông Carl Carstens
(CDU) 1979-1984
- Ông Richard v.
Weizsảcker (CDU) 1984-1994
- Ông Roman Herzog
(CDU) 1994-1998
- Ông Johannes Rau
(SPD) (1998 - ).
Tuy tại nước Đức,
Tổng Thống không có quyền như ở Pháp và tại Việt Nam thuở trước. Nhưng
Tổng Thống là đại biểu tinh thần của quốc gia nên cũng rất quan trọng.
Trong 8 vị Tổng Thống nầy chỉ có ông Dr. Richard v. Weizsảcker là người
gần gũi với Phật Giáo nhất. Vì mỗi lần Đức Đạt Lai Lạt Ma sang thăm Đức là
ông tiếp kiến rất trọng thể. Dĩ nhiên đây là phép ngoại giao của quốc gia;
nhưng phải thấy rằng không có cảm tình với triết học và Phật Giáo thì đã
không có những buổi tiếp kiến như thế.
Từ năm 1949 đến nay
nước Đức đã trải qua 7 đời Thủ Tướng. Như vậy trong hơn 50 năm ấy chia đều
cho 7, thì mỗi vị làm Thủ Tướng độ 2 nhiệm kỳ; nghĩa là 8 năm; nhưng có vị
làm rất ít như ông Ludwig Erhard (1963-1966) hoặc ông Kurt Georg Kiesinger
(1966-1969); nhưng cũng có vị làm 15 năm như ông Willy Brandt (1969-1974)
hoặc ông Helmut Kohl là Thủ Tướng từ năm 1982 đến 1998, như vậy tổng cộng
là 16 năm của 4 lần bầu cử. Sau đây là nhiệm kỳ của những vị Thủ Tướng
tiền nhiệm:
- Ông Konrad
Adenauer (CDU) 1949-1963)
- Ông Ludwig Erhard
(CDU) 1963-1966
- Ông Kurt Georg
Kiesinger (CDU) 1966-1969
- Ông Willy Brandt
(SPD) 1969-1974
- Ông Helmut Schmidt
(SPD) 1974-1982
- Ông Helmut Kohl
(CDU) 1982-1998
- Ông Gerhard
Schröder (SPD) (1998 - ).
Trong đời ông
Schmidt làm Thủ Tướng ông cũng đã cứu vớt cả gần 60.000 người tỵ nạn Việt
Nam đến Tây Đức để sinh sống. Trong đó có ông Dr. Neudeckt đã dùng chiếc
tàu Cap Anamur để đi vớt người trên biển Đông và mang về Tây Đức. Có thể
rằng thế hệ thứ 2 và thứ 3 của người Việt Nam sinh ra tại nước Đức nầy
chúng sẽ quên đi những thảm trạng vượt biển đi tìm tự do của cha mẹ chúng
hay của chính bản thân chúng. Do vậy mà những người đi trước cần phải viết
lại những trang sử bi đát, đau thương của dân tộc Việt Nam do Cộng Sản trị
vì nên mới ra nông nỗi ấy. Cũng như người Đức thỉnh thoảng vẫn chiếu trên
truyền hình cảnh những trại tập trung trong thời Hitler độc ác, man rợ như
thế nào, để lớp trẻ sinh sau đẻ muộn tại ngay chính quê hương nầy, lấy đó
làm một bài học nhân bản cho cuộc đời và cái giá để phải đối diện với
người Do Thái do ông cha ta gây ra và để lại.
Đường đường là một
vị Thủ Tướng của nước Đức, là người cha của tự do, đã có công thống nhất
nước Đức như Thủ Tướng Kohl; nhưng một cái hư danh, một sự mờ tối nào đó
đã làm cho ông mất hết chân đứng cũng như biểu tượng của nước Đức nầy. Quả
thật cuộc đời nầy rất khó nói và khó xác định. Vì cái đúng của ngày hôm
qua có thể là cái sai của ngày mai và cái sai của ngày hôm qua là cái đúng
của ngày hôm nay. Ví dụ trường hợp giữa Mỹ, Nga, Trung Cộng thì rõ. Cách
đây 30 năm không ai có thể nghĩ rằng ngày nay những cường quốc ấy có thể
bắt tay với nhau. Vì vậy cho nên Đức Phật nói rằng: Tất cả các pháp đều
chỉ có tính cách giả định. Không nên tin hoàn toàn vào đó, mà phải thể
nghiệm qua bản thân của mình mới có thể chấp nhận. Đức Phật là một nhà dân
chủ, là một người sống trên nhân cách của một con người; nên trên 2500 năm
vẫn còn là tấm gương đạo đức sáng giá cho nhân loại và tín đồ noi chung.
Thông thường trong
cuộc sống chúng ta thường hay ỷ lại vào thời gian, nghĩ rằng mình còn trẻ
chưa già, lo gì học hỏi hoặc làm việc. Nghĩ như thế là sai. Vì thời gian
và thủy triều không đợi chờ ai cả. Nó vô tình lắm; khi thời gian đến, nó
sẽ đi, nó sẽ mang theo biết bao nhiêu sự tiếc nuối ngậm ngùi của những
công việc dở dang chưa làm xong, mà phải đi vào trong lòng đất lạnh. Thủy
triều mỗi ngày lên xuống 2 lần và đâu có lần nào giống lần nào đâu. Đã như
vậy mà thủy triều của ngày hôm qua không phải là thủy triều của ngày mai
hoặc của ngày hôm nay. Do vậy phải tận dụng hết khả năng của mình đang có
để mà tu, mà học, mà hành.
Chúng ta cũng hay bị
hoàn cảnh chung quanh chuyển đổi mình; chứ ít khi mình chuyển đổi được
hoàn cảnh. Ví dụ như World Cup năm 2002 về đá banh tại Đại Hàn và Nhật Bản
trong tháng 6 năm 2002 là một điển hình. Từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, Úc
hay nhẫn đến Châu Phi đi nữa, bất luận là giờ nào, ai cũng muốn xem trực
tiếp những trận đá như thế. Tại Âu Châu giờ đá banh tại Đại Hàn hoặc Nhật
Bản bắt đầu từ 1 giờ 30 trưa; không biết tại Úc Châu là mấy giờ. Có lẽ là
nửa đêm. Ở đây chắc cũng có lắm người phải thức thật khuya để xem cho hết
trận đá; ngày mai vào sở làm mắt nhắm mắt mở và các bạn đồng nghiệp cũng
chỉ xoay quanh câu chuyện bóng đá mà thôi. Ở Á Châu thì cách chỉ mấy tiếng
đồng hồ; nên không phải thức khuya. Tuy nhiên tại Việt Nam giờ ấy là giờ
đi Tịnh Độ của các chùa và mùa nầy là mùa an cư kiết hạ nữa, cũng không
thể thiếu những vị Trưởng Lão, những Thượng Tọa bỏ giờ giảng dạy để xem đá
banh. Chánh điện sẽ trống vắng. Vì nhiều Thầy trẻ, nhiều Cô trẻ cũng ham
môn thể thao nầy lắm. Còn Phi Châu hoặc Mỹ Châu chắc chắn cũng phải xem
trong những giờ ngủ hoặc giờ làm việc, để rồi công chuyện bê trễ và cả thế
giới nầy mấy tỷ người cũng chỉ hướng về có một trái banh thôi. Đành rằng
thể thao là tinh thần cao độ trong nhiều cách đấu tranh khác nhau của thế
giới ngày nay; nhưng không vì thế mà bê trễ mọi chuyện. Ngày xưa thế giới
cạnh tranh với nhau về súng đạn, tàu chiến, xe tăng v.v... rồi sau đó là
kinh tế. Bây giờ là bóng bàn, quần vợt, đá bóng v.v... Dĩ nhiên là còn
nhiều màn hấp dẫn khác nữa sẽ được diễn ra trong thế kỷ nầy hoặc thế kỷ
tới, chứ những cuộc chơi như thế không dừng lại đây.
Tôi không chống lại
việc ấy; nhưng có điều phải thành thật nói rằng nó ít thích hợp với mình.
Chỉ đơn giản có thế thôi và nhiều khi nếu tôi quan tâm, tôi chỉ cần biết
kết quả là đủ rồi, không có thì giờ đâu cả một tháng để theo dõi tất cả
các trận đá, mà nếu tôi để thời giờ đó để làm việc như viết sách, dịch
kinh thì đã được mấy trăm trang rồi. Đó là ý kiến bảo thủ của mình, sẽ có
nhiều người cười, bảo rằng: Thầy xưa quá, ngày nay đàn bà, con gái còn đá
banh, còn Thầy thì vẫn chưa ra khỏi cái thành kiến về trái banh đó! Trách
như vậy tôi cũng đành chịu thôi. Có nhiều người không thích nên cũng có
nhiều lý do để biện hộ lại quan điểm của họ. Có người bảo rằng: mấy chục
người mà chỉ giành nhau có một trái banh, tại sao không mua mỗi người mỗi
trái đá cho nó khỏe? Họ nói tiếp: Thế giới mấy tỷ người cũng bị lặn hụp
vào trong trận tranh tài ấy, há không uổng phí thì giờ sao? Đó là lập luận
của người không thích. Còn người thích đá banh thì có muôn ngàn cách để
biện hộ. Ví dụ như cá độ với nhau đội nào thua, đội nào thắng rồi sát phạt
nhau bằng tiền bạc, đãi nhau thù tạc v.v...
Ngay tại chùa Viên
Giác nầy nhiều khi cũng phải hỏi cho rõ giờ tranh tài của các đội đá bóng
để sắp giờ học, giờ tụng kinh đừng trùng vào. Đôi khi phải học hoặc tụng
kinh trễ 15 phút để cho một số quý Thầy, quý Chú thích xem đá banh thì hãy
xem cho trọn hiệp. Thế là tùy thuận rồi còn gì nữa. Tuy tôi không ham mê
đá banh; nhưng tôi đã giúp người thích môn thể thao nầy được như ý. Chỉ
đơn thuần thôi. Cách đây 1.500 năm về trước có câu chuyện giữa Ngài Lục Tổ
Huệ Năng và Ngài Pháp Đạt cũng hay hay. Xin chép ra đây để làm quà cho quý
vị nhân mùa đá bóng nầy.
"Ngài Pháp Đạt đến
đảnh lễ Ngài Huệ Năng; nhưng khi lễ, đầu không sát đất. Lúc ấy Ngài Huệ
Năng mới hỏi Pháp Đạt rằng:
- Cớ sao lễ mà đầu
không sát đất; nếu vậy đừng lễ vẫn hơn. Hay là trong tâm ông đang có vật
gì, mà ông đang chứa chấp đấy?
Pháp Đạt thưa rằng:
- Con tụng kinh Pháp
Hoa đến ba ngàn bộ.
Ý nói rằng ba ngàn
bộ kinh ấy rất quan trọng hơn cái lễ kia và tỏ ý không tôn trọng Lục Tổ,
vì công đức tụng kinh của Ngài Pháp Đạt nhiều hơn.
Đoạn Ngài Huệ Năng
mới nói rằng:
- Ông đã tụng Pháp
Hoa 3.000 bộ; nhưng từ xưa đến nay chưa từng chuyển Pháp Hoa mà để cho
Pháp Hoa chuyển cho nên mới ra nông nỗi ấy.
Pháp Đạt quỳ xuống
đảnh lễ sát đất Ngài Huệ Năng và lãnh hội tâm thiền ấy".
Chỉ một câu nói liễu
đạo thôi, đã làm rung chuyển cả một bầu trời tâm thức của Pháp Đạt khi trì
tụng 3.000 bộ Pháp Hoa kia. Ở đây cũng thế xem bóng đá làm sao chuyển được
việc đá bóng kia mới quý, chứ để bóng đá chuyển mình thì quả là điều còn
đối đãi trong vòng tương đối của thế gian vậy.
Ngày hôm qua đây
(25.6.2002) nhằm ngày Rằm tháng Năm năm Nhâm Ngọ, đội tuyển Đại Hàn (nước
chủ nhà) đấu với đội tuyển nước Đức để vào vòng chung kết vào chủ nhật
(30.6.2002) tới đây. Kết quả là Đại Hàn thua Đức 0-1. Người Đức thì hể hả
tại vận động trường và ngay tại quê hương nầy. Nào pháo bông, rượu
champagne mở nút, tiếng hò hét, tiếng còi hụ xe hơi ngoài đường làm rung
chuyển cả màn đêm. Trong khi đó người Đại Hàn thì tiu nghĩu. Vì nghĩ rằng
mình có thể thắng Đức để đi vào vòng chung kết. Mà nghĩ cũng lạ, từ xưa
đến nay chưa có một nước Á Châu nào được vào vòng tứ kết; nay thì đã có
Đại Hàn. Do vậy mà nhiều người Á Châu ủng hộ Đại Hàn lắm. Họ lý luận rằng:
Đại Hàn đứng hàng thứ 40 mà nay đã qua mặt thế giới như thế là giỏi quá,
nếu kỳ nầy mà vào chung kết nữa thì thôi khỏi nói!
Mong đợi là một
chuyện, mà nhân duyên, may rủi là một chuyện khác. Đến khi hết giờ các anh
em công quả tiu nghĩu bảo rằng: Đại Hàn thua rồi thật uổng! Tôi hỏi tại
sao mình đang ở Đức mà không hỗ trợ Đức lại đi hỗ trợ Đại Hàn? Có người
bảo: Đức chỉ gặp hên thôi, chứ đá không đẹp như Đại Hàn - là những người
trẻ, đá rất hăng!
Tôi bảo: Đó là thể
diện quốc gia của người Đức mà, chắc chắn là họ không chịu khuất phục đâu.
Nghĩ lại cho cùng: Đại Hàn cũng bị chia đôi đất nước như Việt Nam; nhưng
Nam Hàn trong hiện tại không cần ai hỗ trợ, họ vẫn có thể tự lực tự cường
vực nền kinh tế đứng dậy, ngang hàng với nhiều nước tại Á Châu. Có khi nay
mai họ còn qua mặt Nhật Bản nữa. Vì họ tự ái dân tộc. Đọc lịch sử ta thấy
lúc đệ nhị thế chiến (1939-1945) khi người Nhật đánh chiếm và cai trị
Trung Quốc, Đài Loan, Đại Hàn, Việt Nam v.v... người Nhật rất tàn ác, cứ 3
nhà người Đại Hàn mới được dùng chung một con dao và còn nhiều thủ đoạn
khác nữa. Vì vậy họ sợ người Đại Hàn chống lại quân đội Nhật. Do vậy mà
người Đại Hàn ngày nay rất ghét Nhật; ít có thiện cảm với người Nhật và
ngay cả người Đài Loan, Trung Quốc cũng vậy. Thế hệ sinh trước năm 1930,
1940 đều biết nói tiếng Nhật rất rành nhưng họ không nói. Nếu có dịp bị
nói thì họ mới nói mà thôi. Vì lúc ấy người Nhật cai trị những dân tộc nầy
và bắt buộc các dân tộc bị trị phải học ngôn ngữ của họ.
Người Việt Nam cũng
thế, khi người Pháp đô hộ từ giữa thế kỷ thứ 19 đến giữa thế kỷ thứ 20,
gần 100 năm như thế; nhưng sau khi Việt Nam thắng Pháp, thì không khí giao
hảo bình thường, không thù hằn sâu như người Đại Hàn đối với Nhật và ngay
cả việc Nhật Bản đã làm cho Việt Nam chết gần 2 triệu người vào những năm
45-54; nhưng sự thù oán ngày xưa hầu như bây giờ không còn nữa, mà trong
hiện tại Việt Nam cũng như Nhật Bản có sự giao hảo rất tốt. Cái tinh thần
hòa bình nầy rất quan trọng. Vì Đức Phật cũng đã dạy rằng: Chỉ có lòng từ
bi mới dập tắt được hận thù; còn hận thù không bao giờ dập tắt được hận
thù cả. Nếu kỳ nầy mà Đại Hàn thắng Đức để vào trận chung kết thì Đại Hàn
sẽ hỷ hả để đá tại sân của Nhật Bản cho biết tay; nhưng việc ấy đã không
xảy ra. Nếu Đức thua Đại Hàn, chắc rằng họ sẽ khó chịu với những người Á
Châu lắm.
Khi tôi viết xong
quyển sách nầy thì mới có chung kết ai nhất, ai nhì. Có thể là Đức mà cũng
có thể là Brasil hoặc Thổ Nhĩ Kỳ; nhưng ở đời thắng thua là chuyện bình
thường. Ví dụ như trường hợp của Pháp thì rõ. Đội tuyển của Pháp đương kim
vô địch Âu Châu và Thế Giới; thế nhưng mới vào trận đụng độ đầu đã thua,
bị ra khỏi vòng loại. Như thế ai bảo rằng dở, ai bảo rằng hay. Cái may,
cái rủi, cái hên, cái xuôi nó luôn luôn đi kèm với nhau. Brasil hay Đức
thắng đi nữa thì cũng vậy thôi, để có ngày cũng phải thua. Vậy thắng thua
là chuyện bình thường của cuộc đời, của lẽ sống; không có gì để bi quan và
cũng chẳng có gì để lạc quan cả. Đó là câu chuyện đá bóng, tôi không
chuyên môn mà còn có khả năng bình luận như thế. Còn những người chuyên
môn thì khỏi phải nói, họ có thể thảo luận hằng giờ, viết hằng quyển sách
cũng chưa hết.
Bây giờ bước sang
một lãnh vực khác của cuộc đời đối với 3 trường hợp điển hình bên dưới của
người Việt Nam sinh sống tại Đức trên dưới 30 năm và chính nơi quê hương
nầy đã tạo cho họ trở thành triệu phú và kết quả như thế nào thì quý vị sẽ
xem nơi phần kết luận.
Chuyện thứ nhất là
có một cặp vợ chồng Việt Nam là những sinh viên đi du học từ miền Nam Việt
Nam, đến Đức từ năm 1969. Họ kết hôn và sinh một cháu bé từ năm 1975, nay
thì cháu đã xong Đại Học. Sau khi hai vợ chồng tốt nghiệp Đại Học bàn tính
với nhau nên mở tiệm để làm ăn. Họ làm ăn phát đạt và phát triển rất
nhanh. Chỉ trong vòng 20 năm ở khắp nước Đức nầy tại thành phố nào họ cũng
có những cửa hàng rất lớn. Kẻ ra người vào, kẻ buôn người bán rất tấp nập.
Nhưng mới đây thì hai vợ chồng đã ly dị; khi người chồng ra đi chỉ có một
chiếc xe đạp mà thôi. Còn tài sản của cải không mang theo được một đồng
nào. Đó là nhìn từ bên ngoài; còn nội vụ bên trong thì chưa rõ hết; nhưng
tôi đã nói cho Tăng chúng chùa Viên Giác biết rằng: Quý vị thấy chưa -
tiền bạc của cải, vợ con, danh vọng, tất cả những thứ đó cặp vợ chồng nầy
đã chẳng thiếu thứ gì; nhưng họ phải ly dị. Vậy thử tìm nguyên nhân tại
sao vậy?
Câu chuyện thứ 2
cũng là một câu chuyện có thật. Có 2 vợ chồng người Việt Nam đến tỵ nạn
tại Đức vào khoảng năm 1978. Chồng và vợ cố gắng đi học, họ đã xong Đại
Học và sau đó kết hôn với nhau, hiện tại có một cô con gái độ 10 tuổi, rất
thông minh. Gia đình một thời đã có rất nhiều hạnh phúc. Sau đó họ ra mở
nhà hàng trở nên giàu có phát đạt. Người chồng muốn tiến thân nhiều hơn
nên đã dành tiền làm được để mua cổ phiếu. Đã có lúc người chồng làm chủ
trong Konto mình chừng 3 triệu Đức Mã. Vợ chồng nầy cũng hiểu đạo; nên lúc
có được tiền họ cũng làm phước cúng chùa và làm những công việc từ thiện
khác tại Việt Nam nữa. Kế tiếp họ mua một cái nhà, mua một cái nhà hàng để
làm ăn buôn bán và xây thêm một cái nhà để ở nữa, còn nhà cũ kia thì cho
mướn.
Đột nhiên sau vụ 11
tháng 9 năm 2001 vừa qua đã xảy ra tại Mỹ, khiến cho cổ phần phiếu sụt
giảm một cách thê thảm. Từ việc thực có 3 triệu Đức Mã trong tay và hiện
nay (2002) bị mắc nợ ngân hàng là 1 triệu Đức Mã. Một hôm cả 2 vợ chồng
gặp tôi và nói rằng: Chắc là tụi con bán cả 2 ngôi nhà và nhà hàng kia trả
nợ ngân hàng. Sau đó còn dư bao nhiêu thì lo cho con gái ăn học thành tài.
Số còn lại mang vào chùa và cả chồng lẫn vợ đều muốn sống cuộc đời tỉnh
thức của một người tu. Tôi bảo rằng: Nếu cả hai đều đồng thuận thì việc ấy
đâu có khó. Chỉ ngại rằng lâu nay quen làm ăn buôn bán, sợ không ở yên
được trong chùa mà thôi. Nhưng cả hai vợ và chồng đều vui vẻ quyết định
như vậy.
Tôi đã đem câu
chuyện ấy để nói cho Đại chúng chùa Viên Giác biết rằng: Họ vẫn có hạnh
phúc đấy chứ. Vì gia đình họ không có vấn đề; nhưng tiền bạc, của cải, địa
vị, giỏi dang như thế liệu có qua được những trở lực, cám dỗ của cuộc đời
chăng? hay rồi đâu đó cũng chẳng bằng sự thanh tịnh của tâm hồn và sống tự
tại nơi thiền môn yên tĩnh?
Câu chuyện thứ 3
cũng là một câu chuyện có thật. Chuyện xảy ra cách đây chừng 5 tháng. Một
hôm tôi đang giảng pháp tại một địa phương ở miền Trung nước Đức, sau đấy
có một người tới mách với tôi rằng: Cô ta có người chị em bạn dì mới trúng
số 15 triệu Đức Mã ở vùng Stuttgart. Người trúng số có ý cho chùa mượn
cũng như cúng dường tổng cộng độ 5 triệu Đức Mã. Đã hẹn ngày giờ gặp gỡ;
nhưng suốt 1 tuần, 2 tuần, rồi 3 tuần cũng chẳng thấy tới. Sau đó vài
tháng tôi gặp lại người kia và hỏi rằng sao lâu quá không thấy tới? thì
được trả lời rằng: người trúng số kia không còn có ý định cho chùa mượn
nữa mà họ đã đầu tư sang Mỹ hết rồi. Tôi cười và nói rằng: Vậy sao?
Quý vị thấy đó 15
triệu Đức Mã đâu phải là số tiền nhỏ? Đó là cả một đại gia tài. Nếu biết
đầu tư, số tiền ấy có thể sinh ra nhiều hơn nữa. Nếu không biết, nhiều khi
còn thâm vào vốn nữa là khác. Báo chí xưa nay đã đề cập đến rất nhiều
trường hợp như thế. Có không biết bao nhiêu người triệu phú bằng lối đánh
Lotto; nhưng cuối cùng lại họ vẫn nghèo; nếu họ không biết làm phước, bố
thí, giúp đỡ những gì thuộc về từ thiện, công ích xã hội. Kết cuộc rồi tay
trắng vẫn hoàn trắng tay mà thôi. Vì vậy cho nên tục ngữ Việt Nam có nói
rằng:
"Chẳng có ai giàu ba
họ
Mà cũng chẳng có ai
khó ba đời"
là vậy. Điều nầy quá
khứ đã chứng minh, hiện tại cũng đang có và tương lai cũng sẽ có những
trường hợp tái diễn như vậy nữa. Từ đó mình phải rút ra một bài học là ở
trên đời nầy khi biết đủ thì nó đủ, chứ đợi chờ cho đủ thì không bao giờ
nó đủ cả. Vì trên nguyên tắc lòng tham của con người nó không có đáy và
không có cái giới hạn cuối cùng của nó. Ngày xưa Việt Nam cũng thường hay
nói: khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ có biết là sống thôi! Vậy biết cái
gì đây? phải biết đủ và phải dùng lòng từ để quan sát những sự kiện xảy ra
trong cuộc đời của mình.
Đó là 3 câu chuyện
tiêu biểu và 3 bài học rất sáng giá cho cuộc đời và tất cả đều xảy ra tại
nước Đức nầy. Tất cả đều hợp pháp, tất cả đều đứng đắn; chứ không phải
những chuyện bị tình nghi như bán thuốc lá lậu, hay trộm cướp giết người,
sống với xã hội đen của một số người Việt Nam đã xảy ra tại Đông Đức trong
thời gian qua. Không phải tất cả mọi người Việt Nam đều xấu như vậy, mà
cũng không phải mọi người Việt Nam đều không có khả năng. Ví dụ 3 trường
hợp bên trên đều đáp ứng đầy đủ về khả năng, học lực, tài cán, tiền bạc,
ngôn ngữ v.v... nhưng họ vẫn thất bại như thường. Vậy nguyên nhân chính
tại đâu? Và làm sao chúng ta có thể thoát ra ngoài sự thất bại thường tình
ấy? Ngoài đời sống vật chất, làm việc ra chúng ta phải cần đến đời sống
tâm linh nữa không? và Tôn Giáo nào có thể giúp mình giải quyết những
khúc mắc ấy? tự mình đi đến với Tôn Giáo hay Tôn Giáo sẽ tìm đến mình?
Đó là những câu hỏi
và câu trả lời dĩ nhiên là mỗi người hãy tự chọn lựa lấy. Chứ ở đây không
có một mẫu số chung để làm khuôn mẫu. Tôi đã đem 3 câu chuyện nầy để nói
cho Đại chúng chùa Viên Giác nghe. Vì đây là những bài học luân lý sống
động trong cuộc đời mà mỗi người đều phải tự mình soi sáng cho lối đi của
mình để phải tự trả lời những câu hỏi mà mình hay gặp phải. Ví dụ như hạnh
phúc là gì? khổ đau là gì? thất bại là gì? Thế nào là thành công? thế nào
là một tôn giáo? thế nào là bộ mặt thực của tình yêu? v.v...
Dưới đây là một câu
chuyện cũng có thật và chuyện xảy ra tại Việt Nam chứ không phải tại xứ
Đức nầy. Theo tôi nghĩ đây cũng là một bài học luân lý, đạo đức, nhân cách
của con người, mà ai trong chúng ta cũng có thể rút tỉa kinh nghiệm để làm
hành trang đi vào cuộc sống tạm bợ nầy.
Nguyên hồi tôi còn ở
Việt Nam, khi ở Hội An (1964) tôi có mấy người bạn tu cùng lứa; nhưng sau
1975 thì kẻ đi đây, người đi đó, lưu lạc khắp bốn phương trời. Trong thời
gian ấy tôi ở ngoại quốc có nghe tin là anh A ra đời, chị B kết hôn, anh C
đi dạy học v.v... Bẵng đi một thời gian hơn 20 năm như thế tôi không có
liên lạc. Sau nầy tôi được biết chính xác là chú A đã ra đời, lập gia đình
được mấy con và chú B đã có gia đình rồi, hiện con cái đã lớn và bây giờ
vào chùa xuất gia trở lại. Thỉnh thoảng tôi vẫn có giúp đỡ cho một số
trường hợp ngặt nghèo như con cái đi học ở Đại Học thiếu tiền đóng tiền
trường hoặc một vài công việc từ thiện khác.
Rồi một hôm tôi nhận
được một lá thư dày cộm, độ 8 trang giấy viết tay, gởi đi từ Sài Gòn, chữ
viết rất đẹp và đúng là bạn cùng tu với tôi gần 40 năm về trước. Anh ta
tâm sự:
"Thưa Thầy: Bây giờ
mọi việc đã rõ ràng, con mong Thầy cho con tái sinh vào một cuộc sống
khác, mà cuộc sống đó không còn hệ lụy với gia đình, với sự ràng buộc với
vợ con, thê nhi tử trước. Con muốn thoát ly ra khỏi địa ngục của cái gia
đình nầy, ý con đã quyết. Mong Thầy cho con tái sinh! Nhưng nếu con không
viết rõ nguyên nhân thì Thầy của con sẽ không hiểu tại sao như vậy. Và đây
là vở kịch của cuộc đời:
Sau khi con ra đời
(1975) con đã lấy vợ và vợ con cũng là một Phật Tử nhưng không thuần thành
lắm. Cô ta ít đi chùa, do vậy mà giáo lý cũng không thâm hiểu nhiều. Ở đây
thỉnh thoảng con cũng có hướng dẫn cho vợ con; nhưng kết quả không như ý.
Ngày lại tháng qua tụi con chung lòng chung sức gầy dựng được một mái ấm
gia đình và sinh được 2 cậu con trai. Đồng thời ăn nên làm ra. Vì con là
nhà thầu may mặc, nhà tạo mẫu; nên gặp thời, tiền vô như nước. Con đã mua
được 2 căn nhà, một để ở, một cho thuê, đồng thời sang lại một tiệm may
mặc thời trang rất đắt giá. Trong khi đó mọi sự giao dịch bên ngoài, con
để vợ con lo liệu, vì để vợ con tin tưởng; nên ngay cả tiền bạc con cũng
chẳng quan tâm, mà con chỉ cố gắng gầy dựng nên sự nghiệp và dạy dỗ con
cái mà thôi. Đồng thời bây giờ cũng cảm thấy đầy đủ nên bỏ thì giờ để
nghiên cứu lại sách vở, kinh kệ mà ngày xưa đã quên lãng hết rồi; hoặc chỗ
nào chưa đọc tới thì nghiên tầm thêm.
Vợ con lấy cớ đi
giao dịch chỗ nầy chỗ kia, đi sớm về muộn và đồng thời ăn mặc hở hang,
trau giồi sắc diện. Con đã cảnh cáo nhiều lần và vợ con đã chẳng nghe. Con
cứ làm việc của con, để cho vợ con được toại ý. Xem như cả 2 người đều
đồng sàng nhưng dị mộng. Ngày tháng càng cách biệt dần và sự nội kết giữa
2 người lại dâng cao. Đồng thời vợ con cũng đã chơi hụi; nên lấy cớ là
thua lỗ và phải bán bớt một cái nhà. Sau đó thì máy giặt, tủ, giường lần
lượt đội nón ra đi. Chẳng mấy chốc cái tiệm may mặc cũng phải bán và con
cam tâm đi làm thợ giặt cho hãng may mặc khác cho qua ngày cũng như bù đắp
lại những thua lỗ đó; nhưng tình cảm càng ngày càng sứt mẻ nhiều hơn và vợ
con ngang nhiên thách thức cũng như liên hệ với bạn trai công khai hơn. Từ
đó vợ chồng con đâm đơn ly dị và cái nhà ở cuối cùng cũng không thuộc về
con. Bây giờ con là một gã cùng tử, đã ra ở riêng và cũng không có đủ số
tiền để gởi thư cho Thầy kỳ nầy. Kính mong Thầy cứu độ con và cho con tái
sinh ở một nơi khác, con xin xuất gia và bái Thầy làm Sư phụ.
Dĩ nhiên đây không
phải là sự chạy trốn bổn phận hay trách nhiệm, vì 2 đứa con của con đã
trưởng thành rồi. Bây giờ con chỉ muốn dành thì giờ còn lại trong cuộc đời
của mình để quay về bờ giác. Thời gian đã gặm nhấm cuộc đời con. Nay tuổi
đã ngoài 50 rồi, không còn thời gian để chờ đợi nữa. Kinh mong Thầy hoan
hỷ giúp đỡ con...".
Bức thư nội dung
viết về một câu chuyện như thế. Đọc xong thư nước mắt tôi đầm đìa chảy.
Tôi nghĩ đây cũng là bài học cho đệ tử của mình. Khi còn sống trong chùa
thì hướng ngoại, nghĩ rằng chắc ngoài nhân gian có gì vui lắm. Đôi khi có
những vị chân trong chân ngoài và cũng có nhiều người ở ngoài đời đang
trên thực tế chán ngán những nỗi bất công nên tìm đến của chùa để được
xuất gia tu niệm nhằm thanh thản cho tâm hồn.
Một người bạn tôi đã
gọi tôi là vị Thầy, một người bạn trinh nguyên. Hơn 50 tuổi là hơn 50 mùa
xuân thanh khiết, thánh thiện, không nhuốm chút bụi trần. Còn bạn tôi đã
bị giày vò nơi tâm thức, nơi hố thẳm của tử sinh, nơi ngả ba đường của sự
sanh tử. Tôi có gọi điện thoại về thăm và đã tìm cách giúp đỡ và người bạn
ấy đang thể hiện lời hứa đó, đang tìm về bến giác ở một nơi chốn gần đây.
Nay mai quý vị sẽ có cơ hội gặp gỡ.
Mới nghe qua chắc
quý vị nghĩ là một câu chuyện tiểu thuyết như mấy cuốn sách tôi đã viết
trong thời gian trước; nhưng ở đây, với câu chuyện nầy là thực 100% đó.
Tôi đem câu chuyện ấy hướng dẫn cho chúng Tăng tại chùa Viên Giác đang tu
học. Nếu xét về danh thì chú nầy trước năm 1975 đã đậu Tú Tài 2 ban C, văn
chương hay đáo để; nếu xét về sắc thì cũng không đẹp trai lắm mà cũng
chẳng xấu trai. Nếu xét về tài sản của cải thì cũng chẳng kém ai, nhất là
trong xã hội Cộng Sản mà có được những của cải như thế là nhiều. Xét về
đường tình duyên, con cái thì cũng không phải là người chồng đáng trách;
nhưng ở đây lỗi tại ai?
Đó là câu hỏi mà mọi
người nên tự trả lời. Có thể người ta sẽ bảo: người chồng hững hờ với vợ
trong việc chăn gối; nên mới sinh ra những sự cố như thế! nhưng đồng thời
cũng có kẻ bảo: người vợ đã phản bội chữ tín của chồng mình, đan tâm đi
theo người đàn ông khác, mặc dầu chồng mình vẫn còn đó v.v... Thôi thì có
muôn ngàn cách trả lời khác nhau, mà câu trả lời tốt nhất theo tôi nghĩ
vẫn là sự quyết định của người chồng hay người vợ khi muốn đoạn tuyệt với
dĩ vãng của mình để đi tìm một sinh lộ mới. Nếu không, con người sẽ bí
lối. Ở những nước văn minh ngày nay có nhiều cơ quan cố vấn về tình yêu,
gỡ rối tơ lòng, tâm lý trị liệu v.v... nhưng theo tôi nghĩ nhân vật chính
vẫn là người chồng và người vợ, còn người thứ ba ở ngoài câu chuyện thì
cũng chỉ có thể góp ý thôi, chứ không thể quyết định vấn đề được.
Tất cả những câu
chuyện của tôi đã kể ở trên đều là những câu chyện thật và dưới cái nhìn
của một nhà tu, tôi có một cách giải quyết khác. Còn quý vị dĩ nhiên kinh
nghiệm cuộc sống, kinh nghiệm về tình yêu nhiều hơn tôi; nên có lẽ giải
quyết sự việc một cách đơn giản hơn chăng? Nhưng dầu cách nào đi nữa thì
cuộc đời nầy sao mà nó tục lụy quá, phũ phàng quá phải không? đâu là hạnh
phúc chân thật? đâu là tình yêu cao thượng? Theo tôi nghĩ người Đức cũng
vậy thôi, vì người Đức cũng là con người. Người Đức còn có nhiều vấn đề
khúc mắc hơn là người Việt Nam nữa. Nhiều câu chuyện thương tâm có đăng
nơi báo chí, sách vở mà hằng ngày chúng ta đọc được. Thiết nghĩ cũng không
nên biên chép vào đây thêm tốn giấy mực. Điều chúng ta cần quan tâm và
hiểu biết là mình muốn gì và mình có tự biết mình là ai không? Điều ấy mới
quan trọng.
Một hôm trong giờ
học Đại Trí Độ Luận của Tăng chúng chùa Viên Giác, tôi có đặt ra câu hỏi
cho mọi người rằng: Ở trên đời nầy cái gì là khó nhất? Có người trả lời
thế nầy, có người trả lời thế kia. Dĩ nhiên là không hoàn toàn sai, mà
chẳng hoàn toàn đúng. Thật ra lâu nay chúng ta cứ nhìn ra ngoài để so sánh
sự việc, giàu nghèo, sang hèn, đẹp xấu v.v... nhưng đâu có ai tự thấy mình
đâu, cho nên mới xảy ra nhiều câu chuyện trên trời dưới đất như thế. Thật
ra câu trả lời đúng nghĩa nhất là: Tự hiểu được mình là khó nhất. Điều ấy
tôi mong đợi, nhưng đã không có người trả lời đúng.
Bởi vậy trong cuộc
sống nầy chúng ta hơn và thua nhau không phải vì bằng cấp, địa vị, sang
hèn, đẹp xấu v.v... mà chúng ta hơn hoặc thua nhau chỉ là vấn đề ý chí mà
thôi. Kẻ nào kiên trì nghị lực, có ý chí bền vững qua suốt thời gian và
không gian thì kẻ ấy sẽ thành công. Cái ý chí ấy giúp ta làm Phật, làm Tổ,
làm chư Thiên, làm người. Đồng thời cũng cái ý chí đó nó làm cho chúng ta
tự xuống địa ngục; nếu chúng ta không tự kiểm soát được tự thân của mình.
Ý chí nó quyết định quan trọng như thế. Xin đừng xem thường.
Ngoài ra chúng ta
cũng phải học hỏi trau giồi kiến thức nữa. Học thì phải có bằng cấp, đi
dạy học, đi làm giám đốc khi ra lệnh cho nhân viên mới nghe lời. Nếu ta
không có kiến thức, kẻ thuộc hạ sẽ khinh thường. Kiến thức cũng do từ sự
học mà ra; nhưng kiến thức không nhất thiết có từ bằng cấp. Kiến thức ấy
có được là do sự tự tìm tòi nơi sách vở, kinh điển. Bởi vậy ở trong đời
nầy người ta thường chọn 2 loại người tiêu biểu để dạy ở Đại Học hay làm
Giám Đốc một công xưởng; hoặc ngay cả làm Dân Biểu Quốc Hội, Thủ Tướng,
Tổng Thống một nước v.v... Đó là những người có năng lực và những người
thành công qua bằng cấp. Ngày xưa các xã hội Á Châu còn vua chúa cũng tạo
nên những kỳ thi để chọn ra những quan văn tài giỏi và tạo ra những kỳ thử
trí dùng mưu để đất nước có được những quan võ tài ba. Văn và Võ là hai bộ
phận quan trọng của một quốc gia thuở bấy giờ. Còn bây giờ có nhiều bộ
phận như khoa học, kỹ thuật, môi sinh v.v... còn đa diện hơn; nhưng dưới
mắt tôi, dầu ở trong hoàn cảnh nào thì 2 điều kiện ắt có và đủ để được
thành công là 2 điều kiện đã được nêu lên bên trên.
Ngoài ra còn một
điều kiện thứ 3 nữa cũng không kém phần quan trọng nữa đó là "hằng". Hằng
ở đây có nghĩa là "hay", "thường", "luôn luôn". Vậy chúng ta hằng cái gì?
Nếu chúng ta đã tạo ra một công việc, chúng ta biết mục đích ấy rất rõ
ràng, phải luôn theo dõi mục đích ấy để đi đến thành công. Không ai làm
cho mình thành công cả, mà chính ở mình. Cũng chẳng có ai làm cho mình
thất bại cả; cũng chính chỉ là mình. Vậy sự cố gắng, lòng nhiệt thành, sự
nhẫn nại là những yếu tố quan trọng để quyết định mỗi con người; nhưng khi
danh vọng có rồi con người dễ tự cao ngã mạng. Khi địa vị có rồi thì dễ
tham lam, hối lộ, quyền thế. Khi tình yêu đã đến cao điểm rồi thì người ta
dễ sinh ra vụng trộm khó coi. Đến lúc ấy chồng đổ thừa vợ, vợ đổ lỗi cho
chồng; chẳng ai nhường nhịn nhau. Cứ như thế mà ra tòa ly dị. Nếu mọi
người ai cũng biết rằng đó là lỗi của mình thì hy vọng cuộc đời nầy đẹp đẽ
là dường bao! Tôi hy vọng rằng một ngày nào đó nhân loại sẽ lấy nguyên lý
nầy làm chính để mà sống, mà tu thân thì gia đình mới vui vẻ, hòa hợp, xã
hội mới ít lầm than hơn và chính phủ không phải tạo ra nhiều đạo luật để
cai trị dân nữa.
Tôi viết quyển sách
thứ 34 nầy với nhan đề là "Cảm Tạ Nước Đức" và chắc cũng có nhiều người
Đức sẽ tìm tòi để xem thử tôi cảm ơn họ những gì? Có lẽ có người đã thất
vọng, vì đã không nêu đích danh họ về những sự trợ giúp vật chất như cái
ghế, cái bàn, cái tủ v.v... mà ở đây tôi chỉ giúp cho con người, giúp cho
đời có một cách sống, một cái nhìn lạc quan, tự chủ cho người Việt mà theo
tôi nghĩ người Đức cũng cần đến. Đó là sự đóng góp của tôi cũng như của
người Việt Nam cho xứ sở nầy.
Còn những sự đóng
góp giúp đỡ người Việt Nam chúng tôi của Bộ Nội Vụ Liên Bang đặc trách về
vấn đề văn hóa và truyền thông thì tôi đã cảm ơn tỉ mỉ ở bên trên rồi. Nếu
quý vị nào muốn biết thêm chi tiết thì xin đọc thêm luận án tốt nghiệp Cao
Học và Tiến Sĩ của đệ tử tôi là Thầy Thích Hạnh Giới đã viết về "Phật Giáo
Việt Nam tại Đức" cũng như "Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ" thì rõ hơn. Vì
những sách ấy có dẫn chứng kỹ càng hơn. Ngoài ra quý vị cũng có thể xem
thêm ở những sách của ông Dr. Martin Baumann là Giáo sư Tôn Giáo học tại
Đại Học Hannover và ngay cả sách của bà Dr. Rumpt cũng đã có đề cập đến.
Họ là những học giả chuyên ngành nên cách viết, cách trích dịch rõ ràng
hơn cách viết và cách lập luận của tôi nhiều hơn.
Mai đây chắc chắn
rồi tôi cũng phải chết và quý vị cũng không thể sống hơn 100 năm nữa để
nhìn được cuộc thế đổi thay. Tuy nhiên những gì đã xảy ra trong quá khứ là
thành quả trong hiện tại và những gì trong hiện tại chúng ta đang tạo tác,
sẽ là kết quả của tương lai. Do vậy lịch sử vẫn còn đó, lịch sử phải trôi
qua và chắc chắn rằng lịch sử không ngồi yên, không dừng lại một chỗ.
Những điều tôi viết hôm nay để tạ ơn nước Đức sẽ còn lại ngàn năm sau
trong thư viện, trong lòng người chuyển tiếp của tử sinh. Vì nơi nầy đã
nuôi tự do cho chúng tôi sống, cho hơn 100.000 người Việt nơi đây. Ơn cứu
tử ấy chúng tôi không thể quên chính phủ và nhân dân Đức được.
Ngoài ra ông Dr.
Ernst Albrecht, ông Dr. Neudeckt, ông Dr. Geißler, ông Dr. Helmut Schmidt
v.v... là những ân nhân của chúng tôi mà chắc chắn rằng không có một người
Việt Nam nào đang sống trên quê hương nước Đức nầy mà quên đi được những
ơn cứu tử nầy cả. Người ta bảo: Cứu vật, vật trả ơn. Cứu nhơn, nhơn trả
oán; nhưng trong trường hợp nầy nó không đúng với người Việt Nam chúng tôi
trong hiện tại, lại càng không đúng với những người Phật Tử Việt Nam hiện
sinh sống nơi đây. Vì kẻ làm ơn bao giờ cũng hay quên và người mang ơn bao
giờ cũng nên nhớ.
Đặc biệt ở đây tôi
cũng xin cảm ơn ông Dr. Meihorst. Ông ta là người đỡ đầu của ngôi chùa
Viên Giác nầy từ khi xây dựng đến nay. Quả thật là một người Đức tốt bụng
có một không hai tại xứ Đức nầy. Năm 1989 khi khởi công xây cất chùa Viên
Giác mới nầy thì chẳng may gặp một chuyện khó khăn là ở dưới lòng đất bị
đóng bê-tông lâu đời, phải trục lên mới làm từng hầm được. Tôi có nhờ ông
Steinmann, người chủ nhà cho thuê hãng để làm chùa ở đường Eichelkamp, đã
giới thiệu cho tôi hãng đấu thầu xây dựng và khoan nền đất thử nghiệm
trước khi xây. Tuy hãng của ông Mehmel trúng thầu, ông Dr. Meihorst không
trúng; nhưng ông đã giúp cho chúng tôi từ khâu nhờ Luật sư biện hộ để đòi
bồi thường thiệt hại và thương lượng với hãng thầu Mehmel để chúng tôi trả
góp trong việc xây dựng v.v... Thế là ông đã trở thành cố vấn cho chùa
chúng tôi cũng như cho Giáo Hội tại đây.
Trước khi ông giúp
chúng tôi, chúng tôi cũng không biết ông là ai; nhưng sau đó qua tìm hiểu
thì được biết rằng ông là Chủ Tịch của Hội Bundesingenieurkammer (Kỹ sư
Liên Bang) gồm 800.000 trí thức, có địa vị trong xã hội Đức. Đồng thời ông
cũng là Chủ Tịch của Niederesachsische Ingenieurkammer (Hội Kỹ Sư của Tiểu
Bang). Đúng là một người có chức quyền, giàu có, địa vị; nhưng lúc nào
cũng khiêm nhường. Nhiều khi chúng tôi thiếu hụt tài chánh, chúng tôi nhờ
ông giúp đỡ; ông cũng đã vui lòng cho mượn không lấy tiền lời. Ông và anh
Kiến trúc sư Trần Phong Lưu rất đắc ý với nhau trong việc xây cất ngôi
chùa Viên Giác nầy. Phải nói rằng ông và anh Lưu là hai nhân vật chính
trong khi xây dựng chùa Viên Giác từ năm 1989-1991, rồi từ 1991-1993 thì
nhiệm vụ tinh thần ấy mới thư thả một chút.
Thỉnh thoảng tôi có
mời ông tới chùa thăm viếng, ăn cơm và đàm đạo Phật Pháp. Tuy ông không
phải là Phật Tử; nhưng ông hay ngồi Thiền và có chân trong "hội nhịn đói".
Mỗi lần nhịn đói như thế cả 1 tuần lễ hay vài chục ngày để gạn lọc thân
tâm. Một hôm tôi nhờ ông đào cho một cái giếng để tưới cây trong vườn
chùa; ông sẵn sàng kêu thợ tới và sau khi đào xong thì ông không đòi trả
tiền và xem như việc ấy dùng để cúng chùa, chứ không có điều kiện gì cả và
hầu như tất cả những gì ông làm, đều không lấy một đồng tiền nào. Vì ông
biết chùa chúng tôi là một hội từ thiện, vô vụ lợi. Ông cũng đã cúng cho
chùa Viên Giác một bàn thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng đang ngự trị giữa
chánh điện chùa Viên Giác và mỗi năm có lễ Phật Đản hay Vu Lan chúng tôi
tôi vẫn hay mời ông đến phát biểu ý kiến, đã làm cho người Việt Nam tham
dự lễ rất cảm động.
Trong xã hội dĩ
nhiên có nhiều loại người. Người tốt như ông Dr. Meihorst thì ở đâu cũng
có, nhất là ở xứ Đức nầy; nhưng đồng thời cũng là người Đức, nhưng cũng có
những người không đủ tư cách như trộm cắp, rượu chè, tìm cách lạm dụng của
công v.v... Ở xã hội nào thì cũng chẳng thiếu những loại người như vậy,
nhất là ở những xã hội kém văn minh như một số nước Á Châu, Phi Châu,
Trung Đông v.v... thì người lãnh đạo có quyền tóm thâu quyền lực, của cải
về cho mình. Tuy dân chúng có biết đó; nhưng chả dám làm gì. Vì có luật
pháp đứng sau lưng để bảo vệ họ. Vả lại ở những xã hội như thế các cơ quan
ngôn luận, truyền thông vẫn là của chính quyền, chỉ loan tin có một chiều
thì những sự lem nhem, mờ ám đó khó mà phơi bày ra sự thật. Còn các xã hội
Âu Mỹ ngày nay trình độ dân trí cao. Cơ quan truyền thông, báo chí v.v...
đa phần là độc lập với các cơ quan công quyền cũng như luật pháp; nên họ
đã nêu lên những trường hợp thối nát, bất công trong xã hội để chính quyền
lưu tâm và người dân lại hưởng được quyền an sinh xã hội. Xã hội dân chủ
nó khác với chế độ độc tài là vậy.
Mới đây một cuộc
nghiên cứu cho thấy rằng nước Trung Hoa cũng sản xuất phần mềm của
Computer trong năm 2001; nhưng chỉ thu vào được mấy trăm triệu đô-la;
trong khi đó nước Ấn Độ đã thâu vào được 8 tỷ đô-la. Sau khi nghiên cứu kỹ
càng thì mới biết rằng: Sở dĩ Ấn Độ có phần thâu vào cao như thế. Vì lẽ ở
Ấn Độ khi sản xuất có tự do cạnh tranh, tự do mậu dịch. Còn tại Trung Hoa
chỉ sản xuất có một chiều và làm việc với tinh thần bao cấp của xã hội chủ
nghĩa; cho nên con người ít mong gì hơn là bảo vệ chỗ làm của mình; có
chân trong hợp tác xã là quý rồi. Việc lỗ lã đã có nhà nước lo. Tại sao
phải nhọc công tốn sức cạnh tranh làm gì. Đó là thành quả của tự do và độc
tài; dân chủ và phi dân chủ là vậy.
Ngày hôm nay thì thế
giới đã toàn cầu hóa. Con người trở nên nhỏ bé nhưng linh hoạt vô cùng. Vì
chỉ trong một giây lát, chuyện gì xảy ra trên thế giới người ta cũng đều
có thể hiểu ra nhanh chóng qua điện thoại, điện thư, Internet v.v... Thế
nhưng có một điều tìm cách để hiểu chính mình hay những thành viên trong
gia đình mình thì hầu như lơ là vắng bóng. Đây là thảm trạng của nhân loại
trong tương lai. Thất nghiệp, ly dị, tự tử, tâm thần v.v... sẽ còn nhiều
hơn nữa. Vì lẽ con người chỉ tự làm thỏa mãn cái gì cho chính mình về
phương diện vật chất như phải làm sao cho có cái nhà rộng, chiếc xe riêng,
cái phòng riêng, cái gì cũng riêng hết là hạnh phúc. Trong khi đó cái
chung thì chẳng có một cái gì. Vì vậy cho nên Tôn Giáo đóng góp một vai
trò rất quan trọng trong cuộc sống hằng ngày về cả 2 lãnh vực vật chất
cũng như tinh thần.
Con người sống mà
không có phần tâm linh hướng thượng thì đâu có khác gì cây cỏ, gỗ, đá. Do
vậy một cuộc sống đầy đủ là một cuộc sống phải được cân bằng giữa vật chất
và tinh thần. Chứ không thể chỉ sống cho quyền lợi cá nhân của mình mà
quên đi quyền lợi của kẻ khác.
Ngày hôm nay tại Âu
Châu nầy, nhất là người Đức, hay tin vào Fengshui. Nghĩa đen có ý là gió
và nước. Gió và nước là hai vật có thể làm thay đổi cuộc sống của mỗi con
người, mỗi gia đình. Nghĩa bóng có nghĩa là: phương hướng, địa lý, đất
đai, nhà ở. Tại Á Châu người Trung Hoa phát minh ra vấn đề nầy trước. Ngay
cả việc chọn ngày giờ tốt xấu để làm cưới hỏi, ma chay, xây nhà, xây chùa,
xây cung điện, xây đền, xây miếu, xây mộ, dựng bia v.v... tất cả đều phải
xem ngày tháng tốt xấu để hợp với gia chủ, mới mong làm ăn phát đạt, ít
bệnh hoạn và phát triển nhanh chóng. Do vậy mà nhiều người tin vào thuật
Phong Thủy nầy. Dĩ nhiên là cũng có cái đúng và có cái sai, chứ không phải
hoàn toàn đúng hết và hoàn toàn sai hết.
Ví dụ có một gia
đình xây một ngôi nhà rất đẹp; nhưng sau khi dọn về ở đó một hai năm lại
không thích hợp, con cái đau ốm, địa vị mất dần trong xã hội v.v... Gia
đình ấy bán nhà đi ở chỗ khác. Lại có người đến mua để ở. Gia đình đến sau
tự nhiên phát đạt, thịnh vượng. Vậy việc nầy do đâu mà có? Nếu đứng về
phương diện địa lý, các Thầy Fengshui sẽ nói rằng: Nhờ gia chủ mới nầy
biết sửa cái cửa xây về hướng khác thích hợp hơn, nhờ đổi vị trí giường
nằm của vợ chồng và con cái, nên mới được vậy. Có thể người ta tin điều
đó; nhưng có một điều không kém phần quan trọng mà người ta không thấy để
tin là dưới nền nhà đó có một ngôi mộ cổ, hay một dòng nước chảy ngang qua
đó. Nếu gia chủ dời phòng ngủ đi nơi khác, không nằm trên chỗ có ngôi mộ
cổ hoặc nơi dòng nước chảy ngang qua thì con cái sẽ hết bệnh và vợ chồng
sẽ vui vẻ. Nhờ vậy mà nhà cửa lại phát đạt. Còn một điều khác nữa mà người
có tôn giáo phải tin đó là cái đức của gia đình đến sau. Nhờ có đạo đức
hay làm phước, bố thí, cúng dường, cứu đời, cứu người; nên mọi chuyện tai
ương đều qua hết. Bởi vậy tôi thường hay nói: Thân ta tuy có đó, nhưng sẽ
trở thành không. Vì khi đất, nước, gió, lửa trong thân thể không còn hòa
hợp nữa thì thân cát bụi nầy sẽ trả về cho cát bụi. Còn tâm ta tuy là
không; nhưng nó có. Chính nó đã tạo nên Thiên đường, Địa ngục, Cực lạc,
chư Thiên chứ không ai khác. Do vậy mà cái đức ấy là do tâm sanh và đây là
hành động cũng như kết quả tuy là vô hình, nhưng trên thực tế là có.
Ngôi chùa Viên Giác
từ khi tạo lập cho đến nay cứ phát triển không ngừng. Có người nói rằng
tôi có phước nên mới được vậy. Hoặc giả nhờ Kiến Trúc Sư đo cửa ra vào nào
cũng đúng với kích thước của thước Lỗ Bang nên chùa mới thịnh như vậy. Có
thể cũng không sai mà cũng không đúng. Vì lẽ cái chùa, cái nhà, tượng Phật
v.v... chỉ là vật vô tri. Mình di động hay để yên chúng đều bị lệ thuộc
vào mình cả. Do vậy mà cái ý hướng cho vấn đề đó mới là quan trọng, chứ
cái vật bị đặt để không hoàn toàn quan trọng.
Từ khi xây dựng ngôi
chùa Viên Giác nầy và kể cả trước đó hằng 10 năm, chính tôi và Tăng chúng
cũng như Phật Tử mỗi ngày đều tụng kinh bái sám, trì chú, tham thiền, làm
phước, bố thí, cúng dường v.v... chính nhờ đó mà ngôi chùa được phát triển
và tồn tại cho đến ngày nay và một mai đây ngôi chùa nầy sẽ suy vi, nếu
những người kế tiếp không tạo ra những giọt mật đạo đức để cho ong bướm có
thể gần gũi thì số người đến chùa càng ngày càng ít đi và sự hỗ trợ vật
chất cũng như tinh thần sẽ không còn nhiều như xưa nữa. Hoặc cũng có thể
phát triển nhiều hơn xưa; nếu vị Trụ Trì và Đại chúng biết tu học hành trì
không cho tạp niệm xen vào thì chẳng mấy chốc ngôi chùa nầy sẽ phát đạt
hơn xưa.
Nói cho cùng thì đất
đai cũng rất quan trọng. Nó nuôi sống ta trong từng hơi thở và bảo bọc ta
trong từng giờ, từng phút, từng li. Do vậy mà phải trân quý mặt đất. Từ
mặt đất có thể cho ta lương thực như hoa, quả, rau, đậu, lúa, mè, khoai,
bắp v.v... và con người cũng sống nhờ vào đất; nhưng đôi khi con người
cũng vô tình làm cho đất mẹ bị giày vò, đổ lên mặt đất ấy không biết bao
nhiêu là chất độc thừa thãi, để rồi chính những chất độc nầy sẽ chảy ra
biển làm cho biển bị vẩn đục. Cá ăn, cá sống trong lòng sông, lòng biển ấy
sẽ bị nhiểm độc. Con người ăn lại cá, sẽ bị bệnh triền miên. Hoặc giả cây
cối bị nhiễm độc, chúng ta ăn vào cơ thể cũng sẽ bệnh hoạn lây. Vậy chính
mình đã hại mình, chứ có ai đã hại mình đâu. Khi khổ đau khó nhọc đến thì
mình đổ thừa cho cái nầy cái nọ; nhưng khi hạnh phúc đến thì chả ai trân
quý chút nào.
Có lần tôi đọc một
câu chuyện của một nữ văn sĩ Việt Nam viết về sự hiện hữu của một ngôi
chùa tại miền Trung đất Việt. Câu chuyện được kể rằng: Có một ngôi chùa đó
được xây lên hoàn thành; nhưng trong 3 năm liền đã phải thay đổi 7 đời trụ
trì. Lý do giải thích bằng nhiều cách khác nhau; nhưng ở đây phải biết
rằng đã có 4 người chết sau khi đến nhậm chức và 3 vị kia phải dời chỗ ở.
Đây là sự thật. Có người bảo dưới nền chùa là một nghĩa địa, các vong hồn
chết chưa có siêu. Có thể nơi đó ma quỷ nhiều lắm, mạnh hơn cả phép Phật
cho nên phải bị chúng hành hung. Hoặc giả đức hạnh của những vị Sư nầy còn
kém, nên mới có hiện tượng ấy v.v...
Tôi được ở yên đây
trong 12 năm qua tại ngôi chùa mới nầy là do chư Phật, chư Long Thần Hộ
Pháp chở che gia hộ và do sự hành trì miên mật thần chú Thủ Lăng Nghiêm
của chính mình và Đại chúng nên chánh điện chùa Viên Giác có một năng
lượng rất nhiệm mầu. Ngoài ra chùa Viên Giác còn thờ Xá Lợi Phật cũng như
thờ các thứ đất thiêng nơi Đức Phật sinh ra, nơi thành đạo, nơi thuyết
pháp lần đầu tiên và nơi nhập Đại Bát Niết Bàn. Do vậy mà vị trí của ngôi
chùa vẫn còn đứng vững với thời gian. Có thể 100 năm, 200 năm, 500 năm hay
1000 năm sau những pho tượng, những mô hình của ngôi chùa thì vẫn còn đó;
nhưng tôi và quý vị thì đã vào lòng đất lạnh tự thuở nào; vẫn còn đó sừng
sững một bóng hình mà dầu cho năm tháng có trôi qua, lòng người có thay
đổi, vị trí của nơi ấy không thay đổi. Đó là ngôi chùa Viên Giác trong tâm
khảm của mọi người Việt cũng như Đức. Do vậy cảm tạ nước Đức đã dành cho
người Phật Tử có một nơi chốn như thế để đi về, để lễ bái và nguyện cầu.
Hôm nay là ngày sinh
nhật của tôi (28.6.2002) đánh dấu một chặng đường 53 năm hiện hữu trên cõi
thế nầy. Sinh nhật lần thứ 54 nầy nói theo người Việt Nam thì có gì đặc
biệt?
Thứ nhất là tôi đã
hoàn thành tác phẩm thứ 34 nầy trong 25 ngày, vừa đọc tài liệu tiếng Đức,
vừa biên soạn thành sách với hơn 300 trang giấy viết tay. Nếu đánh máy sẽ
còn độ 200 trang và sau đó Hạnh Giới sẽ dịch ra tiếng Đức độ 200 trang
nữa. Tổng cộng chừng 400 trang. Đây có thể gọi là một đại tác phẩm được
chăng? Theo tôi, đây là tác phẩm tôi ưng ý nhất từ trước đến nay. Không
biết quý vị đọc sẽ nghĩ như thế nào? Riêng phần tôi thì đã nói cạn, nói
hết cả tấm lòng cho quý vị, người Việt cũng như người Đức nghe rồi đó. Tôi
đã chẳng giấu giếm một điều gì cả. Tất cả những gì tôi viết bên trên đều
là sự thật.
Tôi bắt đầu viết vào
ngày 4 tháng 6 năm 2002, nghĩa là sau gần 10 ngày an cư kiết giới và từ
ngày 4 tháng 6 đến nay (28.6.2002) tôi đã miệt mài mỗi ngày viết như thế
vào buổi sáng 2 lần từ 7 giờ 30 đến 8 giờ. Sau đó viết từ 9 giờ đến 10 giờ
rưỡi và buổi chiều viết từ 2 giờ rưỡi đến 4 giờ. Nếu ngày đó tôi không có
giờ học tiếng Phổ Thông hoặc dạy Chúng, hay giảng dạy giáo lý cho Phật Tử.
Có khi từ 5 giờ đến 6 giờ 30 chiều tôi cũng có viết tiếp, nếu ý tưởng
trong đầu còn diễn tiến.
Sau 8 chương của
quyển sách tôi viết, tôi đã chẳng đọc lại một lần nào. Vì ý tưởng cứ liên
tục như thế mà chảy xuôi, mà nhảy múa trong đầu minh, yên lặng thúc đẩy
tôi phải làm cho xong cái tổ ấy, như một loài ong hay loài chim đã vì sự
sống còn mà xây dựng nơi trú ngụ vậy. Văn tôi không là văn chương bác học,
mà chỉ là loại văn bình dân. Mong rằng người đọc sẽ lãnh hội được phần nào
khi đọc đến sách của tôi.
Ngày hôm nay có một
số thiệp chúc mừng gởi đến, trong đó có thiệp của ông Dr. Meihorst người
luôn luôn giúp đỡ chùa và nhiều quà kỷ niệm khác nữa. Đồng thời quý Thầy
đệ tử đi làm Phật sự tại Đan Mạch, Nürnberg cũng đã về. Một số bà con Phật
Tử Việt cũng như Đức đã tề tựu nơi hội trường để chờ tôi đến.
Từ Việt Nam xa xôi,
anh Bảo Tâm, bào huynh của Hạnh Bảo, cũng đã gởi tặng tôi một bài thơ đồng
thời có thơ chúc mừng sinh nhật cũng như phần mở đầu của một cuốn sách mà
anh dự định viết về tuổi thơ của tôi. Xin đa tạ tấm lòng của người Phật Tử
ở phương xa, đồng thời tôi xin chép bài thơ ấy vào đây để làm kỷ niệm.
Về thăm quê Thầy
Người đi kết chuỗi
bồ đề
Từ làng Xuyên Mỹ lần
về Hội An
Trải qua ba, bốn
giới đàn
Vĩnh Gia, Quảng Đức,
đạo tràng Hưng Long
Đạo vàng xen phủ ánh
hồng
Hà Linh, Viên Giác,
Phước Lâm, Phổ Đà
Dấu xưa tích cũ
giang hà
Ba mươi năm chẳn,
xót xa chưa về
Mây trời xứ Quảng ủ
ê
Cố tri, đồng đạo,
tình quê vẫn nồng
Người đi ba chục năm
ròng
Đạo vàng tỏa ngát
ánh hồng Viễn Tây.
Mỗi năm có một ngày
sinh như thế để nhớ về sự sinh thành dưỡng dục của mẹ cha, phải quý trọng
ơn đức nầy. Nếu không có cha mẹ thì ta chẳng có vóc hình. Nếu không có
Thầy Tổ, chẳng ai có thể nuôi dạy ta thành người. Nếu không có hạt cơm của
đàn na tín thí làm sao nuôi ta lớn và nếu không có quốc gia nầy chở che,
làm sao ta hít thở được không khí tự do. Chỉ ngần ấy thứ thôi, đủ thấy ta
nhỏ bé, ta chẳng xứng đáng gì với những ơn đức cao cả như bên trên vừa kể.
Tuy nhiên những người thân, tử đệ tạo cho mình có một niềm vui, như thế
cũng quý rồi. Chứ chờ lúc chết dầu có cúng tế bao nhiêu thứ trái cây, trổi
bao nhiêu bài nhạc buồn thì mình có thể ngồi dậy được đâu để mà thưởng
thức.
Năm nay cũng là năm
thứ 31 tôi đã ở ngoại quốc. Hơn ba mươi năm ấy đem tất cả tinh thần và sức
lực trong thời thanh niên và trung niên để góp mặt với đời và trong hơn 30
năm ấy biết bao nhiêu là chuyện phải nói, phải làm. Những gì đáng nói tôi
đã nói; nhưng gì đáng viết tôi đã viết. Tôi giống như con tằm chỉ có bổn
phận phải nhả tơ để dệt nên những gấm hoa cho người đời thưởng ngoạn. Tuy
là dâu, nhưng nếu không có tằm thì dâu kia sẽ không thành vải. Tuy là tằm
nhưng nếu chỉ biết ăn dâu mà không tiêu thụ thành sản phẩm thì đâu có được
những sợi tơ óng ả cho cuộc đời.
Tôi sống trong cuộc
đời nầy chịu ơn nhiều người, nhiều việc. Do vậy mà phải biết cảm ơn ngay
từ bây giờ. Nếu không thì không có cơ hội đâu mà giải bày. Thứ nhất là cảm
ơn xứ Đức nầy, như những gì tôi đã bộc lộ bên trên, trong đó có cả sự cảm
ơn Bộ Nội Vụ Cộng Hòa Liên Bang Đức giúp cả giấy mực để in ấn tác phẩm nầy
hình thành mà góp mặt với đời. Thiết tưởng ở ngoại quốc nầy ít có chùa nào
và người nào được vinh hạnh như thế.
Thứ đến là tử đệ,
người đánh máy, người in, người đọc bài, người chữa lỗi chính tả, người
sắp thành sách, người đóng gáy, người cắt xén, người dán tem bỏ vào bao
thư, người gởi đi v.v... thôi thì không biết bao nhiêu là công đoạn. Những
nghĩa cử ấy, những ơn đức ấy biết lấy gì mà đền đáp cho vừa. Hai tiếng cảm
ơn suông ư? như thế chưa đủ, phải thể hiện tấm lòng của mình cho mọi người
rõ, phải phơi trải lòng mình để mọi người cùng tin tưởng mà góp việc
chung, phải hiến dâng kế sách hoặc khả năng của mình để góp phần làm đẹp
cho quê hương nầy cũng như Đạo Pháp. Đó là tất cả tấm chơn tình của tôi
đối với Đời cũng như với Đạo. Còn khen chê, hơn thua, được mất hãy trả lại
cho đời, xin để phía sau lưng và không cần mang theo hành trang đi vào cõi
yên tĩnh của cuộc đời.
Tôi sống rất giản dị
và lúc chết có thể cũng thế thôi. Chỉ mong sao tình thương trí tuệ luôn
hiện hữu trên cuộc đời nầy để xoa dịu những khổ đau tục lụy, để đời còn có
cơ hội vươn lên và còn có khả năng để tiếp tục cuộc hành trình muôn dặm
ấy.
Tôi sẽ gác bút nơi
đây để nhìn lại tự thân mình và kiểm điểm những gì đã làm được nhân lần
sinh nhật thứ 54 nầy và để từ đó có một cái nhìn rạng rỡ hơn khi hướng đến
những tháng năm còn lại của cuộc đời.
Xin cảm ơn đời, cảm
ơn người, cảm ơn tất cả và trong đó không quên cảm ơn xứ Đức như tựa đề
của quyển sách đã muốn trình bày và cầu nguyện mọi người, mọi loài có một
cuộc sống tâm linh hướng thượng, nhằm sách tấn nội tâm mình càng ngày càng
cao cả hơn.
Viết xong vào ngày
28 tháng 6 năm 2002
tại thư phòng chùa
Viên Giác,
Kỷ niệm lần sinh
nhật thứ 54 của tác giả
Thích Như
Điển
---o0o---
Mục Lục |
Chương I
|
Chương II
|
Chương III |
Chương IV
Chương
V|
Chương VI |
Chương VII
|
Chương
VIII