---o0o---
Hóa thân phải chăng là một hiện tượng siêu hình như
ma quỷ hóa làm người, người hóa thành ông bình vôi trong truyện cổ tích?
Hóa thân phải chăng là óc tưởng tượng không có thực trong sinh hoạt tâm lý
của con người? Hay hóa thân không chỉ có thế mà còn có một ý nghĩa tích
cực? Dẫu sao, khái niệm hóa thân, về tính chủ thể (subjecthood) cũng như
tính khách thể (objecthood), đã có mặt từ cung bậc thấp nhất đến cao nhất
trong cuộc sống con người.
Lạp chúc hữu tâm hoài tích biệt,
Thế nhân thùy lệ đáo thiên minh.
Hay:
Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mặt trời che khuất người thương!
Là những loại hình nhân cách hóa trong văn chương. Ngọn đèn, ngọn núi đã
được hóa thân như một hữu thể có ý thức cho người đối thoại. Người đọc
tiểu thuyết, người xem phim thường có những lúc hòa mình vào một nhân vật
nào đó mà ta có cảm hứng. Một diễn viên thủ một vai rất xuất sắc, y như
thật, bộc lộ được toàn diện nhân vật trên sàn diễn, gọi là nhập vai tức là
người nghệ sĩ đã tự hóa thân từ một con người thực trong cuộc sống đời
thường ra một nhân cách khác trong nghệ thuật. Những con chồn trong
Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh đã đổi dạng thay hình làm cho khách
đa tình có những giây phút kỳ ngộ.Trang Chu mơ thấy mình hóa bướm, đến khi
tỉnh dậy ngẩn ngơ không biết mình đã mơ thấy hóa bướm hay đang mơ thấy làm
người. Trong thiền học có nói “ngoan thạch điểm đầu” và trong kinh A Di
Đà có nói tiếng chim lời gió ngày đêm sáu thời diễn xướng âm thanh hòa
nhã khiến người nghe phát tâm niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng. Trong các
thiền sư danh tăng Việt Nam có những thiền sư được nhiều lần phong thần
như Không Lộ, Từ Đạo Hạnh, Giác Hải đã được phong Trung đẳng thần vào năm
Duy Tân thứ 4, các Thiên hoàng của Nhật Bản như Thần Vũ Thiên hoàng v.v…
đã được thần hóa và các vua Pô Thun Rài, Pô Rô Mê của dân tộc Chàm cũng
được thần hóa và được khắc hình trên Linga thờ trong tháp. Khái niệm hóa
thân đã làm phong phú cuộc sống nhân gian qua nhiều cung bậc với muôn vàn
trạng thái.
Những hóa thân đa dạng đa thái với nhiều ý nghĩa có lẽ phổ biến vẫn là
trong kinh điển nhà Phật. Tượng Phật Quan Âm nghìn tay nghìn mắt là biểu
trưng ý nghĩa tích cực của hóa thân mà nghệ thuật tạo hình Việt Nam đã
diễn tả. Nhưng không phải chỉ có Phật Quan Âm, nguồn cảm hứng trong phẩm
Phổ Môn của kinh Diệu PhápLiên Hoa mà còn trong bao nhiêu kinh với
bao nhiêu hình tượng như Phật A Di Đà hay các Bồ tát Dược Vương, Dược
Thượng, Hư Không Tạng, Địa Tạng v.v… trong kinh Đại Tập. Các họat
động hóa thân trong kinh giáo thường được rút tỉa ý nghĩa đưa vào cuộc
sống như tuyện Tấm Cám, truyện Cây nêu ngày Tết, truyện
Cây tre trăm đốt của Việt Nam. Nhưng nếu ở Việt Nam chỉ diễn tả ở bậc
cao thì ở Nhật Bản lại diễn tả được nhiều mặt trong cuộc sống với nhiều
cung bậc như tuyện Hai kẻ yêu nhau, truyện Thế mạng, truyện
Địa Tạng vị Bồ tát của trẻ em v.v… chứ không phải cứ mỗi mỗi lại
ông Bụt hiện ra.
Thử suy gẫm câu chuyện sau đây:
Bá tước Phó Tư lênh Hải quân Ogasawara có một thời làm thư ký cho Tư lệnh
Hải quân Togo Heihachiro, người được gọi là anh hùng trong chiến tranh
Nga-Nhật (1904-1905), đã được gọi nhập ngũ với cấp bậc chuẩn úy hải quân
khi xảy ra chiến tranh Nga-Nhật.
Trước khi lên đường, mẹ ông trao cho ông một pho tượng Phật vàng Quan Âm
cao 1.8 inch và bảo hãy cúng Phật một ly nước mỗi buổi sáng. Ogasawara nói
với một người bạn rằng ông đã cúng nhiều hơn để tỏ lòng thành với sự dạy
bảo của mẹ. Một hôm ông mơ thấy một trận hải chiến đẫm máu. Đại pháo của
Nga bắn trúng thuyền của ông làm ông mất một cánh tay. Sáng hôm sau viên
chuẩn úy trẻ viết thư cho mẹ kể về giấc chiêm bao đêm qua, nhưng tuyệt
nhiên không nói đến việc thấy mình bị mất một cánh tay vì sợ mẹ lo âu. Hai
mươi ngày sau, trận hải chiến nổi tiếng xảy ra trên biển Hoàng Hải. Các
chiến thuyền bố trí đội hình y hệt như ông đã thấy trong giấc mơ. Đại pháo
Nga bắn trúng thuyền ông. Chiếc áo khoác ông treo bị thủng 13 lỗ. Ông
không bị trúng đạn mà một cánh tay tượng Quan Âm đã bị đạn lấy đi mất.
Việc này đã làm cho viên chuẩn úy trẻ tin vào sự phù hộ của Phật Quan Âm.
Sau khi cởi áo chiến bào, Ogasawara dành khoảng đời còn lại cho việc phụng
thờ Phật Quan âm và rộng giảng hạnh ngụyện của vị Bồ tát cứu khổ cứu nạn.
(Truyện Thế Mạng của Sakai Atsuharu trong Japan in a nutshell).
Và sau đây là truyền thuyết về quả chuông chùa Miidera ở tỉnh Aomori:
Ngày xưa có một thanh niên trông thấy một đám trẻ con chơi đùa nghịch ngợm
một con rắn ở bãi biển. Chàng thanh niên cho bọn trẻ mấy xu để mua con rắn
và phóng thích nó. Mấy hôm sau có một thiếu nữ đẹp đến nhà người thanh
niên xin cho trọ qua đêm. Rồi dần dà người con gái đó ở lại nhà người
thanh niên cho đến khi người thanh niên đem lòng yêu nàng và lấy nàng làm
vợ. Cuộc sống vợ chồng đã diễn ra trong ngôi nhà ấy. Tuy nhiên hàng đêm cứ
đến giờ đi ngủ thì nàng vào phòng riêng của mình và dặn chồng đừng bao giờ
nhìn vào bên trong lúc nàng đang ngủ. Do tính hiếu kỳ quá mạnh không chế
ngự được, một hôm chàng lén nhìn trộm thì thấy một con rắn với một em bé.
Nàng bảo chồng: “Thân thế của thiếp đã bị phát hiện, thiếp phải giã từ
chàng ra di. Thiếp để lại cho chàng viên đá quý này thì con chúng ta không
bao giờ khóc. Nhưng nếu khi nào con không hết khóc, chàng hãy ra bãi biển
nơi xưa chàng cứu thiếp và vỗ tay ba tiếng”.
Lãnh chúa địa phương biết tin trong làng có người đàn ông có được viên đá
quý của con rắn và đã đoạt lấy. Thế rồi từ đó đứa con khóc mãi không thôi.
Người đàn ông nhớ lời vợ lúc chia tay đã ra bãi biển vỗ tay ba tiếng.
Người vợ rắn liền xuất hiện bảo người đàn ông rằng: “Viên đá quý thiếp
trao cho chàng là một trong đôi mắt của thiếp. Giờ vì con, thiếp sẽ trao
cho chàng viên đá quý khác, là tròng mắt còn lại của thiếp. Xin chàng hãy
bảo trọng giữ gìn thì con chúng ta sẽ hết khóc. Nhưng từ nay thiếp hoàn
toàn thành kẻ mù lòa. Xin chàng hãy vì thiếp hiến cúng một quả chuông vào
chùa Miidera để thiếp biết được ngày đêm mỗi khi nghe tiếng chuông chùa”.
Và từ đó mỗi triêu mộ người ta lại nghe tiếng chùa Miidera vang vọng
(Truyền thuyết về quả chuông chùa Miidera của Sakai Atsuharu trong
Japan in a nutshell).
Pho
tượng Quan Âm dù bằng vàng cũng chỉ là một thứ vật chất vô tri vô giác,
nhưng sự mất một cánh tay của pho tượng vi diệu vô thượng biết bao. Ôi con
rắn một thứ súc sinh mà người đời hễ gặp là muốn đánh dập đầu cho chết,
nhưng con rắn ở đây thể hiện một tình cảm cao quý, một tình cảm không thể
thiếu ở con người nếu con người đó mang thân xác người mà không muốn có
một lòng dạ súc sinh. Con người không phải thiên thần hay quỷ súc nhưng
con người có khả năng hóa thành một cái gì cao hơn thiên thần hay tháp hơn
quỷ súc. Điều đó tùy thuộc vào việc con người có làm chủ được bản thân, có
chủ động được việc hóa thân hay không. Nếu hài lòng về một điều gì thì đã
thành đạt rồi mãn nguyện, hãnh diện, tự hào vê tròn quả phúc thì đó là bị
hóa thân..
Hóa thân trong tinh thần đạo Phật là đường lối tự vươn lên, là phương tiện
đem Phật pháp vào cuộc sống. Hóa thân không phải lúc nào cũng có thần
thông biến hóa, cũng bao phủ hào quang được người trần0 mắt thịt ca tụng
chiêm ngưỡng và luôn luôn đi tới một kết cuộc có hậu như kết cuộc của
những tuồng kịch cổ điển. Hóa thân có lúc phải khoác một hình hài tiều
tụy, chịu nỗi gian truân và không ngại sẽ gặp một kết thúc bi thảm. Hóa
thân như môt Võ Trứ ở Bình Định, một Bạch Xỉ tướng quân ở Quảng Bình, một
người theo đạo Thích ở Định Tường, một đạo Lành ở Nam Kỳ (Xem Lý Kim Hoa,
Châu Bản Triều Nguyễn, Tư liệu Phật giáo) cũng là ý nghĩa tích cực
của hóa thân. Người Phật tử thường niệm Nam mô Thiên bách ức hóa thân
Thích Ca Mâu Ni Phật vì trong truyện tiền thân Đức Phật có vô số hóa thân
như thế.
Nguồn: Văn Hóa Phật Giáo số 5 (6/2005)
---o0o---
Vi tính: Nguyên Trang. Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-12-2005