Bấy giờ là mùa Xuân sang, khắp
vùng rừng núi Gaya. Nơi ấy, có nhiều hành nhân nhìn thấy Xuân về
với vạn hoa đơm bông nẩy lộc. Các khe suối nước trong vắt, lặng
yên không tiếng động. Có những hồ lắng sâu in bóng mây trời tơ
nõn tuyệt đẹp. Đạo nhân xuống núi đi vào nhân gian, thấy đâu
đâu cũng linh đình ăn uống vui chơi, bày cuộc chơi giỡn khắp nơi.
Đạo sĩ hỏi các anh đang làm gì đó? Phía trước có tiếng đáp
rằng: Mùa Xuân đang tới, nhà kia sinh con trai, có nhiều lễ hội vui
nói không hết. Nghe vậy, đạo nhân tự nói: Mùa Xuân đến, vạn
vật lớn lên lan tràn từng ngày. Ta hãy về núi vắng, lặng yên
mà tu hành.
Rồi mùa Thu tới, vị hành nhân lại xuống núi. Nhìn
đâu Ngài cũng thấy cây cối trụi lá tiêu điều, lá rụng đầy,
đất trời như cái mền lớn phủ trùm. Các khe lạnh khô cạn, đất
cứng hết sức. Khi ấy, vị hành nhân suy nghĩ: Hiện nay bên ngoài
vạn vật đang suy tàn rơi rụng. Hoa xinh tươi không còn trở lại sum
sê. Ông thấy nơi này chốn nọ trong thôn xóm có nhiều cảnh buồn
bã như tang ma với tiếng kêu khóc buồn thương ấm ức. Sau đó, ông
trở về núi, ngồi kiết già suy tư sâu sắc, không bị loạn động xen
vào. Thấy trong, ngoài đều là vô thường. Ông đi vào công án:
Nhựt Chuyển, nghĩa là không có cái gì ngừng lại. Nhựt chuyển là
gì? Là tính từ mùa Xuân đến mùa Thu. Từ mùa Thu đến năm. Từ
năm đến tháng. Từ một tháng đến nửa tháng. Từ nửa tháng
đến ngày. Từ ngày đến giờ, từ giờ đến ngày đêm. Từ ngày
và đêm đến sự chuyển động. Từ chuyển động đến hơi thở ra
vào. Từ hơi thở ra vào là chỗ tận cùng chấm dứt. Không còn
sót cái gì nữa. Từ chỗ dứt hết ấy mới biết là hết sạch
trơn, vạn vật tan biến hình hài, qua một chu kỳ khác. Khi đã biết
không còn hình hài thì biết được cái gì khởi lên từ cái gốc
diệt. Ông nhớ lại lời đức Thế Tôn nói: Mọi cái không
thường còn thì là khổ, và khi ấy, Phật nói giữa đại chúng bài
kệ rằng:
Đi mãi không trở về
Vậy, đêm ngày gắng sức
Cá lên giàn nướng cháy,
Khổ sinh tử cũng vậy.
Trong kinh nói chỉ có Phật, Bồ tát, bậc đắc đạo
mới nhìn thấy chúng sinh ra đi mãi mà không ai trở về, tức đi theo
đường sinh tử quay mãi mãi. Người tỉnh biết thì nhìn lại hiện
trạng sinh tử thật khổ não như cá lên giàn nướng nên các Ngài
khuyên ai nấy cố gắng đạt tâm không nhiễm chấp đeo níu trần tục
tham đắm để có cơ hội ra khỏi vòng quay bất tận của sinh tử.
Công án là đề mục chú, đổ trút cả bình sinh vào nó là có cơ
may bừng ngộ bản tâm.
Mùa Xuân giàu có vạn bội là giàu có sự thảnh
thơi giải thoát, đó là mùa Xuân chân chính lồng lộng trong tâm
hồn người tu học. Đó là mùa Xuân quý giá bởi nó khó được,
nhưng lại ở ngay tâm mình. Trong kinh nói chúng sinh nghèo mạt pháp
tài, nên sống đời hom hem tăm tối, nợ nần lỗ lã, mắc nợ mãi
mãi không còn đồng xu dính túi với mụ già vô minh. Tài sản vinh
quang của ta bất diệt chính là kho pháp. Mùa Xuân về ta phải kiểm kho
pháp, kho tâm mình coi có những khối tỉnh sáng nào chăng. Ta giàu
có là giàu có tỉnh sáng thấy lại cơ ngơi tâm hồn mình, có lòng
thương, hiểu biết, giải trừ mọi tăm tối của cố chấp hận thù
nhỏ nhen, mà sống đời thảnh thơi giải thoát ngay tại đây. Biên
giới và tiếp cận thời gian vật lý và thời gian tâm hồn là ở
chỗ kể tuổi đạo. Tỷ kheo bắt đầu kể tuổi đạo vào ngày Tự
tứ hằng năm, sau ba tháng An cư không khuyết điểm, Phật vui mừng,
từ đó kể là lớn lên trên đường đạo một tuổi, không kể
theo tuổi thế gian tức đầu Xuân. Do vậy, mùa Xuân đất trời là
vật lý chuyển quay tự nhiên thay đổi cho đẹp vạn vật, mùa Xuân
là ba tháng trạm đầu của hy vọng trong xanh và vui mừng chế ra nhiều
lễ hội, kể tuổi sống bắt đầu từ đó. Mùa Xuân của đạo là
mùa Xuân sáng dậy tâm hồn, giàu có bởi thấy lại cơ ngơi vĩ
đại của tâm mình. Mùa Xuân tâm hồn giải thoát là mùa Xuân
không mất, bất diệt. Mùa xuân đất trời có biến dạng qua mùa
Hè. Bất thời giải thoát chính là mùa Xuân bất diệt của tâm hồn
lúc nào cũng lồng lộng, không phải đợi chờ điều kiện mới có
thể giải thoát. Thế giới bao la nhưng chỉ có tâm ta là vĩ đại chi
phối, cho nên mùa Xuân giải thoát, mùa Xuân tâm hồn giàu có thanh
tịnh mới là mùa Xuân chân chính mà ta đi tới, bước vào biên
thùy nó ngay đây trong mọi thời tiết, chở mùa Xuân ấy đi mười
phương, gọi là Bồ tát thừa Niết bàn du chư phương sở. Ta đứng
lên cỡi Niết bàn đi chơi trong mười phương. Ta chở mùa Xuân là
chở thế gian bao la kia làm cho nó thanh tịnh, tịnh quốc độ là đưa
mùa Xuân giải thoát đến cho nhân gian. Đó là nguyên tắc. Ta có an
lạc thảnh thơi, giải thoát, có nguồi suối mùa Xuân vĩ đại thì
mới đem tặng cho đời được. Do vậy, lo kiến tạo mùa Xuân giải
thoát là lòng thanh tịnh không lạnh giá của mọi cố chấp tù hãm
nhỏ nhoi, ta phát dậy biên cương vô hạn của mùa Xuân Akalika (ngoài
thời gian vật lý tháng năm hạn hẹp ước lệ trong hệ thống thái
dương hệ). Nói về trẻ và mùa Xuân, thì ai cũng muốn mình trẻ
mãi, xinh đẹp mãi như mùa Xuân, nhưng đó chỉ là mơ ước hão
huyền, không có ai nộp hồ sơ cho mùa Xuân xin như thế cả, bởi mùa
Xuân thoáng chốc đi qua, bản thân mùa Xuân cũng lo dọn dẹp gấp
cửa hàng, có thì giờ đâu mà lo cho đông đảo với trăm nghìn
nguyện vọng, thôi thì mùa Xuân ngồi trên cao ban phát ánh sáng tơ
trời gió nhẹ, và mọi êm dịu cho vạn vật là ra đi ngay, để mãi
mãi tạo hy vọng cho nhân gian.
Mùa Xuân ra ngoài kiếp sinh, trụ, diệt của đoản kỳ
thời gian là mùa Xuân của Phật tính hằng hữu, mùa Xuân của Tâm
Bồ đề hằng sáng lấp lánh như sông Hằng nghìn năm sông nước
vẫn còn. Kinh nghiệm này, ai cũng có thể thực hiện, ta chỉ đi chệch
ra ngoài giờ giấc thói quen là thấy có nhiều cái mới lạ khởi
lên trong tâm ý. Ta sống là ta bị đè nén thảm hại dưới sức
mạnh của thói quen. Nói về thói quen thì mùa Xuân cũng là một
thói quen với cái này thứ nọ, ta cắt giảm bớt dần thì cũng
không sao đối với những bày đặt càng rườm về sau này, không
đốt pháo chẳng hạn, rồi cũng quen. Tâm thức ta trôi chập chùng
như 40 ngọn núi chập chùng trong dãy quần sơ Himalaya. Tất cả đều do
thói quen, phù sa nó bồi đắp lâu đời mà nên, cho nên mùa Xuân
thời gian vật lý mỗi nơi có những khác nhau về thụ hưởng, vật
chất. Tu tập ta cũng phần nào có tham dự mùa Xuân nhơn thế, theo
lệ thường, kiểu bên ngoài 23 đưa ông táo, nhà chùa cũng đưa chư
Thiên, cho đạo chúng nghỉ công phu bái sám làm cả năm đằng đẳng,
nghỉ xả hơi để mùng 1 rước chư Thiên v.v... Ta phải biết lợi dụng
thời khóa biểu mùa Xuân để phát mạnh hơn nữa kiến tạo mùa
Xuân tâm hồn thanh tịnh rực sáng trời vô nhiễm ngay đây, có vậy
là ta vinh quang bước vào Phật tính bất diệt, ngoài thời gian vật
lý, sống trẻ mãi với mùa Xuân thanh tịnh ấy, thênh thang ra ngoài
tù hãm của sinh tử, hết trôi trong biển khái niệm nên thấy thời
gian là vô tận. Xưa chư Tỷ kheo tu tập một nơi, khi Xuân sang, họ có
lúc cũng đi nơi nầy nơi khác, nên chư Thiên thấy buồn vì sự sum
vầy nơi ấy tiếng nói pháp vang lên, giờ vắng vẻ, chư Thiên băn
khoăn hỏi:
Lòng ta không vui,
Đây không ai ngồi
Vị giỏi nói pháp
Hiện giờ ở đâu?
Thiên thần khác đáp:
Họ đi Ma Kiệt Đà,
Họ đi Kosala
Hoặc họ đi Vajja
Như nai thoát bẫy sập (năm dục)
Chạy nhảy bốn phương trời
Đời sống xuất gia thảnh thơi như thế.
Đoạn này lấy trong Samyutta bài kinh 194. Có ngoại đạo
thấy chư đệ tử Phật ngày ăn một bữa, sao thần thái tươi mát
xinh đẹp, ông ta hỏi nguyên nhân. Phật nói bởi họ không bao giờ
lo lắng tương lai hay nhớ tiếc quá khứ, còn phàm phu thì như cỏ non
bị cắt phơi ngoài nắng, bởi không biết chánh niệm như Tỷ kheo, mà
trái lại lo lắng quá nhiều. Sầu héo hết mùa Xuân chính bởi
những đường cày sâu đậm của lo lắng sầu hận quá khứ mất
mát đủ thứ. Tóm lại, nhân thời gian Xuân đất trời mà làm
tâm mình rực rỡ với mùa Xuân thanh tịnh, lắng trong của giải
thoát an lạc chánh niệm bất diệt. Hoa Xuân ấy không khô héo, đáng
tôn kính và nó là vĩnh hằng.