Xuân đến trăm hoa đua nở, cây cỏ xanh tươi, vạn
vật bừng lên sức sống. Ngắm nhìn cảnh xuân tươi đẹp, luân
chuyển theo dòng sanh diật của định luật thời không, hành giả Pháp
Hoa liên tưởng đến sức sống vui tươi của mùa xuân bất diệt vĩnh
hằng, mùa xuân chào đón những hành giả Pháp Hoa đắc đạo,
bước vào pháp hội không trung thuyết pháp, chiêm ngưỡng Bảo tháp
sáng rực bảy báu, tỏa ngát hương thơm chiên đàn. Cả một thế
giới thuần tịnh an vui trải ra vô tận. Cảng giới xuân nơi đây còn
tuyệt diệu hơn nữa với sự hiện hữu của Đức Phật Đa Bảo,
một vị Phật quá khứ cách đây vô lượng kiếp, vẫn an nhiên tự
tại mĩm cười mời đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni của chúng ta cùng
lên ngự trên tòa bảy báu của Ngài.
Thật vậy, sau khi trao cho đại chúng hành trang nhà Như
Lai, áo Như Lai, tòa Như Lai nghĩa là hành giả đã hoàn thiện đạo
đức và tri thức mới hội đủ tư cách để thâm nhập thế giới
xuân vĩnh hằng, thế giới kỳ diệu của chư Phật. Bỗng nhiên, tất
cả đều KHÔNG, chỉ duy nhất có tháp Đa Bảo hiện ra, trụ giữa hư
không, vang ra lời khen ngợi đức Thích Ca Mâu Ni diễn nói pháp chân
thật. Đức Phật Thích Ca cũng trụ trong hư không, mở Bảo tháp và
ngồi chung pháp tòa với Phật Đa Bảo, đồng thời Ngài dùng thần
thông tiếp đại chúng lên hư không. Tất cả đều trụ ở hư không
nghĩa là tất cả đều chứng trí Bát Nhã, thấy các pháp đều
KHÔNG hay mọi việc trên cuộc đời không còn chướng ngại đối
với hành giả vì đã nhận chân rõ bản thể các pháp. Thế giới
chân không thật hữu này của Bồ tát hoàn toàn khác với thế
giới không của Nhị thừa, tưởng tượng cái có thành ra không.
Hành giả trụ hư không tức trụ đại định, không còn bị vật chất
chi phối, thân tâm hoàn toàn tự tại, bỉ ngạn thử ngạn hay thế
giới siêu thực và thế giới hiện tượng thông thành một cõi.
Bấy giờ, tháp Đa Bảo và Phật Đa Bảo hiện ra, trải dài một thế
giới tinh luyện bằng bảy báu, tiêu biểu cho những gì quý giá nhất
được hình thành từ sự giác ngộ của đức Phật mà kinh Lăng
Nghiêm diễn tả là "Không sanh đại giác trung". Thiết nghĩ
đối với hành giả đem cả sinh mạng hành Bồ tát đạo, nỗ lực
công phu thiền định, phát sinh được Như Lai huệ, quan sát pháp giới
thấy tháp Đa Bảo hay vào được thế giới giác ngộ của chư Phật,
chắc chắn đó là niềm vui vô tận, là mùa xuân vô cùng. Pháp
hội không trung không có gì khác ngoài tháp Đa Bảo, duy nhất tháp
Đa Bảo, là tinh ba của thế giới Phật, là bảo sở của hành giả
đã vượt 500 do tuần đường hiểm. Ba đời mười phương Phật hành
đạo tích luỹ công đức, kho thánh tài vô tận của chư Phật, tạng
bí yếu Như Lai, đều có đầy đủ trong Bảo tháp. Vì vậy, tháp báu
này quý giá vô song, bảy báu thế gian không thể so sánh được,
dưới mắt người tu, bảo vật thế gian vô nghĩa vì càng có nhiều
càng chuốc họa vào thân. Trái lại, thấy được tháp Đa Bảo nghĩa
là nhận ra tháp chân thật, sống với tháp chân thật mà đức
Phật truyền trao, mọi việcđều thành tựu theo ý nguyện. Cuộc đời
đức Phật đã chứng minh rõ điều này, Ngài không cần cất giữ
một đồng nhưng Ngài là vua trên các vua, vì đức Phật đã tìm
được kho báu, sử dụng được kho báu làm phước lạc cho trời
người. Ngày nay, hành giả bước theo dấu chân Phật tất yếu phải
thâm nhập thiền định để phát sinh trí tuệ mới có thể sử dụng
kho báu. Hàng lậu tận La Hán thấy kho báu ví như người có mắt mà
không có tay nên không lấy được. Hàng Bồ tát từ sơ phát tâm
cho đến đệ bát địa ví như có tay nhưng không có mắt nghĩa là chỉ
có niềm tin đối với Phật, đảnh lễ cầu nguyện thì việc giải
quyết dễ dàng, phước báu đến liền. Điều này dễ kiểm chứng,
trên bước đường tu có lúc tâm chúng ta thanh tịnh chí thành đến
mức tạo thành độ cảm, liên hệ được với Phật nên được
Phật hộ niệm, công đức sanh ra. Tuy nhiên, cầu xin lần thứ hai thì
lại không được, không có cách gì để nhận được phước báu
như lần trước. Riêng đối với hàng Bồ tát đã đến Bảo sử
tức Bồ tát vừa giải thóat, giải thót tri kiến và có niềm tin
kiên cố được ví như người có tay có mắt đầy đủ, vào kho báu
tuỳ ý lựa chọn, sử dụng thánh tài vô tận của đức Phật để
phục vụ lợi lạc cho mọi người. Đó là chân thật pháp trong kinh
Pháp Hoa mà đức Phật muốn truyền trao, đồng thời nhắc nhở tất
cả hành giả Pháp Hoa cần phát triển trí tuệ để có thể củng cố
niềm tin theo chánh pháp, vì niềm tin không được trí tuệ hướng
dẫn dễ trở thành mê tín. Hành giả an trụ chánh định, giữ tâm
vắng lặng trong sáng, từ đó phát sinh trí kiến Như Lai. thấy được
kho báu hay ngộ được pháp chân thật, tạo thành thế giới quan
tràn đầy niềm vui, hình thành mùa xuân kỳ diệu, không bao giờ tàn
phai héo úa vì tác động của mê lầm, tham sân, dục nhiểm. .
Đại chúng nhìn thấy tháp Đa Bảo nhưng không ai có
khả năng mở tháp, lấy kho báu trang nghiêm bản thân, làm lợi ích
cho người. Hàng A La Hán, Bách Chi Phật cũng vậy, hoàn toàn tuyệt
phần. Chỉ rie6ng đức Phật Thích Ca có thừa sức mở tháp báu bằng
một ngón tay mặt. Ngài cho đại chúng biết muốn mở được Bẳo
tháp cần phải tập trung phân thân. Phân thân của Phật Thích Ca tiêu
biểu cho tâm từ bi của Ngài đến với muôn loài, biến tất cả
thành thân của Phật gọi là pháp thân. Hàng A La Hán, Bích Chi Phật
không thể tạo phân thân được, nghĩa là không đủ tâm từ bi,
không đủ lực tác động cho người vì Bích Chi Phật, A La Hán hay
nói chung tất cả mọi nhười thường đóng khuôn môi trường sinh
hoạt của mình, ai sống theo giai cấp, chủng tộc đó. Thí dụ giới
thương gia thân thiện với nhau, người làm thuê mướn kết bạn vớ
người làm thuê mướn, chánh khách sinh hoạt với chánh khách. Mọi
người đã quen với nếp nghĩ nếp sống phân biẹt giai cấp rõ rệt,
khó sống chung, khó hòa hơ5p thật sự, dù trò chuyện với nhau cũng
chỉ miễn cưỡng, hoặc có tình thương đến giúp đỡ người nghèo,
xong vị6c rồi thôi, ta và họ không còn liên hệ, mỗi người lại
có cách sống riêng, không nhớ nghĩ đến nhau. Đức Như Lai thì hoàn
toàn khác hẳn, Ngài là vha lành của muôn loài, đến với tất cả
mọi người thuộc mọi tầng lớp, nhưng ai cũng nghĩ Phật là của
riêng họ, thương họ nhất, thậm chí chúng ta sống cách Phật gần 3000
năm cũng vẫn còn cảm nhận được tình thương vô hạn của Phật
chan hòa cho. Vì vậy, điều quan trọng đối với hành giả Pháp Hoa
nếu muốn thấy Bảo tháp, vào sống với Phật Đa Bảo, sử dụng
được của báu đài hỏi hành giả phải thành tựu pháp ấn này
trước tiên, trong kinh diễn tả là nhà Như Lai. Điều này dễ hiểu
vì thực tế chúng ta nhận thấy rõ bất cứ ai được nhiều người
thương mến sẽ dễ dàng thành co6ng việc lớn, ngược lạ người bị
oán ghét nhiều, dù có giỏi cũng trở thành vô dụng. Tình thương
của đức Phật trang trải đồng đều cho tất cả các loài, là chất
keo gắn bó tất cả các thành phần xã hội só6ng chung hài hòa, trong
khi có thể hàng Bồ tát không chấp nhận cách tu tiêu cực của Thanh
Văn hay ngược lại Thanh Văn không đồng ý cách hành đạo phóng
khoáng của Bồ tát, nhưng cả hai đều phục tùng thương kính Phật,
sống hòa hợp dưới sự chỉ đạo của Ngài vì đức PHật đầy
đủ trí tuệ sáng suốt, xứng đánh làm thầy của Thanh Văn, Bồ
tát, chư Thiên. Bằng tâm từ bi trí tuệ bao la, đức Phật mở
được cánh cửa Bảo tháp. Trí tuệ và lòng từ bi của Phật soi
rọi đến Thanh Văn, Bồ tát, chư Thiên thì họ biến thành thân phân
PHật. Phân thân Phật trong khắp mười phương giảng nói không giống
nhau nhưng cũng không chống trái nhau. Như Lai ở phương tiện môn thích
cho mọi hoàn cảnh không thiếu một pháp nào và trở về chân lý
cũng hoàn toàn tự tại không vướng mắc pháp nào. .
Khi Bảo tháp mở ra, đức Phật tiếp độ đại chúng
lên hư không và dạy rằng ai muốn tu Pháp Hoa, ngay bây giờ nên
phát nguyện trước hai đức Như Lai. Điều này gợi nhắc chúng ta
phải đến trước hai đức Như Lai trụ giữa hư không để phát
nguyện, nhằm diễn tả trạng thái thâm nhập chân lý của người
đắc đạo, không phải là việc làm đơn sơ, tu bằng hình thức. .
Hành giả trụ chánh định nghe Phật thuyết pháp đồng
nghĩa với tới được Bảo sở hay đến trước hai đức Phật để
phát nguyện độ trì kinh Pháp Hoa. Ngài Từ Ân kiến giải ý nghĩa
PHật quá khứ Đa Bảo và Phật hiện tại Thích Ca Mâu Ni ngồi chung
pháp tòa là cổ kim bình đẳng bất nhị, Phật xưa và nay không khác,
ba đời mười phương Phật hiểu biết chân lý, vận dụng chân lý,
và sống với chân lý đều giống nhau. Trên bước đường hành
đạo, chúng ta cần cân nhắc điều này, chúng ta tuyên dương chánh
pháp có thể diễn nói lời khác người trước nhưng không sai ý
họ nên hiện tại và quá khứ là một, còn chấp y quá khứ thì
hiện tại đã tự biến thành quá khứ, không còn đúng. Tuy nhiên
lập y lời Phật sẽ phạm tội huỷ báng Phật, nhưng bỏ lời Phật,
coi chừng lạc tà thuyết. Vì vậy để giới thiệu pháp chân thật,
đức Thích Ca phải kéo Phật quá khứ Đa Bảo trở lại hiện tại
để chứng minh rằng Ngài thuyết đúng chân lý. Thiết nghĩ trên
đường tu học, hành giả đến bờ giác, nhận được ấn chứng
của đức Đạo Sư truyền trao, chắc hẳn không còn gì sung sướng
hơn, từ đây chân trời Xuân mở rộng cho hành giả thẳng tiến
không sợ chướng ngại .
Tháp Đa Bảo xuất hiện, phân thân Phật tập trung, tất
cả đều nhằm diễn tả lực tác động vô hạn của tâm từ bi bao la
và trí tuệ tuyệt vời của đức Phật, bấy giờ Ta Bà biến thành
Tịnh độ. Từ đây Ngài giới thiệu cho chúng ta loại hình thế giới
mà đức PHật xây dựng hoàn toàn bằng chất liệu tình thương chân
thật và hiểu biết chính xác trọn vẹn. Được vào sống trong thế
giới điều động bằng tình thương và trí tuệ của người đắc
đạo, theo tôi, không có gì hạnh phúc, an lạc hơn cho hành giả đang
tiến bước trên đường thể nghiệm Bồ tát pháp. .
Tóm lại Bảo tháp đã khép kín, ẩn mình từ vô
lượng kiếp, nay nhờ lực tác động của bậc toàn giác toàn trí
Thích Ca Mâu Ni, Bảo tháp xuất hiện và đức PHật đã mở Bảo
tháp lấy của báu ban phát cho chúng hội, sử dụng muôn đời không
hết. Nói khác, Phật pháp hằng hữu ngàn đời từ chư Phật quá
khứ, đã được đức Thích Ca Mâu Ni khai thị ở Ta Bà và Thánh
tài pháp bảo Ngài truyền trao trải qua hàng ngàn năm vẫn còn là
kim chỉ nam hướng dẫn cho đệ tử khắp năm châu xây dựng cuộc
sống an lạc, giải thoát, mở ra chân trời Xuân vĩnh hằng, mãi mãi
là nơi an trú ấm áp cho những hành giả mang hạnh nguyện thượng
cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh, Bảo tháp vẫn mãi mãi hiện hữu
như những chứng nhân siêu tuyệt cho mọi tâm hồn quyết lòng theo
bóng Thế Tôn mang an vui cho muôn loài.
NAM MÔ PHÁP HOA KINH CHỨNG TÍN THI HIỆN ĐA BẢO NHƯ LAI.