Ý nghĩa
Vía Phật -
Bồ Tát trong năm
---o0o---
TỔ TUỆ VIỄN
VỚI PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Thích Phước Tiến
A/ DẪN
NHẬP
Từ khởi
nguyên, mục đích của đạo Phật là ban vui cứu khổ. Vì chúng sanh căn tánh
đa dạng, nên đức Phật phải phương tiện với nhiều pháp môn bằng câu chăm
ngôn quen thuộc. Đó là “chúng sanh đa bệnh Phạât Pháp đa phương”. Cho nên
giáo pháp của đức Phật được phương tiện chia ra làm mười tông (theo cách
thành lập tông của Trung Hoa), mỗi tông phái nhằm thích hợp với một số căn
tánh chúng sanh. Hầu hết các tông phái này được phát triển ở Trung hoa, dù
Thiền, Tịnh hay Mật… cũng đềâu có chung một mục đích là làm sao cho tất cả
chúng sanh đều được giác ngộ.
Hiện nay
trong mười tông phái, một số tông phái tạm thời lắng dịu, nhưng Thiền,
Tịnh, Mật, mặc dù có những lúc thăng trầm, nhưng luôn luôn được thịnh
hành.
Riêng
tông Tịnh độ là con đường duy nhất giúp cho chúng sanh trong thời Mạt pháp
tìm đường thoát khỏi khổ đau sinh tử luân hồi. Trong kinh Vô Lượng thọ Đức
Phật đã huyền ký : “Đời tương lai kinh đạo diệt hết, ta dùng lòng từ bi
thương xót, riêng lưu trụ kinh này trong khoảng một trăm năm. Nếu chúng
sanh nào gặp kinh này, tuỳ ý sở nguyện, đều được đắc độ”. Ngài Ấn Quang
đại sư, môït bậc cao tăng cận đại ở Trung Hoa, cũng đã bảo: “Thời mạt
pháp, chúng sanh nghiệp nặng tâm tạp. Nếu ngoài môn Niệm Phật mà tu các
pháp môn khác, nơi phần gieo phước báo căn lành thời có, nơi phần liễu
thoát luân hồi thời không. Tuy có một vài vị cao đức hiện kỳ tích phi
thường, song đó đều là những bậc Bồ tát nương theo bản nguyện mà làm mô
phạm dẫn dắt chúng sanh đời Mạt pháp”.
Đặc biệt
nhất, ở Việt nam, Tịnh Độ tông được đại đa số quần chúng áp dụng và đem
lại kết quả lớn. Vì lợi ích thiết thực cho số đông, kể từ khi được truyền
vào, nên pháp môn Tịnh Độ nghiễm nhiên trở thành pháp môn tu tập cốt tuỷ
mà người học Phật Việt nam. Vì là pháp môn dễ tu dễ đắc, nhưng cũng dễ mắc
phải những sai lầm về nhận thức và hành trì, cho nên người học phật cần
phải tìm hiểu rõ chân giá trị hầu làm lợi ích trên con đường tu tập giải
thoát.
B/
NỘI DUNG
Tịnh độ tông hay các tông phái khác phần
lớn hầu như đều được phát triển ở Trung Hoa. Trung hoa được xem như là cái
nôi của Phật giáo Đại thừa và nhất là Việt Nam chịu ảnh hưởng truyền thống
tu tập của Phật giáo Trung hoa rất sâu sắc. Mặc dù Tịnh Độ Tông xuất xứ
từ Ấn Độ, nhưng được đơm hoa kết trái ở Trung quốc do sự xiển dương hoằøng
truyền của chư vị Tổ sư, điển hình là Ngài Tuệ Viễn . Vì vậy, Tịnh Độ tông
ở các nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam … xem Ngài (Tuệ
Viễn) là vị Tổ đầu tiên có công truyền bá pháp môn này. Để hiểu rõ được
pháp môn tu tập thâm áo của tông Tịnh độ, trước hết chúng ta cần tìm hiểu
sơ lược về cuộc đời và sự nhiệp hoằng truyền tông chỉ của sơ tổ, Tuệ Viễn
Đại sư.
1.
Sơ lược tiểu sử
Huệ viễn
đại sư họ Cổ, nguyên quán ở xứ Lâu phiên, quận Nhạn Môn, tỉnh Sơn Tây
Trung Quốc. Sinh ra tại miền Thạch Triệu, năm Giáp ngọ, niên hiệu Diên hy,
đời vua Thành Đế nhà Tấn. Không rõ cha mẹ tên họ là gì.
Thuở nhỏ
Ngài đã thuần phong nếp sống Nho gia. Khoảng mười ba tuổi, Ngài đã làu
thông các học thuyết Nho gia, lão trang, tư tưởng bách gia chư tử… Mặc dù
cả một kho tàng triết lý truyền thống sẵn có nhưng cũng không làm thoả mãn
được ý chí tìm tòi của Ngài.
Lúc bấy
giờ có pháp sư Đạo An khai đạo tại chùa Nghiệp Trung, non Thái Hằng thuộc
dãy núi Hằng sơn. Tăng tín đồ quy tụ về nghe pháp rất đông.
Vì lòng
hiếu kỳ muốn tìm hiểu các lý giải cao thâm nên Ngài tìm đến chùa Nghiệp
Trung thọ học giáo pháp. Khi nghe Ngài Đạo An giảng kinh Bát nhã, tâm trí
Ngài được khai thông tỏ ngộ diệu lý sâu mầu. Ngài bèn than rằng: “Nào ngờ
Phật thừa thâm diệu! Bấy lâu nay uổng công ta đeo đuổi theo bả rác Khổng,
Mạnh, Lão, Trang!”.
Sau đó,
Ngài (Tuêï Viễn) xin quy y thọ giáo xuất gia với Pháp sư Đạo An, được pháp
hiệu là Tuệ Viễn.
Niên
hiệu Thái Nguyên thứ sáu, Đại sư vân du đến xứ Tầm dương, thuộc tỉnh Giang
Tây, thấy cảnh núi lô sơn thanh u, hợp nơi hành đạo nên đến lập tịnh xá
lấy hiệu là Long Tuyền (Suối rồng).
Vì mến
đức đại sư, lại thêm đồø chúng tu học ngày càng đông, cần phải có phương
tiện rọâng rãi để hành đạo, Quan Thái sử Hoàn y phát tâm cất chùa cho Ngài
ở phía đông núi Lô sơn lấy tên là Đông Lâm thần Vận tự.(Sở dĩ có tên thần
vận là vì tương truyền trong đêm trước khi xây dựng chùa cảm ứng thần
linh, vận chuyển các loại vật tư cây to, gạch đá… đủ xây dựng chùa nên mới
có tên là thần vận).
Kể từ
khi cảnh trí lô sơn được hoàn tất, Ngài luôn khuyến khích đồ chúng chăm tu
tịnh độ. Để phân biệt thời khắc tu niệm, Đại sư cho người đào ao trồng hoa
sen trắng, trên mặt nước thả mười hai cánh sen bằng gỗ, dẫn nước suối ra
vào. Cứ mỗi giờ nước chảy đẩy qua một cánh sen. Đại chúng y theo đó mà
định thời khoá tu hành. Có rất nhiều bậc đại trí thức bốn phương, vì mến
danh đức của đại sư cũng lần về xin được bàn luận Phật pháp và dự theo
chúng tu học như: Giác Hiền, Phật Đà Gia Xá, Lưu Di Dân, Vương Kiều Chi …
Ngài
dịch thuật, chú giải, trước tác rất nhiều kinh luận. Đặc biệt nhất là bộ
Sa môn bất bái Vương giả luận, gồm năm thiên đã làm cho triều đình lúc bấy
giờ phải nể phục chấp nhận.
Trải qua
ba lần thấy thánh tướng hiện, chắc chắn là thời cơ vãng sanh đã đến, mọi
việc đã được đại sư chuẩn bị kỹ càng.
Vì biết
trước được thời giờ vãng sanh, nên trải qua mấy ngày lâm bệnh, mặc cho mọi
người khuyên can, đại sư vẫn không cơm cháo thuốc thang gì. Sau đó Ngài
quy tựu đồ chúng căn dặn: “Ta ở Lô sơn này, trong mười một năm đầu, ba lần
thấy Phật và thánh chúng hiện thân. Nay lại thấy Phật thọ ký. Chắc chắn ta
sẽ được sanh về tịnh độ”.
Sau khi
dặn dò và soạn quy chế cho đại chúng xong, vào ngày mùng sáu tháng tám
Ngài cáo biệt đồ chúng an tường viên tịch, thọ 83 tuổi.
2.
Mục đích của đạo Phật
Đức
Phật đã nói : “Ta ra đời vì lợi ích cho số đông, vì lòng thương tưởng cho
đời, vì an lạc và hạnh phúc cho chư thiên và loài người” (Tăng chi
bộ kinh). Như vậy sự có mặt của đức Phật trên cõi đời này với mục
đích duy nhất và cao cả đó là làm lợi ích quần sanh; nếu không có chúng
sanh khổ nạn đang ngược xuôi lặn hụp trong biển đời sanh tử, thì đức Phật
cũng không bao giờ xuất hiện.
Vì vậy,
xuyên suốt bề dày lịch sử, đạo Phật đến đâu điều mang thông điệp hoà bình
hạnh phúc đến đó. Sự có mặt của đạo Phật luôn đồng nghĩa với sự thái bình
thịnh trị của mọi quốc gia, mọi xứ sở.
Vì vậy, dù là pháp môn nào, miễn đem lại
lợi ích thiết thực cho chúng sanh, giúp mọi người quy hướng về đường ngay
lẽ phải, thì người đó đang thực hiẹân hoài vọng quý báu của ba đời chư
Phật, đang nêu cao tông chỉ của đạo Phật.
Cho nên
sứ mạng thiêng liêng của chư vị thánh đệ tử là hoăøng truyền chánh pháp,
tìm mọi phương tiện khéo léo để dẫn dắt chúng sanh quy hướng về đạo Phật.
Đứng về mặt tuyệt đối mà nói, thì đạo phật chẳng có tông chỉ, tông phái,
pháp môn nào riêng biệt cả; nhưng đứng về mặt phương tiện, thì có vô lượng
pháp môn mà người con Phật cần phải hiểu rõ ràng và khách quan. Dùng bốn
hoằng thệ nguyện cũng đủ để chứng minh cho lòng từ bi bình đẳng, trí tuệ
siêu việt, không câu nệ chấp mắc vào pháp môn:
“Chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền
não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn
vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo
vô thượng thệ nguyện thành”.
Điều đó
đủ để chúng ta thấy rằng, giáo lý của đạo Phật thậm thâm vi diệu, lại mênh
mông rộng lớn. Và có như vậy, đạo Phật mới độ khắp chúng sanh, mới có thể
độ tận được vô lượng căn tánh chúng sanh trên cõi đời này. Do đó, qua quá
trình độ sanh tông Tịnh Độ đã tự khẳng định được chân giá trị của mình, đã
cho mọi người thấy được lợi ích thiết thực của một pháp môn phương tiện vi
diệu nhiệm mầu, mà các tổ của những tông phái khác như Ngài Nhất Nguyên,
Thiên Như, Ngẫu Ích, Triệt Ngộ, Liên Trì… và còn vô số người đã phát tâm
mật tu Tịnh Độ để được vãng sanh. Bấy nhiêu đó cũng đủ để thấy được sự
thâm diệu của pháp môn, nhằm giúp cho tất cả chúng sanh hữu duyên gặt hái
được kết quả tốt. Hoà thượng Thiền Tâm có viết trong quyển Niệm phâït thập
yếu: “Thuốc không bắc nam, hết bẹânh là thuốc hay. Pháp không thấp cao hạp
cơ là Pháp diệu”.
3.
Tịnh độ là gì ?
Tịnh độ
hay còn gọi là Tịnh Thổ, Cực Lạc, Tịnh Cảnh, Tây Phương, là cảnh giới hoàn
toàn an vui không còn sự thống khổ. Những ai được vãng sanh về cực lạc thì
chắc chắn sẽ vĩnh viễn không còn rơi đoạï trong tam đồ.
Trong
kinh A Di đà, đức phật giải thích cho ngài Xá Lợi Phất rằng: “Xá Lợi Phất!
Bỉ độ hà cố danh vi cực lạc? Kỳ quốc chúng sanh vô hữu chúng khổ, đản thọ
chư lạc,
cố danh
cực lạc”. Nghĩa là đức Phật nói với ngài Ngài Xá Lợi Phất rằng: vì sao gọi
là cực lạc? Bởi vì chúng sanh nơi ấy không có các khổ bao vây, chỉ toàn
thọ hưởng niềm an vui nên gọi là cực lạc.
Tịnh độ
là phiên âm Hán Việt. Theo chiết tự tịnh là trong sạch , vắng lặng, không
có nhiễm ô; độ là cõi nước, một quốc độ hay một thế giới nào đó.
Như vậy,
Tịnh Độ là một cõi nước trong sạch, một thế giới hoàn toàn thanh tịnh
không có nhiễm ô.
Qua phần
giải thích về Tịnh Độ, chúng ta nhận thấy đã là một thế giới thì phải có
đầy đủ các yếu tố về con người, chim muông, hoàn cảnh sống là lẽ đương
nhiên! Điều này được giải thích rõ trong kinh A di đà.
4.
Có cõi Tịnh Độ không
Như trên
đã trình bày, Tịnh Độ là một cõi nước, nhờ nguyện lực và công đức tu tập
nhiều đời của Phật A Di Đà mà có ra mọât thế giới thù thắng vào bậc nhất
“mười phương cõi Phật cảnh nào cũng thua” - Sám Di Đà. Nhưng nhiều
người cho rằng Tịnh Độø không có thật, nó chỉ là viễn tưởng hay mọât sự
khéo léo của người truyền giáo, muốn mê hoặc quần chúng yếu vía, không có
tinh thần tự lực. Có những người lý luận rằng: khoa học đã tiến bộ, người
ta tìm đến sao Hoả, cung trăng … nhưng đâu thấy cõi nước nào là Tịnh Độ ?
Đây là
những lập luận hết sức nông nỗi của mọât số người chưa nghiên cứu kỹ về
Tịnh Độ, không có niềm tin vào lời dạy từ ngàn xưa của Phật, của tổ.
Để làm
sáng tỏ vấn đề đang được tranh luận, trước hết người viết trình bày một
vài sự kiện căn bản trong đạo Phật.
- Nếu
khoa học lý giải được tất cả thì chúng ta cần gì phải tu học theo Phật
pháp. Hơn nữa, hành giả nào tu phật mà việc gì cũng lấy khoa học làm luận
cứ thì chúng ta trở thành công cụ của khoa học, nô lệ theo khoa học, chứ
không còn là môït người chuyên tu Phật nữa. Khi khoa học không tìm thấy
không có nghĩa là không có mà chúng ta phải nhìn nhận sự rất giới hạn của
khoa học. Xưa kia khi chưa có kính hiển vi ngươì ta có tin lời Phật nói
trong một bát nước có tám muôn bốn ngàn con vi trùng không?
Hay khi chưa có viễn vọng kính, khoa học có tin lời Phật nói hằng
hà sa số thế giới không? Mặc dù không ai tin, nhưng với tuệ giác
thấy biết như thật, đức Phật đã nói . Đến hơn hai mươi thế kỷ sau người ta
mơí công nhận lời Phật dạy.
Cách nay
khoảng mười lăm năm, báo chí đăng về sự kiện người ngoài hành tinh đi vào
trái đất của chúng ta. Do sự cố đĩa bay, người ngoài hành tinh bị rơi
xuống tại Philipin (Phi luật tân). Nhà chức trách Phi luật Tân đã bắt được
một người với da dẻ kích thước, thể trọng, màu da… được báo chí diễn tả
lại rất chi tiết. Những nhà bác học của Liên xô cũ bị mất tích. Giới khoa
học và những nhà chuyên trách căn cứ vào một vài sự kiện và kết luạân
rằng: những người này do những người ngoài hành tinh bắt đi để nghiên cứu
về con người trong trái đất. Kể từ đó các nhà khoa học cố tìm cho ra thế
giới xa xăm của những người ngoài hành tinh, nhưng cho đến nay họ có tìm
thấy tí gì về dấu vết của những con người đó chưa? Như vậy chúng ta dám
khẳng định rằng không có không ? Nếu không có thì tại sao họ xuâùt hiện
trên trái đất của chúng ta ? Một thế giới như vậy mà còn tìm không thấy
thì làm sao thấy được cõi Cực Lạc.
Phần
tiếp theo là quan điểm siêu hình của Phật giáo.
- Trong
thế giới siêu hình gồm có cõi chư thiên , Thế giới A tu la, địa ngục và
ngạ quỉ. Đây là những thế giới mà trong kinh thường đề cập tới. Trong kinh
Tam Di Đề, Tạp A Hàm …., nói về giai thoại giữa tiên nữ và tỳ kheo Tam di
đề như sau: “Khi thấy tỳ kheo Tam Di Đề tắm trên một dòng sông vào buổi
sớm, tiên nữ nói với tỳ kheo ấy rằng, tại sao lại bỏ hạnh phúc thực mà lại
đi tìm hạnh phúc ảo”. Qua đó dẫn đến cuộc đối đáp giữa tỳ kheo và tiên nữ.
Sau cùng tỳ kheo ấy dẫn tiên nữ đến gặp Phật và được đức phật giáo hoá.
Tiên nữ phát tâm quy y và làm đệ tử của đức thế tôn. Trong kinh Bát nhã kể
lại câu chuyện Ngài Tu Bồ Đề ngồi nhập định không tánh, được chư thiên
khen ngợi tung hoa cúng dường. Khi xả định, Ngài thấy xung quanh mình đầy
hoa. Ngạc nhiên ngài hỏi: ai rải hoa xung quanh ta nhiều quá vậy ? Chư
thiên đáp rằng: “Ngài thuyết kinh Bát Nhã hay quá, chúng con tung hoa cúng
dường”. Ngài tu bồ đề hỏi lại: “ta có nói gì đâu mà cho rằng thuyết kinh
Bát Nhã ?” Chư thiên đáp: “Ngài không nói, con không nghe, đó chính là
Chơn Bát Nhã”. Những việc đối đáp giữa chư thiên và đức Phật hay các thánh
đệ tử trong kinh điển còn rất nhiều. Như vậy, trong các kinh, hệ tư tưởng
Nguyên Thuỷ cũng như Đại Thừa, đều thừa nhận có sự hiện hữu của chư Thiên.
Chính trong lịch sử của đức Phật có đoạn: sau khi thành đạo, vì nhớ đến ân
sinh dưỡng của mẫu thân, hoàng hạâu Ma da, Đức Phật hiện thân về cõi trời
Đao lợi, thuyết pháp cho mẹ nghe. Sau khi nghe pháp xong, hoàng hậu Ma Da
chứng được thánh quả.
- Bên
cạnh đó cũng có những cõi nước của các loài chúng sanh thấp kém hơn loài
người, đó là cảnh giới của các loài sống trong địa ngục và ngạ quỉ. Chúng
là những loài bị tội khổ nên mới chiêu cảm quả báo xấu . Đối với những
loài như thế, mắt thường của phàm phu hay viễn vọng kính của các nhà khoa
học không thể thấy được.
Như vậy,
chư Thiên hay cảnh giới của Địa ngục, Ngạ quỉ là cảnh giới siêu hình nhưng
không phải là không có. Muốn thấy được cảnh giới này, chỉ có huệ nhãn của
Phật hay của chư thánh đệ tử chứng được thiên nhãn thông hoặc những bậc tu
hành đắc đạo mới nhìn thấy được.
Thế thì,
những cảnh giới, cho dù mắt thường hay viễn vọng kính của các nhà khoa học
không thể thấy, nhưng dựa vào lời Phật dạy chúng ta tin là có. Trong khi
cảnh giới Tịnh Độ cũng là lời Phật nói nhưng tại sao chúng ta cho là không
có? Có phải vì mâu thuẫn tông phái , mặc dù thấy kết quả tốt, nhưng chúng
ta lại cực kỳ bài xích về pháp môn tu cũng như cảnh giới của tịnh độ?
Lại nữa,
cái gì nó cũng có nhân quả. Tu năm giới thì sinh cõi người, tu thập thiện
về cõi trời. Làm nhiều điều tội ác thì rơi xuống tam đồ… thì tại sao tu
niệm Phật lại không được về cõi tịnh? Đây là những điều chúng ta tự mâu
thuẫn với giáo lý của Phật. Nếu theo suy lý điều này không thể có thì các
điều khác cũng tương tự. Nếu không nhất quán với nhau, mai này khuyên tu
năm giới thập thiện … thì ai tin tưởng để quy hướng về. Đó là một vài minh
chứng về sự thật hiển nhiên cho tông Tịnh Độ.
5.Phương pháp căn bản của người tu Tịnh Độ
Theo
phương pháp truyền thống, tu tịnh độ phải có lòng tin sâu, nguyện thiết và
hành thâm.
Người tu
tịnh độ đầu tiên phải có lòng tin vào pháp môn, tin vào khả năng tiếp dẫn
của Phạât A di đà. Và điều tất yếu chính là tin vào khả năng vãng sanh nơi
chính mình. Ngài Thân loan nói: “Bản nguyện Di Đà không phân biệt người
già, trẻ, kẻ thiện, ác. Phải biết tín tâm là cội gốc. Mục đích của bản
nguyện Di Đà là cứu vớt chúng sanh tội ác sâu nặng, phiền não lẫy lừng.
Nếu như tin bản nguyện Phật thì không cần thiện hạnh khác. Không có thiện
hạnh nào hơn niệm Phật. Chẳng cần sợ ác hạnh, vì nó không ngăn ngại được
bản nguyện Di Đà, làm trở ngại chúng sanh ác hạnh vãng sanh”( Thán Dị
Sao – Cư sĩ Định Huệ dịch)
Hai là
nguyện: Bởi không có nguyện, thì không thể nhất tâm hướng về mục đích. Cho
nên nguyện là để tâm được chuyên nhất trong việc hành trì và đem tất cả
tâm lực hướng về mục đích của mình đang mong muốn. Nguyện được xem như là
một ước mơ mà mình luôn nuôi dưỡng nên quyết lòng thực hiện cho được hoàn
thành. Vì vậy kinh Hoa Nghiêm nói “tín vi công đức mẫu”, lòng tin là mẹ
sinh ra các công đức.
Ba là
hạnh: Hạnh tức là thực hành. Đứng về mặt thực hành thì Tịnh độ tông có bốn
phương pháp thực hành căn bản:
·
Thật tướng niệm Phật: Tức là nhập vào đệ nhất nghĩa tâm,
niệm tánh bản lai của chính mình hay nói khác hơn đó chính là niệm về tự
tánh Di đà. Đây là phương pháp hành trì của bậc thượng căn thượng trí.
·
Quán tưởng niệm Phật: Dựa vào kinh Quán vô lượng thọ, quán
tưởng y báo và chánh báo nơi cõi cực lạc. Trong kinh này có dạy mười sáu
pháp quán, nếu quán tưởng được thuần thục thì lúc nhắm hay mở mắt hành giả
đều thấy cảnh Cực Lạc hiện tiền.
·
Quán tượng niệm Phật: Dùng tâm lực chuyên chú vào kim thân
của Phật A di đà, quán sát kỹ càng từng tướng tốt của Phật, ghi nhận từng
nét một cách kỹ càng. Quán tưởng như vậy cho đến khi thuần thục, thì dù
lúc nhắm mắt hay mở mắt đều thấy rõ hình tượng của Phâït luôn hiện tiền
trước mắt.
·
Trì danh niệm Phật: Đây là phương pháp hành trì thông dụng
của hầu hết những người tu tịnh độ. Chỉ dùng miệng niệm hay niệm thầm bốn
chữ A di đà Phật hoặc sáu chữ Nam mô A di đà Phật. Đem tâm chuyên chú trì
niệm hồng danh của Phật lần lần tâm được lắng yên tỏ sáng, dễ dàng được
nhất tâm.
Riêng
trì danh niệm Phật là phương pháp đặc trưng cho tông Tịnh Độ. Trong quyển
Niệm Phật Thập Yếu, Hoà thượng Thiền Tâm có trình bày mười phương
thức trì danh niệm Phật như sau: 1/ Phản văn trì danh; 2/ Sổ châu trì
danh; 3/ Tuỳ tức trì danh; 4/Truy đảnh trì danh; 5/ Giác chiếu trì danh;
6/ Lễ bái trì danh; 7/ Ký thập trì danh; 8/ Liên hoa trì danh; 9/Quang
trung trì danh; 10/ Quán Phật trì danh. Hoà thượng cho rằng: “Trì danh
niệm Phật gồm khắp ba căn(thượng, trung, hạ), lại đắc hiệu mau lẹ, ai cũng
có thể thực hành. Trì danh nếu tinh thành sẽ có cảm cách, hiện tiền thấy
ngay chánh báo y báo cõi Cực lạc, tỏ ngộ bản tâm, đời nay dù chưa chứng
thực tướng, sau khi vãng sanh cũng quyết được chứng”.
Nhưng
một điều chúng ta cần để ý: Trong kinh A di đà đức Phật dạy khi lâm chung
nếu muốn được vãng sanh thì “Tâm bất tham luyến, ý bất điên đảo”. Như vậy,
nếu hàng ngày tu Tịnh Độ, miệng niệm Phật và đọc các bài nguyện về Cực Lạc
theo thời khoá hàng đêm thì chưa chắc gì chúng ta được vãng sanh. Bởi vì
chúng ta niệm bằng miệng, hành trì theo thời khoá một cách siêng năng,
nhưng tâm không có muốn xa lìa các bám chấp về tiền tài, sự sản, tình cảm
… thì lúc lâm chung cũng khó bề mà được vãng sanh. Do đó, hai vấn đề vô
cùng thiết yếu trong lúc hành trì của người tu Tịnh Độ, đó là tâm Hân và
Yểm. Hân là ham muốn, Yễm là chán ghét. Nghĩa là người hành trì theo pháp
môn tịnh độ thì phải có tâm chán cõi ta bà ham về tịnh độ. Nếu hàng ngày
luôn có tâm chán Ta Bà ham về Tịnh Độ một cách thắm thiết, một ngày nào đó
thuần thục trong việc quán chiếu và hành trì, thì khi lâm chung chắt chắn
sẽ được vãng sanh, sẽ được Phật Di Đà và chư thánh chúng tiếp dẫn vãng
sanh về Cực Lạc. Vì lẽ đó, hoà thượng Trí Tịnh có bút hiệu là Hân Tịnh
(ham thích về cõi Tịnh), để nói lên cái cốt tuỷ tu Tịnh Độ của Ngài. Ngài
có làm bài thơ nói lên tâm huyết tu Tịnh độ:
“Nhớ đến
Tây Phương giọt lệ tràn
Ta bà
đau khổ lắm thương tang
Người ơi
xin hãy suy hơn thiệt
Niệm
Phật mau đi, kẻo lỡ làng”.
Đây là những phương pháp quán chiếu và hành
trì thiết yếu của người chuyên tu Tịnh độ. Chỉ cần thực hiện những điều
cốt tuỷ này chúng ta sẽ đạt lợi ích lớn, sẽ rút ngắn lại khoảng cách con
đường về cực lạc.
5.
Tại sao cần phải cầu nguyện vãng sanh
Để thấy
được ý nghĩa tại sao cần phải cầu nguyện vãng sanh, người viết xin lược
nêu hai ý căn bản trong quyển Niệm Phật Thập Yếu của hoà thượng
Thích Thiền Tâm.
- Đường
sanh tử nhiều nguy hiểm: Với tuệ nhãn, đức Phật đã thấy tất cả chúng sanh
từ vô lượng kiếp đã trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, đã từng chịu muôn
ngàn đau khổ trong con đường sanh tử. Vì không có người dẫn đường nên
chúng sanh đành chấp nhận số phận hẩm hiu mà không biết phải làm gì hơn là
phó mặc cho kiếp đời trôi nổi. Kể từ khi đạo giác ngộ được ra đời, chúng
sanh có cơ hội để giúp cho tự thân mình thoát ly ra được. Mặc dù vậy, cho
đến hôm nay chúng ta vẫn đang sống một kiếp đời phàm phu trôi nổi. Nhưng
có một điều may mắn là trong kiếp đời hiện tại chưa phải mang lông đội
sừng đó là cơ hội duy nhất để được tiếp cận giáo lý mầu nhiệm này. Nhưng
gặp được giáo lý cao thâm mà tu tập mong cầu phước báo hữu lậu nhơn thiên,
được trở lại trong cuộc đời để tận hưởng những dục lạc thường tình là
không đúng; cho dù chúng ta phát tâm tu để được hưởng phước của chúng sanh
ở cõi trời thì cũng không phải là nguyện vọng chính yếu của ba đời chư
Phật. Ngài Tỉnh Am nói người phát tâm tu như vậy gọi là Tà.
Bởi vì
dù làm chúng sanh cõi trời thì vẫn còn bị luân hôì sanh tử. Cho nên cốt
tuỷ của đạo Phật là làm sao cho chúng sanh thoát khỏi luân hôâì sanh tử,
không còn rơi vào trong Tam đồ khổ nữa mới là đúng với bản hoài của chư
Phật.
- Cần giải thoát ngay trong hiện tại.
Mặc dù
trong giáo pháp của Phật có nhiều pháp môn tu, pháp môn nào cũng đưa hành
giả đến chỗ giải thoát, chỉ khác chăng là mau hoặc chậm vậy thôi!
Tu thiền
cũng giúp cho chúng sanh tỏ ngộ thiền cơ, tức tâm thành Phật. Vì là phương
pháp tu hành tự lực, không có sự tiếp dẫn của chư Phật, duyên ngộ đạo chưa
đến lúc chín mùi, thì hành giả phải tái sanh trở lại trong kiếp người mong
manh để tiếp tục tu trì cho đến khi ngộ đạo. Nhưng đường sanh tử lắm gian
nan, cho dù hạt giống tu hành có đó, nhưng thiếu duyên thì cũng khó bề đơm
hoa kết trái. Cổ đức ứng nói: “Nếu tu hành mà không được giải thoát, thì
sự tu tập kiếp này trở thành kẻ thù của kiếp thứ ba”. Bởi vì, nhờ tu hành
được nhiều phước báu, đời sau sanh ra hưởng phú quí vinh hoa. Sống trong
giàu sang sung sướng thì ít có cơ duyên học đạo, “Hào quí học đạo nan –
Kinh Tứ thập nhị chương”, tạo nghiệp trong đường sanh tử, chết rồi
sa đoạ chốn Tam đồ. Đó không phải là kẻ thù của kiếp thứ ba sao ? Tương
truyền rằng: Tô Đông Pha, Hàn lâm học sĩ triều Tống, học rộng nghe nhiều,
tài hoa lỗi lạc, tư chất thông minh. Tiền kiếp giữa Ông và thiền sư Phật
Ấn là bạn đồng tu trong núi Vân Cư. Do vì chưa giác Ngộ được Phật tâm nên
chuyển kiếp là một vị học sĩ Việân hàn lâm, thông minh, tài hoa lỗi lạc.
Vì vậy, trong kiếp đời hiện tại, ông trở thành người đối kháng Phật pháp,
tham đắm dục lạc, có đến bảy vợ. May nhờ có Phật Ấn, bạn đồng tu từ kiếp
trước, tìm phương cứu độ, nên mới quy hướng trở về Phật pháp. Gần cuối
đời, Ông có mướn thợ vẽ tượng Phật A Di Đà, đi đâu cũng mang theo bên
mình. Có ai hỏi thì ông đáp: “Bức tượng này là công cứ của tôi đấy. Và
những chuyện tương tự như vậy là không thiếu trong nhà thiền.
Qua đó
đủ để chúng ta chiêm nghiệm được pháp môn tu thù thắng giải thoát trong
hiện đời. Cũng vì vậy, xưa kia các Tổ thiền tông mật tu Tịnh độ hoặc
chuyển hẳn pháp môn Tịnh tu. Ngài Thiên Như thiền sư đã khuyên dạy: “Mạt
pháp về sau, các kinh diệt hết, chỉ còn lưu bốn chữ A di đà Phật để cứu độ
chúng sanh. Nếu kẻ nào không tin, tất sẽ bị đoạ địa ngục”. Ngài Vĩnh Minh
Diên Thọ thiền sư, thấy được sự thù thắng một đời vãng sanh Tịnh độ nên đã
quay về con đường tu tịnh và có làm bài kệ Tứ liệu giản để so sánh như
sau:
“Có thiền không tịnh độ
mười người, chín lạc lộ
Ấm cảnh khi hiện ra
Chớp mắt đi theo nó”.
Không thiền có tịnh độ
Muôn tu, muôn thoát khổ
Vãng sanh thấy Di đà
Lo gì không khai ngộ.
Có Thiền có Tịnh độ
Như thêm sừng mãnh hổ
Hiện đời làm thầy người
Về sau thành Phật Tổ.
Không Thiền không Tịnh độ
Giường sắt, cột đồng lửa
Muôn kiếp lại ngàn đời
Chẳng có nơi nương tựa”.
- Vì thệ nguyện của đức Phật Di Đà.
Trong
bốn mươi tám lời nguyện của Phật A di đà, nguyện thứ 18 là: “Lúc tôi thành
Phật, chúng sanh trong mười phương có lòng tin ưa, muốn về cõi nước tôi,
nhẫn đến mười niệm, nếu không được vãng sanh, thời tôi không ở ngôi chánh
giác, trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng huỷ báng chánh pháp”.
Nguyện
19: “Lúc tôi thành Phật, chúng sanh mười phương phát bồ đề tâm tu các công
đức nguyện sanh về cõi nước tôi. Nếu tôi chẳng cùng chư thánh chúng hiện
thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi chánh giác”.
Do vậy,
tu theo pháp môn niẹâm Phật, ngoài khả năng tự mình, còn có được sự gia hộ
tiếp dẫn của Phật A di đà, lo gì không được vãng sanh. Trong luận Thập trụ
tỳ bà sa, Ngài Long Thọ cho rằng nếu có người muốn nhanh đến chỗ bất thối
chuyển, người đó phải hết lòng cung kính tâm niệm danh hiệu của Phật A di
đà.
Như thế
đủ thấy, tu Tịnh Độ là một pháp môn thù thắng, là pháp môn dễ tu, dễ
chứng, phù hợp với mọi trình độ căn cơ, là con đường duy nhất giải thoát
trong một đời.
6.
Làm sao để biết mình được vãng sanh
Vãng
sanh là mục đích duy nhất của người tu Tịnh Độ. Do đó hiện tượng vãng sanh
thật vô cùng quan trọng, nhằm xác định hiệu quả tu tập của hành giả. Đối
với người tu niệm Phật điều cần thiết là phải tự chứng nghiệm biết nhất
định mình sẽ được vãng sanh. Người tu thiền mà thấy cảnh giới lạ như Phật
hay các thánh cảnh, đó là ma chướng, không nên mừng hay đeo đuổi theo các
cảnh lạ. Nhưng với người tu tịnh đọâ, thì đó chính là nhờ công năng tu
tập, niệm Phật thuần thục, công đức viên mãn, tự tâm là tịnh, nên các cảnh
tịnh hiện lên, là điềm tốt báo cho hành giả chắc chắn được vãng sanh.
Ngài Tuệ
Viễn, sơ tổ tông tịnh độ, mười một năm trước khi vãng sanh ba lần thấy
được thánh tướng và nhiều điềm lành. Vào đêm 30 tháng bảy, năm Nghĩa Hy
thứ hai, Ngài ngồi nhập định nơi Bát Nhã đài. Vừa xuất định mở mắt ra,
thấy đức A di đà và chư thánh chúng hiện ra trước mắt. Đức Phật Di đà bảo
với Ngài rằng: “vì bổn nguyện lực nay ta đến an ủi ông, sau bảy ngày ông
sẽ sang về nước của ta”.
Hôm sau
Tổ Tuệ Viễn thuật lại mọi việc cho chúng đệ tử nghe và Ngài khẳng định
rằng: “Ta ở Lô sơn này, trong mười một năm, ba lần thấy Phật và thánh
chúng hiện thân. Nay lại thấy Phật thọ ký. Chắc chắn ta sẽ được sanh về
Tịnh Độ”. (Đường về cực lạc- HT Thích Trí Tịnh)
Trước
khi thị tịch, Ngài tỉnh Am đại sư đã hai lần thấy Cực lạc tam thánh hiện,
nên Ngài khẳng định với đồ chúng rằng: “Tôi nhất định sẽ vãng sanh”.
Như vậy,
đối với người tu tịnh độ, điều tiên quyết nhất là phải được tiếp dẫn vãng
sanh. Mà muốn chứng nghiệm được khả năng vãng sanh của mình, thì ngoài
công phu tu tập, chuyên tâm niệm Phật thì hành giả tịnh tu cần phải thấy
được hảo tướng như đức Phật Di đà thọ ký, hay các thánh cảnh hiện ra hoặc
ao báu, hoa sen năm sắc… Tất cả đó là những điềm lành, để báo hiệu rằng
người đó nhất định sẽ được vãng sanh.
C/ KẾT LUẬN
Tịnh Độ
là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ
căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phạât A di
đà và chuyên tâm trì niệm danh hiệu Ngài thì nhất định sẽ được vãng sanh.
Khi về nước Cực lạc, dù là đới nghiệp vãng sanh hay sanh vào nơi biên địa
của Tịnh độ, thì điều tiên quyết nhất là chúng ta không còn rơi đoạ trong
tam đồ khổ nữa, một sớm một chiều rồi cũng được hoa sen thuần hoá, hoàn
toàn thanh tịnh, hội nhập trong hàng thánh chúng nơi Cực lạc tây phương.
Những
điều này đã được các bậc thầy Tịnh độ tiên phong tu tập chứng đắc làm niềm
tin, khích lệ cho tất cả chúng sanh đồng phát tâm tu tập, đồng được vãng
sanh. Tổ Tuệ Viễn được xem là sơ tổ của Tông Tịnh độ. Người đã vì sự giải
thoát an lành cho chúng sanh mà lập nên nhiều phương tiện. Lô sơn là một
minh chứng, đã ghi dấu cho một bậc Tổ đức đã vì chúng sanh mà từ một viễn
cảnh Tịnh độ, Ngài đã hình thành nên mọât Tịnh độ hiện thực nơi chùa Đông
lâm, tứ chúng đông không tả xiết đã qui kết trong tinh thần tịnh tu của
bạch liên xã.
Từ đó
chúng ta nhận thấy nhân duyên Tịnh độ với chúng sanh đời Mạt Pháp thật vô
cùng lớn. Xin đừng vội nghe nghững lời bàn phiếm của thiên hạ về Tịnh độ
hoặc sự chỉ trích bôi nhọ của một số người nông nổi, rồi đâm ra hoang mang
nghi ngờ.
Những
biện minh về thật hư của Tịnh độ nhằm xác định cho cõi Tịnh độ phương Tây
trang nghiêm thanh tịnh vào bậc nhất trong mười phuơng. Học thuyết về “
duy tâm tịnh độ” là một Tịnh độ triết lý, mặc dù nó là tinh hoa chuyển tải
ý nghĩa thực dụng trong đạo Phật nhưng không thể khế hợp với đa dạng căn
tánh chúng sanh, làm cho người bình dân phải ngán ngẫm cho đường lối hành
trì đơn độc đi vào biển tâm mênh mang sâu thẳm không chỗ nương nhờ. Đó là
một vách ngăn lớn, làm hụt hẫng cho những người bước chân vào cửa thiền
muốn tìm một nơi nương tựa trên lộ trình giải thoát. Cho nên Tịnh độ tín
ngưỡng, mặc dù là pháp môn phương tiện, nhưng đó là phương tiện thù thắng
trong tất cả mọi phương tiện, nhằm đưa mọi chúng sanh điều có thể tiếp cận
được với con đường giải thoát hầu đem lại lợi ích cho mình và tha nhân.
Tài liệu tham khảo:
-Đường về cực lạc
HT. Thích Trí Tịnh
-Niệm Phật thập yếu
HT. Thích Thiền Tâm.
-Niệm Phật tam muội
HT. Thích Thiền Tâm dịch
-Pháp môn tịnh độ
HT .Thích Trí Thủ
-Thập tam tổ Liên tộng
HT .Thích Thiền Tâm.
---o0o---
[Mục Lục ][
01][
02][
03][
04][
05][
06][
07][
08][
09][10]
[11][12][13][14][15][16][17][18][19]
---o0o---
Source: www.chuyenphapluan.com
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-2-2005